Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mục 1 phần IX của Báo cáo Chính trị đã ghi: "Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân", "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật".
Để có được "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" ở nước ta hiện nay, điều
114 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức vừa có tài. Đó là những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những con người có ý thức và năng lực đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, nắm vững chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Để quản lý được Nhà nước và xã hội bằng pháp luật theo tiêu chí của một nhà nước pháp quyền, cán bộ, công chức phải được trang bị những kiến thức về nhà nước và pháp luật một cách đầy đủ và kịp thời. Nhưng hiện nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở nhiều địa phương, việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán bộ, công chức không phải là ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm đó, có một nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức chưa nắm vững kiến thức về nhà nước và pháp luật.
ở Bình Định, những năm gần đây, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật nói riêng đã được cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm hơn. Việc mở các lớp đào tạo cán bộ, công chức tại tỉnh và tham gia thi tuyển, cử tuyển cán bộ, công chức đi học ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành về nhà nước và pháp luật ngày càng nhiều hơn. Tuy vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và quản lý xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các địa phương trong tỉnh hiện nay đang còn là vấn đề bức xúc.
Là một giảng viên, công tác nhiều năm ở Trường Chính trị tỉnh Bình Định, tôi đã tham gia nhiều đợt nghiên cứu thực tế ở các địa phương trên địa bàn tỉnh. Qua tiếp xúc, trao đổi, khảo sát và làm việc với nhiều cán bộ, công chức ở các huyện, thành phố trong tỉnh, nhất là với đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã, phường, thị trấn, đã cho thấy: Còn một bộ phận khá lớn cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật rất sơ sài, hời hợt. Nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật hành chính, dân sự, hình sự... Có trường hợp vi phạm pháp luật hình sự nghiêm trọng, nhưng chính quyền địa phương chỉ xử lý nhẹ nhàng, đơn giản trong nội bộ thôn ấp. Ngược lại, có vụ việc đơn giản thì quan niệm là nghiêm trọng và xử lý khá nặng nề.
Làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở các địa phương trong tỉnh, khi đã tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải nắm bắt, am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, trước hết là trong lĩnh vực mà mình thực hiện chức năng quản lý.
Qua hai năm học tập, nghiên cứu tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, kết hợp giữa lý luận đã học và thực tiễn địa phương Bình Định cũng như thực tiễn giảng dạy bộ môn Nhà nước và pháp luật ở Trường Chính trị tỉnh Bình Định; được sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Hoàng Văn Hảo, tôi chọn đề tài: "Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố, như: "Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước hiện nay", Luận án tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; "Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", Đào Trí úc chủ biên, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới", của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 1995; "Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; "Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học của Đinh Xuân Thảo, 1996; "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình thức đặc thù của giáo dục pháp luật", Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Mai, 1996; "Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; "Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay", của Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; "Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị ở nước ta hiện nay", Đề tài khoa học cấp Bộ, Khoa Nhà nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1999; "Đổi mới giáo dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000.
Các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói chung và Bình Định nói riêng. Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề này trên địa bàn Bình Định.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của luận văn
* Mục đích:
Đánh giá đúng thực trạng và xác định được phương hướng, giải pháp nhằm bổ sung, hoàn thiện việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận chung về giáo dục pháp luật;
- Đánh giá thực trạng của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định;
- Từ thực trạng đó, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Trên địa bàn tỉnh Bình định, ngoài cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở địa phương còn có các cơ quan trung ương đóng trên địa bàn. Luận văn này chỉ tập trung chủ yếu nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị của Bình Định.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp xã hội học pháp luật; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp khảo sát thực tế; phương pháp thống kê.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở Bình Định.
- Luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị các cấp ở Bình Định.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định và các địa phương có cùng đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa - xã hội... Trên cơ sở đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở Bình Định.
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng trong công tác giáo dục pháp luật cho riêng từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp luật cho Trường Chính trị tỉnh Bình Định; các Trung tâm giáo dục chính trị các huyện và thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định; các cơ sở giáo dục khác và Hội đồng giáo dục pháp luật các cấp ở Bình Định.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp luật ở các trường Chính trị, các cơ quan giáo dục pháp luật thuộc các tỉnh trong khu vực duyên hải miền Trung (khu V).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
CƠ Sở Lý Luận về Giáo Dục Pháp Luật CHO Cán Bộ, CÔNG Chức
1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Đến nay, khái niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm giáo dục pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây:
- Trước hết, quan niệm cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không cần đặt vấn đề giáo dục pháp luật. Pháp luật không thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh.
- Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Quan niệm này đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nước ta. Vì vậy, việc đào tạo chuyên ngành luật không được Nhà nước chú ý, dẫn đến hậu quả là các cơ sở đào tạo của ngành luật hầu như không có. Mãi đến năm 1979 mới có cơ sở chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học và đến những năm 1987-1988, việc giáo dục pháp luật mới bắt đầu đưa vào chương trình giáo dục ở bậc phổ thông.
- Quan niệm thứ ba, coi giáo dục pháp luật đồng nhất với việc tuyên truyền, giới thiệu, phổ biến các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc giáo dục pháp luật thực chất chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp.
Các quan niệm nói trên đều mang tính phiến diện, một chiều, chưa thấy hết đặc thù, sự tác động của giáo dục pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của giáo dục pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng". Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành, tuyên truyền giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Trong cơ chế đó "yếu tố con người là cơ bản và là linh hồn của cơ chế" [21, tr. 14]. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. ở giai đoạn này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân "cho nên công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt" [32, tr. 244].
Để xác định đúng đắn khái niệm giáo dục pháp luật, trước hết cần xuất phát từ khái niệm giáo dục của khoa học sư phạm. Trong khoa học sư phạm, giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan như: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất, trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội.
Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý luận, các nhà khoa học sư phạm vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo nghĩa hẹp.
Từ những quan niệm trên, giáo dục pháp luật trước hết là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, nhưng nó cũng có những nét đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của giáo dục, giáo dục pháp luật được hiểu là: Con người nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm và hành vi pháp luật.
Giáo dục pháp luật trong thực tiễn hiện nay theo quan niệm chung của nhiều nhà khoa học đều tán thành theo nghĩa hẹp của giáo dục, "cần vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp để hình thành khái niệm giáo dục pháp luật" [19, tr. 8]. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục còn được xác định qua các yếu tố sau đây:
- Mặc dù, sự hình thành ý thức con người là quá trình ảnh hưởng tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và cả những nhà lý luận giáo dục đều phân biệt hai mặt của quá trình ấy. Tuy vậy, trong sự tác động, nhân tố của các điều kiện khách quan chỉ là những nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động. Nhân tố ảnh hưởng có thể tác động theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố "tác động" bao giờ cũng là tự giác, có ý thức, có định hướng rõ ràng, cụ thể "mà hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội là yếu tố hàng đầu" [16, tr. 9].
- Khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật. Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt động giáo dục pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc giáo dục pháp luật thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yếu tố của giáo dục pháp luật như nội dung, hình thức, phương pháp... và định hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt được tác động của các tiêu cực, giúp cho đối tượng được giáo dục có ý thức pháp luật vững vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó có thái độ và hành động phù hợp với pháp luật.
- Xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục theo khoa học sư phạm, để xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật. Từ đó cho ta thấy rõ hơn mối quan hệ giữa cái riêng, cái đặc thù của giáo dục pháp luật với cái chung, cái phổ biến của giáo dục. Giáo dục pháp luật vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức... Tính đặc thù của giáo dục pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả hình thức, phương pháp.
Nét đặc thù của giáo dục pháp luật khác tương đối với các dạng giáo dục khác ở chỗ:
+ Giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng.
+ Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của giáo dục pháp luật. Chẳng hạn, giáo dục pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật. Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người giáo dục pháp luật cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi vì, trong giáo dục pháp luật thì nguyên tắc "làm gương", "làm mẫu", "anh hãy làm như tôi làm" có ảnh hưởng to lớn đối với người được giáo dục.
Tóm lại: Khái niệm giáo dục pháp luật được xây dựng xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục và theo đó, giáo dục pháp luật được hiểu: là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Với khái niệm giáo dục pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức năng giáo dục pháp luật của Nhà nước nói riêng.
Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế XHCN. Bởi vì, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Hiện nay, như Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ là, tiếp tục "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [15, tr. 131], chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong phương hướng đó, giáo dục pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác giáo dục pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp, "pháp luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến" [48, tr. 14]. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của công tác giáo dục pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình giáo dục pháp luật, có vai trò quan trọng trong lý luận và thực tiễn giáo dục pháp luật. Bởi vì, các phạm trù, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật phần lớn phụ thuộc vào việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra trước quá trình giáo dục. Mục đích của giáo dục pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu cụ thể của xã hội đối với giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn, trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, giáo dục pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây:
- Mục đích thứ nhất: Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục đích hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, còn chịu ảnh hưởng tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, công tác giáo dục pháp luật chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật; dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Do đó, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giáo dục pháp luật, "coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân" [10, tr. 121], "thường xuyên giáo dục pháp luật, xây dựng ý thức sống và làm việc theo pháp luật" [11, tr. 92], "phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật" [15, tr. 135].
- Mục đích thứ hai: Hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc). Mục đích này rất quan trọng, vì nếu có tri thức pháp luật mà không có tình cảm tôn trọng và lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật thì con người rất dễ hành động chệch khỏi các chuẩn mực pháp luật vì lợi ích riêng tư (các vụ án gần đây cho ta thấy rõ điều đó, điển hình là vụ án Mai Văn Huy, vụ án Năm Cam). Nội hàm của mục đích cảm xúc đạt được thông qua việc: Một là, giáo dục tình cảm công bằng, biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, biết đối xử với người khác và với chính mình bằng các tiêu chuẩn công bằng thể hiện qua các qui phạm pháp luật. Hai là, giáo dục tình cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi mọi lúc. Phê phán, lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi phạm pháp. Đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Có được tình cảm trên, con người sẽ có được lòng tin vững chắc vào sự cần thiết tuân theo những qui phạm pháp luật. Khi đã có lòng tin vào pháp luật, con người sẽ có những hành vi hợp pháp.
- Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật (mục đích hành vi). Động cơ và hành vi hợp pháp là kết quả cuối cùng của cả quá trình nhận thức pháp luật, đấu tranh nội tâm dưới tác động của những yếu tố tâm lý, tình cảm, lòng tin... Thói quen xử sự hợp pháp được hiểu là thói quen tuân thủ các quy phạm hướng dẫn của pháp luật, thói quen thực hiện đúng đắn, tận tâm các quyền và nghĩa vụ pháp lý, thói quen sử dụng và áp dụng các tri thức pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể để bảo vệ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình, của người khác, của Nhà nước và của xã hội.
Việc phân chia các mục đích giáo dục pháp luật trên đây chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ đan xem qua lại trong mối liên hệ hữu cơ thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại được củng cố. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật đều phải hướng hoạt động vào cả ba mục đích của giáo dục pháp luật.
Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật trong quá trình giáo dục pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực tiễn giáo dục pháp luật. Việc xác định đúng hay không đúng mục đích của giáo dục pháp luật sẽ dẫn đến chất lượng tốt hay không tốt tới giáo dục pháp luật.
1.1.3. Nội dung và hình thức của giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Nội dung của giáo dục pháp luật
Nội dung giáo dục pháp luật được xác định trên cơ sở ba mục đích của giáo dục pháp luật nói trên, là sự hình thành ở đối tượng giáo dục hệ thống tri thức pháp luật. Tình cảm, lòng tin và thói quen hành động phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Nội dung giáo dục pháp luật là một thành tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật, nó được xác định trên cơ sở mục đích, nhiệm vụ và đồng thời xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật. Xác định đúng nội dung của giáo dục pháp luật sẽ bảo đảm cho chất lượng của việc giáo dục pháp luật có hiệu quả cụ thể, thiết thực.
Trong lý luận về giáo dục pháp luật cần làm rõ một số vấn đề liên quan tới nội dung giáo dục pháp luật như: phạm vi, đặc điểm, những yếu tố chủ yếu của nội dung giáo dục pháp luật.
Phạm vi của nội dung giáo dục pháp luật theo quan điểm chung hiện nay bao gồm:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp luật thực định.
- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin về kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học về thực hiện áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng, các tầng lớp dân cư. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân (như các quyền, các nghĩa vụ pháp luật, các quy trình thủ tục để bảo vệ các quyền hợp pháp).
Từ phạm vi nội dung giáo dục pháp luật nêu trên, trong thực tiễn pháp luật ở nước ta hiện nay cũng cần lưu ý tới những đặc điểm của nội dung giáo dục pháp luật. Đó là trạng thái động của các thông tin trong nội dung giáo dục pháp luật. Những đặc điểm này cần được nhận thức đầy đủ đối với những người làm công tác giáo dục pháp luật. Trên cơ sở đó họ lựa chọn phương pháp tiếp cận tới nội dung giáo dục pháp luật của từng đối tượng một cách phù hợp, giúp cho đối tượng giáo dục có cách nhìn nhận đúng đắn, biện chứng về quá trình hoàn thiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống, cũng như những điểm mâu thuẫn và thống nhất của tiến trình đổi mới, phát triển khoa học pháp lý và pháp luật thực định ở nước ta.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục pháp luật, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, được xác định theo những mức độ, tầng cấp độ khác nhau tùy theo từng loại đối tượng phù hợp với những nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật. Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật, người ta phân định nội dung giáo dục pháp luật thành ba mức, cấp độ khác nhau sau đây:
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công dân. Sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân phải cơ những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có những kỹ năng tối thiểu để sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hai là, mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của các công dân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Họ cần những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang tính định hướng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luật theo ngành nghề còn bao gồm một số luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối tượng. Các quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực hoạt động và các trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là mức độ cao nhất của nội dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy nhà nước và các tổ chức mang tính nghề nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết của đối tượng này bao gồm cả những quan điểm, những học thuyết về nhà nước và pháp luật trong lịch sử và hiện tại. Những hiểu biết tương đối toàn diện về hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu của từng người (về hình sự, về dân sự, về kinh tế, về hôn nhân gia đình, về luật quốc tế,...). Kỹ năng của họ không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật mà chủ yếu là vận dụng chính xác, linh hoạt các quan hệ pháp luật vào việc xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật (hoặc tư vấn cho việc giải quyết các vấn đề về pháp luật, như các tranh chấp, các vi phạm pháp luật...). Kỹ năng quan trọng và đặc thù của đối tượng là sáng tạo pháp luật, là khả năng tham gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
Từ việc xác định phạm vi, đặc điểm và các mức độ yêu cầu về nội dung giáo dục pháp luật có thể thấy rằng: Không thể có một hình thức hay một chủ thể giáo dục pháp._. luật riêng biệt có thể đáp ứng được tất cả các yêu cầu, nội dung để đạt tới mục tiêu giáo dục pháp luật đặt ra cho mọi đối tượng. Do đó cần phải có sự phối hợp nhiều hình thức, phương tiện, chương trình, mục tiêu giáo dục pháp luật của các chủ thể khác nhau để hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm đạt được mục đích của giáo dục pháp luật mà nội dung giáo dục pháp luật đề ra.
1.1.3.2. Hình thức giáo dục pháp luật
Mục đích và nội dung của giáo dục pháp luật không thể tự thân đi vào nhận thức, tình cảm của người được giáo dục pháp luật, mà phải qua những kênh chuyển tải thông tin, là các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình giáo dục pháp luật, thể hiện nội dung giáo dục pháp luật. Các dạng hoạt động cụ thể đó phải phù hợp với khả năng tiếp cận của đối tượng. Do đó, hiệu quả của giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc vào việc xác định đúng mục đích và nội dung giáo dục pháp luật mà còn phụ thuộc vào việc xác định đúng hình thức giáo dục pháp luật. Có nhiều quan niệm khác nhau về hình thức giáo dục pháp luật. Xuất phát từ giáo dục học, khái niệm hình thức giáo dục được hiểu là: Các hình thức tổ chức hoạt động phối hợp giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung giáo dục và đạt mục đích giáo dục. Trên cơ sở của khái niệm này, hình thức giáo dục pháp luật được coi là các dạng cụ thể, có tổ chức phối hợp giữa chủ thể giáo dục pháp luật và đối tượng giáo dục pháp luật để thể hiện nội dung giáo dục pháp luật và đạt mục đích giáo dục pháp luật. Từ khái niệm hình thức giáo dục pháp luật, người ta còn phân chia hình thức giáo dục pháp luật ra thành nhiều loại khác nhau. Qua thực tiễn cũng như qua nghiên cứu lý luận về nguyên tắc, nội dung, chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật, hình thức giáo dục pháp luật được chia làm hai loại:
- Các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, truyền thống của giáo dục chính trị tư tưởng như: phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức quần chúng, các địa bàn dân cư; các hội nghị, hội thảo pháp luật; các câu lạc bộ pháp luật; các đội thông tin cổ động pháp luật; các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác; các hình thức văn học nghệ thuật; dạy và học pháp luật trong các nhà trường.
- Các hình thức giáo dục pháp luật đặc thù như: Các hoạt động định hướng giáo dục pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện kiểm sát); giáo dục pháp luật qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức quần chúng (tổ hòa giải, tư vấn pháp lý...).
1.1.4. Chủ thể, khách thể, đối tượng giáo dục pháp luật
1.1.4.1. Chủ thể giáo dục pháp luật
Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào giáo dục pháp luật, có thể hiểu: Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả những người mà theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật. Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng giáo dục pháp luật khác nhau. Từ đó, có các hình thức, phương thức và phương pháp tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật khác nhau.
Chủ thể chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện các mục đích, nội dung giáo dục pháp luật (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên về pháp luật...).
Chủ thể không chuyên nghiệp giáo dục pháp luật là những người mà chức năng chính không phải là giáo dục pháp luật, nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích giáo dục pháp luật (đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp...).
Tóm lại, chủ thể giáo dục pháp luật được hiểu là tất cả những người mà theo chức năng hay theo trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục pháp luật.
1.1.4.2. Khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật
Khách thể theo quan niệm chung nhất là "đối tượng chịu sự tác động, chi phối của hành động trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ thể" [60, tr. 487]. Từ quan niệm chung đó có thể đồng nhất khách thể với đối tượng chịu sự tác động. Trong lý luận giáo dục người ta cho rằng: Khách thể (hay đối tượng) giáo dục là cá nhân hay tập thể học sinh.
Như đã đề cập ở phần trên, khái niệm giáo dục pháp luật được xây dựng xuất phát từ nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm, nó chỉ là một dạng đặc thù mang nét riêng, nằm trong cái chung của hoạt động giáo dục. Mặt khác, khi xem xét đến khách thể, đối tượng giáo dục pháp luật không thể không tính đến các mục đích của giáo dục nói chung và mục đích của giáo dục pháp luật nói riêng.
Quá trình giáo dục pháp luật thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên là người giáo dục (chủ thể) và một bên là người được giáo dục (khách thể hay đối tượng). Mối quan hệ này có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các bên tham gia trong mối quan hệ. Song chiều tác động chủ yếu vẫn là sự tác động, chi phối của người giáo dục (chủ thể). Sự tác động giáo dục là những hoạt động có ý thức, có định hướng, có kế hoạch, nhằm đạt tới những mục tiêu, mục đích nhất định (bao gồm mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành vi, thói quen xử sự theo pháp luật). Nói cách khác, chủ thể giáo dục pháp luật tác động lên khách thể (đối tượng) giáo dục với những mong muốn cụ thể là xây dựng được ý thức và những hành vi hợp pháp cho khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật.
Như vậy, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật ở đây không chỉ là cá nhân, những nhóm cộng đồng xã hội mà còn bào hàm cả những yếu tố bên trong của họ như: nhận thức, tình cảm, cảm xúc, hành vi cụ thể của họ phù hợp với pháp luật.
Từ phân tích trên cho thấy, khách thể của giáo dục pháp luật cũng giống như khách thể của giáo dục nói chung, nó mang tính đồng nhất với đối tượng giáo dục pháp luật. Vậy khách thể của giáo dục pháp luật được hiểu là những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng với ý thức và hành vi pháp luật của họ.
Việc xác định chủ thể, khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể trong quá trình giáo dục pháp luật. Trong đó, chủ yếu là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người giáo dục pháp luật lên người được giáo dục pháp luật. Điều đó tạo cho chủ thể xác định các nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận với khách thể (đối tượng) giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
1.1.5. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác
Giáo dục pháp luật tuy có những nét đặc thù riêng, nhưng phải được đặt trong mối quan hệ chung được coi như một dạng giáo dục trong hệ thống giáo dục. Giáo dục pháp luật khi đặt trong tổng thể của hệ thống giáo dục thì giáo dục pháp luật có mối quan hệ khá mật thiết với các dạng giáo dục khác như: giáo dục chính trị, đạo đức, lao động, kinh tế...
- Giáo dục pháp luật tác động tương hỗ một cách sâu sắc với giáo dục chính trị tư tưởng. V.I. Lênin đã chỉ rõ rằng: "Luật là biện pháp chính trị, là chính trị" [28, tr. 99]. Hiện nay, đường lối chính trị của Đảng ta - chỗ dựa của đổi mới mọi mặt về chính trị, kinh tế, xã hội đã đi vào tất cả các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có thể nói rằng, mỗi một quy phạm pháp luật đều là phương tiện để củng cố, ghi nhận, một quy tắc mà xã hội cần, xã hội ủng hộ nhằm bảo vệ không những lợi ích của Nhà nước mà còn là của mỗi công dân. Bởi vậy, khi thực hiện giáo dục pháp luật sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần hình thành ở đối tượng giáo dục những quan hệ giá trị xác định với chính trị tư tưởng. Ngược lại, trong giáo dục chính trị tư tưởng có chức năng đan xen trong nội dung của mình những hiện tượng của pháp luật, củng cố những quan hệ tích cực đối với những đòi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích điều chỉnh bằng pháp luật. Mối quan hệ mật thiết qua lại chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục chính trị tư tưởng đòi hỏi các chủ thể giáo dục pháp luật phải biết kết hợp và bổ sung cho nhau trong quá trình giáo dục.
- Giáo dục pháp luật có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đạo đức, Đảng ta đã nhận thức rõ điều đó, nên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: "Tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức" [14, tr. 45]. Giữa pháp luật và đạo đức không có sự đối lập nhau, pháp luật là chỗ dựa và là cơ sở của việc hình thành đạo đức; các nguyên tắc căn bản của đạo đức được thể chế hòa thành các quy phạm pháp luật. Do đó, pháp luật bảo vệ và phát triển đạo đức, bảo vệ tính công bằng, nhân đạo, tự do, lòng tin và lương tâm con người. Vì vậy, giáo dục đạo đức tạo nên những tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Ngược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng thiết lập trên thực tế những nguyên tắc đạo đức mới. Quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức đều hướng tới điều chỉnh hành vi của con người, giữa chúng có một số điểm chung là cùng tác động lên con người, những điểm chung đó là:
+ Tạo ra lòng tin và giá trị xã hội của pháp luật;
+ Tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ thể theo các chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
Như vậy, sự thống nhất giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức thể hiện ở hành vi của con người. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng hợp của cả hai dạng giáo dục. Do đó, trong hoạt động thực tiễn, các tổ chức chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội phải sử dụng đồng bộ các hình thức, các biện pháp của cả hai dạng giáo dục để bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau với mục đích hình thành các hành vi hợp pháp, hợp đạo đức ở các đối tượng được giáo dục.
- Hiện nay, "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [15, tr. 23]. Để thực hiện đường lối kinh tế nói trên của Đảng và Nhà nước, cần đẩy mạnh hoạt động giáo dục kinh tế trong mối quan hệ với sự nghiệp đổi mới. Tất nhiên, giáo dục kinh tế trong giai đoạn hiện nay là những tư duy và phương pháp của "cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Các quan hệ kinh tế ở nước ta ở mức độ này hay mức độ khác được thể hiện thành các hình thức pháp lý. Thiếu các hình thức pháp lý thích hợp, các quan hệ kinh tế khó lòng thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng, bên cạnh giáo dục kinh tế, cần phải tiến hành giáo dục pháp luật bao gồm việc giải thích, phổ biến, học tập, nghiên cứu những văn kiện liên quan trực tiếp đến việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế.
Ngoài những dạng giáo dục có mối quan hệ mật thiết với giáo dục pháp luật như đã nêu trên, còn nhiều dạng giáo dục khác. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu mối quan hệ tổ hợp, đan xen giữa các dạng giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Việc giáo dục pháp luật chỉ có thể đạt được mục đích và hiệu quả trong mối quan hệ thống nhất, tổ hợp của cả hệ thống các hình thức giáo dục. Tất cả các dạng giáo dục phải được phối hợp và tiến hành thường xuyên trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
1.2. Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
1.2.1. Khái niệm cán bộ, công chức
1.2.1.1. Quá trình hình thành khái niệm công chức ở Việt Nam
Khái niệm công chức ở nước ta được đánh dấu từ Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ban hành "Quy chế công chức của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa". Sau đó, trong một thời gian dài do nhiều nguyên nhân chúng ta ít sử dụng thuật ngữ "công chức" mà thường dùng cụm từ "cán bộ công nhân viên chức" để chỉ toàn bộ những người làm việc trong tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng, cán bộ, công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh.
Đến cuối những năm 1980, thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước ta theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), khái niệm "công chức" lại được dùng nhiều hơn trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Để phân định ai là công chức, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định 169/HĐBT ngày 25/5/1991. Theo Điều 1 của nghị định này thì: "Công chức nhà nước là công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm, giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào một ngạch; hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức nhà nước".
Bước sang những năm 1990, sự nghiệp đổi mới đất nước được đẩy mạnh và đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhiều vấn đề lớn được đặt ra, trong đó có vấn đề cán bộ, công chức. "Xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm quyền", "xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp" [14, tr. 132]. Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) nói trên, ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Cán bộ, công chức ngày 26/02/1998 và có hiệu lực vào ngày 01/5/1998.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 không đưa ra định nghĩa cho từng khái niệm "cán bộ", "công chức", cũng không đưa ra định nghĩa chung cho cụm từ "cán bộ, công chức", mà chỉ quy định ở Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức:
Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm:
1- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
2- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
3- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh, tiêu chuẩn riêng;
4- Thẩm phán Tòa án nhân dân; kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
5- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Sau khi Pháp lệnh đã ban hành, Chính phủ đã ra ba nghị định, chủ yếu là giải thích và hướng dẫn về vấn đề công chức:
- Nghị định 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức;
- Nghị định 96/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về chế độ thôi việc đối với cán bộ, công chức;
- Nghị định 97/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức.
Theo Nghị định 95/1998/NĐ-CP thì công chức là những người quy định tại khoản 3 và khoản 5 của Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ công chức. Từ các văn bản trên, chúng ta có thể rút ra một khái niệm về công chức như sau: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn, nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước (kể cả cấp cơ sở).
1.2.1.2. Khái niệm về cán bộ ở nước ta
Trong pháp luật và trong thực tiễn quản lý nhà nước ở nước ta, khái niệm cán bộ chưa cụ thể, rõ ràng. Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật mới, chúng ta thấy rằng: Nếu theo quy định của Nghị định 95/1998/NĐ-CP, công chức là những người nói ở các khoản 3 và 5 của Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Vậy các khoản còn lại (1, 2, 4) là những người thuộc khái niệm "cán bộ". Nhưng kết luận loại suy như vậy là không chính xác nếu đối chiếu với các quy định khác và tình hình thực tế hiện nay ở nước ta. Theo tôi, khái niệm "cán bộ" ở nước ta là công dân Việt Nam được bầu ra trong các cuộc bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội các cấp; những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; là thẩm phán Tòa án nhân dân, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Trong phạm vi luận văn này, tôi không có ý định đi sâu lý giải vấn đề cán bộ, công chức mà chỉ xác định phạm vi cán bộ, công chức để thực hiện việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức.
1.2.2. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
1.2.2.1. Nội dung giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
Cán bộ và công chức là những người trong phạm vi chức năng của mình tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách là người lãnh đạo, quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Thái độ và hành vi xử sự đúng pháp luật hay không của cán bộ, công chức là thí dụ sinh động, là tấm gương phản chiếu tính pháp chế trong tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị nói chung, bộ máy nhà nước nói riêng.
Cán bộ, công chức là những người trực tiếp, có tác động rất mạnh đến hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối với pháp luật. Với tư cách này, cán bộ, công chức phải được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong việc áp dụng pháp luật và trước tiên họ phải có ý thức đầy đủ về trách nhiệm chủ thể giáo dục pháp luật của mình trong khi tiến hành các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ cụ thể.
Căn cứ vào đối tượng cán bộ, công chức mà xây dựng nội dung giáo dục pháp luật phù hợp, có thể phân làm hai nhóm lớn như sau:
* Đối với cán bộ, công chức nói chung thì nội dung giáo dục pháp luật bao gồm:
- Những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, tổ chức bộ máy nhà nước, thực thi pháp luật, cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân;
- Các quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của công dân do Hiến pháp và một số đạo luật quy định;
- Các thủ tục, trình tự pháp lý để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện các nghĩa vụ của công dân;
- Hệ thống những khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý thường gặp trong thực tiễn;
- Một số pháp luật thực định liên quan đến hoạt động của cán bộ, công chức như: các bộ luật, các đạo luật quan trọng, có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Hôn nhân và gia đình...
* Đối với cán bộ, công chức chuyên ngành pháp luật, nội dung giáo dục pháp luật bao gồm:
- Những quan điểm, những học thuyết về nhà nước và pháp luật trong lịch sử và hiện tại;
- Hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế;
- Cung cấp, giải thích các quy phạm pháp luật cụ thể, về những hậu quả pháp lý do việc chấp hành hay vi phạm các quy phạm pháp luật đó, hướng dẫn hành vi xử sự cụ thể;
- Cập nhật những thông tin pháp luật;
- Những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật.
1.2.2.2. Hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
Qua nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cho thấy:
Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức được thể hiện khá đa dạng, biểu hiện dưới nhiều hình thức như: Dạy và học pháp luật trong các trường (các trường chuyên ngành và cả các trường khác trong hệ thống giáo dục); tập huấn chuyên đề về nhà nước pháp luật hoặc kết hợp giáo dục pháp luật trong các lớp tập huấn, các hội nghị chuyên đề khác; giáo dục pháp luật qua tuyên truyền và cổ động (tuyên truyền miệng, qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là qua báo, tạp chí, qua hoạt động nghệ thuật, qua các cuộc thi...); giáo dục pháp luật qua hoạt động thực tiễn của cán bộ, công chức trên lĩnh vực công tác của mình, nhất là các hoạt động trên lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp; giáo dục pháp luật qua hệ thống thông tin pháp luật (Công báo, các bản tin pháp luật, các văn bản pháp luật qua đường công văn nhà nước...).
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, chủ thể, khách thể (đối tượng) của giáo dục pháp luật, có thể chia hình thức giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức làm ba loại:
* Hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến, tuyên truyền của giáo dục chính trị tư tưởng như:
- Phổ biến, nói chuyện pháp luật tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội;
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo về pháp luật;
- Hoạt động tại các câu lạc bộ pháp luật, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật trong cán bộ, công chức;
- Tuyên truyền pháp luật qua báo, tạp chí chuyên ngành; thông qua các chuyên mục tìm hiểu pháp luật, giới thiệu văn bản pháp luật mới của các báo, tạp chí khác;
- Giáo dục pháp luật thông qua các hình thức văn học nghệ thuật (phim, ảnh, sân khấu...).
* Hình thức giáo dục pháp luật chuyên biệt đối với các hoạt động chuyên ngành pháp luật.
Hình thức giáo dục pháp luật này được quy định bởi mối quan hệ biện chứng giữa sự tác động giáo dục pháp luật và tác động thực tiễn pháp luật lên ý thức và hành vi của cán bộ, công chức. Xuất phát từ nguyên tắc gắn giáo dục pháp luật với thực tiễn công tác và đời sống, các chuyên gia pháp lý đã tìm thấy khả năng hình thành các hình thức giáo dục pháp luật mang tính đặc thù này. Đó là định hướng giáo dục pháp luật cho các hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực ban hành và thực thi pháp luật. Việc tổ chức thực hiện các định hướng đó nhằm hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường các tác động tích cực của thực tiễn pháp luật đối với quá trình hình thành ý thức pháp luật của cán bộ, công chức hoạt động trên lĩnh vực này. Điều đó xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của cán bộ, công chức chuyên ngành pháp luật. họ là những người có "vai trò kép" trong mối quan hệ với giáo dục pháp luật. Họ vừa là đối tượng cần được giáo dục pháp luật. vừa là chủ thể giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với cán bộ, công chức khác và với nhân dân. Hình thức giáo dục pháp luật này với vai trò chủ đạo là các luật gia đang công tác tại các cơ quan nhà nước, các luật sư đang hành nghề tại các công ty luật, các văn phòng luật sư... Giáo dục pháp luật qua các hoạt động hành pháp và tư pháp thường mang tính cá thể hóa rõ rệt cả về đối tượng, nội dung và biện pháp thực hiện, vì nó thường gắn liền với việc áp dụng các điều luật cụ thể hay thực hiện một quyền, một nghĩa vụ pháp lý cụ thể của người được giáo dục. Do đó, có sự tác động trực tiếp, sâu sắc lên ý thức, tình cảm và hành vi của họ. Việc thừa nhận hình thức giáo dục pháp luật này là vấn đề có tính lý luận quan trọng, góp phần tạo nên sự đổi mới cơ bản trong cách nghĩ, cách làm của công tác giáo dục pháp luật hiện nay.
*Hình thức quan trọng và cơ bản nhất trong giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức là đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật ở các trường.
Có hai dạng giáo dục pháp luật qua hình thức này:
- Đào tạo, bồi dưỡng pháp luật trong các trường không chuyên luật (các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp không chuyên luật và các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị xã hội).
- Đào tạo, bồi dưỡng pháp luật trong các trường, các khoa chuyên về Nhà nước và pháp luật như: Đại học Luật, Khoa luật Đại học Quốc gia, Viện Nhà nước pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia, Khoa Nhà nước và pháp luật của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước - pháp luật của trường Chính trị tỉnh, thành phố...
Các hình thức đào tạo này đã cung cấp cho hệ thống chính trị một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ pháp luật vững vàng để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và quản lý xã hội theo pháp luật.
Từ quan niệm và phân loại giáo dục pháp luật như trên, các chủ thể giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức phải xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung ngay trong khi xây dựng các chương trình công tác, nghiệp vụ chuyên môn trong từng thời kỳ hoặc trong từng vụ việc. Trên cơ sở đó, chuẩn bị các điều kiện vật chất, điều kiện cán bộ... để tổ chức hình thức giáo dục phù hợp.
Trong công tác giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng, cần phải kết hợp các hình thức giáo dục khác nhau nhằm phát huy tối đa mặt tích cực và bù đắp những hạn chế của từng loại hình để đạt được kết quả tối ưu.
1.2.2.3. Phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
Phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức là hệ thống các cách thức để tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật cho những người đã trưởng thành, đang có vị trí nhất định trong xã hội. Đó là cách thức, biện pháp giúp cán bộ, công chức tiếp cận thông tin pháp luật, cách giải thích làm rõ các tư tưởng chính trị pháp lý, các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật...
Trong giáo dục pháp luật, chủ thể giáo dục là các chuyên gia không chỉ am tường về pháp luật mà còn phải nắm bắt nhiều lĩnh vực liên quan. Phương pháp sư phạm được coi là phương pháp quan trọng trong công tác giáo dục pháp luật. Đặc biệt là "phương pháp sư phạm đối với việc học tập của người lớn" [20, tr. 2]. Phương pháp sư phạm trong giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức điều quan trọng là bảo đảm "cung - cầu". "Cung" của đội ngũ cán bộ, công chức là biểu hiện khả năng đáp ứng của sự nghiệp, mục tiêu, chính sách, hệ thống tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức trong từng thời kỳ nhất định. "Cầu" của đội ngũ cán bộ, công chức bao gồm về số lượng, chất lượng (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, đạo đức, phẩm chất...).
Ngoài phương pháp sư phạm, chủ thể giáo dục pháp luật cần sử dụng nhiều phương pháp khác như: phương pháp tư duy logic, tâm lý, thực hành, giải quyết tình huống... Một nguyên tắc chung nhất khi sử dụng các phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức đó là kết hợp lý luận với thực tiễn thi hành pháp luật (thông qua việc xử lý tình huống).
1.2.2.4. Một số đặc điểm trong giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
- Cán bộ, công chức là nhân tố quyết định cho sự nghiệp cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức phải gắn chặt với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Lê-nin đã chỉ ra rằng: "Luật là biện pháp chính trị, là chính trị" [29, tr. 99]. Khi thực hiện giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, người giáo dục phải thực sự là "tấm gương sáng", phải là người nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [34, tr. 269].
- Cán bộ, công chức là những người trưởng thành, môi trường công tác của họ là các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, cán bộ, công chức thường tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách là người đại diện cho Đảng và Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong quan hệ với nhân dân. Vì vậy, thái độ và hành vi xử sự đúng pháp luật hay không của cán bộ, công chức có tác động rất lớn đến đời sống pháp luật của nhân dân. Việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức không chỉ là việc giáo dục kiến thức pháp luật đơn thuần mà còn phải kết hợp cả việc giáo dục phong cách làm việc, đạo đức, lối sống... "Không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [35, tr. 235].
- Cán bộ, công chức có vai trò kép trong giáo dục pháp luật. trong mối quan hệ của giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức thì họ (cán bộ, công chức) là đối tượng (khách thể) của giáo dục pháp luật. Với vai trò là đối tượng, họ phải bảo đảm các yêu cầu của mục đích giáo dục pháp luật. Nhưng với vai trò là cán bộ, công chức trong quan hệ với nhân dân thi cán bộ, công chức trở thành chủ thể của giáo dục pháp luật. Vì vậy, vai trò của họ có tác động rất lớn đến hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối với pháp luật.
Với đặc điểm này cần chú ý giáo dục cho cán bộ, công chức ý thức của người "công bộc" của nhân dân. Phải xây dựng ý thức "chí công vô tư", coi pháp luật là "cán cân công lý", mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. "Pháp luật không hùa theo người sang. "Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu" [36, tr. 62]. Hai mươi ba thế kỷ trước, Hàn Phi Tử đã nói như vậy và bài học đó vẫn còn nguyên giá trị đến hôm nay.
Chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Để đạt được mục đích đó trước hết đội ngũ cán bộ, công chức phải thông pháp luật, phải thạo chuyên môn, phải chí công vô tư... như lời Bác Hồ dạy: "Cán bộ phải đoàn kết nhất trí, giữ vững đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước" [33, tr. 226].
Chương 2
Thực Trạng CÔNG Tác Giáo Dục Pháp Luật
CHO Cán Bộ, CÔNG Chức ở Bình Định
2.1. Những đặc trưng của cán bộ, công chức ở Bình Định
2.1.1. Vài nét khái quát về Bình Định
Bình Định là một tỉnh nằm giữa vùng duyên hải miền Trung Trung bộ. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía tây giáp tỉnh Gia Lai, phía nam giáp tỉnh Phú Yên, phía đông giáp biển Đông. Diện tích và dân số Bình Định thuộc loại trung bình trong cả nước (dân số: 1.504.700 người, diện tích 6.025,6 km2) [8, tr. 6]. Cả tỉnh có 10 huyện, trong đó có 3 huyện miền núi và thành phố Quy Nhơn (đô thị loại II). Hiện nay Bình Định có 152 xã, phường, thị trấn. Trong đó có 126 xã, 16 phường và 10 thị trấn. Trong 126 xã có 28 xã miền núi, trong ._.g tin đại chúng và các cơ quan, các tổ chức trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức sẽ giúp cho cán bộ, công chức trong tỉnh có nhiều cơ hội tiếp cận với pháp luật, góp phần nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh.
3.3.5. Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong tỉnh
Xây dựng một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức thống nhất từ tỉnh, huyện (huyện và thành phố), xã (xã, phường, thị trấn) là yêu cầu cấp thiết, quyết định đến toàn bộ hoạt động cũng như chất lượng và hiệu quả của công tác này.
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trước hết là của Tỉnh ủy trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong tỉnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội và công tác cán bộ, công chức phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong Pháp lệnh Cán bộ, công chức, điều 4 Pháp lệnh đã ghi rõ: "Công tác cán bộ, công chức được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảm bảo nguyên tắc tập thể, dân chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,tổ chức, đơn vị". Do đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội là vấn đề cần thiết trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà Đảng ta đang lãnh đạo xây dựng Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân vì dân".
Trong thời gian qua, các Nghị quyết của Đại hội Tỉnh Đảng bộ, nhất là Nghị quyết của Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI (2001) và các Nghị quyết của Ban chấp hành Tỉnh Đảng bộ gần đây, đề cấp đến những vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước và đều khẳng định tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, xác định trách nhiệm của các cấp ủy đảng trong công tác này. Để thực hiện Nghị quyết của Đảng trong thời gian tới, các cấp Đảng cần đổi mới nội dung lãnh đạo công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, tập trung ở các vấn đề sau:
+ Từng cấp ủy xác định rõ đối tượng, trọng tâm giáo dục pháp luật cho từng thời kỳ phù hợp với nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương. Xác định trách nhiệm của từng cơ quan đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội của trong việc phối hợp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức. Các cấp ủy đảng cần lãnh đạo chặt chẽ công tác qui hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng pháp luật, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức sau khi đào tạo. Lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở các cấp theo yêu cầu của Hội đồng giáo dục pháp luật của các cấp đó. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong từng cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị. Đội ngũ này phải biết kết hợp việc phổ biến Nghị quyết của Đảng với việc giáo dục pháp luật cho đảng viên và cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị mình.
+ Các cấp ủy đảng cần tăng cường kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm công tác qui hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức. Công tác này phải làm thường xuyên và trở thành tiêu chuẩn đánh giá về mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của chi bộ, đảng bộ.
- Phát huy chức năng của Hội đồng nhân dân các cấp trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân đối với công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng được coi là một trong những nhiệm vụ chủ yếu. Vấn đề cấp thiết hiện nay ở nước ta trong việc xây dựng "Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" là đưa pháp luật vào cuộc sống một cách sâu rộng, toàn diện. Để làm được điều đó trước hết đội ngũ cán bộ, công chức phải là những người nắm vững pháp luật để quản lý nhà nước, quản lý xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật. Hội đồng nhân dân các cấp trong tỉnh, với chức năng quyết định của mình có quyền quyết định "Biện pháp đảm bảo việc thi hành Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên trong cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và đối với công dân ở địa phương" [35, tr. 10].
Hội đồng nhân dân các cấp trong tỉnh, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương cần đề ra và thực hiện một cơ chế giám sát đối với công tác giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng. Giám sát việc thực hiện các mục tiêu, yêu cầu, chương trình kế hoạch giáo dục pháp luật; giám sát việc phối hợp thực hiện công tác giáo dục pháp luật các cơ quan chức năng; giám sát việc sử dụng kinh phí về giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng đã được Hội đồng nhân dân phê chuẩn trong kỳ họp hàng năm.
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực ở địa phương, có quyền quyết định những vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... ở địa phương và giám sát việc thực hiện các quyết định đó theo pháp luật. Đại biểu Hội đồng nhân dân phải là những người nắm vững pháp luật thì sự quyết định và giám sát của Hội đồng nhân dân mới đảm bảo đúng pháp luật, nhất là trong những trường hợp những vấn đề liên quan đến lợi ích của địa phương.
Hiện nay (nhiệm kỳ 1999-2004) Bình Định có 3.864 đại biểu trong đó 56 đại biểu cấp tỉnh, 339 đại biểu cấp huyện và 3.460 đại biểu cấp xã (biểu 2). Số đại biểu chưa qua đào tạo, bồi dưỡng pháp luật chiếm phần lớn, nhất là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã. Để nâng cao kiến thức pháp luật của các đại biểu Hội đồng nhân dân cần đưa vào chương trình các kỳ họp việc học tập, quán triệt các văn bản luật hiện hành, nhất là các văn bản mới ban hành, coi đây là một nội dung của kỳ họp Hội đồng nhân dân.
Hội đồng nhân dân các cấp trong tỉnh thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ nói trên sẽ góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của UBND các cấp.
Trong kế hoạch, chương trình công tác hàng năm của UBND tỉnh cần chỉ đạo cụ thể các cấp, các ngành xây dựng và thực hiện tốt công tác qui hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức hàng năm ở cấp mình, ngành mình. Định kỳ giữa năm và cuối năm, UBND tỉnh kiểm tra, đánh giá kết quả việc tổ chức thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở các cấp, các ngành.
- Các ngành chức năng như Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh, Ban Tổ chức Chính quyền huyện, thành phố; Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp huyện, thành phố... phối hợp với Hội đồng giáo dục pháp luật các cấp (Tiểu ban giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức), xây dựng kế hoạch giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức từng quí, 6 tháng, cả năm và phối hợp tổ chức thực hiện theo sự chỉ đạo thống nhất của UBND tỉnh và Hội đồng giáo dục pháp luật của tỉnh.
- Các cơ quan ban, ngành khác, với chức năng của mình hoạt động dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh, UBND huyện, thành phố. Phối hợp với Hội đồng giáo dục pháp luật các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo qui định của qui chế và kế hoạch giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức thuộc cấp mình.
- Các đoàn thể quần chúng, với tư cách là thành viên trong các tiểu ban giáo dục pháp luật, tham gia tuyên truyền giáo dục pháp luật trong đoàn thể mình. Chủ động tổ chức các hoạt động mang tính phong trào như: tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các câu lạc bộ pháp luật, các hoạt động văn hóa, văn nghệ với nội dung giáo dục pháp luật theo từng chủ đề...
Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức là khâu quan trọng trong quá trình thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật nói chung. Để thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất từ cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức đoàn thể xã hội.
Sự phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng càng chặt chẽ thì hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức sẽ càng cao và là điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh.
3.3.6. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những vi phạm kỷ luật, pháp luật của cán bộ, công chức
Kiểm tra, giám sát là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ nói chung và công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành chặt chẽ. Cán bộ kiểm tra phải là những người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn giỏi, nắm vững pháp luật. khi được trao nhiệm vụ, cán bộ thanh tra, kiểm tra phải được trao cả quyền hạn và các điều kiện cần thiết. Để hoạt động kiểm tra có hiệu quả cần tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, duy trì thường xuyên hoạt động tiếp dân. Khôi phục các hình thức phát huy dân chủ trong cơ quan, đơn vị như: bố trí hòm thư góp ý để cán bộ, công chức thuận tiện trong việc đề đạt nguyện vọng hay góp ý đấu tranh xây dựng nội bộ...
Để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội, trước hết phải đảm bảo kỷ cương trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Cần khắc phục tình trạng quản lý lỏng lẻo ở một số cơ quan, đơn vị trong tỉnh. Trong nội bộ mỗi cơ quan, đơn vị cần duy trì thường xuyên theo định kỳ việc kiểm tra đánh giá cán bộ, công chức theo qui chế "Đánh giá công chức hàng năm" của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ ngày 5/12/1998 (ban hành kèm theo Quyết định số 11/1998/TCCP-CCVC ngày 05/12/1998 của Bộ trưởng - Trưởng Ban Tổ chức Chính phủ). Việc đánh giá định kỳ hàng năm cần chú ý tình hình chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức trong công tác, trong sinh hoạt ở cơ quan, đơn vị và cả ở nơi cư trú. Đối với những vụ việc mà cơ quan nhà nước hay cán bộ, công chức vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho nhà nước, thiệt hại cho xã hội và nhân dân, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hay phụ trách lĩnh vực đó (khi tập thể hay nhân viên dưới quyền vi phạm pháp luật) phải liên đới chịu trách nhiệm.
Tất cả cán bộ, công chức phải thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh cán bộ, công chức; Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh chống tham nhũng và những quy định khác của pháp luật.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào đều phải sống và làm việc theo pháp luật. không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. mọi vi phạm đều phải xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật, không được giữ lại để xử lý nội bộ". Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo lễ [10, tr. 121].
Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức có ý nghĩa lớn trong công tác giáo dục pháp luật. Hành vi phạm pháp của cán bộ, công chức nhất là cán bộ, công chức giữ chức vụ phải được coi là nghiêm trọng hơn và phải xử lý nghiêm khắc hơn so với hành vi tương tự của những đối tượng khác trong xã hội.
3.3.7. Bảo đảm kinh phí trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh
Như phần trước đã đề cập, hàng năm tỉnh có dành một khoản ngân sách đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức theo Quyết định số 119/1999/QĐ-UB thay cho Quyết định 5134/QĐ-UB ngày 21/7/1994. Tuy kinh phí hoạt động cho công tác này có thể khá hơn trước, nhưng so với yêu cầu vẫn còn rất khó khăn.
Hiện tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho cán bộ, công chức gồm có trường Chính trị tỉnh, các trung tâm giáo dục chính trị các huyện và thành phố Quy Nhơn. Nhìn chung các cơ sở này, cả cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động còn quá eo hẹp. Trường Chính trị tỉnh là cơ sở cải tạo lại của một trường phổ thông tư thục trước giải phóng. Mặt bằng của trường quá chật hẹp, chỉ đủ cho những hoạt động giảng dạy và học tập ở mức tối thiểu. Những giai đoạn cần đào tạo bồi dưỡng cao điểm như sau các kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân, Đại hội Đảng các cấp... đều không đủ chỗ ở nội trú và hội trường (phòng học) để phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Các cơ sở phục vụ cho các hoạt động khác như thể dục, thể thao... đều thiếu, ở các trung tâm giáo dục chính trị các huyện cũng gặp khó khăn về cơ sở và kinh phí hoạt động. Nhiều trung tâm còn phải làm việc chung trụ sở với Ban Tuyên giáo Huyện ủy, chưa có hội trường riêng phục vụ cho việc mở lớp...
Sau khi có Quyết định 03/1998/QĐ-TTg và Chỉ thị 02/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Hội đồng giáo dục pháp luật ở cả ba cấp (tỉnh, huyện, xã) được thành lập, kinh phí hoạt động được bổ sung theo Thông tư số 156/1998/TT-BTC ngày 12/12/1998 của Bộ Tài chính, trong đó có tiểu mục 11 "Chi tuyên truyền giáo dục pháp luật". Tuy vậy, kinh phí hoạt động giáo dục pháp luật nói chung, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng vẫn gặp không ít khó khăn. Báo cáo số 27/CB ngày 20/7/1999 của Hội đồng giáo dục pháp luật tỉnh Bình Định nhận xét: "...Thời gian qua, bên cạnh các địa phương dành một số kinh phí cần thiết đảm bảo việc thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật, thì ở một số nơi kinh phí này vẫn còn eo hẹp nên hoạt động gặp nhiều khó khăn" [21, tr. 14].
Để công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh đạt được kết quả mong muốn nhằm đáp ứng yêu cầu mới trong công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong thời gian tới, các cấp có thẩm quyền cần quan tâm vấn đề kinh phí cho hoạt động này: Cần đầu tư kinh phí cho việc xây dựng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật nói trên; đảm bảo kinh phí cho hoạt động thường xuyên về đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong tỉnh, nhất là đối tượng cán bộ cơ sở (theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khóa IX).
Về hoạt động của các Tiểu ban giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở tỉnh, các huyện và thành phố Quy Nhơn, cần đảm bảo kinh phí để có thể in ấn các tài liệu cần thiết, các văn bản pháp luật mới, phục vụ kịp thời cho công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức.
Các cấp (tỉnh, huyện và thành phố) cần dành một khoản kinh phí để từng bước trang bị các phương tiện hiện đại cho các cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức. Trường Chính trị tỉnh, cơ sở duy nhất đào tạo cán bộ cho cả hệ thống chính trị trong tỉnh cần được nâng cấp và trang bị tốt hơn các dụng cụ phục vụ giảng dạy và học tập. Thư viện của trường cần xây dựng giá sách pháp luật riêng, phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập bộ môn pháp luật. Cần trang bị hệ thống máy vi tính và nối mạng giữa trường với các cơ quan lãnh đạo của tỉnh để được nhận và gửi những thông tin pháp luật, thông tin quản lý một cách kịp thời, chính xác (hiện nay trong nước nhiều trường chính trị cấp tỉnh đã được trang bị và khai thác có hiệu quả).
Trên đây là một số giải pháp cơ bản, được xây dựng trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trong thời gian tới. Ngoài những chủ trương, chính sách, pháp luật; những định hướng chung cho cả nước nêu trên. Các giải pháp trong luận văn này được xây dựng trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ về công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2001-1005 và những năm tiếp theo. Đặc biệt, các giải pháp được đề ra căn cứ vào trình độ, kiến thức pháp luật, về nhu cầu hiểu biết pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh. Các giải pháp nêu trên đều có sự liên quan và đều xuất phát từ một mục đích chung là trang bị và nâng cao kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp trên địa bàn tỉnh Bình Định nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" mà Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2002) đã xác định.
Để công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định đạt được kết quả đã đề ra, các cấp các ngành hữu quan cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau đây:
- Trước hết cần quan tâm đến việc nâng cao trình độ học vấn cho cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp xã.
Qua các số liệu tổng hợp của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh cho thấy. Hiện nay (nhiệm kỳ 1999-2004), "cán bộ cấp xã trong định biên còn 16,9% trình độ cấp I, 59,8% trình độ cấp II" [5, tr. 4]. Với trình độ học vấn thấp như vậy sẽ vô cùng khó khăn cho việc tiếp thu kiến thức pháp luật. cần có một dự án hay một chương trình nâng cao trình độ học vấn cho đội ngũ này. Dự án cần có giải pháp trước mắt cho nhiệm kỳ này và cả cho nhiệm kỳ tới (2004-1009).
- Nhu cầu hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức trong tỉnh là rất lớn, Trường Chính trị tỉnh cần tăng cường mở lớp đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật. Nên tăng cường hình thức đào tạo tập trung cho đội ngũ kế cận để chuẩn bị nhân sự cho nhiệm kỳ 2004 - 2009.
- Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng pháp luật ở Trường Chính trị tỉnh hiện nay còn nhiều bất cập. Cần có những hội nghị, hội thảo khoa học về vấn đề này và ban hành những quy định, đảm bảo tính pháp lý trong cả nước về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng pháp luật trong hệ thống Trường Chính trị.
- Pháp luật hiện hành đã quy định việc thi tuyển, thi nâng ngạch, thi chuyển ngạch công chức. Đây là một hoạt động cần thiết trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong thực tế, hoạt động này chưa đi vào nề nếp, chưa tiến hành đồng bộ trong tất cả các cơ quan đơn vị của hệ thống chính trị. Cần có sự sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Cán bộ, công chức hoặc nâng lên thành "Luật Cán bộ, công chức", quy định đầy đủ hơn, toàn diện hơn các vấn đề thuộc cán bộ, công chức mà pháp luật chưa đề cập. Qui định rõ yêu cầu về hiểu biết pháp luật và coi đó là một trong ba tiêu chuẩn cơ bản về kiến thức cán bộ, công chức (trình độ chính trị, trình độ chuyên môn và trình độ pháp luật).
Kết Luận
Những năm gần đây, công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định đạt được những kết quả đáng kể. Tuy vậy, so với yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong giai đoạn mới ở địa phương thì còn phải tăng cường hơn nữa mới đạt được.
Làm thế nào để công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định đạt được hiệu quả cao. Đó là mục đích và cũng là nội dung cơ bản của luận văn này.
Quá trình nghiên cứu và hoàn tất luận văn, tác giả đã cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý luận giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói riêng. Luận văn cũng đã đề cập nhiều vấn đề liên quan đến thực tiễn về công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định. Kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở để tác giả đưa ra những kết luận sau đây:
1. Giáo dục pháp luật là một hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ những tri thức pháp luật, tính cách và hành vi phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Giáo dục pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức... vì vậy, việc giáo dục pháp luật sẽ đạt kết quả tốt hơn trong sự phối hợp đồng bộ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục các lĩnh vực khác.
2. Cán bộ, công chức là lực lượng chủ yếu có nhiệm vụ tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo việc đưa pháp luật vào cuộc sống. Nếu cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật tốt, có ý thức tôn trọng và bảo vệ pháp luật thì hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội sẽ đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức mà ý thức pháp luật kém, có hành vi vi phạm pháp luật sẽ có tác động xấu đến xã hội, nên việc gương mẫu chấp hành pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật của cán bộ, công chức phải được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, ý thức pháp luật của cán bộ, công chức có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa đời sống xã hội, duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước và xã hội. Vì vậy, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức là việc làm hết sức cần thiết.
3. Bình Định là một tỉnh có truyền thống cách mạng. Trong kháng chiến chống Mỹ, Bình Định là một tỉnh có phong trào cách mạng phát triển mạnh ở khu Năm. Chiến tranh đã rèn đúc cho đội ngũ cán bộ, công chức Bình Định ý chí kiên cường. Mặt khác, chiến tranh cũng đã để lại cho đội ngũ cán bộ, công chức Bình Định nhiều hạn chế, trong đó, mặt hạn chế cơ bản là trình độ học vấn, trình độ chuyên môn thấp (nhất là đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp cơ sở). Trình độ học vấn thấp đã dẫn đến không ít khó khăn trong công tác giáo dục pháp luật. Khắc phục tình trạng này, những năm qua một số địa phương đã duy trì hình thức kết hợp bồi dưỡng chuyên môn với bổ túc văn hóa. Để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn và pháp luật cơ bản cho đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh, cần thực hiện tốt công tác qui hoạch và gắn qui hoạch với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng pháp luật cho cán bộ, công chức, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và quản lý xã hội trong giai đoạn mới.
4. Trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở địa phương có nhiều hình thức. Mỗi hình thức có những thuận lợi và hạn chế riêng. Hình thức cơ bản nhất, đáp ứng yêu cầu cao nhất cho công tác của cán bộ, công chức là đào tạo, bồi dưỡng ở trường. Giáo dục pháp luật bằng hình thức đào tạo, bồi dưỡng ở trường, cán bộ, công chức được trang bị những kiến thức cơ bản, có hệ thống. Học viên có điều kiện trình bày quan điểm của mình trước những vấn đề mà thực tiễn quản lý đang đặt ra và được trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp ở cơ quan, đơn vị khác. Cần nhận thức rõ thế mạnh của loại hình giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức qua đào tạo, bồi dưỡng ở trường để có biện pháp củng cố, xây dựng các cơ sở này. Hội nghị, hội thảo, phát thanh truyền hình, báo chí,... cũng là những hình thức giáo dục pháp luật được đông đảo cán bộ, công chức quan tâm. Để công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức có kết quả tốt, cần vận dụng hợp lý các hình thức và khai thác tối đa lợi thế của từng loại hình.
5. Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định là hiệu quả của sự lãnh đạo và chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy và chính quyền địa phương, trước hết là Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bình Định; hiệu quả của sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật các cấp trong tỉnh. Hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức ở Bình Định còn là sự phối hợp, sự áp dụng, sự vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, hợp lý các giải pháp đã nêu trong luận văn của các chủ thể giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định.
danh mục TàI LIệU THAM KHảO
Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Liên lạc Tù Chính trị Bình Định (2002), Báo cáo tổng kết 5 năm (1997-2002) tình hình tổ chức và hoạt động của Ban Liên lạc...), Bình Định.
Ban Tổ chức Chính quyền tỉnh Bình Định (2002), Đề án xây dựng chính quyền cơ sở, Bình Định.
Lê Văn Bền (1997), Giáo dục pháp luật cho người Khơ-me Nam Bộ, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Cục Thống kê Bình Định (1999), Niên giám thống kê 1999, Bình Định.
Cục Thống kê Bình Định (2001), Niên giám thống kê 2001, Bình Định.
Hồ Quốc Dũng (1997), Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng bộ tỉnh Bình Định (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ lần thứ XIV, Bình Định.
Đảng bộ tỉnh Bình Định (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ lần thứ XV, Bình Định.
Đảng bộ tỉnh Bình Định (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI, Bình Định.
Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Học viện Hành chính Quốc gia (1996), Phương pháp sư phạm hành chính đối với việc học tập của người lớn, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Hoàng (2000), Đổi mới giải pháp pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Hội Luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chủ tịch và pháp chế, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hội đồng Giáo dục pháp luật tỉnh Bình Định (1999), Báo cáo tổng kết hai năm (1998-1999) công tác giáo dục pháp luật, Bình Định.
Lê Đình Khiên (1996), "Một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao ý thức pháp luật", Nhà nước và pháp luật, 97(3) tr. 3-7.
Khoa Nhà nước - Pháp luật (1999), Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường Chính trị, Đề tài cấp Bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Dương Thị Thanh Mai (1996), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1990), Về Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1975), Thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 15, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Phan Ngọc (2000), Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2002), Hiến pháp 1992 sửa đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1994), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Xuân Sầm (1994), Xác định cơ cấu tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt..., Đề tài KX.05-11, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày 07/01/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến giải pháp từ 1998 đến 2002, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 về việc tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội.
Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 07/5/2001 về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001-2005, Hà Nội.
Tỉnh ủy Bình Định (1990), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh, tập 1, Nxb Tổng hợp, Bình Định.
Tỉnh ủy Bình Định (1996), Lịch sử Đảng bộ Tỉnh, tập 2, Nxb Tổng hợp, Bình Định.
Tỉnh ủy Bình Định (1995), Chỉ thị 06/CT-TU ngày 03/4/1995 về tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, Bình Định.
Tỉnh ủy Bình Định (2001), Thông báo số 27/TB-TU ngày 21/2/2001 về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ năm 2002, Bình Định.
Tỉnh ủy Bình Định (2002), Báo cáo tổng kết công tác tổ chức và cán bộ, Bình Định.
Đinh Xuân Thảo (1996), Giáo dục pháp luật trong các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trường Chính trị Bình Định (2000), Báo cáo tổng kết 10 năm (1990-2000) công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Bình Định.
Đào Trí úc (chủ biên) (1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (1992), Chỉ thị số 16/CT-UB ngày 13/3/1992 về việc Đẩy mạnh mạnh tuyên truyền giáo dục pháp luật, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (1993), Chỉ thị số 04/CT-UB ngày 16/2/1993 về việc tuyên truyền Hiến pháp 1992, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Chỉ thị số 07/1998/CT-UB ngày 24/02/1998 về việc triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Quyết định 458/1998/QĐ-UB ngày 10/02/1998 về việc thành lập Hội đồng giáo dục pháp luật, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Kế hoạch 01/KH-UB ngày 12/02/1998 về kế hoạch triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật từ 1998 đến 2002, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (1998), Quyết định 10/1998/QĐ-UB ngày 01/5/1998 về việc ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2000), Quyết định số 21/2000/QQD-UB ngày 17/02/2000 về việc ban hành qui chế hoạt động của tuyên truyền viên pháp luật ở cơ sở, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2000), Báo cáo số 48/BC-UB ngày 9/10/2000 về công tác của UBND tỉnh, Bình Định.
ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2001), Công văn số 960/ĐT-UB này 29/5/2001 về việc lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2001 - 2005, Bình Định.
Viện Ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Jhoa học pháp lý (1995), Một số vấn đề giáo dục pháp luật ở miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (1999), Báo cáo tổng hợp kết quả điều tra thực tế về sự hiểu biết pháp luật, Hà Nội.
Vụ Phổ biến Giáo dục pháp luật (1997), Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
._.