Tài liệu Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975: ... Ebook Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975
117 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1870 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
5. Đóng góp của Luận văn.
6. Bố cục của Luận văn.
Chƣơng 1: GIAO THÔNG VẬN TẢI ĐƢỜNG BỘ TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU
SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ 1954 - 1960.
1.1. Tầm quan trọng của giao thông vận tải trong sản xuất và chiến đấu.
1.2. Giao thông đường bộ trong những năm đầu sau Hiệp định Giơnevơ. Sự
hình thành tuyến đường vận tải chiến lược Bắc - Nam.
Chƣơng 2: GIAO THÔNG VẬN TẢI ĐƢỜNG BỘ TRONG NHỮNG NĂM 1961-
1965.
2.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chủ trương mở
rộng mạng lưới giao thông vận tải.
2.2. Chi viện chiến trường miền Nam chiến đấu chống chiến lược "chiến
tranh đặc biệt" của Mĩ - ngụy.
Chƣơng 3: GIAO THÔNG VẬN TẢI ĐƢỜNG BỘ TRONG NHỮNG NĂM 1965 - 1975.
3.1. Âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc Mĩ. Chủ
trương của đảng ta.
3.2. Mặt trận giao thông vận tải đường bộ trong những năm 1965 - 1973.
3.3. Khôi phục, mở rộng và xây dựng các tuyến đường giao thông chiến lược
đáp ứng yêu cầu giải phóng hoàn toàn miền Nam 1973 - 1975.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta kết thúc bằng Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 là một cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, một cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta.
Thắng lợi này "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc" [42, tr.271]. Đó là một trong những thắng lợi vĩ
đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc.
Thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là thắng lợi của sức
mạnh đoàn kết toàn dân, là thắng lợi của sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cuộc kháng chiến vĩ đại
này, giao thông vận tải, nhất là các tuyến đường bộ có một vị trí cực kì quan
trọng. Có thể khẳng định đây là một trong những nhân tố có vai trò quyết định
đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong thư gửi cán bộ, nhân dân Trung Bộ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết:
"Giao thông là mạch máu của mọi việc.
Giao thông tắc thì việc gì cũng tắc.
Giao thông tốt thì việc gì cũng dễ dàng…" [10. tr,4].
Giao thông vận tải được xem là mạch máu nối liền hậu phương lớn
miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Suốt những năm chiến tranh, đây là
một mặt trận nóng bỏng. Trên mặt trận này, cuộc chiến đấu giữa ta và địch
diễn ra rất quyết liệt. Đánh phá giao thông nhằm cắt đứt sự chi viện của hậu
2
phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam luôn là mục tiêu chiến
lược của đế quốc Mĩ. Vì thế, trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
đế quốc Mĩ đã sử dụng một khối lượng lớn máy bay, tàu chiến dội xuống một
khối lượng bom đạn khổng lồ nhằm vào những vùng giao thông trọng điểm
của ta.
Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, quân và dân Việt Nam đã phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua muôn vàn gian khổ, thử
thách, hi sinh, đánh thắng quân Mĩ. Dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, nhiều
tuyến đường giao thông vẫn được xây dựng, đồng thời công tác phục hồi, sửa
chữa các đường giao thông bị địch đánh phá vẫn được thực hiện. Với quyết
tâm "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến" ,"Sống bám trụ cầu đường, chết
kiên cường dũng cảm", "Xe chưa qua, nhà không tiếc"…, quân và dân ta đã
trụ bám kiên cường ở những trọng điểm, quyết giữ vững mạch máu giao
thông, đảm bảo sự chi viện toàn diện, liên tục, mạnh mẽ của hậu phương cho
tiền tuyến, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
Tổ quốc Việt Nam đời đời ghi công những chiến sĩ trên mặt trận giao thông
vận tải đã cống hiến tâm lực, xương máu và tuổi xuân của mình để giữ vững
mạch máu giao thông thông suốt bảo đảm yêu cầu đánh Mĩ và thắng Mĩ.
Việc nghiên cứu về Giao thông vận tải đường bộ trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975 không chỉ tái hiện bức tranh về những năm
tháng chống Mĩ cứu nước hào hùng nói chung, về các tuyến đường giao thông
chiến lược nói riêng, tiêu biểu là "con đường huyền thoại" - Đường Hồ Chí
Minh trên bộ, mà còn góp phần làm sáng tỏ sự lãnh đạo tài tình của Đảng
cộng sản Việt Nam. Từ đó, chúng ta có thể rút ra những bài học kinh nghiệm
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, việc nghiên cứu về Giao thông vận tải đường bộ trong kháng
chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975 không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa học
3
mà cả về thực tiễn. Đây là nhiệm vụ của nhiều ngành khoa học, trong đó có
khoa học lịch sử.
Thông qua đề tài này, chúng tôi hi vọng góp phần bổ sung, cung cấp
thêm tư liệu phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu lịch sử, phục vụ công
tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: "Giao thông vận
tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước
1954 - 1975" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
Giao thông vận tải nói chung và giao thông vận tải đường bộ nói riêng
có một vai trò cực kì quan trọng, là một trong những nhân tố có vai trò quyết
định đưa cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn.
Vấn đề giao thông vận tải đường bộ trong kháng chiến chống Mĩ cứu
nước 1954 - 1975 đã được một số cá nhân và tập thể tác giả trong giới sử học
nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh khác nhau.
Cuốn Giao thông vận tải Việt Nam 1955-1965(Nhà xuất bản Giao
thông vận tải, Hà Nội, 1994), tác giả Phan Văn Liên đã đi sâu phân tích sự
hình thành và phát triển mạng lưới giao thông vân tải ở cả hai miền Nam, Bắc
Việt Nam trong những năm 1955-1965. Từ đó rút ra đặc điểm và những nhận
xét về tình hình giao thông vận tải Việt Nam trong thời gian này.
Trong cuốn "Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam" (Tập 2, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994), bên cạnh việc đi sâu vào quá trình ra
đời và hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân cũng đã nói đến sự ra đời
của Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn (Đoàn 559) và tuyến đường vận chuyển
chiến lược Bắc - Nam.
Trong tác phẩm "Lịch sử Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ
Chí Minh" (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999) đã phản ánh
4
được cơ bản lịch sử hào hùng của tuyến đường chi viện chiến lược Trường
Sơn, đồng thời khái quát những kinh nghiệm quý giá có ý nghĩa thiết thực đối
với công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của toàn dân, toàn quân ta hiện nay
và mai sau.
Cuốn "Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1954 - 1975. Thắng lợi và bài
học" (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000) có nội dung chủ yếu về
những bài học của Đảng trong lãnh đạo chiến tranh cách mạng cũng đã đề cập
mặc dù còn rất ít về giao thông đường bộ và "con đường huyền thoại" -
Đường Hồ Chí Minh.
Tác phẩm "Những nẻo đường kháng chiến" của Thiếu tướng Võ Bẩm
(Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001) đã ghi lại những dòng hồi
ức kể về sự ra đời của Đoàn 559 và đặc biệt là quá trình mở đường Trường
Sơn - Đường mang tên Bác.
Tập sách "Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu IV trong
kháng chiến chống Mĩ cứu nước" (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2001) do Bộ Tư lệnh Quân khu IV và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam phối
hợp biên soạn đã tập hợp 50 tham luận của các tác giả trong và ngoài quân
đội. Cuốn sách đã đề cập tới nhiều vấn đề xung quanh Mặt trận giao thông
vận tải ở Quân khu IV như vấn đề về tổ chức, chỉ đạo bảo đảm giao thông vận
tải, vấn đề thế trận phòng không ba thứ quân bảo vệ giao thông vận tải ở
Quân khu IV. Mặc dù chủ yếu trình bày về giao thông vận tải ở Quân khu IV
nhưng qua đó cũng giúp người đọc hình dung về mặt trận giao thông vận tải
trong cả nước.
Trong cuốn "Lịch sử giao thông vận tải Việt Nam" (Nhà xuất bản Giao
thông vận tải, Hà Nội, 2002) đã trình bày tương đối đầy đủ về sự hình thành
và phát triển của giao thông Việt Nam từ buổi hoang sơ cho đến năm 2000.
5
Cuốn sách đã dành gần 300 trang nói về giao thông vận tải Việt Nam thời
chống Mĩ.
Cuốn sách "Đường về thành phố mang tên Bác" (Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2005) là tập hợp những trang hồi ức của Thiếu tướng
Võ Bẩm, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên - hai vị Tư lệnh bộ đội Trường Sơn-
Đường Hồ Chí Minh từ ngày "khai sơn phá thạch" mở đường (5/1959) cho
đến điểm dừng ở dinh Độc Lập - Sài Gòn trưa 30/4/1975. Cuốn sách là phần
khái quát quá trình hình thành, phát triển của Đoàn 559 - Đường Hồ Chí Minh
từ 5/1959 đến 5/1975.
Cuốn "Lịch sử thanh niên xung phong tỉnh Thái Nguyên 1950 - 1975"
(Nhà xuất bản Thanh niên) trình bày một cách sinh động về quá trình ra đời
của lực lượng thanh niên xung phong tỉnh Thái Nguyên cũng như những đóng
góp của họ trên mặt trận giao thông vận tải.
Các công trình nghiên cứu và các tài liệu trên đây đã đề cập tới vấn đề
giao thông vận tải đường bộ trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 -
1975 ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về giao thông vận tải
đường bộ ở Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975.
Mặc dù vậy, những tài liệu đã được công bố nói trên luôn là những tài
liệu quan trọng giúp chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu và hoàn thành Luận
văn "Giao thông vận tải đường bộ miền Bắc Việt Nam trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975".
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ ĐỀ TÀI
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Giao thông vận tải đường bộ miền
Bắc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
6
- Về không gian: Hệ thống giao thông vận tải đường bộ (đường ô tô) ở
miền Bắc Việt Nam.
- Về thời gian: Từ năm 1954 đến năm 1975.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát tình hình và đặc điểm cách mạng Việt Nam sau 1954.
- Nêu rõ tầm quan trọng của giao thông vận tải trong sản xuất và chiến
đấu.
- Làm rõ cách tổ chức, chỉ đạo bảo đảm giao thông vận tải đường bộ
trong các giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, chủ
yếu đi sâu tìm hiểu các tuyến đường giao thông chiến lược, nhất là tuyến
đường vận tải chiến lược Bắc - Nam.
- Đánh giá vị trí của giao thông đường bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước.
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng:
- Các tác phẩm kinh điển của Mác, Lênin, Hồ Chí Minh bàn về vấn đề
giao thông vận tải làm cơ sở lí luận nghiên cứu.
- Các văn kiện Đảng.
- Các tác phẩm, công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả về vấn
đề giao thông trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Các tài liệu tham khảo liên quan đến nội dung đề tài như sách, báo,
tạp chí…
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra, các phương pháp:
7
thống kê, phân tích, tổng hợp cũng được sử dụng, từ đó rút ra nhận xét, đánh
giá chính xác.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Tập hợp các nguồn tài liệu về giao thông vận tải đường bộ trong
kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975. Trên cơ sở đó, Luận văn phục
dựng một cách sinh động mặt trận giao thông vận tải đường bộ trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta, nêu rõ vị trí, vai trò của giao
thông đường bộ đối với sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
- Dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, học tập
trong các nhà trường và phục vụ công tác giáo dục truyền thống.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn
được xây dựng thành 3 chương:
Chƣơng 1: Giao thông vận tải đường bộ trong những năm đầu sau
Hiệp định Giơnevơ (1954-1960).
Chƣơng 2: Giao thông vận tải đường bộ trong những năm 1961 - 1965.
Chƣơng 3: Giao thông vận tải đường bộ trong những năm 1965 - 1975.
8
CHƢƠNG 1
GIAO THÔNG VẬN TẢI ĐƢỜNG BỘ MIỀN BẮC VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU SAU HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
1954 - 1960
1.1. Tầm quan trọng của giao thông vận tải trong sản xuất và chiến đấu
Đầu năm 1947, trong sách Đời sống mới, Hồ Chủ tịch đã viết: "Bất kỳ ai
muốn sống thì phải có 4 điều: Ăn, ở, mặc, đi lại" [72, tr.20]. "Đi lại" là một
yêu cầu tự nhiên của mỗi con người trong xã hội. Con người muốn tồn tại
được thì phải có cơm để ăn, áo để mặc, nhà để ở và muốn làm được những
điều ấy thì phải đi lại. Cho nên việc "đi lại" là không thể thiếu được. Và muốn
đi lại được phải có những con đường. Ở nước ta kể từ thời các vua Hùng, trải
qua nhiều thời đại, ông cha ta đã dày công xây dựng non sông đất nước, khai
thông đường sá, giao thông và lợi dụng sông biển để làm đường đi lại làm ăn
sinh sống. Đường sá do con người tạo ra đã giúp con người mở rộng quan hệ
giao lưu buôn bán, quan hệ gia đình, dòng tộc. Đường sá còn mở lối cho ông
cha ta đi đánh giặc, trừ gian, giữ yên non sông bờ cõi trước mọi thế lực ngoại
xâm, thù địch. Vì vậy, về vai trò của đường sá, của giao thông vận tải, Hồ
9
Chủ tịch đã viết: "Giao thông vận tải rất quan trọng đối với chiến đấu, đối
với sản xuất, đối với đời sống của nhân dân…Muốn chiến đấu tốt, muốn sản
xuất tốt, muốn đời sống nhân dân được bình thường thì giao thông vận tải
phải làm tốt" [62, tr.26].
Giao thông vận tải là thước đo trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngành giao thông
vận tải là một trong những ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là một
ngành không thể thiếu được trong guồng máy hoạt động của xã hội. Tất cả
các ngành kinh tế trong xã hội đều cần đến giao thông vận tải. Các xí nghiệp
công nghiệp cần vận chuyển nguyên vật liệu, máy móc, nhân lực. Nông
nghiệp cần vận chuyển giống, phân bón, thóc lúa. Thương nghiệp cần vận
chuyển hàng hóa lưu thông trong nước, ngoài nước. Các ngành văn hóa - xã
hội cũng cần có giao thông mới phát triển nhanh chóng. Trong sinh hoạt hằng
ngày, mọi người cần phải đi lại, làm ăn, vui chơi, giải trí. Thậm chí ngay
trong quá trình sản xuất cũng không thể tách rời giao thông vận tải, như việc
chuyển quặng dưới hầm lên mặt đất, vận chuyển sản phẩm từ phân xưởng này
đến phân xưởng khác ở trong một xí nghiệp. Cho nên, giao thông vận tải là
một bộ phận gắn chặt và không thể thiếu được trong dây chuyền sản xuất và
trong đời sống xã hội. Sản xuất càng phát triển, sinh hoạt và xã hội càng cải
thiện thì giao thông vận tải càng phải phát triển để thỏa mãn yêu cầu của sản
xuất công nông nghiệp, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nếu giao
thông vận tải không phát triển kịp với sự phát triển của các ngành công, nông
nghiệp và với sự phát triển về nhu cầu của nhân dân thì sẽ làm trở ngại cho
việc phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Khi bàn về giao thông vận tải, Mác viết: "Ngoài ba ngành công nghiệp,
nông nghiệp và khai khoáng ra còn có một ngành sản xuất vật chất thứ tư,
ngành đó cũng trải qua ba giai đoạn: kinh doanh thủ công nghiệp, kinh
10
doanh chế tạo và kinh doanh máy móc, đó là ngành giao thông vận tải, vận
tải người hoặc vận tải hàng hóa" [16, tr.2]. Giao thông vận tải là một ngành
sản xuất vật chất nhưng sản xuất của ngành giao thông vận tải khác với sản
xuất công nghiệp, nông nghiệp, chủ yếu ở chỗ nó không sản xuất ra sản phẩm
mới mà chỉ làm thay đổi vị trí của sản phẩm, chủ yếu là nó thực hiện sản xuất
trong quá trình vận chuyển. Bất kì một sản phẩm nào nếu không trải qua quá
trình vận chuyển thì không thể tới tay người tiêu thụ được và quá trình sản
xuất cũng không thể tuần hoàn và mở rộng được. Trong Tư bản luận, Mác
viết: "Sản phẩm hoàn thành phải trải qua quá trình vận chuyển từ nơi sản
xuất này đến nơi sản xuất khác, từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu thụ,
phải trải qua quá trình đó thì sản phẩm mới có giá trị" [16, tr.2]. Do đó, sản
xuất của ngành giao thông vận tải được coi là tiếp tục của quá trình sản xuất.
Sản xuất của giao thông vận tải tuy không đổi tính chất của vật chất nhưng lao
động giao thông vận tải là một thứ lao động sản xuất, một thứ lao động sản
xuất đặc biệt, nên ngành giao thông vận tải cũng là một ngành sản xuất độc
lập. Trong Tư bản luận, Mác chỉ rằng: "Sự lưu thông hàng hóa nghĩa là sự di
chuyển thực tế của hàng hóa được giải quyết bằng giao thông vận tải. Một
mặt, công nghiệp giao thông vận tải là một ngành sản xuất độc lập, do đó nó
là một lĩnh vực đặc biệt của đầu tư tư bản sản xuất, mặt khác nó tiếp tục quá
trình sản xuất trong quá trình lưu thông" [16, tr.2]. Như thế, ngành giao
thông vận tải là một cơ sở vật chất trực tiếp có liên quan đến toàn bộ nền kinh
tế quốc dân như sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ, nó là mối liên hệ
chặt chẽ giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các khu vực với nhau, giữa
nông thôn với miền núi, giữa hậu phương với tiền tuyến trong thời kì chiến
tranh. Giao thông vận tải là cửa mở, là đòn bẩy đối với toàn bộ các hoạt động
kinh tế, xã hội, thúc đẩy quá trình giao lưu kinh tế và văn hóa, phát triển và
phân bố lực lượng sản xuất trên quy mô toàn lãnh thổ.
11
Ngành giao thông vận tải không những có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển của các ngành kinh tế công, nông nghiệp, có tác dụng đối với việc
làm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân mà còn có tác dụng quan trọng
đối với sự đoàn kết nhân dân trong nước về mặt chính trị, đối với sự nghiệp
đấu tranh thống nhất đất nước và củng cố quốc phòng. Giao thông vận tải là
một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi của chiến tranh.
Trước đây cũng như ngày nay, không có giao thông liên lạc, giao thông
vận tải, một dân tộc, một quốc gia dễ rơi vào tình trạng thua kém, lạc hậu và
nhất là bị biệt lập hoặc là tự đẩy mình vào sự đơn độc. Chính điều này đã
được Hồ Chủ tịch nói cách đây 72 năm rằng : "Nguyên nhân đầu tiên gây ra
sự suy yếu của các dân tộc phương Đông là sự đơn độc vì các dân tộc phương
Đông không có sự quan hệ và tiếp xúc giũa các thuộc địa với nhau. Họ hoàn
toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi của họ,
do đó thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau"
[55, tr.20]. Do đó, giao thông vận tải là cầu nối để mở rộng giao lưu quốc tế,
trước hết là các nước láng giềng và trong khu vực, qua đó có thể tăng cường
và củng cố quốc phòng.
Với một nước có nhiều dân tộc ít người sống rải rác trên các vùng
thượng du như nước ta thì việc phát triển giao thông vận tải có một ý nghĩa
quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, văn hóa trong các vùng dân tộc
cũng như với việc tăng cường đoàn kết các dân tộc trong nước bởi đó là một
nhân tố quan trọng trong các cuộc đấu tranh để bảo vệ và giữ vững độc lập
dân tộc.
Khi kẻ thù xâm lược nước ta, chúng cũng biết lợi dụng các tuyến
đường để đánh phá, thực hiện ý đồ xâm lược của chúng. Do vậy, khi xảy ra
chiến tranh chống giặc ngoại xâm, từ chỗ nhận thức được vai trò quan trọng
của giao thông vận tải với thắng lợi của chiến tranh, ông cha ta cũng biết ngăn
12
chặn các nẻo đường, các dòng sông, cửa biển, tiến hành phục kích trên các lộ
tuyến, các đường tiến quân của giặc, tạo thế bất ngờ với yếu tố địa hình để
chiến thắng. Những "Bạch Đằng" mấy lần phá Tống diệt Nguyên Mông, "Chi
Lăng" bao phen làm tan mộng xâm lược của Bắc triều, những chiến tích ấy
được lưu giữ mãi trong sử sách đất Việt. Bước sang thời hiện đại, trong hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) và đế quốc Mĩ (1954 -
1975), Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lại tiếp tục lãnh đạo nhân
dân ta tận dụng triệt để những con đường chiến lược trên khắp Tổ quốc bảo
đảm tải đạn, chuyển quân phục vụ yêu cầu của tiền tuyến. Tuyến đường chiến
lược - Đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển đã trở thành tuyến đường "bất
tử" trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tuyến đường đã đưa đến thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại của dân tộc Việt.
Tại Đại hội thi đua bảo đảm giao thông vận tải quyết tâm đánh thắng
giặc Mĩ xâm lược ngày 24/3/1966, Hồ Chủ tịch đã nói: "Giao thông vận tải là
một mặt trận. Phải quyết tâm làm cho giao thông vận tải thắng lợi. Giao
thông vận tải thắng lợi tức là chiến tranh đã thắng lợi phần lớn rồi". [59,
tr.319].
Như vậy, giao thông vận tải không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội mà còn là một trong những nhân tố bảo đảm thắng
lợi của chiến tranh.
1.2. Giao thông đƣòng bộ trong những năm đầu sau Hiệp định
Giơnevơ. Sự hình thành tuyến đƣờng vận tải chiến lƣợc Bắc - Nam.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc
thắng lợi. Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến
tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương đựơc kí kết và vĩ tuyến 17 trở thành giới
tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc. Thấy rõ dã tâm của đế quốc
Mĩ và tay sai định chia cắt nước Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ trước
13
mắt là phải "củng cố miền Bắc để chi viện cho miền Nam". Để thực hiện
nhiệm vụ này, một trong những công việc quan trọng mà quân và dân miền
Bắc phải làm là nhanh chóng khôi phục, mở rộng và phát triển hệ thống giao
thông vận tải.
Mạng lưới giao thông đường bộ trên miền Bắc trải qua cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã bị tàn phá nghiêm trọng do nhiều
nguyên nhân khác nhau:
Trước hết, khi bắt đầu cuộc kháng chiến, năm 1945, nhân dân ta trong
cả nước bắt buộc phải phá hoại cầu đường và các hệ thống giao thông để ngăn
chặn bước tiến của quân Pháp. Chỉ trong thời gian ngắn, các hệ thống đường
bộ trên khắp các miền bị cắt đứt, đặc biệt là các đường trục chính từ Hà Nội
đi các nơi và từ Bắc vào Nam. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến,
thực hiện chủ trương "tiêu thổ", chúng ta đã phá hủy gần 10.000 km. Từ cuối
năm 1949, Chính phủ mới chủ trương mở đường cho xe hơi chạy trong vùng
căn cứ địa Việt Bắc trên các tuyến từ Tuyên Quang đi Cao Bằng, Hà Giang,
Yên Bái. Sau Chiến dịch Biên giới 1950, đường bộ từ Việt Bắc được nối
thông với Trung Quốc, qua đó đến với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Một số tuyến đường ô tô được khôi phục nối từ Việt Bắc đến Khu III, Khu IV
nhưng cũng chỉ là khôi phục tạm.
Để ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, kẻ địch thường xuyên ném
bom bắn phá các khu căn cứ kháng chiến, các vùng tự do, làm hư hại các hệ
thống đường giao thông của ta. Hơn nữa, tiêu chuẩn kĩ thuật đường bộ, đường
sắt thời kì Pháp xây dựng vốn đã thấp, qua thời gian nhiều năm không được
cải tạo, sửa chữa tất yếu dẫn đến hư hỏng nặng nề.
Một nguyên nhân khách quan quan trọng là thời tiết, khí hậu Việt Nam
ở vùng nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều, hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra
làm hư hỏng nặng đường giao thông. Đường giao thông trên miền Bắc nước
14
ta có đặc điểm: các tuyến chạy dài theo đất nước dọc theo ven biển, có rất
nhiều sông, suối từ phía tây chảy ra Biển Đông, khi mưa lũ đổ về dễ phá hoại
cầu cống, các nền mặt đường. Ở các tuyến đường chạy dọc ven chân núi, mưa
lũ đã gây sạt lở làm tắc đường. Thêm vào đó, trong kháng chiến thường có
tranh chấp giữa ta và địch trên các tuyến giao thông, do đó điều kiện để khắc
phục hậu quả lũ lụt, mưa bão không phải đơn giản và dễ dàng. Nơi ta cần sửa
chữa để đi lại thì địch o ép, đánh phá, nơi địch cần sửa chữa thì ta ngăn chặn.
Từ 1954, thực dân Pháp thua trận để lại cho ta một mạng lưới giao thông vận
tải rất què quặt, lạc hậu, không chỉ yếu về mặt phát triển kinh tế mà càng yếu
hơn về mặt phòng thủ quốc gia.
Trong những năm 1953 - 1954, trước khi hoà bình lập lại, tại khu căn
cứ địa và vùng giải phóng, chúng ta đã làm mới được 505 km, cải tạo sửa
chữa 1.210 km và 3000 m cầu (tính đến ngày 20/7/1954) [15, tr.269].
Sau ngày hòa bình lập lại, chúng ta phải tiếp quản hệ thống đường bộ
trên miền Bắc bị hư hỏng nặng nề, hầu như không có đoạn nào còn nguyên
vẹn, kể cả đường trục quốc gia. Thực tế đã đòi hỏi toàn ngành phải dồn sức
người, sức của để khẩn trương khôi phục, sửa chữa và phát triển thì mới đáp
ứng đầy đủ nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá của một đất nước mới giải
phóng.
Tiếp đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam tháng 9 năm 1954 lại tiếp tục nêu rõ: " Khôi phục nhanh chóng đường xe
lửa, ô tô, vận tải sông ngòi có ý nghĩa quan trọng bậc nhất. Đó là điều không
thể thiếu được trong việc phát triển sản xuất, phồn vinh kinh tế, làm cho giao
lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn hoạt động" [15, tr.260].
Tháng 3 năm 1957, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 12 (mở rộng) đã
ra Nghị quyết nhấn mạnh: "Về đường sá thì lấy việc củng cố các đường sá có
sẵn là chính. Về phương tiện vận tải thì đối với phưong tiện cơ giới lấy củng
15
cố là chính, đối với phương tiện thô sơ thì khôi phục và phát triển có hướng
dẫn. Củng cố vận tải quốc doanh, tận dụng khả năng vận tải tư nhân" [73,
tr.60].
Công việc khôi phục, sửa chữa đường bộ trong thời gian đầu phải dựa
vào các địa phương là chính. Đường qua địa phương nào địa phương ấy tự
huy động lực lượng lao động sửa chữa tạm để phương tiện vận tải đi lại được
dễ dàng, thông suốt, không bị ách tắc. Sau đó, Trung ương tập trung đầu tư
sửa chữa và làm mới các đường trục chính và địa phương lo đầu tư sửa chữa
và làm mới các đường tỉnh, đường huyện và các đường xã, bản. Hướng tập
trung của Trung ương trong thời gian này là sửa chữa, khôi phục gấp các
tuyến quốc lộ : 1A, 1B, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 11, 19, 13, 15, 18… Đồng thời tăng
thêm nguồn vốn đầu tư dành cho đường bộ.
Bảng 1.1
Vốn đầu tƣ cho giao thông vận tải (1955 - 1960)
Năm
Tổng số
(Triệu đồng)
Cho đƣờng bộ
Vốn (Triệu đồng) Tỷ lệ (%)
1955 83,7 11,9 14,2
1956 78,6 16,2 20,6
1957 51,5 9,6 18,6
1958 62,9 11,3 17,9
1959 77,9 29,4 37,7
1960 108,7 34,1 31,4
Nguồn: [50, tr.37].
Với số vốn đầu tư trên đây, toàn ngành giao thông vận tải đã tập trung
mọi cố gắng, sửa chữa và làm mới được nhiều tuyến đường, nhiều cầu cống,
khai thông thông suốt các hệ thống đường bộ trục chính.
16
Bảng1.2
Kết quả sửa chữa, khôi phục, làm mới đƣờng bộ và cầu cống
(1955 - 1960)
Năm
Đƣờng bộ (km) Cầu cống
Sửa
chữa
Khôi
phục
Làm
mới
Cầu làm mới
(cái/m)
Cầu sửa chữa
(cái/m)
Cống (cái)
1955 910 398 90 -/4.083 - -
1956 191 134 128 -/1.582 -/405 952
1957 220 - 8 79/1.055 68/1.412 375
1958 314 - 59 66/1.066 95/2.500 383
1959 457 - 59 183/1.255 107/3.000 1.255
1960 346 48,6 69 134/1.576 155/1.500 1.024
Nguồn: [50, tr.38].
Một số tuyến đường bộ tiêu biểu được khôi phục và làm mới từ 1954
đến 1960 ở miền Bắc:
Đường sửa chữa khôi phục có:
- Đường 1B từ Đồng Đăng (Lạng Sơn) về cầu Gia Bảy (Thái Nguyên)
dài 140 km.
- Đường số 3 (Hà Nội - Cao Bằng).
- Đường Vinh - Cửa Hội dài 20 km.
- Đường 12A từ Tân Ấp lên Mụ Giạ sang Lào.
- Đường số 5 từ Gia Lâm (Hà Nội) đến Hải Phòng.
- Đường số 6 Hà Nội - Lai Châu.
Đường làm mới có:
- Đường Điện Biên - Tuần Giáo dài 82 km.
17
- Đường Bản Lẻng - Lai Châu dài 87 km nối liền thị xã Lai Châu với
Bản Lẻng (biên giới Việt - Trung), được xây dựng ngay sau khi chiến dịch
Điện Biên Phủ kết thúc.
- Đường 12B (Hòa Bình) dài 42 km từ ngã ba Hàng Đồi đi qua huyện
Kim Bôi nối về Quốc lộ 6 tại Dốc Cun. Đây là công trình phục vụ ATK (An
toàn khu) của Trung ương tại Hòa Bình, được khởi công năm 1959, do Đội
Thanh niên xung phong xây dựng chủ nghĩa xã hội đảm nhận thi công mang
tên "Công trình thanh niên".
- Đường 217A - con đường hữu nghị Việt - Lào nối Thanh Hóa với cửa
khẩu Na Mèo dài 91,3 km.
- Đường chiến lược 16 (Thạch Bàn - Làng Ho - Cù Bai). Đây là tuyến
đường được làm dự phòng cho yêu cầu mới của cách mạng.
- Đường số 15 đoạn từ Vạn Mai đi Đồng Trầu (Thanh Hóa) dài 114 km
khởi công tháng 1 năm 1954 và khánh thành ngày 30 tháng 7 năm 1954, sau
khi kí kết Hiệp định Giơnevơ 10 ngày. Do ý nghĩa quan trọng về kinh tế và
quốc phòng nên Đường 15 sau này được khôi phục và mở rộng tiếp các đoạn
khác để hình thành tuyến đường chiến lược Trường Sơn Đông bắt đầu từ Bãi
Sang (Hòa Bình ) đi dọc miền Tây các tỉnh: Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, hòa vào hệ thống đường Trường Sơn lịch
sử mang tên Bác Hồ kính yêu.
Do điều kiện ngân sách eo hẹp, các tuyến đường bộ làm mới chỉ đạt
tiêu chuẩn kĩ thuật thấp, trung bình kích thước chỉ đạt 5 - 7m, mặt rộng 3 -
3,5m, phần lớn là đường đất, chỉ có một số tuyến rải mặt đá hoặc cấp phối.
Những năm 60 trở đi mới có mặt đường nhựa dưới dạng thâm nhập, bán thâm
nhập hoặc láng nhựa.
Các tuyến đường bộ khôi phục, sửa chữa và làm mới ở thời kì này đều
chưa được phân loại. Những năm sau này mới có quy định tiêu chuẩn kĩ thuật
cho loại đường, cấp đường, theo đó để thiết kế, thi công. Theo tiêu chuẩn của
18
Bộ giao thông vận tải ban hành thì đường bộ hiện có ở thời kì ấy thuộc vào
cấp 4, cấp 5 đường miền núi.
Hầu hết các tuyến đường khôi phục và làm mới thời kì này do Trung
ương đầu tư xây dựng. Trong 3 năm 1958 - 1960, tăng tỉ trọng đầu tư cho
đường bộ từ 17,5% lên 30% [15, tr.270]. Đây là tỉ trọng đầu tư cần thiết để
tập trung khôi phục nhanh một số trục chính đường bộ do Trung ương thống
nhất quản lí. Các tuyến đường nội tỉnh, liên huyện, liên xã chủ yếu do ngân
sách địa phương đầu tư.
Bảng 1.3
Hệ thống đƣờng địa phƣơng đƣợc khai thông và sử dụng (1956 - 1960)
Năm Chiều dài đƣờng địa phƣơng (km) Đƣờng ô tô chạy đƣợc (km)
1956 5.345 -
1957 5.540 2.020
1958 5.899 2.247
1959 5.758 2.296
1960 5.758 2.534
Nguồn: [50, tr.46].
Tình trạng kĩ thuật chung các tuyến đường địa phương thời gian này là
mới được cải thiện một bước những đoạn, tuyến quanh các thị xã, thị trấn,
những nơi đông dân cư, lưu lượng phương tiện và người đi lại lớn. Nhưng
tiêu chuẩn kĩ thuật nền mặt đường chưa được mở rộng và nâng cấp. Nền
đường thường rộng 4 - 5m, mặt đường 3 - 5m, hầu hết làm bằng cấp phối
hoặc đất.
Từ 1954 đến 1960, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, quân và
dân._. miền Bắc đã khôi phục và bước đầu mở mang mạng lưới giao thông
đường bộ, đảm bảo phục vụ yêu cầu về người và của cho tiền tuyến miền
Nam trong những năm sau này.
19
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, việc giao thông liên lạc giữa hai miền
Nam - Bắc qua vĩ tuyến 17 bị Mĩ - Diệm cắt đứt hoàn toàn. Cho đến cuối
năm 1958, ta chỉ còn duy trì được đường dây liên lạc bí mật với các cơ sở
cách mạng miền Nam dựa vào các cơ sở chính trị trong nhân dân các dân tộc
ở phía Đông dãy Trường Sơn. Đường dây liên lạc do Khu ủy Khu V và Ủy
ban thống nhất Trung ương phụ trách với mật danh là "Quận 9", chủ yếu
chuyển công văn, thư tín và đưa đón cán bộ.Trong khi đó, từ 1959, phong trào
đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam phát triển mạnh. Đấu tranh vũ
trang ngày càng lan rộng. Yêu cầu về cán bộ quân sự và vũ khí ngày càng lớn,
trong khi chi viện của miền Bắc chưa được bao nhiêu, đường giao liên bí mật
không đủ sức đáp ứng những yêu cầu đó.
Tháng 1 năm 1959, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (mở rộng)
do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì họp tại Hà Nội. Nghị quyết Hội nghị khẳng
định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam,
phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách
mạng, từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang, đánh đổ quyền thống trị của đế quốc, phong kiến, trước mắt là đánh
đổ tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm - tay sai của đế quốc Mĩ, thiết lập chính
quyền cách mạng.
Đầu tháng 5 năm 1959, Bộ Chính trị và Hồ Chủ tịch giao cho Quân ủy
Trung ương nghiên cứu tổ chức một đoàn giao thông quân sự đặc biệt, mở
tuyến giao liên và vận tải đưa cán bộ, vũ khí và những hàng hóa cần thiết vào
miền Nam. Bộ Chính trị chỉ rõ: "Đây là một việc lớn, có ý nghĩa chiến lược,
quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc"
[15, tr.476].
Do tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp, cách mạng miền
Nam đang trong quá trình chuyển từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ
20
trang, nên Bộ Chính trị đã đề ra phương châm: mở đường và tổ chức vận tải
từ miền Bắc vào miền Nam trong những năm đầu phải tuyệt đối bí mật, an
toàn.
Về nhân sự, Quân ủy Trung ương yêu cầu những cán bộ, chiến sĩ đầu
tiên được tuyển chọn cho đơn vị mở đường đặc biệt này là những anh em
miền Nam tập kết, quen thuộc địa hình các tỉnh miền tây Khu V, có kinh
nghiệm trong công tác giao liên vận tải. Bộ Chính trị đã giao đích danh cho
Thượng tá Võ Bẩm là người chỉ huy đầu tiên, có nhiệm vụ tổ chức lực lượng
và mở đường vận tải vào miền Nam. Thượng tá Võ Bẩm - nguyên Cục phó
Cục Nông trường, người đã nhiều năm công tác ở rừng núi Tây Nguyên, có
lần đã dẫn đoàn thuyền của Liên khu V vượt biển ra xin Trung ương chi viện
vũ khí, đạn dược trong kháng chiến chống Pháp. Võ Bẩm là người rất tâm
huyết với cuộc đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp giải phóng quê hương mình,
đã từng gửi "quyết tâm thư" lên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương
Đảng.
Sau khi được Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh - Trưởng ban Thống nhất
Trung ương thay mặt Tổng Quân ủy trực tiếp giao nhiệm vụ, Thượng tá Võ
Bẩm hứa sẽ làm hết sức mình. Tuy nhiên, Thượng tá cũng nhận thức đây là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng, liên quan tới hàng loạt
những vấn đề khác nhau như: con đường vận tải phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng miền Nam nếu chỉ dừng lại ở phía bắc sông Bến Hải (theo nhiệm vụ
ban đầu quy định) thì coi như chưa đưa được gì cho miền Nam… Làm sao để
con đường vận tải này đưa được thật nhiều người và súng đạn, vũ khí cho
đồng bào miền Nam (theo nhiệm vụ được giao trước mắt chỉ phải đưa đủ
7000 khẩu súng và 500 cán bộ cấp trung tá trở xuống) rồi vấn đề chọn người,
chọn phương tiện, vấn đề làm thế nào để giữ bí mật tuyệt đối cho hoạt động
của đơn vị vận tải như lời dặn của Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh và Phó chủ
21
nhiệm Tổng cục chính trị Trần Lượng (tức Trần Nam Trung): "Việc mở
đường không ai đựơc biết,không để lọt vào tay địch một người, một hiện vật,
dù là một mẩu thuốc lá có thể tạo nên tang chứng"
Thượng tá Võ Bẩm và những cán bộ cùng tham gia mở tuyến vận tải
chiến lược đầu tiên này đều thống nhất một quyết tâm chung là: phải đưa sâu
con đường vào phía Nam, bằng mọi cách phải vận chuyển đáp ứng sức người,
sức của cho cách mạng.
Theo đề nghị và sự chọn lọc của Thượng tá Võ Bẩm cùng với sự giúp
đỡ cuả các đơn vị quân đội liên quan, cơ quan đầu não của đơn vị vận tải đặc
biệt đầu tiên đựơc thành lập gồm 8 người. Đúng vào ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh 19/5/1959, tại khu nhà 63 và 83 đường Lý Nam Đế, Hà Nội, những
cán bộ, chiến sĩ đầu tiên do Thượng tá Võ Bẩm phụ trách về nhận nhiệm vụ
của Tổng Quân ủy. Đoàn công tác quân sự đặc biệt được lấy tên là Đoàn 559.
Như một sự thống nhất biện chứng - Con đường Trường Sơn được Đoàn 559
khai phá sau này cũng được chiến sĩ, đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế gọi
là Đường Hồ Chí Minh. Với sự giúp đỡ của chỉ huy sư đoàn 305: Nguyễn
Đường - Chính ủy Sư đoàn, Nguyễn Minh Châu (tức Năm Ngà - Sư đoàn
trưởng), Tiểu đoàn đầu tiên gồm 440 cán bộ và chiến sĩ do Đại úy Chư Đăng
Chữ làm Tiểu đoàn trưởng được thành lập tháng 7 năm 1959 tại đất tổ Hùng
Vương. Tiểu đoàn mang tên Tiểu đoàn 301, bao gồm những người có phẩm
chất đạo đức tốt, tất cả đều là đảng viên và đoàn viên. Trước đó Thượng tá Võ
Bẩm đã vào Vĩnh Linh làm việc với Ủy viên Khu ủy Khu V và Tỉnh ủy viên
Quảng Trị. Cuộc họp bí mật này đã thống nhất những vấn đề cụ thể liên quan
đến tuyến vận tải chiến lược sắp mở đó là:
- Tuyến đường không dừng lại ở bờ bắc sông Bến Hải mà đi sâu vào
phía nam Đường 9.
22
- Về hàng hóa, bao gồm súng đạn, ban đầu vận tải bằng gùi bộ, theo
từng chuyến, trung bình mỗi chuyến từ 25 - 30 gùi.
- Về tuyến đường, để đảm bảo tuyệt đối bí mật, phương châm mở
đường là phải "xuyên sơn" mà đi, cứ đỉnh núi mà soi tuyến, không được trùng
với các lối mòn cũ. Tổ chức làm nhiều trạm, mỗi trạm cách nhau một ngày
đường, các trạm không biết địa điểm của nhau. Tuyến đường không được cố
định, không được tạo thành các lối mòn.
Toàn bộ kế hoạch trên được Quân ủy và Ban thống nhất đồng ý cho
thực hiện.
Sau khi thành lập, Tiểu đoàn 301 hành quân ngay vào phía Nam và tập
kết tại Khe Hó, phía tây khu Vĩnh Linh. Khe Hó được chọn là điểm khởi đầu
cho tuyến đường lịch sử. Ở đây dân cư thưa thớt, chủ yếu là người Pa Cô,
Vân Kiều, mức sống thấp kém nhưng nặng nghĩa nặng tình với cách mạng.
Mặc dù vị trí khởi đầu nằm gần khu phi quân sự nhưng nếu ta giữ được bí mật
sẽ tạo được yếu tố bất ngờ, phát huy được hiệu quả. Đoàn cán bộ của Tiểu
đoàn 301 đã nghiên cứu địa hình, soi đường, mở tuyến theo triền phía Đông
dãy Trường Sơn. Sau khi nghiên cứu đã quyết định rải 9 trạm suốt dọc tuyến,
mỗi trạm biên chế một trung đội. Trạm đầu tiên được đặt ở Hàm Nghi, một
trong những căn cứ chống Pháp của các sĩ phu yêu nước và nhân dân ta vào
cuối thế kỷ XIX, tiếp đến vượt sông Bến Hải có các trạm ở bắc Đường 9, nam
Đường 9 theo đường giao liên bí mật của Ủy ban thống nhất Trung ương, của
huyện Hướng Hóa và của Tỉnh ủy Quảng Trị, Tỉnh ủy Thừa Thiên, qua các
bản đồng bào dân tộc Vân Kiều, Tà Ôi, Pa Cô, Cà Tu. Tuyến đường vận tải từ
nam Bến Hải phải đi qua hàng loạt các đồn bốt của địch được canh phòng rất
cẩn mật như: các đồn làng Cát, làng Miệt, đồn Rào - Quán trên Đường 9 (gần
khu vực ta hay tổ chức vượt đường), đồn Lý Tôn, Tu Rút ở nam Đường 9.
Địch còn thường xuyên tung quân càn quét ra những khu vực xung quanh
23
hoặc dùng xe cơ giới đi tuần tra trên Đường 9. Như vậy, theo cách bố trí cuả
địch thì mục tiêu của chúng là cô lập, cách li tuyệt đối hai miền Bắc - Nam
bằng một tuyến phòng thủ lấy Đường 9 làm ranh giới cắt ngang mọi tuyến bí
mật mà ta có thể mở xuyên vào phía Nam. Địch tổ chức phòng thủ có chiều
sâu cả phía Bắc và phía Nam với hệ thống đồn bốt dày đặc. Vì vậy, để mở
đường vận tải ta phải tổ chức lực lượng trinh sát bám chặt mọi hoạt động của
địch suốt tuyến phía Nam, đặc biệt là tuyến Đường 9.
Sau một thời gian nghiên cứu vừa mở đường, vừa rải trạm kết hợp với
tổ chức cho tiểu đoàn tập luyện tại các vùng địa hình tương tự theo phương
châm: "đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng". Với tinh thần tuyệt
đối bí mật, tránh địch, lánh dân, vào ngày 20 tháng 8 năm 1959, Tiểu đoàn
301 đã đến phía tây tỉnh Thừa Thiên, đặt được trạm thứ 9 ở Pa Lin và vận
chuyển tới đây 500 kg hàng đầu tiên giao cho Khu ủy Khu V. Hàng hóa có vũ
khí, thuốc chữa bệnh, công văn, thư tín, trong đó có 5 khẩu trung liên và đạn.
Nơi nhận hàng đã gửi ra Bắc giấy biên nhận ghi dòng chữ: "Chuyến hàng đầu
tiên đã tới chiến trường". Trải qua bao khó khăn, gian khổ, từ tuyến gùi hàng
đầu tiên này bộ đội 559 cùng quân dân cả nước sẽ xây dựng nên một mạng
đường vận tải cơ giới phong phú như "trận đồ bát quái" trong những năm sau.
Chuyến hàng vận tải đầu tiên thành công đánh dấu thời điểm lịch sử sự
hình thành con đường vận tải chiến lược trên bộ dọc Trường Sơn - con đường
nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, máu từ trái
tim Tổ quốc đã truyền vào cơ thể đang sục sôi cách mạng của miền Nam ruột
thịt và từ đây sẽ không bao giờ ngừng nghỉ, dù bất kì tình huống nào cũng sẵn
sàng tiếp sức cho cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất đất nước của đồng
bào và đồng chí chúng ta.
Theo con đường đó, trong nửa cuối năm 1959, bằng cách gùi bộ là chủ
yếu, Đoàn vận tải quân sự đặc biệt 559 do Đoàn trưởng Võ Bẩm chỉ huy đã
24
vận chuyển đến Pa Lin 1.667 súng bộ binh, 850 dao găm, 188 kg thuốc nổ,
một số ống nhòm, la bàn, 20 bộ bản đồ [52, tr.47]. Số hàng này đã được Khu
ủy Khu V tiếp nhận và tổ chức vận tải tiếp vào phía trong, kịp thời trang bị
cho các đội vũ trang tự vệ vừa ra đời ở Tây Nguyên và miền Tây Trung Bộ.
Về người, đến cuối năm 1959 đã có 542 cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào
nhận nhiệm vụ ở chiến trường miền Nam, trong đó có 515 người vào Khu V,
27 người vào Nam Bộ [52, tr.48]. Tính đến tháng 11 năm 1960, Tiểu đoàn
301 (sau này là Đoàn 70) đã chuyển giao cho Liên khu V được 30,6 tấn vũ
khí, đạn và hàng quân dụng (trong tổng số hàng, bao gói xuất tại khu hậu cứ
là 50 tấn). Hàng chục tấn gạo, muối được gùi cõng vào tuyến, bảo đảm cho
Đoàn và cứu đói cho dân, 1.808 cán bộ, chiến sĩ được bảo đảm hành quân vào
miền Nam [52, tr.60].
Trong những ngày đầu mới thành lập, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 làm
nhiệm vụ soi đường mở tuyến, vận tải, giao liên…trong những điều kiện vô
cùng gian khổ, vất vả, khó khăn và phải tuyệt đối bí mật. Đường mới soi tìm
chưa được cải tạo, nhiều đèo dốc cao, suối sâu, đường trơn, đá tai mèo nhọn
hoắt, rừng rậm, nhiều muỗi vắt, rắn rết, khí hậu khắc nghiệt, phải trải qua
những đoạn đường gần đồn bốt địch, gần bản làng của nhân dân. Để giữ bí
mật, người đi trước phải cào lá rừng trên lối đi, người đi sau phải khoả lấp lá
lại như cũ. Phải xóa sạch vết chân trên từng hòn đá "mồ côi" nổi trên mặt
suối. Khi vượt sông Ba Lòng (thượng lưu sông Thạch Hãn) phải dùng thuyền
thúng và chiếc cầu bằng dây song. Mỗi lần vượt Đường số 9 (thường ở đoạn
km 42 đến km 50), để tránh các đồn bốt và sự tuần tra nghiêm ngặt của bộ
binh và cơ giới địch, phải bố trí người gác, khi nhận được tín hiệu do người
gác báo mới được vượt qua… "Đi không dấu, nấu không khói, nói không
tiếng" là những quy định mà mỗi cán bộ, chiến sĩ vận tải Đoàn 559 trong giai
đoạn đầu phải chấp hành nghiêm ngặt.
25
Trải qua 18 tháng (từ tháng 5 năm 1959 đến tháng 11 năm1960), Đoàn
vận tải quân sự chiến lược 559 đã tiến được những bước mở đầu quan trọng
trên con đường chiến lược Bắc - Nam. Từ những bước lặng lẽ soi đường mở
lối đầu tiên, những người lính Trường Sơn đã thiết lập được tuyến hành lang
giao liên, vận tải quân sự dài hàng trăm km trong điều kiện địa hình bị chia
cắt và kẻ thù ngăn chặn quyết liệt. Theo những con đường rừng ấy, hàng chục
tấn vũ khí, khí tài thiết yếu đã được chuyển giao cho lực lượng vũ trang Liên
khu V và Tây Nguyên, hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ đã được bảo đảm hành
quân vào các chiến trường. Tuyến đường vận tải gùi bộ đầu tiên này là cơ sở
để mở rộng và phát triển lực lượng tiến lên vận tải quy mô hiện đại bằng cơ
giới và hiệp đồng binh chủng của Đoàn 559 sau này.
Từ đại ngàn Trường Sơn, bằng những chiến công thầm lặng của mình,
cán bộ, chiến sĩ Đoàn 559 đã viết lên màn dạo đầu của bản trường ca hào
hùng: "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước".
Tóm lại, giao thông vận tải nói chung và giao thông vận tải đường bộ
nói riêng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội cũng
như tăng cường củng cố quốc phòng. Giao thông vận tải là một tiêu chí quan
trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của một quốc gia,
một dân tộc.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, chúng ta phải
tiếp quản một hệ thống giao thông đường bộ què quặt, lạc hậu. Do đó, yêu cầu
cấp thiết là phải nhanh chóng khắc phục hậu quả của chiến tranh, lập lại trật
tự giao thông vận tải, đáp ứng kịp thời nhu cầu khôi phục kinh tế dân sinh sau
9 năm kháng chiến. Quân và dân miền Bắc đã bắt tay ngay vào việc sửa chữa
các tuyến đường bộ đã có từ trước, đồng thời làm mới và mở thêm những
tuyến đường giao thông chiến lược khác. Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu về
người và vật chất cho cách mạng miền Nam, theo quyết định của Bộ Chính
26
trị, Đoàn công tác quân sự đặc biệt 559 đã ra đời. Vượt qua những khó khăn,
gian khổ, trong 2 năm 1959 - 1960, Đoàn đã bước đầu thiết lập được một
tuyến hành lang giao liên dọc sườn phía đông dãy Trường Sơn, với phương
thức vận tải gùi bộ là chủ yếu. Quyết định thành lập tuyến vận tải quân sự
Trường Sơn là một quyết định đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, thể hiện quyết
tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta. Cùng với những tuyến đường bộ chiến lược khác trên miền Bắc,
tuyến vận tải quân sự Bắc Nam - Đường Trường Sơn sẽ có những đóng góp
quan trọng đối với thắng lợi của cách mạng miền Nam trong những năm sau
này.
27
CHƢƠNG 2
GIAO THÔNG VẬN TẢI ĐƢỜNG BỘ MIỀN BẮC VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM 1961 - 1965
Đây là thời kì miền Bắc bắt tay vào nhiệm vụ xây dựng bước đầu cơ sở
vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, miền Nam đấu tranh chống chiến lược
"chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ. Nhu cầu sản xuất và chiến đấu đòi hỏi
phải mở rộng giao thông vận tải.
2.1. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chủ
trƣơng mở rộng mạng lƣới giao thông vận tải.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách
mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản
xuất cá thể về tư liệu sản xuất thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế phân tán lạc hậu trở thành một nền
kinh tế cân đối và hiện đại. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trọng tâm của thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và là con
đường tất yếu để cải biến nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu ở nước ta.
Giữa lúc cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giành thắng lợi
to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế, cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có bước chuyển biến nhảy vọt từ
"Đồng khởi" (cuối năm 1959 đầu năm 1960 ), Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960. Dự Đại hội có
28
525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 50 vạn
đảng viên vủa Đảng trong cả nước. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại
hội. Trong lời khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đại hội này
là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống
nhất nước nhà" [42, tr.170].
Đường lối chung của cả thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại
hội cụ thể hóa trong Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965). Để
làm cơ sở cho việc định ra đường lối đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ III đã phân tích những đặc điểm cơ bản của tình hình
miền Bắc, cụ thể là: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành
trong hoàn cảnh nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, trong khi đó trên
thế giới, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống và đã mạnh hơn phe đế
quốc chủ nghĩa. Kinh tế miền Bắc là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu
là sản xuất nhỏ và cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hết sức kém cỏi,
non yếu.
Xuất phát từ những đặc điểm cơ bản ấy, Đại hội Đảng lần thứ III đã
chủ trương: thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh,
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí,
đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Về giao thông vận tải, trong hơn 6 năm khôi phục và phát triển, chúng
ta đã đạt nhiều thành tích lớn, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kĩ thuật cho
toàn ngành, tạo ra những khả năng mới làm đà cho việc phát triển mạnh mẽ
vào nững năm tiếp theo. Trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, giao
thông vận tải là một bộ phận hữu cơ của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, phương hướng, nhiệm vụ chung phát
29
triển giao thông vận tải trong Kế hoạch 5 năm (1961-1965) phải nhằm mục
đích phục vụ tích cực cho bước đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước
nhà và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân. Nó phải đảm bảo 4
yêu cầu sau đây:
1. Cố gắng phục vụ đầy đủ và kịp thời cho nhu cầu phát triển kinh tế -
văn hóa, sẵn sàng đón nhiệm vụ lớn hơn trong cao trào tiến nhanh, tiến mạnh
của các ngành kinh tế quốc dân, tích cực phát huy tác dụng thúc đẩy sản xuất
công, nông nghiệp phát triển và tạo điều kiện tiến lên đi trước một bước trong
việc phục vụ các ngành.
2. Phục vụ tích cực cho yêu cầu xây dựng và củng cố quốc phòng.
3.Thỏa mãn yêu cầu đi lại của nhân dân được thuận lợi, nhanh chóng,
an toàn.
4. Đảm bảo sự lưu thông được thuận tiện hơn giữa các khu vực kinh tế,
giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa trong nước
và ngoài nước [16, tr.4].
Đại hội khẳng định: "Phát triển giao thông vận tải là một nội dung
trong nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc" [1,
tr.86]. Từ đó, Đại hội quyết nghị:"Đi đôi với việc phát triển công nghiệp và
nông nghiệp cần ra sức phát triển về giao thông vận tải, phục vụ kịp yêu cầu
của các ngành kinh tế quốc dân, phục vụ yêu cầu củng cố quốc phòng và mở
rộng giao thông liên lạc với các nước anh em" [62, tr.171].
Nhiệm vụ cụ thể đối với giao thông đường bộ trong 5 năm 1961-1965
là: Tiếp tục phát triển và cải tạo mạng lưới đường bộ nhất là ở miền núi để tạo
thành một hệ thống mạng lưới đường bộ kết hợp chặt chẽ với đường sắt và
đường thủy, dần dần tạo thành mạng lưới giao thông vận tải thống nhất, hoàn
chỉnh.
30
Giải quyết nhiệm vụ trên, trong 5 năm sẽ xây dựng những tuyến sau
đây:
- Cải thiện và mở rộng đường Hà Nội - Tuần Giáo - Tây Trang; Đường
15 (trong đó làm mới đoạn Vạn Mây - Thiết Ống và Đô Lương - La Khê 204
km) nối Đường 6 với giới tuyến, chạy song song với Đường 1A; Đường Diễn
Châu - Nậm Cắn (Đường 7), Làng Trà - Bản Đợi (217), Hà Nội - Thái
Nguyên.
- Làm mới các tuyến: Gia Phù - Vạn Yên, Hòa Bình - Đồn Vàng, Khe
Ve - Phủ Quỳ, An Châu - Yên Lập.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9
năm 1960), từ năm 1961 trở đi, miền Bắc bước vào một thời kì mới - thời kì
lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Một phong trào thi đua xây
dựng chủ nghĩa xã hội được dấy lên sôi nổi khắp miền Bắc: "Đại phong"
trong nông nghiệp, "Duyên hải" trong công nghiệp, "Ba Nhất" trong quân đội,
"Thành công " trong thủ công nghiệp, "Bắc lý " trong giáo dục v.v.
Trải qua 5 năm, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã
đạt được những thắng lợi cơ bản. Tại Hội nghị chính trị đặc biệt ngày 27
tháng 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Sau 10 năm khôi
phục, cải tạo "miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong
lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới" [59, tr.666 ].
Xuất phát từ vai trò quan trọng của giao thông vận tải trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
III, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân
ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ khôi phục và mở rộng mạng lưới giao thông
vận tải và đạt được nhiều thành tích to lớn. Trong thời gian thực hiện Kế
hoạch 5 năm (1961- 1965), chúng ta đã khôi phục và làm mới nhiều tuyến
đường ở Trung ương và địa phương, đồng thời chú trọng mở mang hệ thống
31
đường nông thôn miền núi. Số vốn đầu tư cho giao thông đường bộ tăng hơn
so với thời kì 1954 - 1960.
Bảng 2.1
Vốn đầu tƣ cho giao thông vận tải (1961 - 1965)
Năm
Tổng số
Cho đƣờng bộ
Vốn (triệu đồng) Tỉ lệ (%)
1961 95,4 44,0 46,1
1962 79,4 28,8(38,6) 36,3
1963 85,0 15,7(33,4) 18,5
1964 99,3 15,7(402) 15,8
1965 267,3 173,7 64,9
Nguồn: [50, tr.37].
Chúng ta đã khôi phục, sửa chữa và làm mới nhiều hệ thống đường bộ
trục chính, nhiều tuyến đường, cầu cống được khai thông, mạng lưới đường
bộ của miền Bắc được củng cố, mở rộng hơn và ngày càng hoàn chỉnh.
Bảng 2.2
Kết quả sửa chữa, khôi phục, làm mới đƣờng bộ và cầu cống
(1961- 1964)
Năm
Đƣờng bộ (km) Cầu cống
Sửa
chữa
Khôi
phục
Làm
mới
Cầu làm mới
(cái/m)
Cầu sửa
chữa
(cái/m)
Cống (cái)
1961 - 58 97 - 70/1774 712
32
1962 - 113 72 14/811 - -
1963 - - 80 11/685 - -
1964 - 69,9 16,6 - 10/196 -
Nguồn:[50, tr.38].
Những tuyến đường bộ chính được sửa chữa, nâng cấp và làm mới ở
miền Bắc từ 1961 đến 1965:
Đường sửa chữa nâng cấp có:
- Đường 1A Nam Quan - Hà Nội - Hiền Lương.
- Đường 3 Cầu Đuống - Cao Bằng - Thụy Khẩu được sửa chữa đoạn ở
Cao Bằng nối thông về Bắc Cạn, Thái Nguyên.
- Đường 7 Diễn Châu - Mường Xén - Nậm Cắn.
- Đường 18 Bắc Ninh - Hòn Gai - Tiên Yên.
- Đường 42 Tuần Giáo - Điện Biên - Tây Trang.
- Đường 48 Yên Lý - Phủ Quỳ (Nghệ An).
- Đường 217 Làng Trà - Bản Đợi.
Đường làm mới có:
- Đường 217B nối với đường 217A (mở năm 1955) từ cửa khẩu Na
Mèo (biên giới Việt - Lào), mở tiếp 62 km trên đất Lào để nối với Sầm Nưa
(tỉnh lị Hủa Phăn, Lào), khởi công ngày 17 tháng 3 năm 1961 và hoàn thành
trong vòng 3 tháng.
- Đường 15C Vạn Mây - Thiết Ống dài 54,4 km theo sườn núi Phu
Luông. Đây là công trình đột xuất được khởi công xây dựng từ ngày 1/3/1961
đến 31/5/1961.. Để thi công xây dựng tuyến đường này, chúng ta đã huy động
14.180 dân công, sử dụng 800 tấn thực phẩm và hơn 1,5 triệu đồng kinh phí.
Tuyến đường xuyên giữa rừng núi Bá Thước dọc theo sông Mã đến Phú Lệ -
33
Vạn Mai huyện Quan Hoá nối với Đường 15A, phục vụ giao lưu phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng.
- Đường Khe Ve - Phủ Quỳ - Quốc lộ 1 dài 196 km.
- Đường Hòa Bình - Đồn Vàng dài 57 km.
- Đường Làng Trà - Bản Đợi 91km.
- Đường Hà Giang - Mèo Vạc dài trên 150 km khởi công 1962.
- Đường Lào Cai- Mường Khương khởi công 1962.
- Đường Phong Thổ - Lào Cai và tuyến 13C dọc hồ thủy điện Thác Bà
(dài gần 200 km), khởi công năm 1964. Nhờ hai tuyến này, lần đầu tiên các
loại xe có thể chạy thẳng từ Lào Cai về Hà Nội.
Tính chung trong 1955 - 1965 có 707 km đường bộ được khôi phục và
1.011 km đường làm mới. Hệ thống đường bộ Trung ương quản lí trong 10
năm, sau ngày hòa bình lập lại được khôi phục, sửa chữa, làm mới và đưa vào
quản lý sử dụng khai thác vận tải vào năm cuối thời kỳ khôi phục kinh tế và
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất được trình bày rõ trong bảng 2.3
Bảng 2.3
Hệ thống đƣờng bộ Trung ƣơng quản lý.
Tên
đƣờng
Tuyến đƣờng 1954 1957 1960 1964
1A Nam Quan- Hà Nội- Hiền Lương 729 729 731 731
1B Đồng Đăng - Bắc Sơn - Thái Nguyên 146 146 146 146
2 Phủ Lỗ -Tuyên Quang- Hà Giang-Thanh Thủy 290 290 290 309
3 Cầu Đuống - Cao Bằng - Thụy Khẩu 372 372 370 373
4A Đồng Đăng - Cao Bằng - - 118 118
4B Lạng Sơn - Tiên Yên - Núi Ngọc 201 201 201 201
5 Gia Lâm - Hải Phòng 100 100 100 102
6 Hà Nội –Sơn La- Lai Châu- Bản Lẻng 492 574 579 579
34
7 Diễn Châu - Mường Xén - Nậm Cắn 203 192 192 225
8 Treo - Linh Cảm - Biên Giới - 60 - 90
10 B.Nghi - Hải Phòng - N.Bình- P. Diệm 149 177 149 177
11A Hà Nội - Sơn Tây - Phú Hộ 98 98 98 100
11B Đầu Lô - Hiên (Cát Lâm) 24 24 24 24
12A Khe Múc - Nho Quan - Ghềnh 90 110 114 118
12B Dốc Cun - Ba Hàng Đồi - - 50 47
13A Bờ Đậu - Yên Bái - Cò Nòi 302 302 298 311
13B Bắc Giang - An Châu - Đình Lập - 130 130 130
14 Hải Phòng - Đồ Sơn - Biển 22 22 22 22
15 Bãi Sang- Tân Ấp 400 459 399 669
15B Khe Ve - Mụ Giạ 52 - - 52
16 Chùa Hang - Mẹt 80 80 80 48
17 Kép - Phả Lại- Lục Nam - - - 48
18 Bắc Ninh - Hòn Gai - Tiên Yên (Khe Tù) 209 209 203 203
19 Lưu Xá - Hà Châu 18 209 - 18
21 Sơn Tây - Nam Định - Văn Lý 196 196 150 198
23 Vĩnh Yên - Tam Đảo - 24 24 24
24 Cổ Tiết - Chia - - - 64
39 Phố Nối - Hưng Yên (Cao Mổ) 81 81 81 35
42 Tuần Giáo - Điện Biên - Tây Trang 89 123 123 123
43 Mộc Châu - Pa Háng (Sơn La) 32 32 31 32
44 Lao Cai - Sa Pa (Lao Cai) 38 38 38 38
45 Chân Mộng - Vũ Ẻn 15 15 15 15
46 Mỹ Giang - Hoàng Xá (Sơn Tây) - 19 19 19
47 Thanh Hoá - Bãi Thượng - 53 53 53
35
48 Yên Lý - Phủ Quỳ (Nghệ An) - 34 - 37
49 Vinh - Nam Đàn - 20 20 20
217 Làng Trà - Bản Đợi - - - 91
50 Nho Quan - Ghềnh - 28 - -
186 Lai Khê - Đông Triều - 17 17 18
53 Nho Quan - Chi Nê - - - 24
217 Làng Trà - Bản Đợi - 91 91 91
55 Thanh Hoá - Sầm Sơn - - - 17
56 Ba Khe - Nghĩa Lộ - - - 32
70 Hiền Lương - Cửa Tùng - 11 11 -
Nguồn: [50, tr.42].
Trong thời kì thực hiện Kế hoạch 5 năm (1961-1965), ngành giao thông
vận tải cũng đã bước đầu xây dựng một số cầu vĩnh cửu như: Đoan Vỹ (bê
tông cốt thép lắp ghép đầu tiên) trên Quốc lộ 1(1963), Phù Lỗ (bê tông dự ứng
lực đầu tiên) trên Quốc lộ 3. Số bến phà đã được giảm bớt. Các bến phà còn
lại đã được xây đá, đổ bê tông vững chắc. Việc lưu thông qua các bến phà
được nhanh và an toàn hơn nhờ được trang bị loại phà thép và gỗ có sức chở
18T.
Hệ thống đường địa phương được khai thông và đưa vào sử dụng trong
4 năm 1961- 1964:
Bảng 2.4
Hệ thống đƣờng địa phƣơng (1961-1964)
Năm
Chiều dài đƣờng địa phƣơng (km)
Đƣờng ô tô chạy đƣợc (km)
1961 4.860 4.860
1962 5.001 5.001
36
1963 5.051 5.051
1964 5.210 5.210
Nguồn: [50, tr.46].
Các hệ thống đường nông thôn miền núi được quan tâm mở mang phát
triển để phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp ở các địa phương với
phương thức sử dụng rộng rãi các loại phương tiện vận tải thô sơ, thô sơ cải
tiến để giải phóng đôi vai và giảm bớt sức lao động.
Dựa vào sức lực của địa phương và nhân dân, phong trào giao thông
vận tải nông thôn miền núi được khơi dậy sôi động ở các địa phương. Tại Hội
nghị tổng kết công tác giao thông vận tải nông thôn miền núi ngày 1/3/1962,
Hồ Chủ tịch xác định những kết quả đã làm tuy có khá "nhưng so với yêu cầu
nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm thì số đường sá, xe thuyền còn quá ít.
Cho đến nay làm đường chưa chú ý phục vụ cho sản xuất, chưa kết hợp
chặt chẽ giao thông với thủy lợi.
Để hoàn thành kế hoạch 5 năm, chúng ta phải cố gắng hơn nữa,làm tốt hơn
nữa.
- Phải lấy phục vụ sản xuất là chủ yếu.
- Phải biết dựa vào nhân dân là chính
- Các cấp uỷ (tỉnh, huyện, xã) phải quan tâm đúng mức, chỉ đạo chặt
chẽ, không được khoán trắng cho cán bộ chuyên môn"[72, tr.57].
Tại Hội nghị tuyên giáo miền núi 31/8/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
nhận xét về đường sá ở miền núi và chỉ thị riêng về việc làm đường giao thông
miền núi:" Về giao thông ở miền núi, đường sá còn rất kém. Cố nhiên đắp
đường lớn là do Trung ương phụ trách, Bộ Giao thông chiụ trách nhiệm. Nhưng
địa phương có thể làm những đường nhỏ. Làng này qua làng khác, thì xã tự
động làm. Nhiều xã đã làm tốt. Nên làm cho đồng bào thấy rõ lợi ích của việc
37
làm thêm đường sá, tuyên truyền giải thích cho khéo, thì đồng bào tự làm và làm
tốt " [59, tr.561-562].
Thực hiện chủ trương đó, Bộ Giao thông vận tải đã có chương trình, kế
hoạch cho các địa phương làm đường giao thông nông thôn miền núi. Từ
1957 đến 1963, chiều dài đường nông thôn, miền núi làm mới, mở rộng, sửa
chữa được 64.695 km, riêng 1962 là 17.847 km, năm 1963 là 22.629 km,
trong đó đường sá kết hợp với thuỷ lợi năm 1963 làm được 4.280 km. Cầu
cống nhỏ cho các đường nông thôn miền núi năm 1963 làm được 25.190 cái.
Trong thời gian thực hiện Kế hoạch 5 năm còn có phong trào xây dựng
quy hoạch mạng lưới giao thông ở xã, huyện. Theo báo cáo của các địa
phương mà phòng giao thông nông thôn miền núi thu thập được, trong năm
1963 có 157 huyện lập quy hoạch, 3.149 xã có quy hoạch sơ bộ về hệ thống
mạng lưới giao thông nông thôn [50, tr. 48].
Như vậy, từ một mạng lưới giao thông vận tải rất lạc hậu, què quặt, bị
chiến tranh tàn phá nặng nề, qua gần 7 năm khôi phục và phát triển kinh tế, 5
năm đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội (1961-1965), chúng ta đã khôi
phục, cải tạo và phát triển một mạng lưới giao thông vận tải có thể đáp ứng
tương đối những yêu cầu của nền kinh tế quốc dân và đóng góp phần nhất định
vào việc cải thiện đời sống vật chất, văn hoá của nhân dân cũng như có tác
dụng quan trọng trong công việc củng cố quốc phòng. Về kinh tế, mạng lưới
giao thông vận tải được cải thiện và mở rộng đã tạo điều kiện cho kinh tế công,
nông nghiệp và thương nghiệp phát triển. Việc vận chuyển hàng hóa, nguyên
vật liệu từ địa phương này đến địa phương khác, từ xí nghiệp này đến xí nghiệp
khác được đảm bảo nhanh chóng hơn. Đời sống của nhân dân ._.8
triệu đôla mua ở Nhật, cùng một số kĩ sư và công nhân làm đường lành nghề
sang tham gia việc mở đường Đông Trường Sơn.
Công trình xây dựng đường Đông Trường Sơn được khởi công từ cuối
năm 1973. Nhà nước đã huy động lớn vốn đầu tư cùng các phương tiện cơ
giới hiện đại và 3 vạn bộ đội, thanh niên xung phong cho công trình lao động
xây dựng tuyến đường quan trọng này. Điểm thuận lợi của tuyến đường này
là đi trên đất nước ta sát với các chiến trường nên rút ngắn được thời gian
giao hàng, giao quân. Với tinh thần hết sức tích cực, khẩn trương, đến đầu
1975, tuyến đường phía Đông Trường Sơn đã được xây dựng thông suốt đến
Bù Gia Mập, tuyến đường phía Tây Trường Sơn được củng cố, nâng cấp, bảo
đảm được 2 làn xe chạy với đội hình lớn trong mùa khô. Trong 2 năm 1973 -
1974, công binh Trường Sơn cùng lực lượng thanh niên xung phong trên
tuyến đường xây dựng thêm được 5.500 km đường bộ, bằng gần 50% khối
lượng đường xây dựng được trong 8 năm trước đó (1965 - 1972), đưa chiều
dài mạng đường giao thông chiến lược Trường Sơn lên 16.790 km, trong đó
có 6.810 km đường trục dọc, 4.980 km đường trục ngang, 5.000 km đường
vòng tránh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau khi trực tiếp kiểm tra đường Đông
Trường Sơn đã đánh giá: "Đây là một năng lực mới để thực hiện rút ngắn thời
gian vận chuyển và hành quân" [15, tr.489]. Đây cũng là cơ sở để cuối tháng
3/ 1975, Đại tướng phát lệnh: "Thần tốc, đại thần tốc cho chiến dịch Hồ Chí
Minh". Đại tướng Văn Tiến Dũng đã đánh giá: "Đường Hồ Chí Minh, Đông,
Tây Trường Sơn đã thỏa mãn kịp thời, đầy đủ mọi nhu cầu về vật chất và binh
lực trong chiến dịch, góp phần quyết định thắng lợi chiến dịch Buôn Mê
Thuột - một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược để Bộ Chính trị lượng định đúng
thời gian giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" [15, tr.489].
89
Từ khi hình thành 1959 đến 1975, hệ thống giao thông Đông, Tây
Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) đã trở thành một mạng lưới giao
thông liên hoàn vững chắc bao gồm các trục nối Đông - Tây, nối ngang dọc,
các trục đường chiến dịch nối các trục đường chiến lược trên phạm vi cả 3
nước Đông Dương. Trên đất Việt Nam, tuyến đường xuyên qua 10 tỉnh từ
Nghệ An đến Lộc Ninh - Bình Phước. Trên đất Lào tuyến đường xuyên qua 7
tỉnh từ Bô Li Khăm Xai đến Attôpơ. Trên đất Campuchia xuyên qua 4 tỉnh.
Tổng cộng gồm 6 đường trục dọc theo sườn Đông và Tây Trường Sơn, 25
đường trục ngang vắt qua núi, một hệ thống đường nhánh tỏa ra các chiến
trường.
Với một mạng lưới rộng lớn, liên hoàn vững chắc như vậy, đường mòn
Hồ Chí Minh "không phải là một con đường làm cho máy bay có thể hoạt
động được mà còn là một trận đồ bát quái gồm những mạng lưới đường
xuyên qua rừng rậm" [26, tr.50]. Đó chính là nhận xét của nhà nghiên cứu
chiến lược Schelesinger khi viết về sự thất bại của Mĩ trong cuốn "Một di sản
cay đắng".
Hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh thực sự là một kì tích, một huyền
thoại trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta trên mặt trận
giao thông vận tải.
Với việc khôi phục, nâng cấp và xây dựng các tuyến đường giao thông
chiến lược, miền Bắc đã chuyển vào chiến trường một khối lượng lớn lực
lượng chiến đấu và vật chất chiến tranh, góp phần quyết định vào thắng lợi
vinh quang ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tóm lại, trong những năm Mĩ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc
Việt Nam, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận giao thông vận tải
đã diễn ra vô cùng quyết liệt. Suốt những năm tháng bom đạn ác liệt, quân và
dân ta đã phát huy cao độ trí thông minh và lòng dũng cảm, trụ bám kiên
90
cường những nơi địch đánh phá ác liệt, có mặt ở khắp các đầu mối giao thông,
quyết giữ vững mạch máu giao thông, giữ vững nhịp độ vận chuyển chi viện
chiến trường. Trong gian khổ ác liệt, từ các phong trào đảm bảo giao thông
với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", "Nhường nhà để hàng, nhường
làng để xe" đã xuất hiện những tập thể và cá nhân mà chiến công của họ đã đi
vào lịch sử kháng chiến chống Mĩ như những tấm gương tiêu biểu cho ý chí
giải phóng miền Nam của quân dân hậu phương miền Bắc. Có thể nói ý chí
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là động lực thôi thúc mọi lực
lượng chiến đấu, công tác trên mặt trận giao thông vận tải. Vượt lên mưa bom
bão đạn của kẻ thù, họ đã sáng tạo nhiều phương thức vận chuyển, nhiều cách
đánh địch, nhiều cách đối phó rất độc đáo và hữu hiệu với những thủ đoạn
ngăn chặn của máy bay, tàu chiến Mĩ. Đó là việc vận chuyển bằng xe đạp thồ,
xe trâu, xe cút kít; việc mở đường vòng tránh và tận dụng đường liên xã, liên
thôn, là việc gùi cõng từng bao gạo, can xăng vượt qua trọng điểm. Những
thành tích trên mặt trận bảo đảm giao thông chứng tỏ chúng ta thắng địch
không chỉ bằng ý chí, quyết tâm và lòng dũng cảm mà bằng cả trí tuệ Việt
Nam. Mặc dù kẻ địch dùng trăm phương ngàn kế với đủ các loại vũ khí và
phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, nhưng chúng vẫn không ngăn cản nổi
sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Trong hai lần chiến tranh phá hoại
miền Bắc, đế quốc Mĩ đã hoàn toàn thất bại trước sức mạnh và ý chí quyết
thắng của quân và dân ta. Từ sau khi Hiệp định Pari được kí kết, chúng ta đã
khẩn trương xây dựng và mở rộng Đường Hồ Chí Minh, làm cho con đường
này trở thành một mạng lưới đường liên hoàn, vững chắc, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của quân và dân ta ở miền Nam năm 1975.
Chiến tranh đã lùi xa vào dĩ vãng, nhưng thời gian trôi qua không thể làm
phai mờ chiến công bất hủ của những thanh niên xung phong, bộ đội vận tải,
công binh đã chiến đấu, hi sinh vì sự sống của con đường cũng là sự sống của
91
toàn dân tộc. Những chiến công đó của một thời máu lửa phải được ghi đậm
nét trong pho sử vàng của dân tộc.
92
KẾT LUẬN
1. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, giao thông
vận tải nói chung và giao thông vận tải đường bộ nói riêng có một vai trò cực
kì quan trọng, là một trong những nhân tố góp phần quyết định đưa cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn. Lịch sử giao thông
vận tải Việt Nam những năm tháng chống Mĩ cứu nước là một trong những
trang sử vẻ vang nhất của dân tộc, là bằng chứng hùng hồn khẳng định trí tuệ
và ý chí Việt Nam đã chiến thắng sức mạnh bom đạn và sự tàn bạo của kẻ thù.
Kitsingơ, cố vấn an ninh hàng đầu của Tổng thống Mĩ trong thời kì chiến
tranh xâm lược Việt Nam, khi trở lại Việt Nam đã thừa nhận: "Nếu Việt Nam
chỉ anh hùng không thôi thì chúng tôi sẽ bẻ gãy, nhưng Việt Nam vừa anh
hùng, vừa thông minh, sáng tạo nên nước Mĩ đã thất bại " [10, tr.51].
2. Thấu suốt được vai trò vô cùng quan trọng của giao thông đường bộ
đối với cuộc kháng chiến, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nêu cao quan điểm: " Giao thông là mạch máu của một nước", có tác động chi
phối trực tiếp đến cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Bởi vậy, suốt những năm
tháng kháng chiến chống Mĩ, dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, nhiều tuyến
đường giao thông vẫn được xây dựng, bảo đảm vai trò của hậu phương lớn
miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam. Có thể nói rằng, quyết định xây dựng
tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh - "Con đường huyền thoại"
và thực hiện thắng lợi quyết định này là một thành công kiệt xuất trong lãnh
đạo chiến tranh của Đảng cộng sản Việt Nam, là biểu hiện ý chí sắt đá, quyết
tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn dân, toàn quân ta,
biểu hiện tình đoàn kết quốc tế đặc biệt Việt Nam, Lào, Campuchia.
93
Suốt 16 năm bền bỉ và anh dũng chiến đấu, Bộ đội Trường Sơn- Đường
Hồ Chí Minh đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử mà Đảng, quân đội,
nhân dân giao phó, thực hiện thắng lợi sự chi viện của hậu phương lớn miền
Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mĩ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước.
Từ những ngày đầu soi đường mở lối, tổ chức gùi thồ, giao liên, len lỏi
qua rừng rậm, cheo leo bên sườn núi đá cao, địa hình phức tạp, khí hậu nghiệt
ngã cho đến giai đoạn địch đánh phá huỷ diệt, ngăn chặn ác liệt, lớp lớp cán
bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong nam và nữ đã "xẻ dọc" Trường Sơn, xây
dựng nên hệ thống đường vận tải và hành quân cơ giới với tổng chiều dài gần
17.000 km gồm nhiều trục dọc, trục ngang nối từ miền Bắc vào tới các chiến
trường miền Nam, Trung - Hạ Lào, đông bắc Campuchia. Quá trình mở
đường cũng là quá trình chiến đấu vô cùng quả cảm và mưu trí của tất cả các
lực lượng trên tuyến, làm thất bại và vô hiệu hóa cuộc chiến tranh huỷ diệt
bằng vũ khí công nghệ cao của đế quốc Mĩ, làm giảm bớt và khắc phục sự
phá hoại của thiên nhiên để giữ vững các con đường, bảo đảm thông suốt liên
tục, tạo thế trận liên hoàn vững chắc của hệ thống đường chi viện chiến lược
từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, hệ thống đường chi viện chiến lược trên dãy
Trường Sơn thời kì kháng chiến chống Mĩ không chỉ là con đường nối liền
giữa hai miền của đất nước, giữa hậu phương lớn với các chiến trường ba
nước Đông Dương, mà còn mang tính chất chức năng như một chiến trường
hoàn chỉnh, một căn cứ chiến lược của ba nước Đông Dương. Nhà báo
phương Tây Van Geirt trong cuốn sách "Đường mòn Hồ Chí Minh" đã nhận
xét: "Đường mòn Hồ chí Minh không chỉ là một con đường tiếp tế. Nó là biểu
94
tượng của cả cuộc chiến tranh Việt Nam. Nó không chỉ là một con đường cụ
thể mà là một luồng tư tưởng" [52, tr.660].
3. Từ khi Mĩ leo thang đánh phá miền Bắc và suốt những năm sau đó,
giao thông vận tải trở thành một mặt trận nóng bỏng, là nơi diễn ra cuộc đọ ý
chí và trí tuệ, đọ sức, đọ lực giữa quân và dân ta với sắt thép, vũ khí hiện đại
và bộ máy điều hành chiến tranh khổng lồ của Mĩ. Để đánh thắng chiến tranh
phá hoại của đối phương, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, toàn bộ lực
lượng chiến đấu, công tác trên mặt trận giao thông vận tải đã phát huy cao độ
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vận dụng đường lối chiến tranh nhân dân,
sáng tạo nhiều cách đánh địch, mở đường cùng nhiều phương thức đảm bảo
và vận chuyển có hiệu quả, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Trong 8 năm mở rộng chiến tranh dùng không quân và hải quân đánh
phá miền Bắc 1964 - 1972, đế quốc Mĩ thực hiện âm mưu hạn chế và cắt đứt
sự chi viện của miền Bắc với miền Nam. Chúng đã không từ một thủ đoạn
đánh phá nào và không từ một loại bom đạn nào ở miền Bắc. Mặc dù vậy, cán
bộ, công nhân, thanh niên xung phong ngành giao thông vận tải cùng quân và
dân ta trên các tuyến đường vẫn anh dũng, sáng tạo, giữ vững mạch máu giao
thông với ý chí "Sống bám cầu đường, chết kiên cường dũng cảm"; "Địch
phá, ta cứ đi". Nhân dân ta dọc các tuyến đường chiến lược, đặc biệt là vùng
trọng điểm Quân khu IV đã chịu đựng hi sinh to lớn, góp bao công sức bảo
đảm giao thông với tinh thần "Xe chưa qua, nhà không tiếc", tạo nên thế trận
và sức mạnh giao thông vận tải nhân dân.
Từ trong bom đạn ác liệt của địch đã xuất hiện ngày càng nhiều những
đơn vị, cá nhân anh hùng mà những chiến công, thành tích của họ ngời sáng
phẩm chất cao đẹp của danh hiệu "Chiến sĩ giao thông vận tải". Biết bao chiến
sĩ đã hi sinh dọc các tuyến đường, họ thuộc các đoàn vận tải, các đội viên
thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến ở các công trường, công trình,
95
trọng điểm. Họ là những chiến sĩ hữu danh và vô danh đã từng lao động,
chiến đấu, hi sinh quên mình mà không hề đắn đo, lo sợ. Đó là những tấm
gương sáng ngời mãi mãi góp vào truyền thống "Dũng cảm, thông minh, sáng
tạo" của dân tộc Việt Nam.
4. Cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, bảo đảm
giao thông vận tải chi viện chiến trường của quân và dân miền Bắc đã kết
thúc thắng lợi hơn 30 năm, nhưng, chính từ trong thực tiễn của cuộc chiến đấu
ấy đã để lại những bài học kinh nghiệm quý giá có ý nghĩa thiết thực trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển giao thông vận tải Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Những bài học đó là:
- Quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của
Đảng, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự - nghệ thuật chiến tranh nhân
dân, tư tưởng tiến công cách mạng vào mặt trận chống chiến tranh phá hoại,
bảo đảm giao thông vận tải.
Để đối phó có hiệu quả và chiến thắng kẻ thù trên mặt trận giao thông
vận tải, điểm đầu tiên đòi hỏi chúng ta phải đánh giá đúng địch - ta, để từ đó
tránh chỗ mạnh tạm thời của địch, khoét sâu mặt yếu của chúng, đồng thời
phát huy mặt mạnh cơ bản, khắc phục những hạn chế của ta. Trên cơ sở đó,
xác định lấy tư tưởng tiến công làm chủ đạo.
Chủ động tiến công của công binh, thanh niên xung phong bảo đảm
giao thông là: phá thế độc tuyến, phải có đường cầu chính, đường vòng tránh,
cầu dự bị, đường và cầu nghi binh, đồng thời, tư tưởng tiến công của lực
lượng này còn là phòng tránh tích cực: chủ động xây dựng công sự vững chắc
ngay trọng điểm địch đánh phá, ngay cạnh trục giao thông, trụ bám trọng
điểm, mặt đường, để khi địch đánh xong, kịp thời khắc phục hậu quả, thông
đường giải phóng xe nhanh.
96
- Phát huy cao độ sức mạnh chiến tranh nhân dân trên mặt trận bảo đảm
giao thông vận tải, chi viện chiến trường. Trong suốt 8 năm, cho dù kẻ địch
dùng trăm phương ngàn kế, huy động mọi khả năng vật chất hòng ngăn chặn sự
chi viện của miền Bắc cho miền Nam nhưng thế trận giao thông vận tải ở miền
Bắc vẫn không ngừng phát triển. Thắng lợi đó là biểu hiện sống động về sức
mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngoài lực
lượng công binh, vận tải quân sự, vận tải nhà nước …, mỗi người dân là một
chiến sĩ bắn máy bay địch, một chiến sĩ công binh mở đường, rà phá bom mìn,
giải toả giao thông.
- Xác định đúng vị trí, tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng, xây dựng thế
trận cầu đường đi trước một bước là vấn đề sống còn của tuyến chi viện chiến
lược - Đường Hồ Chí Minh, đồng thời là khâu đột phá đầu tiên bảo đảm cho
vận tải cơ giới lớn và chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn ác liệt của địch.
Trong chiến tranh, việc xây dựng cầu đường đi trước một bước không
những là yêu cầu của nhiệm vụ thực hiện chi viện chiến lược mà còn là một
trong những biện pháp quan trọng bậc nhất để cản phá sự ngăn chặn, chia cắt
của không quân kể cả bộ binh địch.
Xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết là xây dựng mạng đường giao thông
với phương châm cầu đường đi trước một bước là một bài học vừa mang tính
chiến lược, vừa mang tính chiến thuật, đảm bảo thắng lợi cho nhiệm vụ thực
hiện chi viện chiến lược và phục vụ chiến dịch trong kháng chiến chống Mĩ.
- Phát huy nhân tố con người. Trên mặt trận giao thông vận tải chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, nhân tố con người nổi lên hàng đầu với
vai trò lãnh đạo, tổ chức chỉ huy của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân uỷ
Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cấp, các ngành từ Trung ương tới các Đảng
bộ, chính quyền địa phương. Tất cả cùng chung quan điểm: Bảo đảm giao
thông vận tải, chi viện chiến trường là nhiệm vụ hàng đầu, từ đó tập trung trí
tuệ lãnh đạo, chỉ huy, phát huy tối đa năng lực của từng tổ chức, từng con
97
người tạo lên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trên mặt trận
chống chiến tranh phá hoại, bảo đảm giao thông vận tải.
Mặt trận xây dựng và bảo đảm giao thông vận tải trong những năm
chống Mĩ cứu nước là một thiên anh hùng ca về lòng quả cảm, đức hi sinh và
trí tuệ của con người Việt Nam chiến thắng thế lực bạo tàn, chiến thắng đạn
bom, phương tiện chiến tranh hiện đại của đế quốc Mĩ.
Gương chiến đấu, hi sinh và những chiến công của quân và dân ta trên
mặt trận này sẽ được các thế hệ người Việt Nam hôm nay, mai sau, cùng nhân
loại yêu chuộng hoà bình khâm phục, tự hào.
Những bài học quý báu gạn lọc được từ thực tiễn của cuộc chiến đấu
hào hùng của quân và dân ta thuở ấy là hành trang không thể thiếu của các thế
hệ cháu con trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa ngày nay.
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện
Đại hội, Tập 1, Hà Nội.
2. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến
tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975): Thắng lợi và bài học,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Thắng lợi và bài học, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng (1979), 50 năm hoạt động của Đảng
cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
5. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam, Tập 1, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
6. Ban Tổng kết lịch sử Bộ Tổng tham mưu (1997), Tổng kết Bộ Tổng
tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
7. Võ Bẩm (2002), Những nẻo đường kháng chiến, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
8. Võ Bẩm - Đồng Sĩ Nguyên - Nguyễn Việt Phương (2005), Đường về
thành phố mang tên Bác, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1996), Lịch sử kháng
chiến chống Mĩ cứu nước 1954 - 1975, Tập II, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
99
10. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh Quân khu IV - Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam (2001), Mặt trận giao thông vận tải trên địa bàn Quân khu IV
trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
11. Bộ Quốc phòng - Tổng cục Hậu cần (2001), Tổng kết hậu cần trong
kháng chiến chống Mĩ, cứu nước 1954 - 1975, Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
12. Bộ Quốc phòng - Tổng cục Hậu cần (2001), Công tác hậu cần trong
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ trên miền Bắc 2/1965 -
1/1973, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
13. Bộ Quốc phòng - Bộ Tư lệnh công binh (2006), Lịch sử công binh Việt
Nam 1945 - 2005, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
14. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Lịch sử
Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, 2, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
15. Bộ Giao thông vận tải (2002), Lịch sử Giao thông vận tải Việt Nam,
Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.
16. Bộ Giao thông vận tải, Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển
Giao thông vận tải 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), Hồ sơ số 231,
Kho lưu trữ Trung ương III.
17. Bộ Giao thông vận tải, Đề cương báo cáo tổng kết 10 năm của ngành
Giao thông vận tải, Hồ sơ số 288, Kho lưu trữ Trung ương III.
18. Bộ Giao thông vận tải, Báo cáo tổng kết công tác giao thông vận tải
năm 1973, phương hướng, nhiệm vụ và những chỉ tiêu chủ yếu của
kế hoạch giao thông vận tải năm 1974, Hồ sơ số 119, Kho lưu trữ
Trung ương III.
100
19. Bộ Giao thông vận tải, Đặc điểm, tính chất và quy luật của chiến tranh
nhân dân chống Mĩ cứu nước trên mặt trận giao thông vận tải, Hồ
sơ số 94, Kho lưu trữ Trung ương III.
20. Bộ Tư lệnh công binh (1999), Lịch sử công binh 559 Đường Trường
Sơn, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân , Hà Nội.
21. Các Mác (1961), Tư bản, Quyển II, Tập I, Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội.
22. Các Mác - Ăngnhen (1963), Bàn về giao thông vận tải, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội.
23. Trường Chinh (1952), Bàn về cách mạng Việt Nam, Ban chấp hành
Trung ương xuất bản.
24. Nguyễn Chương (1994), Chiến tranh phá hoại và chống chiến tranh
phá hoại qua tư liệu phương Tây, Tạp chí Lịch sử quân sự.
25. Gabrien Côncô (1991), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Tập 2, Nhà
xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
26. Cục Chính chị - Tổng cục Xây dựng kinh tế (1979), Trận đồ bát quái
xuyên rừng rậm.
27. Văn Tiến Dũng (1989), Cuộc kháng chiến chống Mĩ - Bước ngoặt lớn,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
28. Văn Tiến Dũng (1991), Cuộc kháng chiến chống Mĩ - Toàn thắng, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
29. Lê Duẩn (1976), Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tập I, II, Nhà xuất
bản Sự thật, Hà Nội.
30. Lê Duẩn, Về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Tập III, IV, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội.
31. Lê Duẩn (1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
101
32. Lê Duẩn (1968), Nắm vững đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tiến lên xây dựng kinh tế địa phương vững mạnh, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội
33. Đảng cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Đệ (1996), Thanh niên xung phong phục vụ giao thông
vận tải thời chống Mĩ, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.
35. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh - Hội Cựu thanh niên xung
phong tỉnh Thái Nguyên (2006), Lịch sử thanh niên xung phong tỉnh
Thái Nguyên, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
36. Võ Nguyên Giáp (1975), Những chặng đường lịch sử, Nhà xuất bản
Văn học, Hà Nội.
37. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Võ Nguyên Giáp (1979), Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
39. Võ Nguyên Giáp (1970), Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng ta,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
40. Giônxơn (1972), Về cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã
phát hành, Hà Nội.
41. Giônxơn (1972), Cuộc đời làm tổng thống của tôi, Nhà xuất bản
Buysét Saxten, Pari.
42. Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III (1945 -
2000), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
102
43. Lê Mậu Hãn (1995), Đảng cộng sản Việt Nam - Các đại hội và hội
nghị Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Nguyễn Công Hoà, Tất cả để chiến thắng giặc Mĩ xâm lược trên mặt
trận giao thông vận tải, Nhà xuất bản Lao động.
45. Giócgiơ C. Hiarinh (1998), Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước
Mĩ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Khang (1998), Vài nét về mặt trận giao thông vận tải thời kì đầu
chống chiến tranh phá hoại 1964 - 1967, Tạp chí Lịch sử quân sự.
47. Hoàng Linh - Đỗ Mậu (1991), Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
48. Maicơn Maclia (1990), Việt Nam - cuộc chiến tranh mười nghìn ngày,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
49. Lênin (1952), Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva.
50. Phan Văn Liên (1994), Giao thông vận tải Việt Nam 1955 - 1965, Nhà
xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.
51. Phan Ngọc Liên (2000), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
52. Lê Mã Lương (1998), Rà phá thủy lôi trên vùng biển Hải Phòng,
Quảng Ninh năm 1973, Tạp chí Lịch sử quân sự.
53. Mác Namara (1995), Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài
học về Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội
55. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
57. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 7, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội,
103
58. Hồ Chí Minh (1976), Toàn tập, Tập 8, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
59. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Tập 9, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Tập 10, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, Tập 5, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập, vì tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (1994), Về giao thông vận tải Việt Nam, Nhà xuất bản
Giao thông vận tải, Hà Nội.
64. Đồng Sĩ Nguyên (1999), Đường xuyên Trường Sơn, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
65. Đồng Sĩ Nguyên, Bộ Tư lệnh Binh đoàn 12, Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam (1999), Lịch sử Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - Đường Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
66. Quân khu IV (1994), Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954 -
1975, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
67. Trương Hữu Quýnh (2005), Sổ tay kiến thức lịch sử, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
68. Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ Tư lệnh binh đoàn 12, Viện Lịch sử
quân sự (1999), Đường Hồ Chí Minh - một sáng tạo chiến lược của
Đảng, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
69. Tổng cục Hậu cần (1984), Công tác vận tải quân sự trong cuộc chiến
tranh chống Mĩ cứu nước trên đường Hồ Chí Minh 1959 - 1975,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
70. Tổng cục Hậu cần (1988), Vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ
Chí Minh trong kháng chiến chống Mĩ, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
104
71. Tổng cục Hậu cần (1998), Hậu cần chiến dịch trong kháng chiến
chống Mĩ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
72. Tổng cục Hậu cần (1979), Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam, Tập 2 (1954-1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
73. Nguyễn Duy Trinh (1970), Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
74. Nguyễn Đình Thuận (1997), Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giao thông
vận tải, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội.
75. Trường Đại học Giao thông vận tải (1995), Nghiên cứu - Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giao thông vận tải, Nhà xuất bản Giao thông
vận tải, Hà Nội.
76. Văn Tùng - Nguyễn Hồng Thanh (2002), Lịch sử Thanh niên xung
phong Việt Nam (1950 - 2001), Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
77. Trung tâm từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng (1996) , Từ điển
bách khoa quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
78. Viện Lịch sử quân sự (1997), Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt
Nam (1945 - 1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
79. Viện Lịch sử quân sự (1982), Chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mĩ, Tập 1, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
80. Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng (1988), Cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước 1945-1975, Những sự kiện quân sự, Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
81. Viện Lịch sử quân sự - Bộ quốc phòng (1988), Lịch sử Quân đội nhân
dân Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
105
82. Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng (1996), Lịch sử kháng chiến
chống Mĩ cứu nước 1954 -1975, Tập II, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
83. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, tập II (1945 - 1975), Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
84. Viện Sử học (1995), Lịch sử Việt Nam 1945 - 1965, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội.
85. Viện Sử học (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Việt Nam- Con số và sự kiện 1945 - 1989, Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội.
87. Sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Thái (1992), Truyền thống giao thông
vận tải Bắc Thái (1945-1992), Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà
Nội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hồ Chủ tịch nói chuyện tại Đại hội thi đua
đảm bảo giao thông vận tải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược
từ ngày 21 đến 25/3/1966.
Hồ Chủ tịch khen ngợi các đại biểu có nhiều thành tích xuất sắc
tại Đại hội thi đua đảm bảo giao thông vận tải quyết tâm đánh thắng
giặc Mĩ xâm lược ngày 21 đến 25/3/ 1966.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nữ anh hùng thanh niên xung phong giao thông vận tải
Nguyễn Thị Kim Huế tặng hoa Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội thanh niên
xung phong chống Mĩ cứu nước 1967.
Hồ Chủ tịch gặp mặt 10 cô gái xuất sắc nhất
của C9 tập thể nữ anh hùng 7/7/1968 tại Phủ Chủ tịch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lễ thông xe đường Chiêm Hoá - Na Hang ngày 19/5/1961.
Với tinh thần " Xe chưa qua, nhà không tiếc"
nhân dân xã Võ Ninh, Lệ Ninh - Quảng Bình tháo dỡ nhà để sửa cầu
làm đường cho xe ta đưa hàng ra tiền tuyến 1965.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phải chịu đựng hàng trăm trận đánh phá vô cùng ác liệt
của máy bay giặc Mĩ, cầu Hàm Rồng trên trục đường 1A vẫn hiên ngang
đứng vững trên dòng sông Mã.
Mẹ Thiết ở Hương Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình tháo dầm nhà của mình
để lót đường kịp thời thông xe đưa hàng ra tiền tuyến 1967.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tiểu đội A6 - C759 của Anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế
đang san lấp hố bom sau khi giặc Mĩ bắn phá 1967.
Cạp lại hố bom, mở một đoạn đường tránh để thông xe - sáng kiến của
Anh hùng giao thông vận tải Nguyễn Thị Kim Huế 1966.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tổ phá bom thanh niên xung phong
mang tên Cù Chính Lan trên đường ra tuyến đảm bảo giao thông.
Đường 20/7 - cửa khẩu thứ 3 vượt qua Tây Trường Sơn,
do Cục Công trình I thi công 1967.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nữ anh hùng La Thị Tám quan sát để cắm cọc báo hiệu bom nổ chậm
trên đỉnh đèo ngã ba Đồng Lộc, Hà Tĩnh 1967.
Đội văn nghệ "Tiếng hát át tiếng bom" của ngành Giao thông vận tải
đang biểu diễn phục vụ tại chiến trường 1966.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngã ba Đồng Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh) địa danh nổi tiếng
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Từng đoàn xe vận tải đang vượt qua ngầm Ta Lê, một trong
những trọng điểm bị giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất tại cửa khẩu tiền tiêu
quan trọng nhất của tuyến đường Hồ Chí Minh 1967.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nhân dân Thanh Hoá dùng xe đạp thồ đưa hàng ra tiền tuyến góp phần
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược 1965.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
§¹i héi thi ®ua ngµnh Giao th«ng vËn t¶i 21 ®Õn 25/3/1966.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
§•êng Tr•êng S¬n - §•êng mßn Hå ChÝ Minh, m¹ch m¸u nèi liÒn
hËu ph•¬ng lín miÒn B¾c víi tiÒn tuyÕn lín miÒn Nam
trong kh¸ng chiÕn chèng MÜ 1959 - 1975.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9077.pdf