MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền nghĩa vụ dân sự nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất, kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực
223 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4856 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của giao dịch dân sự, Bộ luật dân sự (BLDS) nước ta đã quy định cụ thể, chi tiết, chặt chẽ và tương đối hoàn thiện về việc xác lập, thực hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Các quy định đó của BLDS đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch dân sự, tạo nên sự ổn định của các quan hệ tài sản trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần vào quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân (TAND) thì vấn đề giải quyết các hậu quả khi giao dịch dân sự vô hiệu không thuần túy chỉ căn cứ vào quy định của BLDS, mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao dịch hoặc phụ thuộc vào thời điểm phát sinh, như giao dịch được xác lập trước ngày ban hành Pháp lệnh hợp đồng dân sự, trước khi BLDS có hiệu lực thi hành. Quá trình thực hiện BLDS, bên cạnh những mặt tích cực, còn có thực trạng là các tranh chấp về dân sự, nhất là tranh chấp về giao dịch dân sự vẫn có xu hướng gia tăng, trong đó các giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện có hiệu lực của giao dịch chiếm tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu vẫn là vấn đề phức tạp nhất ngành Tòa án đang gặp phải. Có không ít vụ án đã được xét xử nhiều lần, với nhiều cấp xét xử khác nhau (kể cả cấp xét xử cao nhất là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC)) nhưng cũng vẫn còn những thắc mắc, vẫn có những quan điểm khác nhau, gây ra nhiều tranh luận phức tạp.
Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về giao dịch dân sự vô hiệu, làm rõ những nguyên lý cơ bản và nguyên tắc chung giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự bị vô hiệu là một yêu cầu cấp bách hiện nay, nhằm lý giải rõ hơn các vấn đề lý luận đặt ra đối với giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu và từ đó có những kiến nghị góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật mà cụ thể là sửa đổi bổ sung chế định về giao dịch dân sự nói chung và xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành nói riêng.
Với lý do đó, vấn đề "Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu" được chọn làm đề tài nghiên cứu cho việc hoàn thành luận án tiến sĩ luật học theo đúng yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ, dưới những góc độ khác nhau.
Nhìn chung, vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu chủ yếu được đề cập trong các bài giảng trong giáo trình luật dân sự của Trường Cao đẳng Kiểm sát, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia, trong một số ấn phẩm như: Bình luận Bộ luật dân sự của Bộ Tư pháp và trong một số bài viết của một số tác giả ở góc độ hẹp, đó là: TS. Bùi Đăng Hiếu: Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối; Vũ Mạnh Hùng: Một số ý kiến về đường lối giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng mua bán nhà; Hoàng Thị Thanh: Quy định "giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân theo các quy định về hình thức"; Phan Tấn Phát: Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức… Cũng có công trình được giải quyết tốt hơn như luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Trung Trực: Một số vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó... Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan thì chưa có công trình nào giải quyết vấn đề này một cách toàn diện và thấu đáo. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài "Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu" không bị trùng lắp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu
a) Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm pháp lý về giao dịch dân sự và chủ yếu là giao dịch dân sự vô hiệu; làm rõ ý nghĩa của chế định giao dịch dân sự vô hiệu trong chế định chung về giao dịch; làm rõ căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu và phân tích thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu. Ngoài ra, khi nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả điều chỉnh của các quy định pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu và thực tiễn việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, trong luận án có đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện tại TAND làm cho pháp luật về giao dịch dân sự thực sự là một trong những "công cụ pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước".
b) Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận án này phải thực hiện được các nhiệm vụ:
- Phân tích và lý giải nhằm làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu;
- Lược sử quá trình điều chỉnh pháp luật Việt Nam về giao dịch dân sự vô hiệu qua các thời kỳ và quy định của một số nước trên thế giới về giao dịch dân sự vô hiệu để làm nổi bật tính kế thừa truyền thống và những bước phát triển trong quy định pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu của nước ta hiện nay;
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết các tranh chấp về giao dịch dân sự, về cơ sở pháp lý để tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và kinh nghiệm giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu tại TAND;
- Nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả của những quy định pháp luật hiện hành về giao dịch dân sự vô hiệu và các quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu;
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu và cơ sở pháp lý để giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận án tiến sĩ chuyên ngành luật dân sự, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp) về giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu; nghiên cứu thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu của TAND, làm sáng tỏ thêm lý luận còn nhiều quan điểm khác nhau.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài luận án là triết học Mác - Lênin. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến đề tài của luận án.
Ngoài việc dựa trên phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: so sánh pháp luật, logic pháp lý, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn... để làm rõ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn quá trình giải quyết các tranh chấp giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả của nó trong giai đoạn hiện nay.
6. Những điểm mới của luận án
Luận án đã tham khảo và phân tích lịch sử phát triển các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự một số nước trên thế giới. Qua việc phân tích, luận giải, luận án đã làm sáng tỏ tính kế thừa và sự phát triển các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu. Luận án đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn áp dụng các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu; đã tổng hợp một số quan điểm và đưa ra khái niệm khoa học mới về: giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu, nêu khái quát chung về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
Từ việc phân tích các quy định: điều kiện có hiệu lực của giao dịch, các căn cứ pháp lý xác định giao dịch dân sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu trong hệ thống pháp luật thực định, luận án đã phân tích những hiệu quả tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản, đồng thời chỉ ra một số hạn chế, chưa khả thi. Cùng với những phân tích các quy định trong pháp luật thực định, luận án còn chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng hạn chế khi áp dụng và đưa ra những kiến nghị trong việc hướng dẫn áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm tính thống nhất khi thực thi pháp luật. Luận án đã đề xuất hướng và đường lối giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự bị vô hiệu, nhất là vấn đề xác định thiệt hại, cách tính thiệt hại.
Sau khi phân tích các cơ sở lý luận, thực tiễn áp dụng hậu quả pháp lý đối với giao dịch dân sự vô hiệu, luận án đã có những kiến nghị cụ thể về sửa đổi, bổ sung và loại bỏ các quy định không còn phù hợp với thực tế nhằm hoàn thiện pháp luật thực định. Cụ thể là: kiến nghị kết cấu lại chương 5 BLDS quy định về giao dịch dân sự. Các quy định này không nên để tại phần thứ nhất BLDS mà chuyển về phần hợp đồng và phần thừa kế sẽ phù hợp hơn. Bỏ Điều 136 BLDS vì không cần thiết; loại bỏ điều kiện không tuân thủ quy định về hình thức của giao dịch để tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu; sửa đổi các Điều 141, BLDS về vấn đề nhầm lẫn, Điều 142 BLDS về lừa dối, đe doạ dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chương, 10 mục.
Chương 1 giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý giao dịch dân sự vô hiệu
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chung của giao dịch dân sự
1.1.1.1. Khái niệm chung về giao dịch dân sự
Giao dịch - mối quan hệ "giữa người với người" - là mối liên hệ phổ biến trong xã hội loài người và cũng là một trong chế định pháp lý cổ điển, nó xuất hiện từ rất lâu đời. Ngay từ khi xã hội loài người có sự phân công lao động và xuất hiện hình thức trao đổi hàng hóa, thì giao dịch đã hình thành và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ [24, tr. 1]. Có một thời, giao dịch nếu không đồng nghĩa với sự trao đổi tài sản nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của các bên, thì giao dịch được hiểu là quan hệ trong đó ít nhất một bên là thương nhân hoặc người giàu (người có nhiều của cải) và biện pháp thông qua đó, thương nhân hoặc người có của tích lũy của cải cho mình [19, tr. 5]. Trong cuộc sống hiện tại, giao dịch được xem là "công cụ" thông dụng và có hiệu quả, bảo đảm cho các quan hệ dân sự được thực hiện trong hành lang pháp lý an toàn nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự ngày càng phát triển.
Ngoài ra, giao dịch dân sự còn là phương tiện pháp lý quan trọng để cho các công dân thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất kinh doanh cũng như sinh hoạt tiêu dùng. Do đó, vị trí, vai trò của giao dịch dân sự ngày càng được khẳng định trong hệ thống pháp luật. Trong một xã hội phát triển luôn luôn đặt ra nhu cầu phải hoàn thiện, phát triển chế định giao dịch. Vì lẽ đó, mà ngay từ thế kỷ thứ XVIII, nhà triết học, xã hội học người Pháp Plulur đã dự đoán: "Hợp đồng chiếm 9/10 dung lượng các bộ luật hiện hành, và đến lúc nào đó tất cả các điều khoản của bộ luật, từ điều khoản thứ nhất đến điều khoản cuối cùng đều quy định về hợp đồng" [24, tr. 2].
Trên thế giới hiện nay, quá trình phát triển của chế định giao dịch ở mỗi quốc gia tuy có những đặc thù riêng, nhưng cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung. Đó là: luôn nâng cao vị trí, vai trò của chế định giao dịch trong hệ thống pháp luật, nhất là trong nền kinh tế thị trường, nơi mà mọi dịch vụ và tài sản, hàng hóa phải được tự do chuyển dịch theo ý chí của các chủ thể và chỉ bị can thiệp trong các trường hợp mà ở đó có sự giới hạn của pháp luật hoặc có sự tranh chấp giữa các chủ thể. Chính vì thế mà vai trò của giao dịch nói chung và giao dịch dân sự nói riêng càng được thể hiện lớn hơn và giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, các nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà lập pháp tiếp cận giao dịch dưới những góc độ khác nhau mà đưa ra các chế định khác nhau về giao dịch, về những quy định chung của giao dịch dân sự. Ví dụ, BLDS của nước Cộng hòa Pháp không đưa ra chế định giao dịch dân sự mà chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định thừa kế, còn đối với BLDS và thương mại Thái Lan, BLDS Nhật Bản đưa ra chế định hành vi pháp lý bao trùm lên chế định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc. Nhìn chung, pháp luật của phần lớn các nước đều không có khái niệm về giao dịch dân sự, mà khái niệm về giao dịch dân sự chỉ đề cập đến dưới góc độ khoa học.
Dưới góc độ khoa học, các nhà khoa học Nhật Bản đề cập "giao dịch dân sự là hành vi hợp pháp nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [3, tr. 114]. Với khái niệm này, các nhà khoa học Nhật Bản không nêu ra loại giao dịch cụ thể nào mà nó là tất cả những hành vi tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được một kết quả nhất định và các hành vi này không trái với pháp luật. Khi tham gia vào các quan hệ dân sự sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể và pháp luật thừa nhận các quan hệ này, đồng thời tạo điệu kiện bảo đảm cho các quyền, nghĩa vụ đó trở thành hiện thực. Như vậy, phần lớn các quan hệ trong cuộc sống được điều chỉnh bằng pháp luật và được coi là giao dịch pháp luật dân sự; đối với quan hệ nhân thân, nhiều quan hệ nhân thân phi tài sản (trừ sự kiện sinh ra và chết đi) phát sinh trên cơ sở giao dịch dân sự như kết hôn, nhận con nuôi... Đối với các quan hệ về tài sản (trừ quan hệ thừa kế theo pháp luật) còn tất cả đều được chế định pháp luật về giao dịch dân sự điều chỉnh [3, tr. 114].
Ở Việt Nam, chế định giao dịch dân sự được quy định trong chương 5, Phần thứ nhất của BLDS nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Điều 130 BLDS quy định: "Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng của cá nhân, pháp nhân và của các chủ thể khác nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Đối với giao dịch dân sự là hợp đồng còn được quy định tại Mục 7, Phần thứ ba (Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự). Còn đối với hành vi pháp lý đơn phương được quy định một phần trong phần hợp đồng dân sự như hứa thưởng, thi có giải và một phần trong Phần thứ tư của BLDS tại các quy định về thừa kế (Thừa kế theo di chúc).
Dưới góc độ khoa học, khái niệm giao dịch dân sự được các nhà khoa học Việt Nam đề cập trong nhiều tài liệu với góc độ khác nhau, như: "Giao dịch dân sự là hành vi được thực hiện nhằm thu được kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả trở thành hiện thực" hay "giao dịch là một sự kiện pháp lý, bao gồm hành vi pháp lý đơn phương hoặc đa phương (hợp đồng) làm phát sinh hậu quả pháp lý" [4, tr 266] hoặc được nêu nguyên văn Điều 130 BLDS...
Để đưa ra khái niệm toàn diện và đầy đủ về giao dịch dân sự, trước hết cần hiểu giao dịch là hành vi "có quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc với nhau" [116, tr. 377]. Trong dân sự việc gặp gỡ, tiếp xúc với nhau diễn ra trong quan hệ dân sự chung để việc thể hiện ý chí của các bên được trực tiếp và công khai.
Hoặc cũng có quan điểm nhấn mạnh đến tính pháp lý của giao dịch như: giao dịch dân sự là hành vi pháp lý hợp pháp biểu hiện ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Nhìn chung, dù các nhà khoa học pháp lý có đưa ra khái niệm về giao dịch dân sự dưới góc độ nào đi chăng nữa, thì đều khẳng định giao dịch dân sự bao gồm hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn phương.
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch phổ biến nhất, thông dụng nhất nó phát sinh thường xuyên trong đời sống hàng ngày của chúng ta và giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng là hình thức pháp lý thích hợp bảo đảm cho việc vận động của hàng hóa và tiền tệ, chính vì lẽ đó mà pháp luật về hợp đồng giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. "Pháp luật về hợp đồng được coi như hộ chiếu cho phép đi vào tất cả các lĩnh vực. Về phương diện chính trị và pháp lý, hợp đồng là phương tiện pháp lý cho phép các bên có thể phát triển trong xã hội, thậm chí không phụ thuộc vào xã hội" [81, tr. 5]. Hợp đồng có thể diễn ra giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với pháp nhân hay giữa các pháp nhân, tổ chức với nhau, các bên tự do thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt mục đích nhất định về vật chất hoặc tinh thần nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội của Quốc gia và của thế giới, mà các chủ thể tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh.
Sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong giao dịch dân sự thường là sự bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc làm phát sinh thay, đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Việc thỏa thuận này không bị cản trở bởi bất cứ yếu tố chủ quan và khách quan nào, trừ trường hợp trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Ví dụ, các bên tham gia ký kết hợp đồng mua bán một chiếc xe máy, chủ sở hữu và người mua chiếc xe này có quyền tự do, bàn bạc thỏa thuận giá cả, phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm giao xe...
Trong thực tế thì sự tự do, thỏa thuận mới chỉ là điều kiện cần nhưng vẫn chưa phải là điều kiện đủ. Bởi lẽ, sự thỏa thuận phải làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên mới đủ điều kiện hình thành hợp đồng. Ví dụ, lời hứa của cha mẹ với con cái hoặc giữa bạn bè với nhau không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Thậm chí trong một số trường hợp hành vi thỏa thuận giữa các bên, có ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng sau đó nếu các bên không mong muốn xảy ra thì hậu quả cũng không xảy ra. Đây là yếu tố quan trọng để xác định sự khác nhau giữa hợp đồng với các quan hệ xã hội khác. Sự thỏa thuận phải dựa trên cơ sở pháp luật cho phép, nếu trái với các quy định của pháp luật thì hợp đồng sẽ bị hủy bỏ, các bên giải quyết hậu quả theo quy định của pháp luật hoặc tự thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong thực tiễn cũng có loại hợp đồng không có sự bàn bạc, thỏa thuận trước giữa các bên, một bên đơn phương ấn định các điều khoản của hợp đồng còn bên kia có quyền chấp nhận hay không chấp nhận. Thực tế, loại hợp đồng này thường diễn ra rất phong phú, đa dạng. Ví dụ, Công ty soạn thảo sẵn hợp đồng, trong đó có đầy đủ các dữ kiện, như giá cả, loại dịch vụ cung cấp, thời gian địa điểm, chất lượng... còn người tiêu dùng nếu đồng ý ký vào, như vậy là hợp đồng đã được ký kết mà không cần hai bên bàn bạc, thỏa thuận. Đối với các loại hợp đồng dân sự theo mẫu này hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, loại hợp đồng dịch vụ là phù hợp với thực tế, vì thông thường đối tượng của hợp đồng là những dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của con người, do Nhà nước quản lý, giao cho Công ty độc quyền đối với loại dịch vụ này; có quyền ấn định giá cả, loại dịch vụ cung cấp, thời gian địa điểm, chất lượng...
Ví dụ như: hợp đồng cung cấp điện, nước ở Việt Nam... và đã được Chính phủ xem xét và quyết định theo điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, có thể phải bán theo giá thấp hơn với giá trị thực của nó. Nhưng cũng có thể bán theo giá cao hơn rất nhiều và bên sử dụng dịch vụ buộc phải chấp nhận ký, vì đây là mặt hàng độc quyền. Có như vậy mới đảm bảo ổn định nền kinh tế - xã hội của quốc gia và chấp nhận sự bất bình đẳng trong giao dịch. Quan điểm này đã được sự đồng tình của phần lớn các nhà khoa học trên thế giới. Tuy nhiên, có quan điểm khác lại cho rằng, để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng dịch vụ, tránh hiện tượng gây bất bình đẳng trong giao dịch và độc quyền, cần phải hạn chế sử dụng các loại hợp đồng này.
Một số quốc gia coi pháp luật về hợp đồng dân sự là bao gồm quy định mang tính nguyên tắc chung để điều chỉnh các loại hợp đồng, còn luật thương mại được coi là luật chuyên biệt để điều chỉnh hợp đồng thương mại. Ví dụ, ở Nhật Bản thì giao dịch dân sự có tính chất thương mại giữa các thương gia sẽ do luật chuyên biệt điều chỉnh mặc dù về lý luận người ta vẫn thừa nhận đó là một dạng cụ thể của giao dịch dân sự. Trong khi đó ở Việt Nam khái niệm về hợp đồng được phân biệt rạch ròi giữa luật dân sự, luật kinh tế, luật thương mại, nhưng ba loại hợp đồng này lại không có nguyên tắc chung để phân loại, do đó gây khó khăn khi áp dụng [115, tr. 58].
Hành vi pháp lý đơn phương là hoạt động thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ, một người trước khi chết lập di chúc hợp pháp để lại cho người khác di sản của mình. Bằng hành vi lập di chúc này, người đó đã thể hiện ý chí cá nhân của mình để định đoạt tài sản mà họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận di sản (trừ trường hợp người nhận di sản từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 645 BLDS), người nhận di sản có quyền được sở hữu tài sản chuyển giao theo di chúc. Như vậy, ý chí của người để lại di chúc không phụ thuộc vào ý chí của người khác nhưng bằng hành vi lập di chúc theo đúng quy định của pháp luật làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc giao dịch dân sự.
Trên thực tế, thông thường hành vi pháp lý đơn phương do một chủ thể thực hiện, nhưng cũng có thể do nhiều chủ thể thực hiện (nhiều cá nhân hay một tổ chức cùng hứa thưởng...). Trong nhiều trường hợp hành vi pháp lý đơn phương chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự theo các điều kiện. Nếu không đáp ứng điều kiện đó thì không thể coi đó là giao dịch dân sự được.
1.1.1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý hợp pháp thể hiện ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Do đó, giao dịch dân sự có đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất: Phải thể hiện được ý chí của của các bên tham gia giao dịch. Giao dịch dân sự đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi chủ thể, nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ không ngừng chi phối hoạt động của họ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Khi tham gia vào giao dịch, các chủ thể đều có đạt được mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó các chủ thể phải thể hiện được ý chí của mình, "sự thể hiện ý chí là hành vi có ý chí nhằm thu một kết quả nhất định và là yếu tố bắt buộc của giao dịch pháp lý" [3, tr. 131]. Như vậy, tuy hành vi có ý chí nhưng không làm phát sinh hậu quả pháp lý hoặc thậm chí trong trường hợp có làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng các bên lại không mong muốn xảy ra thì hậu quả cũng không xảy ra. Cho nên muốn làm phát sinh hậu quả pháp lý, thì sự thể hiện ý chí phải được diễn ra theo hình thức nhất định, phù hợp với quy định của pháp luật.
Quan niệm về tự do ý chí trong giao dịch được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong khoa học pháp lý của Pháp từ thế kỷ thứ XVIII. Lúc đầu nó được coi là nguyên tắc độc tôn ý chí. Nguyên tắc này cho phép các chủ thể tham gia giao dịch (chủ yếu là hợp đồng), tự do thể hiện ý chí của mình không bị phụ thuộc hoặc cản trở bởi bất kỳ một yếu tố nào khác, kể cả pháp luật. Quy định này xuất phát từ những lợi ích cá nhân và cho rằng nếu để các chủ thể tham gia vào giao dịch thì sẽ bảo đảm sự công bằng và bình đẳng của các chủ thể. Khi giao dịch đã được xác lập thì không ai có quyền thay đổi, thậm chí cả Nhà nước cũng không có quyền can thiệp và có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên tham gia. Nếu có sự thay đổi thì chỉ chỉ có thể là do sự thỏa thuận của chính các bên đã xác lập giao dịch đó.
Tuy nhiên, trên thực tế khi tham gia vào giao dịch các bên không ngang bằng nhau trên mọi lĩnh vực, có bên mạnh bên yếu về kinh tế, cho nên dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các bên và bên yếu hơn sẽ phải phụ thuộc vào ý chí của bên mạnh hơn. Do đó, nguyên tắc độc tôn về ý chí chỉ mang tính chất hình thức. Chính vì lẽ đó mà giao dịch không còn ý nghĩa để các chủ thể tham gia với mục đích thỏa mãn nhu cầu của mình nữa. Mặt khác, khi các chủ thể tham gia vào giao dịch để thỏa mãn nhu cầu của mình nhiều khi đã bất chấp cả sự thiệt hại của người khác cũng như lợi ích công cộng. Do vậy, sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào các giao dịch này, nên nguyên tắc này đã không tồn tại được lâu. Nhà nước ban hành ra pháp luật để điều chỉnh sao cho các chủ thể tham gia vào giao dịch không bị ép buộc và đồng thời không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác cũng như lợi ích công cộng. Từ thực tế này các khái niệm về: lạm dụng, ngay tình và công bằng đã được hình thành.
Xuất phát từ sự bất bình đẳng trong hợp đồng, khái niệm lạm dụng được hình thành trong pháp luật của Cộng hòa Pháp năm 70, để điều chỉnh trong trường hợp một bên là thương gia đơn phương đặt ra các điều kiện và ghi sẵn vào hợp đồng và đưa cho người có nhu cầu tiêu dùng ký vào hợp đồng đó mà không có sự lựa chọn nào khác. Khi một hợp đồng có chứa đựng hai tiêu chí, đó là: lạm dụng thế mạnh về kinh tế để áp dụng các điều khoản và điều đó chỉ mang lại lợi ích thái quá cho nhà kinh doanh thì sẽ bị hủy bỏ.
Đối với khái niệm về ngay tình, ban đầu được hiểu sự ngay tình chính là sự thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung, điều kiện trong giao dịch cũng như trong pháp luật quy định. Các bên không được có hành vi cản trở nhau thực hiện nghĩa vụ này. Nhưng về sau sự phát triển của giao dịch ngày càng cao với cách giải thích này không còn phù hợp nữa. Lúc này người ta hiểu sự ngay tình ngoài cách hiểu trên còn được hiểu cả theo nghĩa hợp tác cùng nhau thực hiện. Tức là, ngoài việc các bên thực hiện những nghĩa vụ trong giao dịch ra còn phải thực hiện cả việc tạo điều kiện như cung cấp thông tin cần thiết cho các bên cùng tham gia [96, tr. 9].
Thứ hai: Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Đây là sự phản ánh tính thống nhất ý chí của các bên, cho nên nó là một yếu tố quan trọng để thiết lập nên giao dịch. Trong các giao dịch dân sự nếu thiếu các yếu tố này không thể coi là giao dịch được. Bởi lẽ, trong giao dịch dân sự các chủ thể tham gia vào giao dịch là nhằm một mục đích nhất định phục vụ cho nhu cầu về vật chất hay tinh thần của họ. Để có được mục đích đó người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự, còn đối với những người bị hạn chế năng lực hành vi hoặc bị mất năng lực hành vi thì chỉ được tham gia một số giao dịch nhất định hoặc phải có người đại diện, người tham gia giao dịch trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng trong nhiều trường hợp có nhiều chủ thể cùng tham gia khó có thể đạt được điểm trùng nhau về ý chí và mục đích. Vì thế mà các bên tham gia giao dịch phải tự dàn xếp với nhau để tiến tới các bên đều đạt được mục đích của mình và đi tới cam kết để cùng nhau thực hiện. Nếu sự cam kết, thỏa thuận mà không phù hợp với ý chí của các bên thì giao dịch dân sự không có giá trị pháp lý. Nguyên tắc này đã tồn tại ở pháp luật của tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam nguyên lý trên được ghi nhận hầu hết trong các văn bản pháp luật như: BLDS, Luật kinh tế, Luật lao động...
Mặc dù, trong giao dịch nguyên tắc cam kết, thỏa thuận phù hợp với ý chí là một nguyên tắc bất biến, nhưng trong thực tiễn không phải hoàn toàn lúc nào cũng như vậy. Vì trong nhiều lĩnh vực hoạt động nhất là lĩnh vực dịch vụ các giao dịch được lặp đi, lặp lại giữa một chủ thể (bên cung cấp dịch vụ) với nhiều chủ thể khác (bên nhận dịch vụ) với đối tượng phục vụ như nhau, bên cung cấp dịch vụ thảo sẵn hợp đồng (gọi là hợp đồng theo mẫu) trong đó quy định sẵn các điều khoản, còn bên nhận dịch vụ chỉ có quyền tự do chấp nhận hợp đồng đó hay không, mà không có sự thỏa thuận để bầy tỏ ý chí của mình trong hợp đồng. Khi đã chấp nhận ký kết vào hợp đồng thì đương nhiên buộc họ phải tuân theo toàn bộ các điều khoản trong hợp đồng. Ví dụ, như hợp đồng tín dụng; hợp đồng vận chuyển hành khách; hợp đồng cung cấp thông tin, điện, nước; các dịch vụ cung cấp hàng tiêu dùng...
Như vậy, xét về mặt khách quan thì ý chí chung của giao dịch được thể hiện, vì cả bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ đều mong muốn tham gia và quan hệ giao dịch, ở đây không có sự cưỡng ép, họ đều hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, thực tế nhiều khi bên nhận dịch vụ gia nhập vào giao dịch này là hoàn toàn miễn cưỡng vì không còn sự lựa chọn nào khác buộc phải chấp nhận, không hề biết các điều khoản quy định sẵn đó bất lợi cho họ phải gánh chịu những tổn thất từ các điều khoản này. Để khắc phục vấn đề này có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm cho rằng, cần công nhận loại giao dịch này nhưng tạo điều kiện bên nhận dịch vụ bác bỏ các điều khoản không phù hợp đối với họ. Có quan điểm lại cho rằng, cần phải công nhận toàn bộ các điều khoản như hiện nay và chỉ không công nhận trong trường hợp người tham gia vào giao dịch không được cung cấp thông tin đầy đủ hoặc thông tin sai sự thật, thông tin vượt quá tầm hiểu biết chung. Quan điểm này vẫn được phần lớn các nhà khoa học đồng tình, vì cho rằng khi ký họ đã thể hiện ý chí của mình [66, tr. 55-57].
Thứ ba: Chế tài trong giao dịch mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt. Pháp luật của phần lớn các nước trên thế giới hiện nay đều xây dựng các chế định của giao dịch dân sự trên nguyên tắc tự do thỏa thuận, tự do cam kết và xác định chế tài. Đây là nguyên tắc cơ bản của luật dân sự nói chung cũng như về giao dịch dân sự nói riêng. Vấn đề này hiện nay đang có hai xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất cho rằng, đơn giản hóa việc quy tắc, giảm bớt số lượng, sự phức tạp các điều luật mang tính chất chung và có kết cấu một cách đơn giản nhưng mạch lạc, dễ hiểu. Xu hướng thứ hai thì cho rằng, cần quy định nhiều điều khoản chi tiết rõ ràng, sẽ làm cho pháp luật phong phú hơn.
Pháp luật của những nước xây dựng pháp luật về giao dịch theo hệ thống án lệ được xây dựng theo hướng thứ hai. Do sử dụng án lệ nên rất dễ dàng thích nghi với điều kiện xảy ra trên thực tiễn vì nó mang tính linh hoạt. Còn pháp luật của những nước xây dựng pháp luật về giao dịch theo hệ thống luật thành văn tương đối ổn định và mang tính bắt buộc cao nhưng do thủ tục ban hành pháp luật rất phức tạp, tốn nhiều thời gian nên việc thay đổi chúng khó._. khăn hơn. Chính vì lẽ đó mà hệ thống pháp luật này nhiều khi áp dụng đồng thời cả hai hướng mà đại diện là luật pháp của nước Cộng hòa Pháp. Luật của Cộng hòa Pháp được coi phần "cứng" tương đối ổn định và án lệ là phần "mềm" làm nhiệm vụ bổ sung. Với cách quy định này pháp luật về giao dịch của những nước này vừa có tính ràng buộc cao nhưng cũng rất linh hoạt, uyển chuyển [96, tr. 13-14].
Ở nước ta hiện nay chưa công nhận án lệ là nguồn của pháp luật giao dịch. Do vậy, hiện nay chúng ta rất khó áp dụng, trong thực tế việc sửa đổi và hướng dẫn bằng văn bản là công việc thường xuyên. Nhưng mỗi lần sửa đổi và hướng dẫn lại phải thông qua nhiều thủ tục rất phức tạp và khó khăn. Ví dụ như: sửa đổi Bộ luật, Luật phải đợi mỗi kỳ họp Quốc hội; các văn bản hướng dẫn của TANDTC và các thông tư liên tịch cũng phải mất rất nhiều các cuộc họp. Trong khi đó do phát triển của khoa học - kỹ thuật lại xuất hiện nhiều loại tài sản mới, giao dịch mới và hình thức mới. Ví dụ, ký kết hợp đồng dân sự qua mạng... Vì vậy, trên thực tế đã có tình trạng các văn bản pháp luật vừa mới ban hành ra rất công phu nhưng đã bị lạc hậu; chưa kể đến những bất cập khi ban hành dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau giữa các văn bản pháp luật cũ và văn bản pháp luật mới [98, tr. 38].
Thứ tư: Nội dung của giao dịch không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Trong giao dịch dân sự, khi tham gia giao dịch các chủ thể đều phải nhằm đạt được một mục đích nhất định và mong muốn mục đích của mình trở thành hiện thực. Do vậy, để đạt được mục đích đó các chủ thể có quyền tự do đặt ra những yêu cầu, cam kết phù hợp với ý chí của mình. Tuy nhiên, các cam kết đó không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Bởi lẽ, pháp luật của các nước, ngoài việc tạo điều kiện để cho các giao kết trở thành hiện thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp luật bảo vệ lợi ích chung của xã hội, trong đó có lợi ích của chính các chủ thể tham gia giao dịch.
Từ những phân tích trên và qua việc xác định đặc điểm chung của giao dịch dân sự, có thể đi đến một khái niệm khoa học về giao dịch dân sự như sau:
Giao dịch dân sự là một loại hình hoạt động của con người (cá nhân, tổ chức...) thông qua đó các chủ thể thể hiện được ý chí, sự tự nguyện, tự do, thỏa thuận trong khuôn khổ quy định pháp luật về các quyền, nghĩa vụ dân sự được phát sinh, được thay đổi hoặc chấp dứt... góp phần làm cho giao lưu dân sự phát triển phong phú, đa dạng phù hợp với tiến độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.1.3. Ý nghĩa của giao dịch dân sự trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa. Trong quá trình trao đổi giữa người mua và người bán hình thành nên mối quan hệ. Vì vậy, thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau và hình thành giá cả của hàng hóa và trao đổi quyền sở hữu đối với hàng hóa. Nhìn trên phạm vi của toàn xã hội thì thị trường là sự gặp gỡ giữa người mua, người bán và đồng thời là nơi cân bằng các nhu cầu của xã hội, thị trường là nơi mở rộng giao dịch hình thành, phát triển theo đúng bản chất và sự phong phú về hình thức, chủng loại... Do đó giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng, thiết thực góp phần thúc đẩy các giao lưu dân sự phát triển, phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường.
- Tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch
Khi các bên tham gia giao dịch có quyền tự do, tự nguyện tham gia giao dịch, nhưng sự tự do trao đổi thường được đặt trong khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật quy định về các điều kiện để các chủ thể tham gia giao dịch và đồng thời quy định biện pháp chế tài nếu các bên tham gia không tuân theo các điều kiện để giao dịch có giá trị pháp lý, thì giao dịch dân sự bị vô hiệu, các bên chịu hậu quả pháp lý nhất định, có thể gây bất lợi cho các bên đó là, giao dịch đó dù chưa thực hiện hoặc đang thực hiện thì cũng chấm dứt, không được tiếp tục thực hiện và giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định pháp luật. Việc quy định này nhằm bảo vệ trật tự công, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia giao dịch. Do vậy, chế định pháp lý về giao dịch dân sự trong đó có các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu đóng vai trò là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm an toàn cho các chủ thể, nhằm thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, trong sản xuất và kinh doanh..., trong nền kinh tế thị trường.
- Là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp xảy ra
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước không bắt buộc các chủ thể tham gia giao dịch với ai, nội dung gì..., nhưng khi các bên đã tự nguyện tham gia giao dịch, tự nguyện cam kết, họ phải chịu sự ràng buộc bởi chính sự cam kết đó, thậm chí trong trường hợp nào đó các chủ thể còn thỏa thuận đặt ra hình thức phạt vi phạm khi không tự giác thực hiện nội dung đã cam kết. Nếu bên nào vi phạm cam kết thì không những phải chịu bất lợi do pháp luật quy định, mà còn chịu các chế tài do chính các bên tham gia giao dịch đặt ra. Trong trường hợp chủ thể đã tự nguyện tham gia, dù có một số cam kết, thỏa thuận trong giao dịch có thể bất lợi cho chính họ nhưng không thể thoái thác hoặc từ chối thực hiện. Nếu từ chối thực hiện nghĩa vụ đã cam kết..., sẽ là căn cứ áp dụng các biện pháp chế tài buộc bên họ phải chịu những tổn thất nhất định. Với quy định chế tài trong giao dịch đã đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, củng cố thái độ tích cực của chủ thể tham gia giao dịch và thực hiện nghĩa vụ đã cam kết. Khi có tranh chấp thì chính những cam kết mà các bên đã thỏa thuận đó sẽ là chứng cứ quan trọng để xác định xem ai là người vi phạm, mức độ vi phạm tới đâu, cần phải áp dụng biện pháp chế tài như thế nào cho phù hợp. Nếu trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, thì cam kết đóng vai trò quan trọng xác định lỗi của các bên tham gia trên cơ sở đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên vi phạm khi giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu.
- Bảo đảm cho việc kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Những cam kết thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch là căn cứ vững chắc để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra xem các chủ thể đó có thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật hay không. Đồng thời áp dụng biện pháp chế tài cho các bên vi phạm khi cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế các bên tham gia giao dịch trong một số trường hợp vi phạm các quy định của Nhà nước, nhưng họ đã cố tình lẩn tránh bằng cách xác lập giao dịch giả cách (không đúng mới nội dung mà các bên đã thỏa thuận). Do vậy, khi kiểm tra thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước của các chủ thể tham gia giao dịch thông thường các cơ quan chức năng không chỉ thuần túy kiểm tra thông qua các giao dịch trên cơ sở là các văn bản là hình thức thể hiện giao dịch mà phải kiểm tra thực chất nội dung đích thực của giao dịch mà các bên tham gia. Đây là một vấn đề phức tạp, vì vậy khi kiểm tra phải thận trọng tìm ra những điểm bất hợp lý trên các văn bản. Khi phát hiện giao dịch dân sự vô hiệu thì tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý giao dịch dân sự vô hiệu.
- Góp phần ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản
Chế định giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng để các chủ thể khi tham gia giao dịch nghiêm túc thực hiện, tránh không vi phạm quy định của Nhà nước. Nếu một hoặc các bên tham gia vi phạm thì giao dịch dân sự bị vô hiệu, bên vi phạm phải chịu hậu quả pháp lý nhất định có thể gây bất lợi cho chính họ, ví dụ, bị phạt cọc (nếu các bên có thỏa thuận), bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của họ gây ra, hủy giao dịch... Việc quy định này có ý nghĩa khắc phục những thiệt hại cho bên bị vi phạm, đồng thời còn tạo nên sự công bằng cho xã hội và cũng là những lời cảnh báo cho các chủ thể khi họ tham gia giao dịch, tạo thái độ nghiêm túc của các chủ thể trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về giao dịch và nội dung của giao dịch do các chủ thể tham gia xây dựng nên, tạo ra sự ổn định trong giao lưu tài sản, góp phần ổn định trong quan hệ sở hữu tài sản.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm chung về giao dịch dân sự vô hiệu
1.1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự vô hiệu không phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn. Đây là nguyên lý chung mà pháp luật các nước đều ghi nhận. Trên thế giới hiện nay, phần lớn các nhà nhà lập pháp không đưa ra các khái niệm chung về giao dịch vô hiệu mà chủ yếu đi sâu quy định các tiêu chí để xác định một giao dịch vô hiệu. Ví dụ, tại Điều 113 BLDS và thương mại Thái Lan quy định: "Một hành vi pháp lý bị vô hiệu nếu mục tiêu của nó rõ ràng bị pháp luật ngăn cấm hoặc không thể thực hiện được, hoặc trái với trật tự công cộng hoặc trái với đạo đức". Ở Việt Nam để xác định giao dịch vô hiệu phải căn cứ vào quy định tại Điều 131 BLDS và Điều 136 BLDS (giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 131 của BLDS là vô hiệu). Các điều kiện theo quy định tại Điều 131 là: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, mặc dù thuật ngữ giao dịch dân sự vô hiệu được sử dụng rộng rãi, nhưng chưa thấy tài liệu nào nêu ra khái niệm khoa học cụ thể. Để tìm đến một khái niệm hoàn chỉnh về giao dịch dân sự vô hiệu, trước hết cần làm rõ vấn đề vô hiệu nói chung.
Vô hiệu theo nghĩa thông thường là "không có hiệu lực, không có hiệu quả" [116, tr. 1083]. Như vậy, có thể suy ra là giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không tồn tại theo quy định của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý. Mặc dù một giao dịch dân sự nào đó được xác lập, các bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong các quyền, nghĩa vụ như cam kết..., nhưng khi xác định đó là giao dịch dân sự vô hiệu thì mọi cam kết (đang, đã thực hiện...) đều không phải là các quyền, nghĩa vụ được pháp luật bảo hộ và bảo vệ. Thông thường các nước trên thế giới đều căn cứ vào các điều khoản chủ yếu, mang tính chất quyết định của giao dịch để xác định một giao dịch dân sự vô hiệu. Các điều khoản chủ yếu này dựa vào đặc điểm, tính chất của giao dịch, đồng thời phải căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
Khi xem xét giao dịch dân sự vô hiệu, thông thường, các nhà khoa học căn cứ vào tính trái pháp luật dẫn đến giao dịch vô hiệu để phân ra thành giao dịch vô hiệu tuyệt đối và giao dịch dân sự vô hiệu tương đối. Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối là giao dịch dân sự không có hiệu lực ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Do vậy, kể cả trường hợp các bên tham gia giao dịch đã ký kết và thực hiện sẽ không có giá trị pháp lý. Các bên phải chấm dứt thực hiện và quay lại tình trạng ban đầu và hoàn lại cho nhau những gì đã nhận. Đối với giao dịch vô hiệu tương đối là loại giao dịch có khả năng khắc phục, nó được coi là một loại giao dịch dân sự có thể có hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên tham gia giao dịch. Giao dịch này thông thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô hiệu đối với bên có lỗi mà không bị vô hiệu đối với bên không có lỗi. Khi xác định giao dịch dân sự vô hiệu thì các quyền và nghĩa vụ của các bên đã thỏa thuận đều không có giá trị pháp lý, còn trong trường hợp giao dịch đó được thừa nhận sau khi đã khắc phục thì đương nhiên quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được pháp luật bảo hộ, bảo vệ theo sự cam kết của các bên, giao dịch khắc phục được coi là giao dịch mới. Còn đối với giao dịch vô hiệu tuyệt đối thì lại hoàn toàn khác. Đây thường là giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật nên trong thực tế Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền không cho phép khắc phục cho dù các bên mong muốn được khắc phục. Giao dịch này không có hiệu lực ngay từ thời điểm ký kết, cho dù nó có bị Tòa án tuyên bố vô hiệu hay không [96, tr. 73-74].
Sự phân loại này là dựa trên các tiêu chí nhất định, đối với giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối tất cả những người liên quan đến giao dịch đều có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu, còn đối với giao dịch dân sự vô hiệu tương đối thì chỉ có người nào được pháp luật bảo vệ mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Nhà lập pháp quy định thời hiệu khởi kiện đối với giao dịch tuyệt đối là vô thời hạn, còn đối với giao dịch vô hiệu tương đối thì thời hiệu khởi kiện được nhà lập pháp quy định một thời gian nhất định. Việc phân loại này có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn, vì khi đưa ra các biện pháp xử lý các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật có thể cân nhắc các giải pháp tối ưu để quyền và nghĩa vụ của các bên ít bị ảnh hưởng, tổn thất.
Tuy nhiên, thực tiễn xem xét quy định pháp luật Việt Nam về giao dịch dân sự vô hiệu, nếu căn cứ vào các tiêu chí nêu trên để phân loại, thấy rằng rất khó khăn khi xác định giao dịch vô hiệu về hình thức thì thuộc vào loại giao dịch nào, là giao dịch dân sự vô hiệu tương đối hay giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối? Nếu căn cứ vào thời hiệu khởi kiện thì xếp giao dịch vô hiệu về hình thức là giao dịch vô hiệu tuyệt đối, còn căn cứ vào tiêu chí có khả năng khắc phục thì giao dịch vô hiệu về hình thức là giao dịch vô hiệu tương đối... Trong trường hợp này, cần xác định hình thức của giao dịch chỉ là điều kiện khi thực hiện việc xác lập giao dịch, nếu các bên tham gia giao dịch không thực hiện điều kiện theo đúng hình thức thì giao dịch vô hiệu, nó không thuộc loại giao dịch dân sự vô hiệu tương đối hay giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối.
Để hiểu rõ hơn về giao dịch dân sự vô hiệu, cần phải có sự phân biệt sự khác nhau giữa giao dịch dân sự vô hiệu với giao dịch dân sự mất hiệu lực. Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết, còn giao dịch dân sự bị mất hiệu lực là giao dịch có hiệu lực tại thời điểm ký kết nhưng giao dịch bị chấm dứt hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu lực của giao dịch dân sự có thể do một bên vi phạm, dẫn đến bên bị vi phạm yêu cầu hủy giao dịch hoặc các bên tự thỏa thuận với nhau chấm dứt hiệu lực của giao dịch hoặc do một trở ngại khách quan nào khác [96, tr. 27-28]. Ví dụ, hai bên ký kết một hợp đồng mua bán gỗ pơmu, thời điểm này Nhà nước không cấm mua bán đối với loại mặt hàng này, nhưng trong khi hai bên đang thực hiện hợp đồng, Nhà nước lại có quyết định cấm khai thác và mua bán gỗ pơmu, dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện được và mất hiệu lực.
Nhìn chung, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự mà các chủ thể tham gia giao dịch không tuân thủ theo các điều kiện mà pháp luật quy định đối với giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật. Hậu quả là không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch. Đối với một giao dịch dân sự vô hiệu thì cho dù các bên tham gia giao kết đã thực hiện hoặc thực hiện một phần của giao dịch theo cam kết của các bên... thì vẫn không được công nhận về mặt pháp lý và mọi cam kết không có giá trị bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm các bên xác lập giao dịch đó.
1.1.2.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu
Về phương diện lý luận và cơ sở thực tiễn, khi tham gia vào giao dịch dân sự các bên đều mong muốn đạt mục đích nhất định và pháp luật bảo hộ cũng như tạo điều kiện cho mục đích đó trở thành hiện thực. Để được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, thì người tham gia giao dịch phải tuân theo các điều kiện mà pháp luật quy định. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch cũng như việc bảo vệ lợi ích chung của xã hội.
Đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật. Khi giao dịch vô hiệu các bên tham gia giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định có thể bất lợi về vật chất và tinh thần, như không đạt được mục đích đã được xác định, nếu chưa thực hiện thì sẽ không được thực hiện giao dịch nữa; nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó để quay lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận (Điều 146, BLDS). Giao dịch dân sự vô hiệu thường có những đặc điểm chung như sau:
a) Không đáp ứng một trong các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với giao dịch dân sự có hiệu lực
+ Không đáp ứng điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người tham gia giao dịch.
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch nhưng không phải bất cứ ai cũng có quyền tham gia vào bất kỳ giao dịch nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép mới có thể được tham gia. Để bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của người tham gia giao dịch, pháp luật dân sự căn cứ vào khả năng sinh học của con người, địa vị pháp lý của các cá nhân và pháp nhân để đặt ra điều kiện cho phép các tham gia với tư cách là chủ thể của giao dịch dân sự. Trong một số trường hợp thì một số chủ thể chỉ được tham gia trong sự giới hạn của một số quan hệ dân sự nhất định. Khi các chủ thể tham gia giao dịch phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, mà năng lực pháp luật là vốn có của chủ thể mà pháp luật quy định cho các chủ thể đều có quyền như nhau: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra và chấm dứt khi người đó chết" [7, khoản 3, Điều 16], còn năng lực hành vi thì pháp luật căn cứ vào khả năng nhận biết hành vi của từng con người cụ thể. Việc xác định khả năng nhận biết này dựa trên cơ sở sinh học và cơ sở xã hội. Các chủ thể tham gia giao dịch chỉ đầy đủ và hoàn thiện, khi họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Nếu năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể, thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện nghĩa vụ, biến những quyền khách quan thành hiện thực. Nếu trường hợp tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi một phần, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự... mà pháp luật không cho phép tham gia giao dịch một cách độc lập, thì giao dịch đó bị vô hiệu, trừ trường hợp khi tham gia giao dịch có sự đồng ý của người giám hộ. Vì năng lực pháp luật là cái vốn có của chủ thể, ai cũng có năng lực pháp luật như nhau. Do đó, thông thường pháp luật chỉ quy định về năng lực hành vi là điều kiện cơ bản của các chủ thể khi tham gia giao dịch. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, việc quy định chủ thể tham gia giao dịch có năng lực hành vi là chưa đủ, mà cần phải quy định chủ thể tham gia giao dịch có năng lực pháp luật và năng lực hành vi, bởi các lý do sau:
Tư cách của chủ thể tham gia quan hệ giao dịch dân sự luôn là sự thống nhất giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực hành vi dân sự cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định. Năng lực pháp luật chính là điều kiện cần, năng lực hành vi chính là điều kiện đủ để tạo ra tư cách của một chủ thể khi tham gia vào giao dịch dân sự. Trong thực tế một số giao dịch dân sự mà chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi nhưng không được tham gia một số giao dịch nhất định, như: người giám hộ không được quyền mua tài sản của người vị thành niên mà do chính mình giám hộ hay là người được ủy quyền không được mua tài sản của người ủy quyền [46, tr. 2].
+ Mục đích và nội dung của giao dịch không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội.
Trong giao dịch dân sự thì yếu tố thể hiện ý chí là một trong các nguyên tắc chủ yếu và đặc trưng của giao dịch dân sự. Theo nguyên tắc này chủ thể tham gia giao dịch có quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định nội dung, hình thức của giao dịch, thể hiện khi xác lập giao dịch thì các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự do thỏa thuận nội dung của giao dịch, hình thức giao kết. Nhưng sự tự do đó không mang tính tuyệt đối mà bị ràng buộc trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Sự ràng buộc này chính là sự hạn chế tự do của các chủ thể khi tham gia vào giao dịch, nếu chủ thể tham gia giao dịch không tuân theo sự hạn chế của pháp luật dẫn tới giao dịch vô hiệu, đó là:
- Mọi thỏa thuận không được trái với pháp luật.
Trong khoa học pháp lý trên thế giới đều coi đây là sự hạn chế tự do của chủ thể. Bởi lẽ, về bản chất pháp luật là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị và lợi ích chung của cộng đồng. Chính vì vậy pháp luật của các nước trên thế giới phải quy định mọi biện pháp để pháp luật đi vào cuộc sống và được mọi người dân tuân thủ nghiêm chỉnh, nếu không thực hiện nghiêm chỉnh sẽ có biện pháp chế tài hoặc có biện pháp khác buộc các chủ thể phải tuân theo. Trong giao dịch dân sự, pháp luật đặt ra các điều kiện mà khi các chủ thể tham gia giao dịch phải tuân theo (tức là phải chịu sự hạn chế của pháp luật) nếu trong trường hợp không tuân theo các điều kiện này thì giao dịch đó vô hiệu. Tuy nhiên, ở mỗi nước có chế độ chính trị, điều kiện địa lý, văn hóa truyền thống... khác nhau mà hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về giao dịch dân sự nói riêng có quy định các điều kiện để cho các chủ thể tham gia giao dịch khác nhau.
- Giao dịch không trái với đạo đức xã hội.
Các giao dịch cho dù không trái bất cứ một quy định nào của pháp luật nhưng vẫn có thể bị vô hiệu khi vi phạm đạo đức - xã hội. Pháp luật về giao dịch ở đa số các nước trên thế giới đều có quy định này. Ví dụ, tại Điều 113 BLDS và thương mại Thái Lan quy định: "Một hành vi pháp lý bị vô hiệu nếu mục tiêu của nó rõ ràng bị pháp luật ngăn cấm hoặc không thể thực hiện được, hoặc trái với trật tự công cộng hoặc trái với đạo đức". Tại khoản 2 Điều 131, BLDS Việt Nam quy định một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là: "Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội". Theo nguyên tắc chung, giao dịch trái với đạo đức xã hội thì bị vô hiệu. Tuy nhiên, khái niệm đạo đức là một phạm trù trừu tượng (có độ "co giãn" cao), mà nó phụ thuộc vào từng thời điểm kinh tế - chính trị nhất định, đồng thời đạo đức xã hội và phạm trù có tính đạo đức là hai phạm trù khác nhau nhưng không phải khi nào hai khái niệm này cũng có sự khác nhau rõ rệt và trong nhiều trường hợp nó có liên quan với nhau nên không thể phân biệt chúng một cách rõ ràng được. Chính vì vậy, trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp tại TAND, thì vấn đề xác định một giao dịch vi phạm đạo đức xã hội hay không là vấn đề rất phức tạp. Chính sự phức tạp đó, một số nước không đưa khái niệm "đạo đức" vào trong pháp luật. Vì rằng, khái niệm "đạo đức" khó hiểu nếu đưa vào BLDS sẽ gây tâm lý hoang mang cho các chủ thể tham gia giao dịch, dẫn đến các chủ thể hạn chế tham gia một số giao lưu dân sự. Mặt khác, những hành vi mà pháp luật coi là trái với đạo đức - xã hội cũng có thể coi hành vi này phạm vi các điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm trật tự công cộng.
Ví dụ, pháp luật của Nhật Bản không quy định riêng hành vi trái với đạo đức, mà nằm trong quy định về (không trái với trật tự công cộng). Trật tự công cộng là một phạm trù phạm vi rộng có liên quan đến cả lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội, khái niệm này so với khái niệm đạo đức - xã hội mang tính khái quát rộng hơn. BLDS Nhật Bản đã đưa ra các trường hợp cụ thể là: một là, vi phạm nguyên tắc công bằng; hai là, lợi dụng sơ suất hoặc hoàn cảnh khó khăn của người khác vì mục đích thu lợi bất chính; ba là, hạn chế quyền tự do của người khác (ví dụ, khi hợp đồng thuê mướn hoặc chuyển giao một công việc nhất định kèm theo điều kiện cấm một bên thực hiện loại hình công việc tương tự trong phạm vi rộng và thời gian dài); bốn là, giao dịch pháp lý có tính chất đầu cơ [3, tr. 127].
Pháp luật của nước ta ghi nhận hạn chế đối với giao dịch dân sự tại Điều 131, Điều 395 BLDS nhưng do tính phức tạp nêu trên mà pháp luật nước ta không làm rõ thế nào là đạo đức - xã hội, cho nên không quy định cụ thể trường hợp nào được coi là vi phạm. Chính vì thế mà khi xác định nội dung của khái niệm đạo đức thường được xem xét trong mối quan hệ án lệ, nhưng về lý thuyết thì Nhà nước ta chưa thừa nhận án lệ. Chính vì thế trong thực tiễn hiện nay quy định này đã gây ra không ít khó khăn khó khăn trong việc áp dụng. Trong thực tiễn chúng tôi thấy rằng, thông thường những người thực thi pháp luật áp dụng trong trường hợp, một bên tham gia giao dịch biết rõ bên kia đang trong tình cảnh khó khăn, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của họ mà xác lập giao dịch có lợi cho mình một cách quá đáng. Ví dụ, trong hoàn cảnh nước lụt, dân trong làng đang thiếu lương thực trầm trọng, biết hoàn cảnh đó chủ một cửa hàng lương thực tăng giá lương thực lên gấp nhiều lần so với bình thường, nhưng vì tồn tại cuộc sống nhân dân vẫn phải mua.
+ Chủ thể tham gia giao dịch không tự nguyện.
Sự tự nguyện tham gia giao dịch là một yếu tố cơ bản và không thể thiếu được trong giao dịch dân sự. Vì vậy, các chủ thể tham gia giao dịch phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thỏa thuận không phản ánh đúng ý chí của các bên đều có thể dẫn đến sự vô hiệu của giao dịch. Pháp luật của phần lớn các nước trên thế giới đều đòi hỏi khi tham gia giao dịch phải thể hiện ý chí đích thực. Ý chí đích thực trong giao dịch là thể hiện, khi tham gia giao dịch các chủ thể có quyền thể hiện mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật cho phép mà không bị sự ép buộc của bất kỳ một yếu tố nào khác. Tuy nhiên, để hạn chế các trường hợp vô hiệu mà gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các chủ thể tham gia giao dịch cũng như lợi ích của công cộng, pháp luật về giao dịch của một số nước như Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp... vẫn thừa nhận hiệu lực của giao dịch khi có sự nhầm lẫn đơn phương. Giao dịch chỉ vô hiệu trong trường hợp mà cả hai bên biết trước sự sai lệch ý chí đích thực của các bên so với những gì mà các bên thể hiện hoặc buộc các bên phải biết theo quy định của pháp luật thì sẽ dẫn tới giao dịch vô hiệu như: bị lừa rối, đe dọa...
+ Hình thức giao dịch không đúng với quy định của pháp luật
Để bảo vệ cho trật tự an toàn xã hội, lợi ích của Nhà nước và sự an toàn của người tham gia giao dịch, ngoài việc các chủ thể tham gia giao dịch phải thể hiện ý chí đích thực của mình còn phải tuân theo quy định của pháp luật về việc tuân thủ các quy định về hình thức đối với một số giao dịch nhất định. Hình thức của giao dịch là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định. Thông qua các biểu hiện này những người khác có thể biết được nội dung của giao dịch: "Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải được Công chứng nhà nước chứng nhận, được chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép, thì phải tuân theo quy định đó" [7, Điều 133].
Việc quy định một số loại giao dịch phải tuân thủ các quy định về hình thức dựa trên cơ sở là đối tượng của các loại giao dịch này có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt, nên hình thức của giao dịch là căn cứ xác định nội dung của giao dịch. Mặt khác, với những quy định này còn là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc chuyển dịch các tài sản có giá trị lớn. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về việc có nên xác định giao dịch vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức là điều kiện kiên quyết để xác định giao dịch vô hiệu hay không...
b) Các bên tham gia giao dịch phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định
Khi giao dịch dân sự vô hiệu, quay lại tình trạng ban đầu, các bên tham gia giao dịch hoàn lại cho nhau những gì đã nhận. Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên, vì các bên không đạt được mục đích như đã mong muốn đó là xác lập giao dịch để đáp ứng nhu cầu hoặc vật chất của mình mà phải quay lại tình trạng như trước khi tham gia giao dịch. Tuy nhiên, về mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố giao dịch vô hiệu có bên được hưởng lợi, có bên bị thiệt hại, có thể nói đây là vấn đề phức tạp nhất khi giải quyết hậu quả pháp lý giao dịch dân sự vô hiệu trong thực tế.
Từ những phân tích trên và qua việc xác định đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu, có thể đi đến một khái niệm khoa học về giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
Giao dịch dân sự vô hiệu là loại giao dịch dân sự mà khi xác lập các bên (hoặc chủ thể có hành vi pháp lý đơn phương) đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn tới hậu quả pháp lý là không làm phát sinh bất kỳ một quyền hay nghĩa vụ dân sự nào thỏa mãn mục đích theo mong muốn của người tham gia giao dịch.
Trên thế giới việc xây dựng pháp luật đang phát triển theo các khuynh hướng khác nhau.
Khuynh hướng thứ nhất: Dựa trên sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật hiện đại đã xuất hiện một số loại hàng hóa, tài sản và các loại hình dịch vụ mới dẫn đến các quan niệm về giao dịch dân sự cũng thay đổi theo hoặc vì có sự xuất hiện của các giao dịch dân sự mới được cấu thành bởi hai hay nhiều loại giao dịch khác nhau... nên cần phải có sự điều chỉnh pháp luật phù hợp với chủng loại giao dịch này. Ngoài ra, pháp luật về giao dịch dân sự ngày càng hướng tới điều chỉnh các quan hệ giữa các tổ chức như: các thỏa ước dưới mọi hình thức, hợp đồng thành lập các hiệp hội, liên hiệp... do vậy phạm vi điều chỉnh của pháp luật về giao dịch sẽ ngày càng mở rộng hơn.
Khuynh hướng thứ hai: Một số các quan hệ về giao dịch trước kia chỉ do pháp luật dân sự điều chỉnh, nay được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác hoặc bị loại bỏ ra khỏi luật dân sự như hợp đồng thương mại, hợp đồng lao động... [66, tr. 5]. Khi xây dựng pháp luật điều chỉnh về giao dịch, các quốc gia đều quan tâm đến điều kiện để xác định giao dịch có hiệu lực cũng như các tiêu chí để xác định giao dịch vô hiệu nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của các chủ thể ổn định trật tự trong lưu thông dân sự, ổn định các quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ.
Về phương diện lý luận, trên thế giới có một số các cách thức điều chỉnh pháp luật đối với các giao dị._. trường hợp này người bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng không, chính điều này sẽ dễ dàng đưa đến tình trạng một bên vì muốn trốn tránh nghĩa vụ thực hiện giao dịch mà lại ra lý do nhầm lẫn để coi là vô hiệu. Như vậy, nhầm lẫn về nội dung không chủ yếu, cũng như nhầm lẫn về chủ thể, nhầm lẫn về luật hầu như không được thừa nhận là yếu tố đưa đến sự vô hiệu của giao dịch. Cách tiếp cận của BLDS về vấn đề nhầm lẫn như trên chủ yếu quan tâm tới hậu quả chứ không quan tâm tới điều kiện, lý do dẫn tới sự nhầm lẫn. Đây là một điểm bất cập của pháp luật nước ta về giao dịch dân sự vô hiệu [93].
Theo chúng tôi, sửa đổi Điều 141 BLDS là một giao dịch dân sự chỉ được coi là nhầm lẫn, khi nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch. Một hoặc các bên cho rằng bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
3.3.1.7. Vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa
Tại Điều 142 BLDS quy định: "Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi..." mà không đề cập tới trường hợp người thứ ba thực hiện có là yếu tố dẫn tới sự vô hiệu của giao dịch hay không. Trong thực tiễn có trường hợp một người không tham gia giao dịch nhưng vì động cơ nào đó mà có hành vi đe dọa buộc một bên hoặc hai bên phải tham gia giao dịch thì vẫn phải tuyên bố giao dịch bị vô hiệu do bị đe dọa. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Ban soạn thảo BLDS, tháng 6 năm 2004, cần sửa Điều 142 BLDS như sau: Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị bên kia hoặc do bị người thứ ba lừa dối hoặc bị đe dọa, thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình thiệt hoặc của người thân thích.
3.3.1.8. Điều 145 BLDS
BLDS quy định thời hạn đối với Điều 140, Điều 141, Điều 142, Điều 143 của BLDS là một năm là thời hạn quá ngắn. Mặt khác, trong Điều 145 không nêu trường hợp vì yếu tố khách quan mà không thể yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Đồng thời, cần bỏ từ "thời hạn" thay bằng từ "thời hiệu" cho đúng với bản chất của điều luật. Việc thay đổi này phù hợp với ý kiến của ban dự thảo BLDS tháng 11/2004.
Chúng tôi đề nghị sửa Điều 145 như sau: thời hiệu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu các điều nêu trên là 3 năm, bằng thời hạn xem xét giám đốc thẩm vụ án dân sự, thời hạn kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Tuy nhiên, vì lý do khách quan mà người yêu cầu tuyên bố giao dịch không thể thực hiện được thì thời điểm tính từ ngày trở ngại khách quan không còn nữa. Còn đối với khoản 2 Điều 145 bỏ thời hiệu tuyên bố giao dịch vô hiệu về hình thức (Điều 139 BLDS). Vì vấn đề này chúng tôi đã đề cập ở trên không coi điều kiện không tuân thủ các quy định về hình thức dẫn tới giao dịch dân sự vô hiệu.
3.3.1.9. Về Điều 137; Khoản 2, Điều 141; Khoản 2, Điều 142 BLDS
Theo quy định Điều 137, Điều 142, Điều 146 BLDS thì trong trường hợp giao dịch dân sự trái với những quy định của pháp luật và trái với đạo đức xã hội bị vô hiệu, được quy định cụ thể ở Khoản 2, Điều 131, Điều 136 BLDS và giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 146 BLDS. Còn đối với giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật và trái với đạo đức xã hội được giải quyết theo quy định tại Điều 137 BLDS. Như vậy, đối với giao dịch dân sự vô hiệu trái với đạo đức xã hội, khi giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu có thể căn cứ vào Điều 137 BLDS và cũng có thể áp dụng Điều 146 BLDS để giải quyết.
Thực tiễn giải quyết tại Tòa án không phải mọi trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm hoặc do bị lừa dối, đe dọa đều tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Điều này còn tùy thuộc vào đối tượng của giao dịch, loại tài sản và mức độ cấm khác nhau mà chúng tôi đề cập mục 3.2.1.2 của luận án. Mặt khác, nếu chúng ta quy định giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu ở các Điều 137, Khoản 2 Điều 141, Khoản 2 Điều 142, BLDS dẫn tới không thống nhất về cách giải quyết, khó khăn khi áp dụng luật. Trong khi đọc Điều 146 BLDS quy định: "Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên từ thời điểm xác lập
Khi vô hiệu các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật, thì phải hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Tùy từng trường hợp, xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật", chúng ta thấy rằng với quy định này có thể áp dụng giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu trong mọi trường hợp. Do vậy, cần bỏ Điều 137, Khoản 2 Điều 141, Khoản 2 Điều 142, BLDS và cần phải hướng dẫn áp dụng Điều 146 BLDS để giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu.
3.3.2. Giải pháp thực hiện trong thực tiễn xét xử (hướng dẫn áp dụng Điều 146 BLDS)
Tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới về vấn đề trượt giá của tài sản là đối tượng của giao dịch và trượt giá của đồng tiền, thấy rằng: pháp luật các nước theo hệ thống thông luật và luật dân sự được giải quyết chủ yếu bằng các lý thuyết "được lợi không chính đáng" hay "làm giàu không chính đáng" hoặc lý thuyết "thực hiện công việc không có sự ủy quyền". Nội dung của các học thuyết này thì người nào được lợi về tài sản một cách không chính đáng, không công bằng thì phải hoàn trả tiền hoặc tài sản cho người bị thiệt về tiền hoặc tài sản. Tuy nhiên sự được lợi đó được hình thành trên sự đóng góp sức lực hay tiền bạc của phía bị thiệt hại, khác với bồi thường thiệt hại một số điểm, đó là:
+ Người phải hoàn trả chỉ trả trong phạm vi những tài sản hay tiền mà họ được lợi chứ không phải toàn bộ những tổn thất do của nguyên đơn;
+ Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, là sự phát sinh quyền về tài sản không dựa trên cơ sở pháp luật nào, người được lợi về tài sản bao nhiêu phải trả cho chủ sở hữu bấy nhiêu mà không cần phải căn cứ vào hành vi có trái pháp luật hay không [96, tr. 79-80].
Do vậy, trong tương lai Nhà nước cho phép các thẩm phán áp dụng án lệ. Khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì áp dụng Điều 146 BLDS buộc các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại, như: hao mòn, hỏng hóc... Còn vấn đề trượt giá của đồng tiền và trượt giá tài sản là đối tượng của giao dịch có thể áp dụng khoản 2, Điều 604 BLDS: "Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật này" để buộc bên được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật thì phải trả cho bên bị thiệt hại (đây là quan điểm thứ tư mà chúng tôi đã trình bày phần 3.2.2.1 của luận án). Do vậy, chúng tôi hy vọng rằng, đề xuất này sẽ trở thành đường lối dẫn giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu sau này.
Mặt khác, như chúng tôi đã phân tích ở mục 2.1.2 của luận án, khái niệm vi phạm điều cấm của pháp luật có phạm vi hẹp hơn so với khái niệm trái pháp luật, khái niệm trái pháp luật bao trùm khái niệm vi phạm điều cấm pháp luật, có thể nói những quy định không vi phạm điều cấm pháp luật là một phần, nằm trong khái niệm không trái pháp luật. Do vậy, thời gian tới TANDTC cần giải thích rõ khái niệm giao dịch vi phạm điều cấm và khái niệm giao dịch trái pháp luật và luật áp dụng. Đồng thời hướng dẫn trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, thì trường hợp nào cần tịch thu toàn bộ tài sản đưa vào giao dịch, trường hợp nào chỉ cần tịch thu phần lợi tức, trong trường hợp nào không phải tịch thu.
Theo chúng tôi tiêu chí xác định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật cần phải tịch thu, đó là: thứ nhất, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm pháp luật; thứ hai, phải xâm phạm trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước và của xã hội, với mức độ nghiêm trọng, ví dụ: bán diện tích đất nằm trong lộ giới khu quân sự, Nhà nước có quy định cấm không được phép mua bán, chỉ tạm giao để sử dụng trong sản xuất... Tuy nhiên, việc xác định tiêu chí này chỉ mang tính chất tương đối mà tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội từng thời kỳ, nhưng cũng nên quy định hạn chế để tạo ra sự thông thoáng cho các chủ thể tham gia giao dịch.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong thực tiễn việc giải quyết giao dịch dân sự vô hiệu hiện nay thấy rằng: khi các bên tham gia giao dịch thông thường người dân không nắm được những quy định pháp luật mà chủ yếu giao dịch dưới dạng tự phát, dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà mặc nhiên các bên không biết, vẫn thực hiện, khi tranh chấp mới yêu cầu hủy. Khi giải quyết sự việc đã rồi, các thẩm phán thường lúng túng, cân nhắc có nên hủy hay không, nếu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí có trường hợp tuyên bố hủy nhưng thực chất vẫn công nhận, ví dụ, Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán đất giữa bà Phạm thị Những và ông Trần Văn Huề mà chúng tôi đã đề cập mục 3.2.1. của luận án. Mặt khác, diễn biến giao dịch dân sự vô hiệu phức tạp, sự phức tạp này do sự biến đổi về giá cả thị trường, có tài sản thời điểm các bên giao kết so với khi giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu chênh lệch giá gấp 4, 5 lần thậm chí có trường hợp gấp 10 lần, trong khi đó đường lối giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu không nhất quán, không mang lại sự công bằng cho các đương sự. Chính vì lẽ đó nhiều khi đương sự lợi dụng sơ hở của pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch dân sự vô hiệu để nhằm chuộc lợi cho mình, vào thời điểm năm 1998, 1999 khi đó đường lối giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu là các bên trả lại nguyên vẹn cho nhau những gì đã nhận, dẫn tới có xã mà hàng trăm hộ dân chuyển nhượng đất với nhau từ năm 1991-1992, không tuân thủ các quy định về hình thức, thấy giá cả lên họ cùng nhau viết đơn yêu cầu TAND tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và đã trở thành điểm nóng, phức tạp, có những vụ án đã phải giải nhiều lần, nhiều cấp xét xử khác nhau, có những vụ án đã được xét xử ở giai đoạn cao nhất là Hội đồng Thẩm phán mà vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại căng thẳng. Do vậy, việc Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16- 4-2003 và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10- 8-2004, đã thống nhất được đường lối giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu đối với nhà và đất. Đây là loại tài sản thiết yếu trong nhân dân, có thể nói là tài sản giá trị và quan trọng nhất của mỗi gia đình Việt Nam, phần nào đã mang lại sự công bằng cho các đương sự. Tuy nhiên, đối với việc giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu nói chung lại chưa có văn bản hướng dẫn và vẫn còn quan điểm khác nhau chưa đồng tình quan điểm nghị quyết.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, tác giả rút ra một số kết luận cơ bản sau:
1. Cùng với sự phát triển của xã hội, giao dịch dân sự ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp. Vì vậy, phạm vi của pháp luật về giao dịch sẽ ngày càng mở rộng. Một số các quan hệ về giao dịch trước kia chỉ do luật dân sự điều chỉnh, nay được điều chỉnh bởi nhiều ngành luật khác hoặc được tách ra khỏi ngành luật dân sự như hợp đồng lao động, hợp đồng thương mại...
2. Diễn biến giao dịch dân sự vô hiệu phức tạp, trên thực tế rất đa dạng và không ít trường hợp khi các bên tham gia giao dịch thông thường chủ thể không nắm được những quy định pháp luật mà chủ yếu giao dịch dưới dạng tự phát, dẫn đến nhiều giao kết vô hiệu ngay tại thời điểm ký kết mà mặc nhiên các bên không biết, vẫn thực hiện, khi tranh chấp mới yêu cầu hủy. Mặt khác, do sự biến đổi về giá cả thị trường, có tài sản thời điểm các bên giao kết so với khi giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu chênh lệch giá gấp 4, 5 lần thậm chí có trường hợp gấp 10 lần, trong khi đó đường lối giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu chưa nhất quán và không mang lại sự công bằng cho các đương sự. Chính vì lẽ đó nhiều khi đương sự lợi dụng sơ hở của pháp luật đã thất hứa, yêu cầu hủy giao dịch dân sự vô hiệu để nhằm trục lợi cho mình.
3. Giao dịch dân sự được xem là quan hệ "tư", các nhà làm luật luôn luôn tôn trọng và đề cao ý chí của các chủ thể khi tham gia giao dịch, còn Nhà nước càng hạn chế can thiệp bao nhiêu, càng tạo ra sự thông thoáng cho các chủ thể tham gia giao dịch bấy nhiêu. Tuy nhiên, pháp luật dân sự nước ta chưa làm rõ vấn đề này, trong BLDS quy định các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì điều kiện về tự do thỏa thuận thể hiện ý chí của các bên tham gia và điều kiện về hình thức là có sự can thiệp của Nhà nước ngang hàng với nhau.
4. Dân sự là danh từ chỉ chung bao hàm cả việc kinh tế, thương mại nhưng khi ban hành văn bản pháp luật, các nhà làm luật Việt Nam không coi luật kinh tế, thương mại là chuyên biệt của luật dân sự mà lại có sự tách bạch giữa dân sự, kinh tế, thương mại thậm chí quy định giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại lại có sự khác nhau cơ bản, ví dụ, giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu, khái niệm điều cấm..., dẫn đến sự bất bình đẳng trong giao lưu dân sự nói chung. Vấn đề cần khắc phục quá trình lập pháp trong tương lai.
5. Trong các quy định cụ thể vẫn còn có những nội dung chưa thật sự hợp lý, chưa phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và diễn biến thực tiễn của cuộc sống, chưa rõ ràng. Khi giải quyết sự việc đã rồi, các thẩm phán thường lúng túng, cân nhắc có nên hủy hay không, nếu hủy giao dịch dân sự vô hiệu thì phù hợp với pháp luật nhưng không phù hợp với thực tiễn và ngược lại, thậm chí có trường hợp tuyên bố hủy nhưng thực chất vẫn công nhận.
6. Để khuyến khích giao dịch dân sự phát triển và giảm bớt tình trạng giao dịch vô hiệu như hiện nay, trong thời gian tới chúng ta cần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về giao dịch nói chung và giao dịch dân sự nói riêng. Pháp luật thực định phải thể hiện sự thống nhất của pháp luật, không thể hiểu đa nghĩa, không gây sự bất bình đẳng trong các giao dịch về kinh tế, dân sự, thương mại và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay; đồng thời phải phù hợp xu hướng chung của thế giới. Cùng với công tác hoàn thiện pháp luật cần làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật để bảo đảm tính thống nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật cũng như tăng cường trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác pháp luật.
NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁNĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
Nguyễn Văn Cường (2001), "Thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế theo di chúc, những khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự, nguyên nhân và kiến nghị", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân, tr. 223-244.
Nguyễn Văn Cường (2001), "Giải quyết vụ kiện về hợp đồng mua bán nhà tại Tòa án", Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 69-71.
Nguyễn Văn Cường (2002), "Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức", Tòa án nhân dân, (1), tr. 29-31.
Nguyễn Văn Cường (2002), "Một số ý kiến xung quanh vấn đề giao dịch dân sự", Tòa án nhân dân, (7), tr. 15-16.
Nguyễn Văn Cường (2002), "Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu và xử lý tài sản đối với hợp đồng vô hiệu", Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: Về thực tiễn giải quyết các tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm tại Tòa án nhân dân những tồn tại, vướng mắc và kiến nghị của Tòa án nhân dân tối cao, tr. 153-162.
Nguyễn Văn Cường (2002), "Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết hậu quả vô hiệu của hợp đồng mua bán nhà tại Tòa án", Tòa án nhân dân, (9), tr. 21-22.
Nguyễn Văn Cường (2002), "Một vài ý kiến về những quy định trong Bộ luật dân sự liên quan đến hợp đồng thuê tài sản", Tòa án nhân dân, (12), tr. 17-18
Nguyễn Văn Cường, Tưởng Duy Lượng (2003), "Tình hình khiếu kiện và giải quyết tranh chấp có liên quan quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tại Tòa án nhân dân", Khoa học pháp lý, (4), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Minh, tr. 58-64.
Nguyễn Văn Cường (2004), "Một số vướng mắc trong việc áp dụng các văn bản pháp luật về việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu", Tòa án nhân dân, (12), tr. 19-23.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phạm Kim Anh (2000), "Nghĩa vụ hoàn trả tài sản do được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (10).
Nguyễn Mạnh Bách (1995), Pháp luật về hợp đồng, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Việt Nam (2001), tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật dân sự Nhật Bản.
Bộ luật dân sự nước Cộng hòa Pháp (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan (1995), quyển I - IV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật lao động 1994 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (2002), Báo cáo phúc trình đề tài hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng, Hà Nội.
Chính phủ (1999), Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29-3, Về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị sử dụng đất.
Claude D. Rohwer (1998), "Giới thiệu về pháp luật hợp đồng của Mỹ và một số nước", Hội thảo: Pháp luật hợp đồng kinh tế, Tổ chức tại Hà Nội, từ ngày 24 đến ngày 26-6.
Nguyễn Văn Dũng (Chủ nhiệm đề tài) (2000), Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác này, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Đào (2000), Tìm hiểu pháp luật nước ngoài Luật La Mã, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai.
Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Công Đoàn (2000), Chế định hợp đồng vay tài sản trong bộ luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường (1996), "Vài suy nghĩ về nguyên tắc chỉ đạo xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (5).
Vũ Thi Én (1997), "Thiệt hại trong hợp đồng vô hiệu như thế nào", Dân chủ và pháp luật, (9).
Vũ Thi Én (1998), "Hợp đồng vô hiệu và việc giải quyết hậu quả", Dân chủ và pháp luật, (8).
Nguyễn Đức Giao (2000), "Vị trí, vai trò của chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Đào Thị Hằng (1999), "Mấy ý kiến về hợp đồng lao động vô hiệu", Luật học, (5).
Bùi Thị Thanh Hằng (2001), "Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba trong pháp luật dân sự", Dân chủ và pháp luật, (10).
Hoàng Văn Hảo (1999), "Tìm hiểu vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường", Luật học, (3).
Nguyễn Thúy Hiền (1996), "Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó", Dân chủ và pháp luật, (7-8).
Hiến pháp 1946 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp 1959 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp 1980 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp 1992 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đinh Ngọc Hiện (Chủ nhiệm đề tài) (1999), Vấn đề áp dụng một số chế định của Bộ luật dân sự trong thực tiễn xét xử của Tòa án, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Đinh Ngọc Hiện (2000), "Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng tại Tòa án", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
TS. Bùi Đăng Hiếu (2001), "Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối", Luật học, (10).
Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long), tập I, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long), tập II, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long), tập III, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật.
Hội đồng Chính phủ (1979), Nghị định số 2/CP ngày 4-1, Quy định về thủ tục sang tên, trước bạ đối với mua bán đất đai và nhà cửa.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12, Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16-4, Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10-8, Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình.
Jérôme Huet (1999), "Giới thiệu pháp luật hợp đồng của Pháp", Hội thảo: Pháp luật hợp đồng kinh tế, tổ chức tại Hà Nội, từ ngày 19/9 đến ngày 21/9.
Nguyễn Ngọc Khánh (2001), "Giao kết hợp đồng dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Kiểm sát, (11).
Nguyễn Minh Khuê (2001), "Một số vấn đề về giao dịch dân sự", Tòa án nhân dân, (3).
Phạm Công Lạc (1995), "Về "điều kiện" trong các hợp đồng có điều kiện", Luật học, (2).
Phạm Công Lạc (1998), "ý chí trong giao dịch dân sự", Luật học, (5).
Hoàng Thế Liên (2001), "Sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự Việt Nam, một yêu cầu bức xúc trước thềm của thế kỷ XXI", Thông tin khoa học pháp lý, (11+12), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Nguyễn Văn Luật (Chủ nhiệm đề tài) (2000), Giải quyết yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Hà Nội.
Nguyễn Văn Luật (Chủ nhiệm đề tài) (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Luật dân sự (Le droit civil) (1993), Nxb Thế giới, Hà Nội.
Luật doanh nghiệp nhà nước (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật đất đai 2003 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật hôn nhân và gia đình (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật hợp đồng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, 1999.
Luật La Mã (2000), Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
Luật thương mại (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tưởng Duy Lượng (Chủ nhiệm đề tài) (2001), Những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các tranh chấp thừa kế tại Tòa án nhân dân, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Tưởng Duy Lượng (2002), "Một số vướng mắc và kiến nghị về phần thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật", Tòa án nhân dân, (8+9).
Nguyễn Kim Lượng (2002), "Về việc áp dụng Điều 139 Bộ luật dân sự", Tòa án nhân dân, (6).
Tưởng Bằng Lượng (2002), "Di chúc bằng văn bản hay di chúc miệng có giá trị pháp lý", Tòa án nhân dân, (2).
TS. Nguyễn Văn Luyện (1999), "Về mối quan hệ giữa luật dân sự, luật kinh tế và luật thương mại", Nhà nước và pháp luật, (2).
Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển II, Sài Gòn.
Mikazuki Akira (2000), "Lịch sử cấu trúc chế độ pháp luật Nhật Bản sau khi bắt đầu hiện đại hóa", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Morishima Akio (2000), "Nguyên lý của hợp đồng và Bộ luật dân sự Nhật Bản", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Muto (2001), "ý kiến về những điểm cần sửa đổi trong Bộ luật dân sự Việt Nam", Thông tin khoa học pháp lý, (11+12), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Phạm Hữu Nghị (1995), "Về giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự", Nhà nước và pháp luật, (5).
Phạm Duy Nghĩa (1997), "Một số vấn đề cơ bản về hợp đồng chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (10).
Mai Nguyễn (2002), "Từ những hợp đồng vô hiệu kẻ bội tín được lợi nhờ pháp luật", Báo Đời sống và pháp luật, (11).
Nhật ký Hội thảo về việc xử lý hợp đồng vô hiệu (2003), Báo Diễn đàn doanh nghiệp và Câu lạc bộ Luật gia Việt - Đức tổ chức, ngày 28-2, Hà Nội.
Những quy định chung của luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Niimi (2001), "Tóm tắt kiểm điểm về những quy định chung trong phần thứ nhất của Bộ luật dân sự Việt Nam", Thông tin khoa học pháp lý, (11+12), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Nomura Toyohiro (2001), "Về trách nhiệm không thực hiện nghĩa vụ dân sự", Thông tin khoa học pháp lý, (11+ 12), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Phan Tấn Pháp (2002), "Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức", Tòa án nhân dân, (6).
Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991.
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989.
Pháp lệnh về nhà ở 1991.
Pháp lệnh về thừa kế năm 1990.
Đinh Mai Phương (2001), "Một số vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn về hợp đồng dân sự", Thông tin khoa học pháp lý, (11+12), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Sự phát triển của pháp luật dân sự và thương mại Pháp (9/1997), Hội thảo khoa học, Hà Nội.
Suzuki Ken (2000), "Đặc điểm và những lý luận cơ bản của Luật hợp đồng thống nhất của Trung Quốc", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Sắc lệnh 90/SL, ngày 10/10/1945 của Chủ tịch nước cho phép tạm sử dụng một số luật lệ ban hành ở Bắc - Trung - Nam.
Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật.
Sắc lệnh 85/SL ngày 20/2/1952 của Chủ tịch nước ban hành thể lệ trước bạ về việc mua bán, cho và đổi nhà cửa ruộng đất.
Lê Minh Tâm (2000), "Khái niệm hiệu quả pháp luật và những tiêu chí xác định hiệu quả pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (11).
Đinh Văn Thanh (1996), "Hiệu lực và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự", Luật học, Số chuyên đề về Bộ luật dân sự.
Đinh Văn Thanh (1999), "Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự", Luật học, (2).
Hoàng Thị Thanh (2001), "Quy định "giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân theo thủ tục quy định về hình thức" - Những vướng mắc và kiến nghị", Tòa án nhân dân, (9).
Hoàng Ngọc Thỉnh (2000), "Đăng ký tài sản một biện pháp pháp lý hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu", Tòa án nhân dân, (8).
Lê Thị Bích Thọ (1997), "Vấn đề vô hiệu trong việc hoàn thiện chế định hợp đồng kinh tế", Nhà nước và pháp luật, (3).
Lê Thị Bích Thọ (2001), "Một số vấn đề về đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự", Luật học, (4).
Lê Thị Bích Thọ (2001), "Nhầm lẫn - yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng", Tòa án nhân dân, (8).
Lê Thị Bích Thọ (2001), "Phân loại hợp đồng vô hiệu theo pháp luật Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (10).
Lê Thị Bích Thọ (2001), "Tuyên bố hợp đồng kinh tế vô hiệu thực trạng và kiến nghị", Tòa án nhân dân, (12).
Lê Thị Bích Thọ (2002), "Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó", Thông tin khoa học pháp lý, (5), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Thông tư liên tịch số 01/3-1-2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính Hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giả quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
Tòa án nhân dân tối cao (1985), Báo cáo 158/ BC ngày 25-3, Tổng kết công tác xét xử các tranh chấp về mua bán nhà và cho thuê nhà ở của tư nhân tại các thành phố, thị xã, thị trấn.
Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 2001, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 2002, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết của ngành Tòa án năm 2003, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1999), Công văn số 16/1999/ KHXX, ngày 1-2, Về việc giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng của Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân tối cao (2002), Công văn số 81/2002/TANDTC, ngày 10-6, Giải đáp một số các vấn đề về nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án tối cao (1959) Chỉ thị số 772/CT-TATC, Về việc đình chỉ áp dụng của Bộ luật của đế quốc phong kiến.
Tòa án tối cao (1963), Chỉ thị số 4/DS ngày 14-10, Về đường lối giải quyết những giao dịch hợp pháp và bất hợp pháp.
Trần Trung Trực (1997), Một số vấn đề về giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật La Mã, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
TS. Đinh Trung Tụng (2001), "Một số vấn đề về hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam", Thông tin khoa học pháp lý, (11+12), Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý.
Đào Trí úc (1999), "Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu về vai trò, vị trí của pháp luật trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế và khu vực", Nhà nước và pháp luật, (11).
Unidroit (1999), Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Nghị quyết số 58/1988/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8, Về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (1998), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý (2001), Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự Việt Nam, Hà Nội.
Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2743.doc