BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Lê Thái Thị Cẩm Tâm
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS LÊ HUỲNH HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Đảng và nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh. Từ
Đại hội VI (12.1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra v
98 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2186 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giáo dục đào tạo Tiền Giang hai mươi năm đổi mới (1986 - 2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à thực hiện công cuộc đổi mới trên
tất cả các lĩnh vực; kết quả là những khó khăn, thử thách dần được khắc phục, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng thu được những thành tựu đáng kể. Trong đó,
công tác giáo dục - đào tạo luôn giữ vai trò trọng tâm.
Tỉnh Tiền Giang nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vùng đất mà từ những
ngày đầu khai hoang mở đất cho đến hiện nay, dù chống ngoại xâm hay lao động sáng tạo;
con người nơi đây vẫn kiên trì làm nên những trang sử vẻ vang mang đậm dấu ấn anh hùng
mà chất phác của người đồng bằng, góp phần làm nên bản sắc rất riêng của người Việt
phương Nam.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, dù còn nhiều khó
khăn trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… nhưng Đảng bộ và nhân dân tỉnh
Tiền Giang đã từng bước khắc phục, vượt qua khó khăn đưa tỉnh nhà hòa cùng nhịp phát
triển với các tỉnh bạn, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước.
Nghiên cứu Giáo dục- đào tạo Tiền Giang hai mươi năm đổi mới (1986- 2006), tác
giả mong muốn tái hiện lại bức tranh giáo dục – đào tạo Tiền Giang trong khoảng thời gian
tỉnh nhà cùng cả nước bước vào công cuộc đổi mới đến giai đoạn đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đóng góp bước đầu trong việc rút ra những bài học kinh nghiệm của chặng
đường đã qua, khắc phục những hạn chế, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo tỉnh nhà,
hòa vào dòng chảy của giáo dục đào tạo cả nước.
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới;
cùng với các lĩnh vực khác, hoạt động giáo dục - đào tạo đã được quan tâm nghiên cứu.
Trong số đó có các công trình, tác phẩm sau:
- Các định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo từ nay đến năm 2020, Bộ
Giáo dục và Đào tạo (1995).
- Các chủ trương đổi mới giáo dục trong mười năm (1986 - 1996), Bộ Giáo dục và
Đào tạo (1996).
- Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo dục đào tạo (1986 - 1996), Bộ Giáo dục
và Đào tạo (1996).
- Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI, Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội (1998)
- Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nghiêm Đình Vỳ - Nguyễn Đắc Hưng, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2002).
- Bàn về giáo dục Việt Nam, Nguyễn Cảnh Toàn, Nxb Lao Động 2002.
- Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỉ XXI kinh nghiệm của các quốc gia, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Lê Văn Giạng, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội (2003).
- Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc gia, Nguyễn Đắc Hưng - Phan Xuân
Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2003).
Những công trình trên tuy không viết riêng về Tiền Giang nhưng ít nhiều cung cấp cho
người đọc những thông tin, những nhận định chung về tình hình giáo dục và đào tạo của Việt
Nam, trong đó có giáo dục - đào tạo tỉnh Tiền Giang.
Riêng về tình hình giáo dục - đào tạo của Tiền Giang có thể tìm thấy trong các công
trình sau:
- Lịch sử giáo dục Tiền Giang (sơ thảo), Nguyễn Phúc Nghiệp - Phạm Duy Tư, Sở
Giáo dục – Đào tạo Tiền Giang - tài liệu lưu hành nội bộ (1995).
- Những trang ghi chép về lịch sử văn hoá Tiền Giang, Nguyễn Phúc Nghiệp, Nxb Trẻ
(1998).
- Tiền Giang bước vào thế kỉ 21, Nhiều tác giả, Nxb Văn Nghệ TP. HCM (2001).
- Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, T2 - Hội khoa học kinh tế Việt Nam – Trung tâm
thông tin và tư vấn phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2005).
- Địa chí Tiền Giang, Tập 1- Tỉnh uỷ - Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Nxb Văn
nghệ TP. HCM (2005).
Tác phẩm Lịch sử giáo dục Tiền Giang bước đầu dựng lại bức tranh lịch sử về sự hình
thành và phát triển của ngành giáo dục Tiền Giang từ khi Tiền Giang được khai phá (đầu thế
kỉ XVII) đến năm 1995, đặc biệt là 50 năm hình thành, phát triển của nền giáo dục cách
mạng Tiền Giang.
Trong Những trang ghi chép về lịch sử văn hoá Tiền Giang và Tiền Giang bước vào
thế kỉ 21, các tác giả cũng đề cập đến nội dung giáo dục - đào tạo của tỉnh nhà với mục đích
ôn lại các sự kiện lịch sử, văn hoá đã diễn ra trên mảnh đất quê hương nhằm góp phần giáo
dục thế hệ trẻ Tiền Giang lòng tự hào, tình cảm yêu mến quê hương đất nước.
Tác phẩm Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, đã khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của giáo dục - đào tạo Tiền Giang, nêu bật những thành tựu đã đạt được trong những
năm gần đây, đồng thời đưa ra chiến lược phát triển đến năm 2010 và các giải pháp phát
triển giáo dục - đào tạo Tiền Giang trong thời gian tới.
Còn trong Địa chí Tiền Giang, các tác giả đã nêu khái quát tình hình giáo dục - đào
tạo Tiền Giang từ thế kỉ XVII đến năm 2005 qua các giai đoạn cụ thể:
+ Từ thế kỉ XVII đến năm 1861
+ Từ năm 1862 đến năm 1945
+ Từ năm 1945 đến năm 1954
+ Từ năm 1954 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến năm 2005.
Về tổng quan, có thể nhận định, những công trình nghiên cứu về giáo dục – đào tạo
Tiền Giang còn rất ít, tuy có thể tái hiện phần nào giáo dục - đào tạo Tiền Giang thông qua
các công trình vừa nêu, song chưa có tác phẩm hoặc công trình nào đi sâu và trình bày đầy
đủ về giáo dục - đào tạo Tiền Giang trong một giai đoạn cụ thể. Xuất phát từ thực tế đó, trên
cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các công trình đi trước; kết hợp tổng hợp,
nghiên cứu từ nguồn báo cáo tổng kết của ngành giáo dục – đào tạo tỉnh nhà, luận văn sử học
mang tên Giáo dục- đào tạo Tiền Giang hai mươi năm đổi mới (1986- 2006) được tiến
hành.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài Giáo dục- đào tạo Tiền Giang hai mươi năm đổi
mới (1986- 2006) là :
- Góp phần phục dựng bức tranh giáo dục – đào tạo Tiền Giang trong khoảng thời
gian 20 năm từ 1986 đến 2006.
- Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm của chặng đường đã qua, khắc phục
những hạn chế nhằm đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục - đào tạo của Tỉnh
- Qua nghiên cứu, bước đầu kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả hơn
mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo tỉnh nhà trong tương lai.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là hoạt động giáo dục - đào tạo của tỉnh
Tiền Giang trong chặng đường 20 năm đổi mới (1986-2006). Khoảng thời gian đủ để có thể
nhìn nhận những thành quả, những hạn chế của các ngành, các bậc học trong hệ thống giáo
dục – đào tạo tỉnh nhà.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là sự nghiệp giáo dục - đào tạo tỉnh Tiền Giang trong bối
cảnh đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long trong 20 năm đổi mới từ 1986 – 2006.
5.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tìm hiểu và nghiên
cứu lịch sử.
Luận văn sử dụng các phương pháp sau đây để tiến hành nghiên cứu:
- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành như phương pháp nghiên cứu giáo dục; phương
pháp phân tích; phương pháp hệ thống hoá (tư liệu); phương pháp tổng hợp, thống kê (số
liệu) và phương pháp so sánh để giải quyết các vấn đề khoa học của đề tài.
Ngoài ra, tác giả còn thực hiện khảo sát bằng phương pháp điền dã, trực tiếp tiếp cận
các bộ phận lưu giữ nguồn tài liệu có liên quan đến giáo dục – đào tạo tỉnh nhà để thu thập
tài liệu, số liệu; đến một số địa phương có cơ sở giáo dục điển hình để ghi chép, cập nhật
thông tin một cách cụ thể và chính xác.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm có: phần dẫn luận ( 5 trang), 3 chương nội dung chính ( 90 trang ),
phần kết luận ( 12 trang) và một số hình ảnh phụ lục.
- Chương I: Khái quát giáo dục - đào tạo Tiền Giang thời kì trước đổi mới từ 1975
đến 1985
- Chương II: Giáo dục – đào tạo Tiền Giang sau mười năm đổi mới từ 1986 đến
1996.
- Chương III: Giáo dục – đào tạo Tiền Giang từ 1996 đến 2006.
Chương 1
TỪ HAI HỆ THỐNG GIÁO DỤC SONG SONG TỒN TẠI
– GIÁO DỤC CỦA CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ GIÁO DỤC CỦA CHÍNH
QUYỀN THỰC DÂN – ĐẾN MỘT HỆ THỐNG GIÁO DỤC CỦA NƯỚC VIỆT NAM
THỐNG NHẤT (1945 – 1985)
1.1.Khái quát về điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của tỉnh Tiền Giang
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tiền Giang là một tỉnh nằm ở phía Bắc đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự
nhiên là 2.326,09km2 với 32 km bờ biển, địa hình toàn tỉnh tương đối bằng phẳng nhưng bị
cắt xẻ nhiều bởi hệ thống kênh rạch chằng chịt. Theo số liệu thống kê năm 2001, dân số toàn
tỉnh là 1.770.019 người, mật độ dân số 760 người/ km2 . Đây là tỉnh có diện tích nhỏ nhưng mật
độ dân số cao nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long [36, 12]. Điều này phản ánh trong
thực tế sức thu hút của vùng đất này đối với các thành phần cư dân.
Toàn tỉnh có 9 Huyện, Thành, Thị gồm: Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Châu Thành,
Chợ Gạo, Mỹ Tho, Gò Công Tây, Gò Công Đông, Thị xã Gò Công, và 169 Xã, Phường, Thị
trấn, trong đó có 46 xã vùng sâu; giữa phường và xã rất khác biệt về hoàn cảnh kinh tế xã
hội, hạ tầng cơ sở và trình độ dân trí. Vì vậy đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự chênh lệch, khác biệt của hoạt động giáo dục giữa các địa phương khác nhau của tỉnh.
Về giao thông, tỉnh Tiền Giang nằm trên các trục lộ giao thông quan trọng như:
- Đường bộ qua Quốc lộ 1A và Quốc lộ 50.
- Đường thuỷ qua sông Tiền và biển Đông ; đặc biệt đây là tỉnh nằm liền kề với địa
bàn kinh tế trọng điểm phía Nam - cách TP. Hồ Chí Minh 72km về hướng Nam, vì vậy có
nhiều điều kiện thuận lợi cho tỉnh trong sản xuất, buôn bán và mở rộng giao lưu kinh tế, văn
hoá, xã hội với bên ngoài; nhất là với Thành phố Hồ Chí Minh – trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hoá – khoa học kỹ thuật lớn của Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung.
Với toạ độ địa lí 10011’43” và 10035’19” vĩ tuyến Bắc, 105049’12” và 106048’32”
kinh tuyến Đông, Tiền Giang nằm gọn trong khu vực nhiệt đới Bắc bán cầu, tiêu biểu cho
chế độ nhiệt và có độ cao mặt trời lớn, ít thay đổi trong năm, do vậy, tỉnh có khả năng tiếp
nhận một lượng bức xạ rất dồi dào. Lượng bức xạ đó quyết định khí hậu Tiền Giang là khí
hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nền nhiệt cao, ít bão, thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp và không gây trở ngại nhiều cho hoạt động giáo dục – đào tạo.
Tổng quỹ đất tự nhiên của tỉnh là 232.609 ha, trong đó có các loại đất chính:
- Đất phù sa chiếm 52.99%, phân bố dọc bờ sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây, chiếm
phần nhiều diện tích của các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, thành phố Mỹ
Tho và một phần huyện Gò Công Tây. Với nguồn nước ngọt dồi dào đã hình thành ở Tiền
Giang vùng lúa năng suất cao và vườn cây ăn trái, rau màu hàng đầu của đồng bằng sông
Cửu Long.
- Nhóm đất phèn chiếm 19,36 %, phân bố chủ yếu ở khu vực phía Bắc huyện Cai Lậy
và Châu Thành, mặn ít nằm rải rác phía bắc và tây bắc huyện Cái Bè thuộc vùng Đồng Tháp
Mười, Tiền Giang.
- Nhóm đất mặn khoảng 14,59 % chiếm phần lớn diện tích các huyện Gò Công Đông,
Gò Công Tây và một phần huyện Chợ Gạo.
- Nhóm đất cát độ 1.44 % (chủ yếu là đất cát giồng) phân bố rải rác các huyện Cai
Lậy, Châu Thành, Gò Công Tây và tập trung nhiều nhất ở Gò Công Đông thành từng dải
hình vòng cung song song với bờ biển và nhô cao hơn so với vùng đất phù sa xung quanh.
Các giồng cát giữ được nước ngọt cho mùa khô, địa hình lại cao nên những nơi này thường
là những điểm tụ cư đông đúc.
Tiền Giang có hai con sông lớn chảy qua, sông Vàm Cỏ ở phía Bắc và sông Tiền ở
phía Nam. Cùng với các chi lưu của nó đã tạo nên một hệ thống thuỷ vận sống động, đa
dạng không những góp phần làm giàu, đẹp thêm cho vùng đất Tiền Giang mà còn là mạch
máu giao thông nối liền các địa phương. Địa hình sông nước ít nhiều hình thành ở Tiền
Giang hoạt động giáo dục – đào tạo vùng sông nước. Ở đó thầy và trò đều trải qua những
khó khăn nhất định vì vậy để đạt được những mục tiêu chung, những thành tích cụ thể là cả
một sự cố gắng nổ lực của cả ngành giáo dục – đào tạo tỉnh nhà.
Tóm lại, tuy có một ít khó khăn nhưng Tiền Giang có vị thế khá thuận lợi cộng với
những yếu tố “thiên thời, địa lợi” như trên, Tiền Giang từ lâu đã là một trong những trung
tâm văn hoá, giáo dục của toàn Nam bộ, ít nhất là từ đầu thế kỉ XIX trở đi [33,176]
1.1.2. Điều kiện lịch sử, xã hội
Vùng đất Tiền Giang có lịch sử tồn tại lâu đời gắn liền với lịch sử khẩn hoang, lịch sử
các cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước của cộng đồng dân cư trên vùng đất này.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung, trong đó có Tiền Giang, cho đến cuối thế
kỉ XVI, về cơ bản vẫn còn là một vùng đất hoang vu. Đầu thế kỉ XVII, trên vùng đất Tiền
Giang xuất hiện lớp cư dân mới, chủ yếu là người Việt từ miền ngoài di cư vào. Ban đầu,
người Việt đến vùng đất này theo dạng di dân tự do, họ đi lẻ tẻ, gồm những thanh niên khoẻ
mạnh đến khai hoang rồi đưa gia đình vào sau hoặc là nhiều gia đình cùng đi, thấy đất mới
sống được liền tìm cách liên lạc, lôi kéo người thân vào tiếp tục khai hoang.
Những nơi như giồng Sơn Qui, giồng Kiến Định, Ba Giồng, ven sông Tiền là những
nơi người Việt đến khai hoang và định cư sớm. Tiến trình nhập cư của lưu dân người Việt
vào Tiền Giang ngày càng lớn, nhất là sau khi các chúa Nguyễn đã tạo nên ảnh hưởng của
mình trên vùng đất từng là miền ác địa vô chủ này [50, 214].
Trong đoàn người di dân có cả những thầy đồ, tuy không nhiều lắm nhưng có người
biết đọc, biết viết; đôi khi cũng có những người đỗ đạt từng ra làm quan lại cấp thấp nhưng
bị thất cơ lỡ vận ở quê hương, vào Tiền Giang tìm chốn nương thân. Trên vùng đất mới,
những thầy đồ này mở lớp dạy học hoặc được nhân dân rước về nhà dạy cho con em mình.
Trong số đó, có trường hợp cụ Phạm Đăng Xương, gốc người Huế đã dẫn cả gia đình vào
định cư ở giồng Sơn Qui - Gò Công. Cụ chiêu tập dân chúng khai hoang, sản xuất và dạy
học; cụ được dân chúng trong vùng tôn là “Kiến Hoà tiên sanh”. Các lớp con cháu của cụ kế
tục công việc của cha ông nên tiếng tăm dòng họ Phạm Đăng ngày càng lừng lẫy, nhiều
người hiển đạt được đào tạo từ đây như: Võ Văn Lượng, Mạc Văn Tô, Nguyễn Hoài Quỳnh,
Phạm Đăng Hưng…[33, 173-174].
Năm 1679, dư đảng của Trịnh Thành Công ở Đài Loan là Dương Ngạn Địch, Hoàng
Tiến và Trần Thượng Xuyên đem theo binh lính và quyến thuộc trình chúa Nguyễn xin tị nạn
chính trị do chống Thanh phục Minh. Chúa Nguyễn đã cho người hướng dẫn Trần Thượng
Xuyên vào định cư xứ Đồng Nai, Dương Ngạn Địch cùng hơn 1.000 người vào cửa Tiểu, lên
định cư tại Mỹ Tho.
Như vậy, ngoài nhóm người Miên tại chỗ, một bộ phận đông đảo người Việt di dân từ
miền ngoài vào, từ năm 1679, vùng Mỹ Tho có thêm nhóm người Hoa đến sống ở khu vực
chợ Cũ ngày nay. Họ lập Mỹ Tho Đại Phố, có tàu thuyền tới lui buôn bán đông đúc, nhóm
họp người Tàu, người Miên, người Việt, vỡ đất làm ruộng, chia lập trang trại, thôn ấp.
Đến năm 1698, khi Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Nam Bộ, Tiền
Giang đặt dưới sự quản lí hành chánh của hai dinh Phiên Trấn và Long Hồ.
Năm 1772, chúa Nguyễn Phúc Thuần cho lập đạo Trường Đồn, đây là đơn vị hành
chánh đầu tiên ở Tiền Giang.
Đến năm 1779, đạo Trường Đồn đổi thành dinh Trường Đồn.
Năm 1781 dinh Trường Đồn đổi thành dinh Trấn Định.
Năm 1792 thành Mỹ Tho được dựng lên tại lị sở của dinh Trấn Định.
Năm 1808, dinh Trấn Định đổi thành trấn Định Tường.
Đến năm 1832, trấn Định Tường đổi thành tỉnh Định Tường.
Năm 1861 thực dân Pháp đánh chiếm Tiền Giang. Sau khi hoàn tất quá trình xâm
chiếm Nam Kì, thực dân Pháp đã sắp xếp lại các đơn vị hành chính, do đó, năm 1889 Tiền
Giang chia làm 2 tỉnh là Mỹ Tho và Gò Công.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò
Công hợp nhất thành tỉnh Tiền Giang.
Trong đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân Tiền Giang đã góp phần làm nên những
trang sử vẻ vang cho dân tộc. Đó là những chiến công mang đậm dấu ấn của đất và người
Tiền Giang như:
-Trận Rạch Gầm - Xoài Mút diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII, khi quân Xiêm lợi dụng sự
cầu viện của Nguyễn Ánh đã cho 5 vạn quân cùng 300 chiến thuyền tràn vào vùng đất
phương Nam của Tổ quốc. Đầu năm 1785, nhân dân Tiền Giang đã dũng cảm đảm nhận sứ
mệnh nặng nề cùng khởi nghĩa với nghĩa quân Tây Sơn. Chỉ trong ngày 20.01.1785, toàn bộ
chiến thuyền Xiêm đã bị nhấn chìm xuống dòng sông Tiền, đoạn từ Rạch Gầm đến rạch Xoài
Mút. Với thắng lợi này, nhân dân Tiền Giang đã thực hiện một cách trọn vẹn nghĩa vụ bảo
vệ độc lập của tổ quốc và thành quả khai hoang của mình.
- Năm 1861, thực dân Pháp xâm chiếm Tiền Giang, ngay lập tức nhân dân Tiền Giang
đã cầm vũ khí đứng lên chống lại kẻ thù. Đông đảo các tầng lớp nhân dân, trong đó có thành
phần sĩ phu, trí thức - kể cả trí thức khoa bảng cao cấp ở Tiền Giang – cũng đã kiên quyết
đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đáng trân trọng là các sĩ tử bao năm ăn học đều tạm gác
chuyện thi cử, xếp bút nghiên lên đường đánh giặc.
Có lẽ vì thế mà giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX, Tiền Giang được xem là một trong
những trung tâm kháng chiến mạnh nhất ở Nam Kì - nơi tập trung các cuộc khởi nghĩa có
qui mô lớn như:
- Cuộc khởi nghĩa Trương Định với căn cứ Tân Hoà (1861-1864).
- Cuộc khởi nghĩa Thủ Khoa Huân với căn cứ Bình Cách - Chợ Gạo (1861-1875).
- Cuộc khởi nghĩa Võ Duy Dương với căn cứ Ba Giồng – Đồng Tháp Mười (1861-
1866).
- Cuộc khởi nghĩa Tứ Kiệt ở Cai Lậy (1861-1870)…
Đến khởi nghĩa Nam Kì năm 1940, Tiền Giang đã ghi một dấu son rực rỡ trong lịch
sử chống Pháp của dân tộc vì lần đầu tiên ở nước ta lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện; Tiền Giang
từ đó được cả nước xem là quê hương, là cái nôi của cuộc khởi nghĩa Nam Kì long trời lở
đất.
Đuổi Pháp xong, nhân dân Tiền Giang tiếp tục cùng cả nước kháng chiến chống Mĩ.
Ngay từ năm 1959, hoà cùng khí thế “Đồng Khởi”, chiến lược “Chiến tranh một phía” của
Mĩ - Nguỵ bị nhân dân Tiền Giang giáng những đòn chí tử và đi đến phá sản. Tuy nhiên với
bản chất ngoan cố, chúng đã chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, dùng chiến
thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” hòng tiêu diệt quân giải phóng miền Nam.
Ngày 2.1.1963 quân dân Tiền Giang đã làm nên chiến thắng Ấp Bắc vang dội, làm
rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc của Mĩ. Cũng chỉ trong một ngày, với lực lượng
và trang bị kém hơn địch hàng chục lần, quân dân Tiền Giang đã đánh bại chiến thuật “Trực
thăng vận” và “Thiết xa vận” mở ra cao trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trong cả
nước.
Có thể nói, trên vùng đất nằm ở bờ Bắc sông Tiền, cộng đồng cư dân nơi đây đã tạo
nên những trang sử vẻ vang từ buổi đầu khẩn hoang đến quá trình chống ngoại xâm, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tô đậm lịch sử hào hùng của dân tộc. Phát huy truyền
thống Rạch Gầm - Xoài Mút oanh liệt, Trương Định, Thủ Khoa Huân kiên cường, Nam Kì
khởi nghĩa bất khuất, Ấp Bắc anh hùng, nhân dân Tiền Giang ngày càng chung tay góp sức
xây dựng quê hương Tiền Giang ngày càng giàu đẹp, văn minh và hiện đại. Trong quá trình
đó, giáo dục – đào tạo đã đóng góp phần quan trọng.
1.2.Tình hình giáo dục - đào tạo Tiền Giang những năm trước đổi mới
1.2.1.Giáo dục – đào tạo ở Tiền Giang trước giải phóng (1945 – 1975)
1.2.1.1.Tình hình giáo dục của chính quyền thực dân và hệ thống giáo dục kháng chiến
(1945 – 1954)
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, vùng Tiền Giang cũng như các tỉnh khác ở
Nam Bộ đã hình thành hai khu vực quản lý khác nhau nên có hai hệ thống giáo dục khác
nhau:
- Hệ thống giáo dục của chính quyền thực dân.
Hệ thống này giới hạn trong vùng bị địch tạm chiếm ở các thị xã, thị trấn và ven các
trục lộ chính do quân đội Pháp và bọn tay sai chiếm đóng. Hệ thống giáo dục này bao gồm
các trường công, trường tư thục của người Việt, người Hoa và người Ấn.
+ Trường công lập: gồm hệ thống trường tiểu học và trường trung học.
Số lượng trường tiểu học không nhiều do thiếu giáo viên, thiếu kinh phí nên chỉ có
những làng, xã nằm ở ven trục giao thông hoặc ở địa bàn trung tâm mới có trường học.
Trường trung học giai đoạn này vẫn chỉ có Trường Trung học Mỹ Tho (năm 1942,
trường có tên Collège Le Myre de Vilers, từ năm 1953, đổi tên thành Trường Trung học
Nguyễn Đình Chiểu) đào tạo học sinh trung học đệ nhất cấp (tương đương cấp trung học cơ
sở hiện nay) của các tỉnh: Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Cao Lãnh, Sa Đéc, Tân An…
+ Trường tư: gồm có trường của người Việt, người Hoa, người Ấn và trường của đạo
Thiên Chúa.
Trường người Việt có trường tư thục của ông Đốc Ngữ, đây là trường tư thục nội trú
ra đời trước năm 1945, dạy chương trình trung học đệ nhất cấp theo chương trình của
Trường Trung học Mỹ Tho. Các thầy cô giáo của trường đều có tinh thần yêu nước nên họ
đã khéo léo đưa nội dung tiến bộ, yêu nước vào giảng dạy các môn khoa học xã hội, tạo ảnh
hưởng tốt đến nhận thức và tư tưởng cho học sinh theo học nơi đây.
Bên cạnh đó, còn có Trường tư thục Phật Ân – Vĩnh Tường do phần lớn các giáo viên
của Trường Trung học Mỹ Tho về hưu và một số giáo viên từ vùng kháng chiến trở về lập ra
sau năm 1950. Ở trường này, tiếng Việt được coi trọng và trở thành ngôn ngữ chính trong
giảng dạy và học tập.
Trường tư của đạo Thiên Chúa ở Mỹ Tho ra đời từ trước năm 1945, có tên gọi là
Trường Dòng. Lúc đầu, trường dạy chương trình tiểu học rồi trung học đệ nhất cấp. Trường
còn có kí túc xá dành cho học sinh có nhu cầu. Sau đó, trường được đổi tên thành Trường
LaSan dạy cho học sinh là con em giáo dân, giáo viên là các thầy Dòng người Pháp hoặc
người Việt. Về sau, để cạnh tranh với các trường tư thục khác, trường lấy thêm học sinh
không theo đạo Thiên Chúa vào học. Tại thị xã Gò Công, trường đạo cũng ra đời nhưng có
qui mô nhỏ hơn Trường LaSan.
Hệ thống các trường tư của Ấn kiều, Hoa kiều cũng xuất hiện ở Mỹ Tho từ trước năm
1945. Do sự ưu đãi của chính quyền thực dân nên các trường này phát triển với số lượng
ngày càng đông.
Tại chùa Chà (nay tọa lạc đường Trịnh Hoài Đức, phường 2, Thành phố Mỹ Tho) có
mở lớp dạy giáo lí đạo Hồi cho con em Ấn kiều.
Trường của Hoa kiều được thành lập theo từng bang, như ở đường Trịnh Hoài Đức,
phường 2, Thành phố Mỹ Tho có trường Tân Dân (nay là Trường trung học cơ sở Phường 2)
dành cho con em bang Phước Kiến và bang Triều Châu. Trên đường Phan Thanh Giản có
trường Sùng Chính (nay là Trung tâm bồi dưỡng thường xuyên Thành phố Mỹ Tho) dành
cho con em bang Hẹ. Mỗi trường là một trung tâm sinh hoạt văn hoá, giáo dục, thể thao của
các sắc tộc người Hoa định cư tại Mỹ Tho. Nội dung giảng dạy của các trường này vẫn phải
theo chương trình do Bộ Gíao dục của chính quyền Bảo Đại ban hành, ngoài ra còn dạy
thêm tiếng mẹ đẻ cũng như khái quát lịch sử văn hoá của dân tộc họ.
Đội ngũ giáo viên các cấp thời kì này còn thiếu nhiều, chỉ có một số ít được đào tạo
qua sư phạm. Cụ thể như ở Trường Trung học Mỹ Tho, phần đông giáo viên là người Pháp
và có cả một số người ngoài ngành được mời tham gia giảng dạy như: luật sư Nguyễn Văn
Huyền dạy tiếng Pháp, luật sư Nguyễn Lâm Sanh dạy Sử Địa..
Chương trình học do Bộ trưởng Giáo dục của chính quyền Bảo Đại ban hành với mục
tiêu chủ yếu là giáo dục học sinh có tinh thần “quốc gia” để chống lại ảnh hưởng của nền
giáo dục cách mạng.
Tại Mỹ Tho - Gò Công cũng như các tỉnh khác ở Nam Bộ, từ những năm 1940 trở về
trước tiếng Pháp được học từ lớp Đồng ấu (học sinh 7 tuổi), lớp Nhì (tương đương lớp 2 hiện
nay) trở lên; tiếng Pháp được coi như chuyên ngữ trong nhà trường. Còn tiếng Việt và Văn
học dân tộc phải có sự đấu tranh quyết liệt của thầy cô giáo và học sinh mới được đưa dần
vào chương trình học, nhưng chỉ thi vấn đáp và điểm thi tính hệ số 1 như một cột điểm kiểm
tra bình thường – tức là chưa được coi trọng.
Nói về nội dung đấu tranh này phải kể đến vai trò của một số thày cô giáo và học sinh
ở các trường Collège de Mỹ Tho (nay là trường trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu),
trường Nam tiểu học và trường Nữ trung học Lê Ngọc Hân…
Cùng với sự thất thế của Pháp ở Việt Nam, từ khoá học 1951-1952, tiếng Việt mới
chính thức thay thế tiếng Pháp trong các trường công thuộc hệ thống giáo dục của địch ở Mỹ
Tho. Ngay đến tên trường phổ thông trung học Nguyễn Đình Chiểu mặc dù Trường ra đời
ngày 17.03.1879 nhưng đến 74 năm sau (22.02.1953), khi cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân ta vào giai đoạn kết thúc, phong trào đòi quyền độc lập tự chủ lên mạnh và phong
trào đấu tranh của học sinh phát triển, trường mới vinh dự được mang tên nhà thơ yêu nước
Nguyễn Đình Chiểu (trước đó trường mang tên Thống đốc Nam Kì Collège le Myre de
Vilers) [34, 38].
Sau khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Kì, tại tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công cũ, các
trường công ra đời trước đó được tăng cường củng cố nhằm đào tạo lớp người phục vụ âm
mưu chiếm đóng lâu dài đất nước ta.
Nhìn chung, số lượng trường công và trường tư trong vùng địch tạm chiếm còn rất ít ,
không đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân. Tình trạng thất học trở nên phổ biến. Đại
đa số con em nhân dân lao động đều mù chữ.
Một điểm rất đáng lưu ý là các trường công, tư trong hệ thống giáo dục của chính
quyền địch được kiểm soát gắt gao nhưng tại Tiền Giang, dưới nhiều hình thức khác nhau,
phong trào yêu nước, cách mạng của học sinh vẫn được duy trì và phát triển. Không ít thầy
giáo tuy được Pháp đào tạo nhưng lại có tinh thần yêu nước, có nhân cách tốt, thường ủng hộ
phong trào đấu tranh của học sinh. Có thầy, thông qua giảng dạy đã giáo dục lòng yêu nước
và nhân cách cho học sinh. Có thầy còn rời thành thị thoát li gia đình vào bưng biền tham gia
chống Pháp như thầy Trụ, thầy Nguyên... Các thầy đã nêu tấm gương sáng của người trí thức
chân chính.
Đối với học sinh, phần lớn họ tuy sống trong vùng tạm chiếm nhưng đều có lòng yêu
nước, sẵn sàng tham gia các cuộc đấu tranh chống Pháp và tay sai. Trước và sau năm 1945,
tại trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, nhiều học sinh đã bí mật tham gia Mặt trận Việt
minh, số khác thoát li tham gia cách mạng.
Đầu tháng 5.1950, hơn 100 học sinh của Mỹ Tho, Cai Lậy và Tân An (Long An) đã
rời đô thị vào vùng căn cứ Bao Ngạn - Chà Là (Thạnh Phú, Cai Lậy), để gia nhập bộ đội,
chiến đấu chống Pháp. Tuy bị đàn áp khốc liệt nhưng nhiều học sinh trường Collège de Mỹ
Tho không ngại hiểm nguy trốn vào bưng biền tham gia kháng chiến, trong đó, tiêu biểu là
các ông Huỳnh Văn Niềm (Bí thư Tỉnh uỷ Tiền Giang), ông Cao Văn Sáu, ông Thái Sanh
Hạnh.
Ngày 9.1.1950, hưởng ứng cuộc đấu tranh tưởng niệm học sinh Trần Văn Ơn của
trường Petrust Ký bị Pháp bắn chết; học sinh toàn tỉnh mà nòng cốt là học sinh tại Mỹ Tho,
bất chấp sự khủng bố đe dọa của địch đã xuống đường biểu tình đấu tranh. Đoàn biểu tình đi
từ nhiều hướng đến tập kết tại ga xe lửa (nay là khu vực công viên Thủ Khoa Huân), rồi theo
đường Clémenceau (nay là đường 30 tháng 4) đến dinh Tỉnh trưởng đưa yêu sách với nội
dung phản đối chính quyền Pháp khủng bố đàn áp học sinh, lên án hành động giết chết học
sinh Trần Văn Ơn và đòi nhà cầm quyền xét xử những kẻ giết người. Sau đó, đoàn đi tuần
hành trên một số đường phố chính và giải tán tại chợ Mỹ Tho.
Bên cạnh cuộc đấu tranh sôi nổi tại Mỹ Tho, lực lượng học sinh còn cử đại biểu lên
Sài Gòn viếng tang học sinh Trần Văn Ơn và tham gia biểu tình cùng hàng ngàn học sinh và
quần chúng tại Sài Gòn – Chợ Lớn.
Từ năm 1951-1953, phong trào thanh niên học sinh ở Tiền Giang bùng lên mạnh mẽ
có sự liên kết với phong trào học sinh ở Sài Gòn và Cần Thơ tạo nên một làn sóng đấu tranh
rầm rộ của học sinh ở các đô thị miền Nam. Tại trường Nguyễn Đình Chiểu, phong trào đấu
tranh diễn ra rất sôi nổi, buộc thực dân Pháp Pháp phải chấp nhận một số yêu sách của học
sinh.
Thông qua các phong trào đấu tranh, lòng yêu nước của học sinh được khích lệ, nhiều
người trong số họ đã bỏ học ra bưng biền hoạt động cách mạng, trong đó có những nữ sinh
như Lý Thị Thảo, Trần Tường Châu…
Năm 1954 Pháp thất bại ở Đông Dương, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, phong trào
đấu tranh đòi hoà bình, tổng tuyển cử, thống nhất đất nước phát triển mạnh mẽ trong các
trường học trong tỉnh, tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh của học sinh và thầy giáo ở một
số trường tại huyện Cái Bè, Cai Lậy, thị xã Mỹ Tho.
- Hệ thống giáo dục của chính quyền kháng chiến:
Trước tình hình thất học phổ biến trong tỉnh, tại các vùng kháng chiến, chính quyền
cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân đánh giặc vừa tổ chức xây dựng hệ thống giáo dục kháng
chiến từ cấp tỉnh đến xã, ấp vùng sâu nhằm đáp ứng nhu cầu học hành của nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ, phục vụ cuộc kháng chiến lâu dài. Xuất phát từ quan điểm “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” của Bác Hồ, Đảng bộ Mỹ Tho đã chủ trương xoá mù chữ cho nhân dân trong
tỉnh. Các lớp bình dân học vụ ra đời khắp nơi được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt.
Trường tiểu học kháng chiến Phan Lương Trực và trường Bổ túc Văn hoá đã ra đời ở
Hậu Mỹ (Cái Bè) đặt nền móng ban đầu cho sự hình thành và phát triển của nền giáo dục
cách mạng ở Mỹ Tho – Gò Công.
Tại các vùng căn cứ, vùng sâu thuộc huyện Cái Bè, Cai Lậy, trường lớp của ta được
dựng lên bằng cây tre, lá dừa; bàn ghế đóng bằng cây hoặc tre ghép lại rất đơn giản nhưng
không khí thi đua học tập rất sôi nổi. Thành quả lớn nhất của nền giáo dục cách mạng tỉnh
nhà trong thời kì này là việc đẩy mạnh phong trào Bình dân học vụ và Bổ túc văn hoá.
Trong hoàn cảnh chính quyền cách mạng ở Mỹ Tho còn non trẻ, vừa xây dựng vừa
củng cố chính quyền vừa lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp, việc đào tạo đội ngũ
giáo viên chính qui là điều chưa thể thực hiện ngay được, nhưng Ty giáo dục Mỹ Tho dưới
sự lãnh đạo của trưởng Ty Nguyễn Thanh Cần – thời gian đầu - sau đó là Thầy Trần Hữu
Khối và phó Ty Bảy Nhơn đã chủ trương nghiên cứu soạn thảo chương trình và kịp thời đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cho các trường, lớp kháng chiến. Ty giáo dục Mỹ Tho còn
kịp thời mở các lớp tập huấn ngắn hạn ở vùng căn cứ Cái Bè để bồi dưỡng, đào tạo giáo viên
phục vụ nền giáo dục kháng chiến tỉnh nhà.
Mặt khác,._. với chính sách trí vận, một số trí thức yêu nước trong vùng địch tạm chiếm
đã được giác ngộ cách mạng, thoát li ra vùng kháng chiến tham gia dạy học. Một số cán bộ,
chiến sĩ và thương bệnh binh có trình độ học vấn cũng đã trở thành những người thầy chống
giặc dốt. Đây chính là đội ngũ giáo viên cách mạng đầu tiên của tỉnh nhà.
Đồng thời, Sở Gíao dục Nam Bộ đã mở các lớp sư phạm cấp tốc trong năm 1948 và
Trường Sư phạm Nam Bộ năm 1949 để đào tạo giáo viên tiểu học và bình dân học vụ cho
các tỉnh Nam Bộ, trong đó có Mỹ Tho – Gò Công.
Trong vùng tranh chấp, ta đã tranh thủ những giáo viên có tinh thần dân tộc hoặc cài
người vào bộ máy quản lí nhà trường của địch nhằm đưa những quan điểm tiến bộ về lịch sử,
văn hoá, đạo đức để cổ vũ lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của học sinh.
Có thể nói, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, thành quả lớn nhất của nền giáo
dục cách mạng ở Tiền Giang là phát triển phong trào Bổ túc văn hoá, Bình dân học vụ trong
nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong tỉnh. Trong hoàn cảnh đầy gian nan, nguy hiểm ngành giáo
dục đã góp phần cho sự lớn mạnh của cuộc kháng chiến, sức mạnh ấy làm cho địch phải
hoang mang lo sợ. Theo báo cáo của Ty công an tỉnh Mỹ Tho ngày 25.1.1955, địch đã thú
nhận:…Lấy dân làm căn bản cho cuộc đấu tranh chính trị, Việt Minh đã thu được nhiều kết
quả khả quan, đáng chú ý hơn hết là việc lãnh đạo phong trào quần chúng, việc thành lập các
cơ quan y tế và các lớp bình dân học vụ trong các hương thôn.[26, 1134]
Đội ngũ giáo viên cách mạng trong thời kì này đã nêu những tấm gương sáng vì sự
nghiệp giáo dục và giải phóng dân tộc như: Thầy Nguyễn Thanh Cần- Trưởng Ty giáo dục
đã có nhiều công lao đặt nền móng cho nền giáo dục cách mạng của tỉnh, thầy bị địch sát hại
năm 1954; thầy Phan Lương Trực, Nguyễn Văn Tiếp, Phan Đình Lân đều nêu cao khí tiết
anh dũng, tô thắm truyền thống tốt đẹp của nhà giáo tỉnh Mỹ Tho.
Như vậy, trong thời kì kháng chiến chống Pháp (1945-1954), ngành giáo dục Mỹ Tho
- Gò Công đã có những đóng góp to lớn trong việc nâng cao dân trí và bồi dưỡng tinh thần
cách mạng cho nhân dân, nhất là lực lượng thanh niên - học sinh, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp. Đồng thời tạo điểm tựa để giáo dục – đào
tạo tỉnh nhà phát huy, nâng cao hiệu quả gíao dục – đào tạo trong các giai đoạn kế tiếp, đặc
biệt là góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân ta trong 9 năm kháng chiến chống
Pháp.
1.2.1.2. Hoạt động giáo dục ở vùng tạm chiếm và hệ thống giáo dục Cách mạng (1954 –
1975)
Trong giai đoạn 1954 - 1975, ở Tiền Giang tồn tại song song hai hệ thống giáo dục có
mục đích, nội dung và chương trình học hoàn toàn khác nhau. Trong đó, hệ thống giáo dục
cách mạng mặc dù hoạt động trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nhưng ngày càng phát
triển và tác động mạnh đến một bộ phận không nhỏ giáo chức và học sinh trong hệ thống
giáo dục thuộc vùng tạm chiếm của Mỹ - ngụy.
Sự vận hành của hai hệ thống giáo dục nhìn chung chịu ảnh hưởng, chi phối của các
giai đoạn chiến tranh trong toàn miền và sự chi phối của các thời kì chiến tranh ở Tiền
Giang.
Những năm 1954 - 1975, chiến trường Tiền Giang trải qua 4 giai đoạn:
- Giai đoạn đấu tranh giữ gìn, phát triển lực lượng cách mạng và cao trào nổi dậy
(7.1954 - 3.1961).
- Giai đoạn phát động chiến tranh nhân dân, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” (4.1961 - 4.1965).
- Giai đoạn đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, góp phần đánh bại chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” (5.1965 - 10.1968).
- Giai đoạn kiên cường bám trụ, đánh bại các cuộc phản kích, góp phần làm thất bại
chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” (11.1968 - 30.4.1975).
Trước 30.4.1975, Tiền Giang bao gồm hai đơn vị hành chính cấp tỉnh của Mỹ - ngụy
(tỉnh Định Tường, tỉnh Gò Công) cũng là địa bàn Mỹ - ngụy âm mưu thông qua hệ thống
giáo dục phản cách mạng tìm mọi cách giành giật, lôi kéo thế hệ trẻ và mọi tầng lớp nhân
dân.
- Hệ thống giáo dục ở vùng tạm chiếm.
Bộ máy giáo dục của chính quyền Sài Gòn được tổ chức trên nền tảng tổ chức giáo
dục của Pháp dần dần có sự cải tiến theo mô hình Mỹ. Tại Tiền Giang từ sau 1954 có Ty
Tiểu học Định Tường, Ty Tiểu học Gò Công do Nha trung học Sài Gòn quản lí chứ không
thuộc tỉnh.
Về chương trình, cơ bản áp dụng chương trình Hoàng Xuân Hãn (tên Bộ trưởng Bộ
Giáo Dục và Mỹ thuật trong chính phủ Trần Trọng Kim) có từ năm 1945. Sau năm 1954,
chương trình có nhiều lần cải tiến. Từ năm học 1970 - 1971, các lớp được gọi theo thứ tự số:
- Tiểu học có các lớp 1,2,3,4,5
- Trung học là các lớp 6,7,8,9,10,11,12.
Sự phân chia này áp dụng đến năm 1975. Nội dung giảng dạy được cải tiến cập nhật
nhiều lần, bên cạnh giáo dục tri thức còn có giáo dục hướng nghiệp.
Trường lớp bố trí chủ yếu ở thành phố, thị xã, thị trấn, ven trục lộ và các ấp chiến
lược. Đội ngũ giáo chức lúc này có 5.230 giáo viên tiểu học, 1.120 giáo viên ở các trường
trung học.
Bên cạnh đó, địch thành lập hai trường sư phạm đào tạo giáo viên 12+2 cho các
trường tiểu học với qui mô trên dưới 120 giáo sinh một khoá, một Viện Đại học cộng đồng
(Viện Đại học Cộng đồng Tiền Giang) đào tạo giáo viên trung học đệ nhất cấp cho các tỉnh
Định Tường, Gò Công, Trúc Giang, Tân An, Cao Lãnh với qui mô 150 giáo sinh một
khoá.[26, 1134].
Tại Mỹ Tho, Gò Công, Mỹ - Diệm cho xây dựng bộ máy thống trị, đào tạo đội ngũ tay
sai, đưa tay chân vào nắm các chức vụ then chốt ở tỉnh, quận, các ngành quan trọng trong đó
có giáo dục. Cuối năm 1954, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đưa về Mỹ Tho hơn 30.000 đồng
bào công giáo miền Bắc bị ép di cư vào Nam và một số cha cố bố trí trên các địa bàn xung
yếu của Tỉnh như khu vực từ xã Long Định đến chùa Phật Đá xã Mỹ Phước, khu vực từ Xoài
Hột đến xã Bình Đức – Châu Thành và nhiều khu vực khác trong thị xã Mỹ Tho làm hậu
thuẫn chính trị và công cụ chống phá cách mạng.
Hệ thống giáo dục của chính quyền địch ra sức tô vẽ, tuyên truyền tư tưởng chống
cộng, đề cao tư tưởng quốc gia. Sách giáo khoa và chương trình học các bậc học phổ thông
có sự thay đổi đáng kể, do các đoàn cố vấn văn hoá giáo dục Mĩ biên soạn. Thông qua nội
dung chương trình, chúng tuyên truyền văn hoá, giáo dục chống cộng, truyền bá lối sống Mĩ,
tuyên truyền cho mối quan hệ “Việt – Mĩ”, loại bỏ dần ảnh hưởng của Pháp trong thanh niên
học sinh.
Ngoài các trường công, Ngô Đình Diệm khuyến khích mở trường tư thục, trường học
của đạo Thiên Chúa. Sau năm 1954, giáo dân di cư từ miền Bắc vào đã mở trường tư thục
Châu Phúc Liêm, lúc đầu trường đặt cuối đường Hùng Vương, thành phố Mỹ Tho do linh
mục Nguyễn Văn Hoà làm hiệu trưởng, trường dạy chương trình văn hoá cấp hai. Sau đó
trường Châu Phúc Liêm đổi tên là Rạng Đông và dời về gần cổng chào thành phố hiện nay.
Khi đế quốc Mĩ có mặt ở Mỹ Tho, Gò Công, chúng mua lại khu đất của trường, trường
bắt đầu chuyển về phường 5 (khu đất hiện là trường Đại học Tiền Giang - Cao đẳng Sư phạm
trước đây) với tên mới là Zoan 23. Trường này được chính quyền địch hết sức nâng đỡ nên
cạnh tranh gay gắt với các trường tư thục khác. Lúc mới ra đời trường chỉ có 20 học sinh, khi
dời về phường 5 (thành phố Mỹ Tho) có tới hàng ngàn học sinh và tồn tại đến năm 1975.[34,
45-46].
Sau 1954, một số cán bộ kháng chiến về mở lại Trường Trung học tư thục Nguyễn
Công Trứ (tại đầu cầu bạch Nha, phường 5, Thành phố Mỹ Tho), trường thường xuyên có
khoảng 500 học sinh theo học. Ở các huyện trong tỉnh cũng lần lượt hình thành các trường tư
thục như Cai Lậy có 2 trường, giáo viên là các thầy giáo từ vùng kháng chiến trở về hoặc đội
ngũ giáo chức về hưu, giáo viên thỉnh giảng từ Mỹ Tho về dạy.
Giai đoạn 1961 - 1965, nhiều trường tư thục mới ra đời như: Đức Trí, Tin Lành, Phục
Hưng, Trường bán công Trương Công Định, Trường bán công ban đêm ở Nguyễn Đình
Chiểu (trong thành phố Mỹ Tho) và một số trường tư thục ở thị xã Gò Công, thị trấn Cai
Lậy, Cái Bè với qui mô trung bình, chịu sự quản lí, kiểm soát của địch, phục vụ âm mưu dồn
quân bắt lính. Ở các trường phổ thông trung học trong toàn tỉnh, địch đưa chương trình huấn
luyện quân sự vào học chính khoá.
Tóm lại có thể phục dựng, phác thảo lại hệ thống giáo dục ở vùng tạm chiếm của tỉnh
Tiền Giang thời gian này thông qua mạng lưới các cơ sở giáo dục sau:
Tính đến 30.4.1975, tại Tiền Giang có các cơ sở nằm trong hệ thống giáo dục ở vùng
tạm chiếm sau:
Tư thục: 42 trường
Trường và điểm trường: công lập, tỉnh hạt, bán công, phổ thông, nghề có 470 điểm
trường được chia ra các cấp học:
+ 6 trường mẫu giáo
+ 273 điểm trường sơ cấp cộng đồng
+ 110 trường tiểu học cộng đồng
+ 51 điểm trường trung học đệ nhất cấp (từ lớp 6 đến lớp 9).
+ 20 điểm trường trung học toàn cấp (cấp 2 - 3).
+ 9 trường nông lâm súc và kỹ thuật và 1 trường dạy nghề.
Trong vùng tạm chiếm, phong trào đấu tranh của giáo viên, học sinh Mỹ Tho - Gò
Công ngày càng lên cao. Sôi nổi nhất là các phong trào của học sinh trường Trung học
Nguyễn Đình Chiểu, Trung học Lê Ngọc Hân. Hình thức đấu tranh ngày càng phong phú.
Ngày 30.4.1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, học sinh trường Trung học
Nguyễn Đình Chiểu, Trung học Lê Ngọc Hân đã dùng loa phóng thanh gắn lên xe đạp chạy
khắp thành phố để thông báo. Cùng khi đó, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
được kéo lên cao giữa sân trường Nguyễn Đình Chiểu - lá cờ cách mạng đầu tiên báo hiệu
Mỹ Tho được giải phóng.
- Hệ thống giáo dục cách mạng.
Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hệ thống giáo dục cách mạng ở Mỹ Tho,
Gò Công là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi hoạt động hợp pháp. Nội dung yêu nước được
đưa vào giảng dạy, qua đó giành lại con tim khối óc của học sinh, đồng thời lôi kéo giáo viên
ở vùng địch kiểm soát hướng về cách mạng.
Phong trào đấu tranh của học sinh, giáo chức ở Mỹ Tho, Gò Công ngày càng lên cao,
mặt khác, do tác động tích cực của hệ thống giáo dục cách mạng và những nhân tố tích cực
tiến bộ trong hệ thống giáo dục địch nên tinh thần cách mạng của nhân dân Mỹ Tho, Gò
Công tiếp tục được hun đúc, góp phần tạo nên sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Năm 1963, Tiểu ban Giáo dục tỉnh Mỹ Tho thành lập nhằm xây dựng, mở rộng hệ
thống trường lớp cách mạng ở vùng giải phóng, nâng cao trình độ cho dân chúng và cung
cấp cán bộ cho phong trào cách mạng.
Những năm 1961 - 1965, nền giáo dục cách mạng ở Tiền Giang phát triển khá vững
chắc. Ngoài việc ra đời và phát triển ngành học sư phạm, ngành học phổ thông và bổ túc
văn hoá đạt nhiều thành tích lớn; góp phần đào tạo nhiều thanh thiếu niên ưu tú cung cấp
cho các ngành trong tỉnh, nhiều học viên các trường bổ túc văn hoá đã trở thành những cán
bộ chiến sĩ trung kiên của Đảng hay những cán bộ chủ chốt trong các ban ngành của tỉnh,
huyện.
Cuối 1965, Tiểu ban giáo dục Khu được củng cố rất vững chắc về chuyên môn và tổ
chức. Lúc này, tại rừng Nhum (Long An), Khu đã mở Trường sư phạm trung cấp đào tạo
giáo viên cấp II cho các tỉnh. Cuối 1968, trường dời về Tà Nu (biên giới Campuchia) và mở
thêm hai khoá sư phạm đào tạo giáo viên cho Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, An Giang.
Nhờ vậy, Mỹ Tho, Gò Công có lực lượng giáo viên khá mạnh; góp phần duy trì hoạt động
giảng dạy ở các trường, lớp ngay cả những lúc ác liệt nhất.
Từ 1969, phong trào thanh niên học sinh ở Tiền Giang phát triển với chất lượng mới,
thành đoàn Mỹ Tho đã đưa được lực lượng thanh niên nòng cốt tham gia vào Ban đại diện
học sinh ở các trường lớn trong thị xã. Trường Nguyễn Đình Chiểu lúc này đã thành lập
được một Chi bộ Đảng, một Chi đoàn thanh niên nhân dân cách mạng hoạt động tích cực
trong các phong trào văn, thể mỹ của Trường.
Trong hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, địch có nhiều thủ đoạn chống phá cách mạng,
nhiều giáo viên dạy ở trường vùng địch vẫn hướng về cách mạng, ít nhiều có những hành
động cụ thể để giữ gìn truyền thống tốt đẹp của nhà giáo Tiền Giang.
Những năm 1971 - 1974, công tác giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh. Cuối 1974, toàn
tỉnh Tiền Giang có 10.500 học sinh phổ thông, gần 1.000 học sinh bổ túc văn hoá, một số xã
ấp cơ bản xoá mù chữ [34, 58].
Tổng kết thành tích giáo dục trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã tặng thưởng ngành giáo dục Tiền
Giang 5 Huân chương chống Mỹ cứu nước, 7 Huy chương chống Mỹ cứu nước và 186 Huân
chương, 70 Huy chương chống Mỹ cứu nước cho cá nhân [34, 59].
Tặng thưởng này phản ánh hoạt động tích cực và hiệu quả của giáo dục – đào tạo Tiền
Giang trong thời kỳ kháng chiến nhưng đồng thời cũng là điểm tựa, điểm xuất phát vững
chắc để giáo dục – đào tạo Tiền Giang tiếp tục phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của mình
khi đất nước hoà bình, thống nhất.
1.2.2. Tình hình giáo dục- đào tạo Tiền Giang từ sau ngày giải phóng đến những năm
trước đổi mới (1975 - 1985)
1.2.2.1. Tình hình chung
Ngày 1.5.1975 Tiền Giang hoàn toàn giải phóng. Chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy
giáo dục của Tỉnh đã nhanh chóng hình thành từ tỉnh xuống tận các huyện, xã và đi vào hoạt
động song gặp rất nhiều khó khăn:
- Là một tỉnh nông nghiệp nhưng liên tiếp những năm 1978,1979, Tiền Giang bị lũ lớn
và rầy nâu tàn phá gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp; hậu quả này còn ảnh
hưởng đến nhiều năm sau.
- Ngoài ra, Tiền Giang còn kết nghĩa với tỉnh Pursat của nước bạn Campuchia vì vậy
có nghĩa vụ chi viện giúp bạn nhiều mặt trong đó có giáo dục. Trọng tâm của hoạt động chi
viện rơi vào những năm 1979 - 1989. Chính vì thế, công tác khôi phục phát triển sản xuất, ổn
định đời sống nhân dân, chăm lo phát triển văn hoá, xã hội, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục
là việc làm trọng tâm hàng đầu của Tỉnh; thu hút công sức, trí tuệ của các cấp lãnh đạo tỉnh
và nhân dân Tiền Giang giai đoạn này.
- Là một tỉnh bị địch tập trung bình định, đánh phá ác liệt trong suốt cuộc chiến tranh,
dù Tiền Giang có những nỗ lực rất lớn nhưng cho đến đầu năm 1975, ở những vùng kháng
chiến của tỉnh chỉ mới có 8.200 học sinh phổ thông, thiếu sinh quân, trong đó chủ yếu là học
sinh cấp I; 195 cán bộ giáo viên và 45 giáo sinh sư phạm ở các xã, ấp vùng sâu, vùng tranh
chấp chưa có đủ trường thu hút trẻ từ 6 - 15 tuổi vào lớp, nhiều xã vùng sâu chưa có học sinh
cấp II, nạn thất học trầm trọng, giữa năm 1975 cả tỉnh có gần 150.000 người mù chữ trong
độ tuổi 15 - 50 [34, 60].
Nhiệm vụ đặt ra cho ngành giáo dục Tiền Giang sau ngày giải phóng là xoá bỏ cơ cấu
tổ chức, nội dung, chương trình sách giáo khoa của chế độ cũ, thay bằng chương trình, nội
dung của Bộ Giáo dục hướng dẫn đối với vùng mới giải phóng.
Nhiệm vụ chính trị của ngành giáo dục – đào tạo tỉnh nhà được cụ thể hoá theo từng
năm học. Trong đó, những năm 1975 - 1985, nhiệm vụ bao trùm hơn cả là thực hiện xoá mù
chữ, phát triển các ngành học, xây dựng đội ngũ giáo viên và xây dựng cơ sở vật chất.
Nhìn chung, do hậu quả trước đó để lại nặng nề:
- Đồng bào mù chữ còn nhiều
- Trình độ dân trí đa phần còn thấp
- Cơ sở vật chất của xã hội, đặc biệt của giáo dục – đào tạo còn thiếu…
- Ảnh hưởng của văn hoá nô dịch hãy còn phổ biến, một bộ phận không nhỏ thanh thiếu
niên quen ăn chơi đua đòi, ngại lao động và học hành.
- Đội ngũ giáo viên chỉ có một số ít từ vùng giải phóng trở về, còn lại đại bộ phận giáo
viên được lưu dụng lại từ chế độ củ.
Khó khăn là thế nhưng thấm nhuần quan điểm của Đảng không để giáo dục bị gián
đoạn, chỉ 10 ngày sau giải phóng, ngành giáo dục Tỉnh đã nhanh chóng tiếp quản tất cả các
trường học, bước đầu ổn định hoạt động, phân bố đội ngũ giáo viên bắt tay ngay vào việc
dạy và học từ tháng 9.1975. Mùa tựu trường năm ấy đã để lại một ấn tượng khó quên đối với
các em học sinh và giáo viên. Lần đầu tiên lễ khai trường diễn ra trong không khí thanh bình
của quê hương hoàn toàn giải phóng. Với nhiều cố gắng và nổ lực, thời gian đó giáo dục –
đào tạo Tiền Giang đã đạt nhiều kết quả khả quan.
1.2.2.2 Kết quả của 10 năm nổ lực (1975 – 1985)
Trong 10 năm (1975 - 1985), ngành giáo dục – đào tạoTiền Giang đã đạt những thành
tựu quan trọng:
Giáo dục mầm non:
Trước 1975, trong hệ thống giáo dục của chính quyền cũ, ngành học mầm non ở toàn
miền Nam nói chung và ở Tiền Giang nói riêng ít được quan tâm. Toàn tỉnh chỉ có 6 trường
mẫu giáo, trong đó có 4 trường tư, 2 trường công (Thị xã Gò Công và thành phố Mỹ Tho
mỗi nơi chỉ có 1 trường mẫu giáo công lập).
Sau 1975, chính quyền cách mạng giải tán 4 trường tư và công lập hoá 2 trường công
trước đây (Trường Thiên Mẫu học đường ở Mỹ Tho và Trường Têrêsa ở Gò Công). Còn ở
vùng giải phóng của tỉnh, do tình hình chiến sự ác liệt nên chính quyền cách mạng không
chủ trương tập trung các cháu mẫu giáo nhằm tránh sự huỷ diệt do chiến tranh gây ra. Vì
vậy, ngành giáo dục mầm non ở Tiền Giang chỉ thực sự bắt đầu hoạt động bởi sự nỗ lực của
ngành giáo dục Tiền Giang từ sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước.
Cũng sau năm1975, số lượng giáo viên và học sinh gia tăng không ngừng:
- Chỉ riêng năm học 1975 - 1976, Tiền Giang có 5.200 học sinh mẫu giáo (trước
30.4.1975 tỉnh chỉ có 1.100 học sinh mẫu giáo).
- Đến năm 1985 toàn tỉnh có 145/148 xã phường có trường hoặc lớp học mẫu giáo với
tổng số lớp là 892, thu hút 28.057 cháu đến học. So với trước năm 1975 số trong độ tuổi ra
lớp đã tăng lên 26 lần, so với tổng số dân đạt tỉ lệ 2,15% [34, 62]. Sau đây là:
Bảng Thống kê quá trình và tốc độ phát triển ngành mầm non
Thời
điểm
Số xã,
phường có
trường MG
Số trường
riêng
Số
lớp
Số
học sinh
Tỉ lệ so với
số trẻ trong
độ tuổi MG
10/1975
1980
1985
31/129
107/130
145/148
2
3
66
132
530
892
5.200
17.000
28.057
6,8%
19,4%
26,1%
Nguồn: Tài liệu lưu trữ của Sở Giáo dục Tiền Giang
Nguồn giáo viên được giải quyết kịp thời bằng việc mở các lớp đào tạo cấp tốc, kể cả
ngắn và dài hạn. Càng về sau, hoạt động giảng dạy càng được tổ chức chặt chẽ và phong
phú. Ngoài việc thực hiện chương trình theo chỉ đạo của Bộ, ngành còn chủ động biên soạn
tài liệu, cải tiến chương trình, hình thành các chuyên đề nên kết quả đạt được khá tốt, chất
lượng ngành học phát triển hơn nhiều.
Giáo dục phổ thông
Đến ngày giải phóng 30.4.1975, tổng số học sinh phổ thông các cấp do cả hai hệ thống
giáo dục huy động đến lớp tại tỉnh Tiền Giang là 215.500 học sinh.
Tháng 9.1975, trong hoàn cảnh bộn bề của đất nước vừa mới giải phóng, ngành giáo
dục Tiền Giang đã có nhiều cố gắng trong việc triển khai lực lượng trên qui mô lớn thu hút
khá đông học sinh ra lớp. Chỉ sau 4 tháng đã huy động được 215.987 em, con số này tuy
không lớn nhưng rất đáng trân trọng bởi sự nỗ lực của ngành giáo dục phổ thông với lực
lượng nòng cốt từ vùng kháng chiến trở về. Lực lượng chưa đầy 200 người nhưng đã biết kết
hợp sử dụng có tình, có lí lực lượng giáo chức cũ, cùng giáo viên mới đào tạo ngắn hạn, duy
trì và bước đầu phát triển giáo dục trên qui mô toàn tỉnh; đưa bậc học phổ thông không
ngừng tăng nhanh về số lượng [34, 63].
+ Ở cấp tiểu học:
Giai đoạn trước năm 1981, cấp tiểu học còn giảng dạy theo chương trình cũ, lạc hậu,
thiếu thực tế, nội dung còn nhẹ so với tâm lí, lứa tuổi học sinh, chưa theo nhu cầu phát triển
của lớp trẻ.
Từ năm 1981, chấp hành chỉ đạo của Bộ, ngành giáo dục Tiền Giang đã đồng loạt
triển khai công tác cải cách giáo dục tiểu học. Theo đó đã tiến hành thay sách giáo khoa ở
bậc học tiểu học. Việc làm này đã đưa đến kết quả như sau: So với trước năm 1975, năm
1985 tại tỉnh Tiền Giang, học sinh cấp I tăng 1,35 lần, đạt 16,9% (đối chiếu với tỉ lệ dân số)
[26, 1138].
+ Cấp Phổ thông cơ sở:
Từ chỗ nhiều xã vùng sâu, vùng kháng chiến chưa có học sinh cấp II, từ năm học
1983 - 1984 trở đi tất cả các xã phường trong tỉnh đều có từ 1đến 2 trường phổ thông cơ sở
hoàn chỉnh; một số xã phường có đến 3 trường phổ thông cơ sở.
Năm 1985, ở 947 khóm, ấp trong tỉnh đã có 1.100 điểm, trường học thuận tiện cho
việc học tập của học sinh kể cả các vùng sâu. Riêng Thành phố Mỹ Tho và huyện Gò Công
Tây đã mở các lớp phổ thông đặc biệt, thu hút học sinh quá độ tuổi hoặc học dở dang vào
học tiếp.
Kết quả là, so với trước năm 1975, năm 1985 học sinh cấp II tăng 2,35 lần đạt 5,77%
(đối chiếu với 1.399.100 dân) [26, 1138]
+ Cấp Phổ thông trung học:
Từ năm 1982 trở đi, ở các vùng sâu trong tỉnh, học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở có
thể tiếp tục theo học phổ thông trung học, tỉ lệ thu nhận vào lớp 10 của tỉnh là 60 - 75%.
Năm 1985, toàn tỉnh có 19.628 học sinh phổ thông trung học, so với số dân của tỉnh, đạt tỉ lệ
1,48% (tỉ lệ bình quân cả nước lúc đó là 1,3%, đồng bằng sông Cửu Long là 0,58%, Hà Nội
2,02%). Trong đó, thành phố Mỹ Tho đạt tỉ lệ cao nhất 3,03%, Gò Công Đông 1,52%, Chợ
Gạo 1,48% [34, 64]. Thống kê dưới đây cho thấy quá trình phát triển liên tục của bậc học
phổ thông trung học từ năm 1975 - 1985
Thống kê tình hình phát triển bậc phổ thông trung học từ 1975 – 1985
Năm Số
trường
Số lớp Số học
sinh
1975 9 171 8.100
1980
1985
10
11
201
403
9.188
19.628
Nguồn: tài liệu lưu trữ tại Sở Giáo dục Tiền Giang
Ở cấp tiểu học và trung học cơ sở, năm 1985 số phòng học tăng gấp 1,7 lần, số giáo
viên tăng 2,2 lần, số học sinh tăng 1,3 lần so với năm 1975. Riêng cấp trung học phổ thông,
so với năm 1975, năm 1985 số lớp tăng 2,2 lần, số giáo viên tăng 3,5 lần và số học sinh tăng
gấp 2,4 lần.[50, 971].
Nhìn chung, chất lượng giáo dục đạt khá tốt, trong đó, cấp trung học phổ thông đã có
học sinh giỏi cấp quốc gia; tỉ lệ học sinh lớp 9 lên lớp 10 ở các vùng sâu, vùng xa có tiến bộ
rõ rệt.
Hưởng ứng chủ trương cải cách của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ năm học 1981 - 1982,
toàn tỉnh đã tiến hành thay sách cải cách giáo dục từ cấp I đến cấp III; song song đó tiến
hành điều chỉnh cải cách giáo dục cấp I và cấp II đưa chất lượng dạy học ngày càng lên cao.
Bên cạnh đó, với sự giúp đỡ của Bộ Giáo dục, Phân viện khoa học Giáo dục tại thành
phố Hồ Chí Minh, ở Tiền Giang công tác nghiên cứu khoa học giáo dục tiên tiến, tổng hợp
sáng kiến kinh nghiệm, áp dụng trong thực tế giảng dạy ngày càng phát triển sâu rộng, vững
chắc đã động viên được nhiều cán bộ, giáo viên trong ngành tham gia với nhiều sáng kiến
kinh nghiệm và đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục có giá trị.
Từ năm 1980 - 1985, toàn ngành giáo dục tỉnh nhà có 611 bài viết đạt kết quả tốt,
trong đó có 4 sáng kiến kinh nghiệm đạt loại xuất sắc được báo cáo ở cấp Bộ và các tỉnh phía
Nam.
Từ tháng 8.1975, việc xoá mù chữ được triển khai trong toàn tỉnh. Tháng 6.1976, có
1/3 số người mù chữ được xoá dốt, Tỉnh đã phát động chiến dịch thi đua “Phất cao cờ Ấp
Bắc, quét sạch giặc dốt và đẩy mạnh bổ túc văn hoá”. Hưởng ứng chiến dịch này, lần lượt
các xã: Long Bình, Vĩnh Bình (Gò Công), Tân Hoà Tây (Cai Lậy), Tân Mỹ Chánh, Phường
1 (Mỹ Tho) đã công bố hoàn thành xoá mù chữ.
Công tác xoá mù chữ và bổ túc văn hoá luôn được quan tâm. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh và toàn ngành giáo dục – đào tạo Tiền Giang đã quyết tâm ra quân diệt giặc dốt.
Phong trào được tiến hành qua hai giai đoạn trước và sau Chỉ thị 221 của Ban chấp hành
trung ương Đảng về xoá mù chữ. Ngày 3.2.1977 tỉnh đã công bố hoàn thành cơ bản công tác
xoá mù cho 132.500 người (đạt 96,4%). Sau tổng kết, Tiền Giang là một trong những tỉnh
hoàn thành kế hoạch sớm nhất thuộc khu vực các tỉnh phía Nam (đứng thứ hai, sau Long An)
về xoá mù chữ [36, 971].
Tiếp nối thắng lợi của việc xoá mù chữ, toàn ngành tiếp tục phát động phổ cập lớp 2,3
với nhiều hình thức học phong phú như :
- Học tập trung ở các trường Bổ túc văn hoá tỉnh, huyện.
- Học dân chính ban đêm
- Học tại chức cơ quan
- Học định kì
Các hình thức học tập này đã thu hút đông đảo thanh niên, cán bộ, công nhân viên các
cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, bộ đội, công an và nhân dân vào học.Tính đến tháng 3.1978,
toàn tỉnh đã cơ bản hoàn thành phổ cập lớp 2 với tỉ lệ 80,8%, trở thành tỉnh dẫn đầu các tỉnh
phía Nam về phổ cập văn hoá lớp 2. Đặc biệt, đến tháng 4.1978, thành phố Mỹ Tho đã hoàn
thành phổ cập lớp 3, trở thành đơn vị cấp huyện phổ cập lớp 3 đầu tiên ở phía Nam.
Từ 1975 đến 1985, ngành học giáo dục Bổ túc ở Tiền Giang đã xoá mù chữ cho
142.000 người, trong đó có 5.400 người tốt nghiệp Bổ túc văn hoá trung học, gần 200 người
đi học các trường Đại học trong nước, 350 người học các trường Đảng Trung ương tỉnh,
1.800 học viên là giáo viên cấp I và mẫu giáo; số còn lại là cán bộ nòng cốt của các cấp, các
ngành trong tỉnh. Từ năm 1981 trở đi, Tiền Giang luôn là tỉnh ở phía Nam có số học viên thi
hết cấp III cao thứ hai sau thành phố Hồ Chí Minh [34, 65].
Từ năm học 1983 - 1984, trên cơ sở những thành tích đạt được, Tiền Giang được Bộ
giáo dục lựa chọn làm đơn vị thí điểm “Chương trình cải cách bổ túc văn hoá cấp II và cấp
III”. Nhiều giáo viên và học viên đã tham gia giảng dạy và học tập chương trình thí điểm cải
cách này. Nội dung học do Bộ Giáo dục biên soạn dưới dạng chuyên đề giành cho đối tượng
là cán bộ chủ chốt cấp huyện, xã, ấp của đồng bằng sông Cửu Long. Chương trình này đã
thực nghiệm thành công, được nhà nước nghiệm thu và triển khai rộng rãi cho các tỉnh ở
đồng bằng sông Cửu Long. Có thể nói đây là đóng góp rất có ý nghĩa của đội ngũ giáo viên
bổ túc văn hoá tỉnh Tiền Giang cho ngành học bổ túc văn hoá các tỉnh phía Nam.
Trong vòng 10 năm (1975 - 1985), đã có 500.000 lượt người theo học các trường Bổ
túc văn hoá tập trung, tại chức; 10.400 lượt người theo học cấp 3 bổ túc văn hoá. Kết quả là
142.000 người được xoá mù chữ và tiếp tục nâng cao trình độ văn hoá; người ít nhất nâng
lên 1 lớp, người nhiều nhất nâng lên 8 lớp.
Về giáo dục chuyên nghiệp:
Ngay sau ngày Tiền Giang giải phóng, ngành giáo dục đã tổ chức tiếp quản, cải tạo
Trường Sư phạm cộng đồng Mỹ Tho thành Trường Trung Học Sư phạm chuyên đào tạo
giáo viên chính qui cho các trường cấp I trong tỉnh.
Ngành giáo dục – đào tạo tỉnh nhà còn củng cố đội ngũ cán bộ, giáo viên trường sư
phạm vùng căn cứ cũ; ngành giáo dục chuyên nghiệp đào tạo tập trung và tại chức cấp tốc
giáo viên cấp I hệ 9+3 tháng và hệ 12+1 tháng nhằm đáp ứng kịp thời qui mô phát triển
trường lớp ở các vùng sâu trong tỉnh.
Tại tuyến huyện, ngành giáo dục đã kịp thời mở các lớp tập huấn giáo viên mẫu giáo
ngắn hạn. Cuối năm 1976, Trường sư phạm trong vùng căn cứ và trường Trung Học Sư
Phạm đã sáp nhập, đào tạo tập trung và tại chức giáo viên cấp I hệ 9+1, 9+2, 9+3 và 12+1
(năm). Từ năm học 1980 - 1981 Trường Trung Học Sư Phạm còn làm thêm nhiệm vụ đào
tạo giáo viên mẫu giáo chính qui hệ 9+1, 9+2, 9+3 và 12+1 [26, 1139].
Từ năm học 1982 - 1983, trường Bồi dưỡng giáo dục ở các huyện trong tỉnh lần lượt
ra đời, nhưng sau đó do nhiều yếu tố khách quan, cả tỉnh chỉ còn trường Bồi dưỡng giáo dục
Thành phố Mỹ Tho. Tuy nhiên, sự ra đời của các trường này đã góp phần quan trọng trong
việc bồi dưỡng tại chỗ và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên; giải quyết nhiều vấn đề thực tế trong
quá trình thực hiện yêu cầu cải cách giáo dục, nâng cao hiệu quả dạy và học trong tình hình
mới.
Có thể nói, với nhiều nổ lực, bằng nhiều biện pháp thích hợp; ngành giáo dục – đào
tạo tỉnh nhà đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn (kể cả ở những vùng sâu vùng xa của
tỉnh). Các ngành học, cấp học tăng lên đều đặn, năm sau cao hơn năm trước. Nếu như giai
đoạn trước có nhiều xã trắng về giáo dục thì đến năm học 1979 - 1980, xã nào cũng có
Trường tiểu học, Trường trung học cơ sở, huyện nào cũng có Trường trung học phổ thông
đáp ứng nhu cầu học tập của con em trong Tỉnh.
Tổng kết 10 năm, từ 1975 - 1985, ngành giáo dục – đào tạo Tiền Giang đã có:
- 83.000 học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở, trong đó có 63% vào học các trường
trung học phổ thông, còn lại vào các trường trung cấp chuyên nghiệp, đi nghĩa vụ quân sự
hoặc tham gia sản xuất.
- 24.000 học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, hàng năm có 8 đến 10% đậu Đại
học, Cao đẳng (tỉ lệ và số lượng cao nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long).
- Hơn 5.400 học viên tốt nghiệp cấp 3 bổ túc văn hoá.
Trên thực tế, thành quả trên góp phần thiết thực nâng cao trình độ văn hoá cho cán bộ,
nhân viên, thanh niên và nhân dân trong tỉnh; đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế,
văn hoá, xã hội của tỉnh.
Ngoài ra, ngành giáo dục - đào tạo Tiền Giang còn giúp đỡ chuyên gia, cơ sở vật chất,
trao đổi kinh nghiệm và tổ chức bộ máy giáo dục cho tỉnh Pursat của nước bạn Campuchia.
Để làm tròn nhiệm vụ chi viện đó ngành đã phải cố gắng rất nhiều trong điều kiện tỉnh nhà
còn thiếu thốn.
Tóm lại, trong hoàn cảnh bộn bề khó khăn của những năm đầu giành độc lập, thống
nhất đất nước; ngành giáo dục – đào tạo Tiền Giang đã tập trung mọi nổ lực nhằm giúp thầy
và trò nhận thức đầy đủ thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, hiểu biết về chủ nghĩa xã
hội để tích cực góp phần xây dựng đất nước dưới góc độ nhiệm vụ của mỗi đơn vị, mỗi cá
nhân. Ngoài ra, những cán bộ lãnh đạo có nhiệm vụ quản lý ngành phải biết kết hợp nhuần
nhuyễn, bám sát mục tiêu của từng ngành học, từng cấp học; từng bước gây dựng làm cho
nhà trường có những chuyển biến về chất lượng giáo dục và đào tạo.
Với ý nghĩa đó, hoạt động giảng dạy có nhiều cải tiến rõ ràng và cụ thể:
- Ở bậc mầm non đã đưa các chuyên đề làm quen với toán, làm quen với chữ cái,
hướng dẫn vui chơi, tập thói quen vệ sinh cho các cháu…
- Ở bậc phổ thông, các hoạt động chuyên môn mới được đưa vào áp dụng như sử dụng
lực lượng giáo viên và một số học sinh biên soạn chương trình 10% thời lượng mà Bộ dành
cho địa phương (lịch sử, địa lí..)
Kết quả đáng ghi nhận trong giai đoạn này là ngành giáo dục Tiền Giang đã hoàn
thành một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất là xoá mù chữ cho nhân dân trong
Tỉnh chỉ 2 năm sau ngày giải phóng (1977). Đây được xem là nền tảng cơ bản để ngành giáo
dục – đào tạo tỉnh nhà đẩy mạnh giáo dục toàn diện, nâng ._.nh lân cận nguồn lao động chất lượng cao.
Bên cạnh đó, Tỉnh còn chi ngân sách xây dựng kí túc xá sinh viên tại Thành phố Hồ
Chí Minh và Cần Thơ; thực hiện không thu phí đối với học sinh, sinh viên thuộc diện gia
đình nghèo, thu phí thấp đối với các trường hợp còn lại - tạo thuận lợi cho con em tỉnh nhà
an tâm học tập và rèn luyện. Có lẽ nhờ vậy, chất lượng giáo dục – đào tạo của Tiền Giang
ngày càng cải thiện.
Công tác chống mù chũ – phổ cập giáo dục của Tiền Giang được Bộ Giáo dục – Đào
tạo đánh giá tốt vì đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học năm 1996, tạo cơ sở, tiền đề để
hoàn tất phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2006.
2. Mười năm kế tiếp từ 1996 đến 2006, cùng với cả nước, giáo dục – đào tạo ở Tiền
Giang đã chuyển mình phát triển sâu rộng nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước. Cơ sở vật chất và mạng lưới trường lớp ở các cấp học đều được củng cố và
phát triển; từng bước hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ
học giảm nhiều so với giai đoạn trước. Điều đáng mừng là từ năm 2004 không còn các lớp
học tạm bằng tranh, tre và các lớp học ca ba; số trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp học
tăng đáng kể.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Đến năm 2005, giáo
viên ngành mầm non và phổ thông đảm bảo tương đối đạt chuẩn theo qui định của Bộ Giáo
dục – Đào tạo; các môn trước đây thiếu giáo viên như: Nhạc, Họa, Kỹ thuật ở các bậc học
phổ thông đã đảm bảo đủ.
Về đội ngũ giáo viên dạy nghề hầu hết đã đạt và trên chuẩn. Đây là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng lớn đến quá trình đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho tỉnh nhà. Năm 2005,
tỉ lệ giáo viên có trình độ Thạc sĩ là 8% ở các trường Trung học chuyên nghiệp và 38% ở
trường Cao đẳng. [53,7-8]
Trong 20 năm đổi mới, giáo dục – đào tạo Tiền Giang còn tham mưu với lãnh đạo
Đảng, chính quyền các cấp của Tỉnh thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, xây
dựng xã hội học tập. Nhiều địa phương đã tổ chức Đại hội giáo dục, Đại hội khuyến học, Đại
hội cựu giáo chức góp phần đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học
tập.
Lãnh đạo các cấp trong Tỉnh nói chung, ngành giáo dục nói riêng đã quan tâm lo lắng
đến một bộ phận dân cư bị thiệt thòi. Vì vậy đã phát động phong trào chống mù chữ cho
người lớn và trẻ em thất học liên tục từ năm 1975 đến nay; tổ chức, phối hợp nhiều lực lượng
cùng tham gia chống mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học. Tất cả các xã, phường, thị trấn, các
trường tiểu học, trường phổ thông cơ sở đều có cán bộ chuyên trách được phân công theo dõi
ổn định nên nắm chắc trình độ dân cư trong vùng. Động thái này đã góp phần hữu hiệu để
Tiền Giang là tỉnh đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh đứng thứ 16 trong cả nước
hoàn thành chống mù chữ - phổ cập giáo dục tiểu học sớm.
3.Trong hai mươi năm đổi mới, giáo dục – đào tạo Tiền Giang đã cố gắng cùng cả
nước phấn đấu phát triển theo hướng hiện đại hóa để có thể từng bước giao lưu, hội nhập với
các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Dù chưa thật sự thỏa mãn nhưng
giáo dục – đào tạo tỉnh nhà đã cải thiện, từng bước phát triển nguồn nhân lực của Tỉnh, góp
phần làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân người
lao động. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho sản xuất và chất lượng cuộc sống xã hội nói chung
tăng lên ít nhiều. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được giáo dục – đào tạo Tiền
Giang vẫn còn những tiêu cực và hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục Tỉnh nhà. Đó
là:
- Sự cách biệt giữa thành thị với nông thôn, vùng sâu vùng xa trong tỉnh còn khá lớn.
Tỉ lệ người tốt nghiệp cấp II trở lên ở thành thị là 54,68% so với nông thôn là 22,97% (năm
2000) và 73,52% ở thành thị, 39,17% ở nông thôn (năm 2005). [53, 11]. Khoảng cách về
trình độ nêu trên ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến việc đào tạo nguồn nhân lực, bởi lẽ mặt
bằng học vấn để đào tạo nghề và đào tạo chuyên môn kỹ thuật những năm gần đây phải từ
cấp II trở lên.
- Đội ngũ giáo viên Trung học còn thiếu so với qui định của Bộ; nhất là ở các vùng
sâu, vùng xa do học sinh bậc trung học liên tục tăng trong những năm qua và còn tiếp tục
tăng trong những năm tới.
- Cơ sở vật chất ở một số trường học hiện còn thiếu thốn và lạc hậu. Nhiều trường
thiếu phòng thực hành, phòng thí nghiệm, thiếu sân chơi, bãi tập, thiếu nhà vệ sinh và nước
sạch. Bên cạnh đó, một số trường ở khu vực thành thị có diện tích nhỏ hẹp, khó đáp ứng yêu
cầu trường chuẩn quốc gia và hiện đại hoá cơ sở vật chất.
- Tình trạng dạy thêm - học thêm còn phổ biến, ở một số nơi không kiểm soát và quản
lý được đã dẫn đến tiêu cực trong học tập và thi cử.
- Một số trường dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp qui mô đào tạo
còn nhỏ, thiết bị dạy nghề cũ, lạc hậu, chưa liên kết đào tạo với các trường dạy nghề trung
ương. Một số trường lớp ở các cấp học trên thực tế chưa thật đồng bộ, nhất là bậc mầm non.
Các trường mẫu giáo, nhà trẻ chỉ tập trung ở các thị xã, thị trấn, hoặc dạng trường liên xã
(nhiều xã ấp lân cận mới có một điểm trường). Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động
sản xuất và việc huy động trẻ ra lớp đúng độ tuổi.
- Những biến động kinh tế - xã hội của Tỉnh có tác động mạnh đến giáo dục, đặc biệt
là yếu tố kinh tế. Tình trạng học sinh bỏ học (ở cả thành thị và nông thôn), hoặc bỏ dở
chương trình bậc phổ thông trung học tham gia vào các cơ sở đào tạo nghề, tham gia lao
động sản xuất những năm gần đây khá phổ biến do sức ép kinh tế, do vật giá chi phối. Tốc
độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong tỉnh còn chậm tác động không thuận lợi đến việc tăng thu
ngân sách và đầu tư cho giáo dục.
- Sức hút về đầu tư và nhân lực của Tiền Giang về giáo dục và đào tạo không mạnh,
không đủ sức cạnh tranh với các trung tâm phát triển khác vì vậy ảnh hưởng nhiều đến quá
trình xã hội hoá giáo dục.
4. Là một giáo viên, hoạt động trực tiếp trong ngành giáo dục – đào tạo Tỉnh nhà;
thông qua đề tài, trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, nhận định tình hình giáo dục –
đào tạo của Tỉnh từ 1986 đến 2006, luận văn xin được đề xuất, kiến nghị một số giải pháp
tổng thể và cụ thể mong góp phần đưa giáo dục Tiền Giang đạt thành quả cao hơn trong
tương lai. Về tổng thể:
- Cần khẩn trương hiện đại hoá nền giáo dục vì đây là xu hướng chung có tính khách
quan đối với các nền dục còn chậm phát triển. Hiện đại hóa nền giáo dục Tiền Giang nằm
trong phạm trù công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà; trong đó gồm có: hiện đại hoá về
cơ sở vật chất, phương tiện dạy - học, hiện đại hoá chương trình, nội dung phương pháp giáo
dục tạo sự cân đối giữa giáo dục tri thức với giáo dục đạo đức, giáo dục hướng nghiệp, kết
hợp giáo dục truyền thống, tri thức hiện đại với giáo dục kĩ năng sống cho người học.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ - giáo viên, cán bộ quản lí có phẩm chất năng lực đáp ứng
yêu cầu hiện đại hoá, ngày càng có nhiều nhà giáo vừa hồng vừa chuyên. Muốn vậy, Tỉnh
cần có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ cho tất cả thày cô giáo và cán bộ
quản lý giáo dục. Ngoài ra phải cử cán bộ đi đào tạo sau đại học đặc biệt là lực lượng nòng
cốt, lực lượng tổ, chức quản lí để đáp ứng yêu cầu xây dựng hệ thống giáo dục tiên tiến.
- Chú ý đến sự tương quan hợp lí trong hệ thống giáo dục: giữa giáo dục mầm non,
phổ thông với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên; giữa giáo dục với đào tạo.
- Thực hiện đa dạng hóa giáo dục; bao gồm đa dạng về hình thức, nội dung, phương
thức, chương trình, môn học để người học có điều kiện lựa chọn. Tạo nhiều cơ hội cho nhiều
người được học theo hướng xây dựng xã hội học tập, góp phần làm cho giáo dục – đào tạo
Tỉnh nhà ngày càng năng động, linh hoạt, có hiệu quả.
- Biến mục tiêu dạy chữ, dạy người và dạy nghề thành một thể thống nhất trong quá
trình giáo dục – đào tạo; khắc phục tình trạng lúng túng khi thì chú trọng dạy người, khi thì
tập trung nhiều cho dạy chữ. Muốn vậy, cần xây dựng cơ chế, thiết lập cơ cấu để thực hiện
phương châm này một cách hiệu quả và bền vững.
- Về quản lý, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh cần thành lập Ban chỉ đạo thực hiện các
chương trình đầu tư, phát triển giáo dục – đào tạo, tổ chức theo dõi chương trình đến khi
hoàn thành, đạt kết quả. Mặt khác cũng cần có kế hoạch kiểm tra tình hình dạy thêm - học
thêm ở tất cả các cấp học.
- Trân trọng và mạnh dạn sử dụng trí thức, từng bước thu hút và xây dựng đội ngũ trí
thức của Tỉnh nhà; hạn chế tình trạng trí thức rời quê hương lập nghiệp ở nơi khác. Tiền
Giang là một trong những tỉnh có hiện tượng này xảy ra (khá phổ biến trong những năm gần
đây).
Về cụ thể, xin được kiến nghị những điểm sau:
Từ sau năm 1996, mục tiêu của giáo dục – đào tạo ở Tiền Giang nói riêng và cả nước
nói chung là phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên khái niệm
này chưa phải đã được hiểu một cách đầy đủ, cập nhật. Vì vậy cần tổ chức những lớp học
chuyên đề, qua đó giúp cán bộ, giáo viên trong Tỉnh nhận thức nội dung “công nghiệp hóa –
hiện đại hóa” và hiểu vì sao “khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu” ?
Về nội dung công nghiệp hóa, ngay từ năm 1961, Đại hội III của Đảng cộng sản Việt
Nam đã đề ra mục tiêu công nghiệp hóa; nhưng mãi tới Đại Hội IV, sau khi nước nhà thống
nhất, nhiệm vụ này mới có thể tiến hành trong cả nước. Do hoàn cảnh đặc biệt của nước nhà
nên quá trình công nghiệp hóa ở nước ta kéo dài nửa thế kỷ và ta chỉ còn ít thời gian nữa để
chạy đua nước rút thực hiện cho được mục tiêu này.
Một yêu cầu nhận thức rất quan trọng nhưng ta đã bỏ qua đó là khái niệm công nghiệp
hóa ngày nay đã khác so với những năm 60 – 70 của thế kỷ trước. Lâu nay ta quen hiểu mục
tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện đại nhưng chủ yếu chỉ thể hiện khía cạnh chuyển dịch
cơ cấu và phương thức sản xuất từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, từ phương
thức lao động cơ bắp sang máy móc. Trong khi đó, theo đúng nghĩa, khái niệm công nghiệp
hóa ngày nay đã khác, không chỉ liên quan đến bản thân ngành công nghiệp mà công nghiệp
chỉ có thể phát triển nếu nó song hành với sự phát triển dịch vụ, với kinh tế tri thức, trong đó
phần chất xám chiếm tỉ trọng cao. Vì vậy cần phải đặt ưu tiên số một cho vấn đề phát triển
nguồn nhân lực, vì trong mọi trường hợp và mọi thời đại, đây là nhân tố có ý nghĩa quyết
định.
Mặt khác, nước ta hoàn tất quá trình công nghiệp hóa trong bối cảnh thế giới đang
biến đổi rất sâu sắc. Trong hoàn cảnh như vậy, người làm công tác giáo dục, đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước phải hiểu và nhận thức
công việc của mình.
Một vấn đề nữa cũng cần được nhận thức là nên hiểu vấn đề nguồn nhân lực theo
nghĩa rộng chứ không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực giáo dục kiến thức và tay nghề đơn thuần.
Trong xã hội công nghiệp, hiện đại không chỉ cần những con người giỏi tay nghề, có kiến
thức mà rất cần những người có lối sống hiện đại, văn minh, có kỹ luật, có tác phong công
nghiệp. Muốn thực hiện mô hình mới coi trọng hiệu quả và chất lượng đào tạo, thực hiện
công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì không thể không gắn kết phát triển kinh tế và nguồn nhân
lực với khoa học công nghệ. Vì vậy cần cho đội ngũ làm công tác giáo dục – đào tạo nhận
thức khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu thay vì là động lực then chốt.
- Cần có những tiêu chí đánh giá cụ thể đối với giáo dục – đào tạo đồng thời chú trọng
một số nội dung liên quan đến giáo dục Tỉnh nhà. Để đánh giá thành tựu và hạn chế của một
hoạt động xã hội, cần có số liệu để so sánh, đặc biệt là phải có tiêu chí làm cơ sở để xác định
một cách khoa học, tránh dùng những cụm từ đánh giá “chung chung” như: về thành tích “có
chuyển biến tích cực”, “góp phần nâng cao”, “bước đầu đạt kết quả tích cực”… Về hạn chế
thì “chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển
và hội nhập”…. Thiết nghĩ cần chọn một số trong các chỉ số sau đây để xây dựng chỉ tiêu
đánh giá:
- Mặt bằng dân trí trung bình trong dân cư từ 6 tuổi trở lên
- Tỉ lệ huy động người trong độ tuổi vào học mầm non 5 tuổi, phổ thông, dạy nghề
và đại học
- Tỉ lệ trẻ 5 tuổi và học sinh tiểu học được học 2 buổi ngày
- Tỉ lệ lao động kỹ thuật cao trong công nhân
- Mức đầu tư trên đầu học sinh có tốc độ tăng không kém tốc độ tăng trưởng GDP
của Tỉnh
- Tỉ lệ trường đạt chuẩn quốc gia.
Sau đó, việc kiểm chứng các chỉ tiêu trên có đạt hay không sẽ do Cục Thống kê Tỉnh
thực hiện bằng những cuộc khảo sát khách quan phối hợp với các ngành chuyên môn và các
quận huyện trong Tỉnh. Ngoài ra, cần phải đánh giá đúng mức chất lượng giáo dục đạo đức,
tư cách của học sinh trong Tỉnh vì đây là vấn đề đáng quan tâm nhất trong chất lượng giáo
dục hiện nay, nó phản ánh tính chất ưu việt của nhà trường xã hội chủ nghĩa và giáo dục
truyền thống Việt Nam “tiên học lễ, hậu học văn”. Có đánh giá đúng chất lượng đạo đức của
học sinh mới có thể tìm ra nguyên nhân của những tình trạng đang gây lo ngại cho cha mẹ
học sinh nói riêng và xã hội nói chung như: bạo lực học đường, ham chơi, ít ham học, ngại
chọn ngành nghề “cực”…. Suy cho cùng vì hoạt động giáo dục khác hoạt động kinh tế. Do
đó đích đến của giáo dục là con người chứ không phải con số.
Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học và xây dựng xã hội
học tập, Bộ Chính trị đã có Chỉ thị 11 về vấn đề này. Vì vậy ngành giáo dục – đào tạo Tỉnh
cần quan tâm, nhắc nhở đảng viên và công chức học tập nếu không nói hai đối tượng này
phải gương mẫu thực hiện lời dạy của Bác “mỗi ngày ít nhất phải học tập 1 tiếng đồng hồ”
để dân chúng noi theo. Có như vậy mới thiết thực đưa vấn đề xây dựng xã hội học tập vào
đời sống hàng ngày.
- Cần có những đánh giá kết quả giáo dục – đào tạo Tiền Giang so với khu vực đồng
bằng sông Cửu Long và cả nước làm cơ sở giải quyết những bài toán khó của giáo dục – đào
tạo Tỉnh nhà.
Theo tổng kết của chính phủ, đồng bằng sông Cửu Long hàng năm sản xuất khoảng
50% sản lượng lúa, 52% sản lượng thủy sản, 70% sản lượng trái cây; đóng góp khoảng 90%
lượng gạo xuất khẩu và 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước [“Đánh thức tiềm
năng Đồng bằng sông Cửu Long”- Báo Thanh Niên số ra ngày 7.9.2010]. Đây là vùng có 3
lợi thế lớn:
+ Vị trí địa lý thuận lợi, trung tâm của khu vực Đông Nam Á, có thể kết nối
thuận lợi về giao thông với các nước trong khu vực và thế giới.
+ Nguồn tài nguyên vô cùng phong phú
+ Đặc biệt là có nguồn lao động dồi dào.
Nhưng thời gian qua, sự phát triển kinh tế - xã hội của cả vùng vẫn còn nhiều hạn chế,
yếu kém chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Một trong những điểm yếu là
chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế. Nguồn lao động dồi dào được xem là lợi thế song
nguồn lao động ấy chưa qua đào tạo lại trở thành rào cản lớn đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư Võ Hồng Phúc đã từng nhận xét tổng kết: “chất
lượng nguồn nhân lực ở đồng bằng sông Cửu Long thuộc dạng thấp nhất cả nước”, Ông cũng
dẫn chứng: “trong số 100 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, ở đồng bằng sông Hồng
có tới 30 em vào đại học, trong khi đó ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 14 em”[Báo
Thanh Niên đã dẫn]. Điều này đặt ra một bài toán lớn cho giáo dục – đào tạo đồng bằng sông
Cứu Long trong đó có Tiền Giang.
Để vực dậy đồng bằng sông Cửu Long, về phía nhà nước đã lưu ý việc tiếp cận theo
vùng, liên kết vùng nhằm tránh sự lặp đi lặp lại giữa các tỉnh trong khu vực. Theo góc độ đó,
có thể chia:
- Các tỉnh dọc biển như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau gắn kết với Phú Quốc
hình thành một cụm.
- Các tỉnh Cần Thơ, An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp hình thành một cụm.
- Riêng 3 tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre là một cụm. Ba tỉnh này có điều kiện
thuận lợi để tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu nên thu hút các dự án hàm lượng kỹ
thuật cao, công nghệ hiện đại. Như vậy rõ ràng giáo dục – đào tạo của Tỉnh nhà phải gắn
chặt và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Việc nắm bắt các điều kiện thuận
lợi và khó khăn là điều cực kỳ quan trọng giúp các cấp lãnh đạo Tỉnh có phương hướng và
kế hoạch cụ thể để định hướng công tác giáo dục – đào tạo nhằm đưa Tỉnh nhà thoát khỏi sự
yếu kém bấy lâu. Tuy nhiên muốn thực hiện được yêu cầu đó, ngành giáo dục – đào tạo Tiền
Giang cần phải có chiến lược xây dựng, cải thiện đời sống giáo viên và cán bộ trong ngành
giáo dục. Nghĩa là yêu cầu “nhà giáo phải sống được bằng lương” cần phải đặt ra một cách
nghiêm túc, cụ thể.
Tóm lại, sau hai mươi năm đổi mới giáo dục – đào tạo Tiền Giang đã trải qua một
chặng đường khá dài. Ở hai giai đoạn phát triển nối tiếp nhau: 1986 - 1996 và 1996 - 2006
căn cứ vào đặc điểm tình hình chung của đất nước và của Tỉnh, có thể nhận ra sự thay đổi,
chuyển biến tích cực của giáo dục – đào tạo Tỉnh nhà sau mỗi năm hoặc mỗi một giai đoạn
cụ thể. Hiện nay, cả nước vẫn đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu đánh giá những thành tựu hạn chế của giáo dục – đào tạo Tỉnh nhà
trong thời gian qua là việc làm hết sức cần thiết. Qua đó càng thấy được vai trò to lớn của
Đảng, của Nhà nước và toàn thể cán bộ giáo viên Tỉnh nhà. Họ thật sự giữ vị trí quan trọng
trong giáo dục – đào tạo Tỉnh nhà trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đức Hưng, Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và
giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Phan Trọng Báu, Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb KHXH, 1994.
3. Bộ giáo dục và đào tạo, Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỉ XXI kinh nghiệm
của các quốc gia. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ giáo dục và đào tạo, Các định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo từ nay
đến năm 2020, 1995.
5. Bộ giáo dục và đào tạo, Các chủ trương đổi mới giáo dục-đào tạo trong mười năm
(1986-1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
6. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo dục Đại học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2004.
7. Bộ giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Chiến lược phát triển giáo
dục trong thế kỉ XXI kinh nghiệm của các quốc gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Viện nghiên cứu phát
triển giáo dục, Những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kì công nghiệp
hoá-hiện đại hoá- Cơ sở lí luận và thực tiễn xây dựng chiến lược phát triển giáo dục-đào
tạo, Nxb TP. HCM, 1998.
9. Bộ giáo dục và đào tạo, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục, Viện nghiên cứu phát triển
giáo dục, Những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kì công nghiệp hoá-
hiện đại hoá- Bối cảnh, xu hướng và động lực phát triển, Nxb TP. HCM, 1998.
10. Bộ giáo dục và đào tạo, Phạm Minh Hạc chủ biên, Kết quả nghiên cứu về giáo dục và
đào tạo (1991-1992), Hà Nội, 1994.
11. Bộ giáo dục và đào tạo, Tổng kết đánh giá mười năm đổi mới giáo dục-đào tạo (1986-
1996), 1996.
12. Lê Thanh Hoàng Dân, Các vấn đề Giáo dục, Nxb Trẻ, 1970.
13. Hồ Ngọc Đại, Giải pháp giáo dục, Nxb Giáo dục, 1991.
14. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Lịch sử cơ quan Bộ giáo dục và đào tạo 1945-1995,
Từ Bộ Quốc gia giáo dục đến Bộ giáo dục và đào tạo 1945-1995.
15. Phạm Văn Đồng, Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1979.
16. Phạm Văn Đồng, Về vấn đề giáo dục-đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
17. Phạm Văn Giạng , Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
18. Nguyễn Hồng Hà, Văn hoá truyền thống dân tộc với việc giáo dục thế hệ trẻ, Viện Văn
hoá & Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội, 2001.
19. Phạm Minh Hạc, Giáo dục con người hôm nay và ngày mai, Nxb Giáo dục Hà Nội,
1995.
20. Phạm Minh Hạc ,Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1998.
21. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Về phổ cập giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1984.
22. Phạm Minh Hạc, Mười năm đổi mới giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996.
23. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Sơ thảo lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1992.
24. Phạm Minh Hạc, Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội,
kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
25. Đào Minh Hải, Minh Tiến (sưu tầm), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Lao
Động, Hà Nội, 2005.
26. Hội khoa học kinh tế Việt Nam, Trung tâm thông tin và tư vấn phát triển (2005), Giáo
dục Việt Nam 1945-2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Nguyễn Văn Huyên, Những bài nói và viết về giáo dục, Nxb Giáo dục, 1990.
28. Nguyễn Đắc Hưng, Phan Xuân Dũng (2003), Nhân tài trong chiến lược phát triển quốc
gia, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Phạm Văn Khanh, Nguyễn Phúc Nghiệp, Tiền Giang- con người và sự kiện, tập 1, Nxb
Trẻ.
30. Huỳnh Minh, Định Tường xưa, Nxb Thanh Niên, 1969.
31. Huỳnh Minh, Gò Công xưa, Nxb Thanh Niên.
32. Đỗ Mười, Phát triển giáo dục-đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá và
hiện đại hoá đất nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Phúc Nghiệp, Những trang ghi chép về lịch sử-văn hoá Tiền Giang, Nxb Trẻ,
1998.
34. Nguyễn Phúc Nghiệp, Phạm Duy Tư, Lịch sử giáo dục Tiền Giang, Sở giáo dục-đào tạo
Tiền Giang, 1995- tài liệu lưu hành nội bộ.
35. Nhiều tác giả, Giáo dục Nam Bộ thời kì kháng chiến chống Pháp 1945-1954, Nxb Trẻ
TP Hồ Chí Minh, 2002.
36. Nhiều tác giả,Tiền Giang bước vào thế kỉ 21, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2001.
37. Đỗ Văn Ninh, Quốc Tử Giám trí tuệ Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2001.
38. Giản Thị Kim Phương, luận văn thạc sĩ, Giáo dục- Đào tạo Long An hai mươi năm đổi
mới 1986- 2006. Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, 2007.
39. Nguyễn Thành Phương, Lịch sử phát triển giáo dục- đào tạo ở An Giang (1975-2000),
Luận án tiến sĩ Sử học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, 2006.
40. Tìm hiểu các ngành luật tại Việt Nam, Luật giáo dục năm 2005, Nxb Lao động.
41. Đồng Thị Bạch Tuyết- Âu Dương Phát- Nguyễn Phúc Nghiệp, Lịch sử Tiền giang, Sở
GD & ĐT Tiền Giang, 2003.
42. Nguyễn Quốc Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội,
1998.
43. Nguyễn Đắc Tiến (chủ biên), Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng Tháng 8-
1945, Nxb Giáo dục, 1996.
44. Nguyễn Cảnh Toàn (2002), Bàn về giáo dục Việt Nam, Nxb Lao Động.
45. Nguyễn Khánh Toàn, Một số vấn đề của giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1995.
46. Dương Thiệu Tống, Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại, Nxb Trẻ, 2003.
47. Hoàng Tuỵ (chủ biên), Cải cách và chấn hưng giáo dục, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí
Minh, 2005.
48. Thái Duy Tuyên, Giáo dục học hiện đại, Nxb ĐHQG Hà Nội.
49. Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng (2002), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài
,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang , Địa chí Tiền Giang, tập 1, Nxb Văn nghệ
TP. HCM, 2005.
51. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang , Báo cáo tổng kết 10 năm CMC-PCGDTH
1990-2000 & kế hoạch giáo dục cho mọi người 2001-2010, tài liệu lưu trữ, 2000.
52. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo và Sở Lao động
TB&XH, Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực Tỉnh Tiền Giang
đến năm 2005, tài liệu lưu trữ, 2001.
53. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tóm tắt về đào tạo nguồn nhân lực Tỉnh Tiền Giang: thực trạng và định hướng đến
2010, tài liệu lưu trữ, 2005.
54. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1985-1986, phương hướng nhiệm vụ năm học 1986-1987, tài liệu lưu
trữ, 1986.
55. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1986-1987, phương hướng nhiệm vụ năm học 1987-1988, tài liệu lưu
trữ, 1987.
56. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1987-1988, phương hướng nhiệm vụ năm học 1988-1989, tài liệu lưu
trữ, 1988.
57. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1988-1989, phương hướng nhiệm vụ năm học 1989-1990, tài liệu lưu
trữ, 1989.
58. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1989-1990 , phương hướng nhiệm vụ năm học 1990-1991, tài liệu lưu
trữ, 1990.
59. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1990-1991, phương hướng nhiệm vụ năm học 1991-1992, tài liệu lưu
trữ, 1991.
60. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1991-1992, phương hướng nhiệm vụ năm học 1992-1993, tài liệu lưu
trữ, 1992.
61. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1992-1993, phương hướng nhiệm vụ năm học 1993-1994, tài liệu lưu
trữ, 1993.
62. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1993-1994, phương hướng nhiệm vụ năm học 1994-1995, tài liệu lưu
trữ, 1994.
63. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1994-1995, phương hướng nhiệm vụ năm học 1995-1996, tài liệu lưu
trữ, 1995.
64. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Quán triệt
NQ ĐH VIII của Đảng, NQ ĐH VI tỉnh đảng bộ, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
năm học 1996-1997, tài liệu lưu trữ, 1996.
65. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1996-1997, phương hướng nhiệm vụ năm học 1997-1988, tài liệu lưu
trữ, 1997.
66. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1997-1988, phương hướng nhiệm vụ năm học 1998-1999, tài liệu lưu
trữ, 1998.
67. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1998-1999, phương hướng nhiệm vụ năm học 1999-2000, tài liệu lưu
trữ, 1999.
68. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 1999-2000, phương hướng nhiệm vụ năm học 2000-2001, tài liệu lưu
trữ, 2000.
69. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2000-2001, phương hướng nhiệm vụ năm học 2001-2002, tài liệu lưu
trữ, 2001.
70. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2001-2002, phương hướng nhiệm vụ năm học 2002-2003, tài liệu lưu
trữ, 2002.
71. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2002-2003, phương hướng nhiệm vụ năm học 2003-2004, tài liệu lưu
trữ, 2003.
72. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2003-2004, phương hướng nhiệm vụ năm học 2004-2005, tài liệu lưu
trữ, 2004.
73. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2004-2005, phương hướng nhiệm vụ năm học 2005-2006, tài liệu lưu
trữ, 2005.
74. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2005-2006, phương hướng nhiệm vụ năm học 2006-2007, tài liệu lưu
trữ, 2006.
75. Tỉnh uỷ- Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, Sở Giáo dục-đào tạo Tiền Giang, Báo cáo
tổng kết năm học 2006-2007, phương hướng nhiệm vụ năm học 2007-2008, tài liệu lưu
trữ, 2007.
PHỤ LỤC
Hình ảnh Sở giáo dục- đào tạo Tiền Giang và một số cơ sở giáo dục tiêu biểu trong tỉnh
Sở Giáo dục &Đào tạo tỉnh Tiền Giang
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại Sở Giáo dục &Đào tạo Tiền Giang
Trường Đại học Tiền Giang
Nguồn: Ảnh lưu trữ tại Trường Đại học Tiền Giang
Trường Trung học Y tế Tiền Giang
Nguồn: Ảnh chụp thực tế trường Trung học Y tế Tiền Giang
Nguồn: Ảnh lưu trữ tại trường Nguyễn Đình Chiểu-Mỹ Tho
Trung học Nguyễn Đình Chiểu- trường Trung học đầu tiên của các tỉnh miền Tây nam
bộ- ngôi trường có bề dày truyền thống trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp-Mĩ của học
sinh Tiền Giang và các tỉnh lân cận.
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại trường THPT Trương Định-Gò Công
Trường THPT đạt chuẩn quốc gia năm 2006
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại trường THPT Đốc Binh Kiều –Cai Lậy
Trường THPT Chợ Gạo- Trường đạt chuẩn quốc gia năm 2008
Nguồn: Ảnh chụp thực tế trường THPT Chợ Gạo-huyện Chợ Gạo
Hình ảnh các trường và các hoạt động khác của GD-ĐT Tiền Giang
Trường THPT Cái Bè
Nguồn; Ảnh chụp thực tế tại trường THPT Cái Bè-huyện Cái Bè
Trường THPT Tân Hiệp
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại trường THPT Tân Hiệp-huyện Châu Thành
Trường Tiểu học Nguyễn Trãi, Phường 5, TP.Mỹ Tho
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại trường Tiểu học Nguyễn Trãi - TP MỹTho
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại trường Tiểu học TT Cái Bè – huyện Cái Bè
Đại diện Bộ GD ĐT & lãnh đạo Sở GD tỉnh Tiền Giang trong buổi công nhận Tiền Giang đạt chuẩn phổ cập giáo
dục THCS năm 2006
Nguồn: Ảnh lưu trữ tại Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Tiền Giang
Lãnh đạo ngành GD-ĐT tỉnh dự hội diễn văn nghệ mừng đảng mừng xuân
Nguồn; Ảnh lưu trữ tại Sở Giáo dục & Đào tạo tỉnh Tiền Giang
Học sinh Tiền Giang tham gia hội khoẻ của Tỉnh
Nguồn: Ảnh lưu trữ tại Sở giáo dục về hoạt động văn thể mỹ năm học 2005-2006
Một góc trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu
Nguồn: Ảnh lưu trữ tại trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Giờ giải lao của các em trường tiểu học Tân Long, Mỹ Tho.
Nguồn: Ảnh lưu trữ tại trường Tiểu học Tân Long – Mỹ Tho
Các hình ảnh ứng dụng từ phần mềm Kidmast
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại Trường Mầm non Tân Hiệp-Châu Thành – Tiền Giang
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại Trường Mầm non Tân Hiệp-Châu Thành – Tiền Giang
Nguồn: Ảnh chụp thực tế tại Trường Mầm non Tân Hiệp-Châu Thành – Tiền Giang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5498.pdf