Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá

Tài liệu Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá: ... Ebook Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá

doc132 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1568 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------*****------- NGUYỄN CÔNG BẰNG GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HÀ NỘI - 2009 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------*****------- NGUYỄN CÔNG BẰNG GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS.ĐOÀN XUÂN THUỶ HÀ NỘI - 2009 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................... ................1 Chương 1: NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT 1. CNH – HĐH Công nghiệp hoá - hiện đại hoá 2. BHYT Bảo hiểm y tế 3. BTXH Bảo hiểm xã hội 4. XĐGN Xóa đói giảm nghèo 5. MTTQ Mặt trận tổ quốc 6. HĐND Hội đồng nhân dân 7. UBND Uỷ ban nhân dân 8. CSXH Chính sách xã hội DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU Sơ đồ 2.1. Quy trình xét duyệt cho vay vốn ưu đãi 62 Biểu 2.1. Diện tích và dân số các huyện ngoại thành Hà Nội 44 Biểu 2.2. Kết quả giải phóng mặt bằng cho các dự án đang triển khai trên địa bàn Thành phố Hà Nội tính đến 31 tháng 12 năm 2008 (ha) 45 Biểu 2.3 Tình hình nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội 47 Biểu 2.4. Kết quả vay vốn của các hộ nghèo, cận nghèo tại một số huyện ngoại thành Hà Nội năm 2006 - 2007 63 Biểu 2.5. Kết quả vận động xây dựng và sử dụng quỹ “Vì người nghèo” từ năm 2000 đến năm 2007. 68 Biểu 2.6. Kết quả cuộc vận động và sử dụng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” 69 Biểu 3.2. Lộ trình giảm các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên 81 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------*****------- NGUYỄN CÔNG BẰNG GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS.ĐOÀN XUÂN THUỶ HÀ NỘI - 2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Ở Việt Nam, vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm thực hiện trong suốt quá trình xây dựng xã hội mới và coi đó là nhiệm vụ quan trọng để ổn định và phát triển. Cùng với các địa phương khác trong cả nước, Thủ đô Hà Nội đã có nhiểu cố gắng trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Hà Nội đã trở thành một trong số địa phương tiêu biểu, đi đầu của cả nước về thành tựu xóa đói, giảm nghèo. Tính đến năm 2005 về cơ bản Hà Nội không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm theo từng năm. Tính đến cuối năm 2007, Hà Nội chỉ còn 2,3% hộ nghèo, hoàn thành vượt mức Nghị quyết thành phố đề ra. Kể từ 01/8/2008 Thủ đô Hà Nội bước sang thời kỳ phát triển mới với sự mở rộng đáng kể về địa giới hành chính, từ đó cũng có nhiều vấn đề mới đang đặt ra trong đó có vấn đề nghèo. Nếu tính chung cho Hà Nội ngày nay, tỷ lệ hộ nghèo đang ở mức cao: 8,43%. Vì vậy, vấn đề nghèo ở Hà Nội nếu không được nghiên cứu và giải quyết thỏa đáng có thể gây nhiều bức xúc về chính trị, xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Do đó tác giả đã chọn vấn đề “Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nghèo nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng. Tuy vậy, về vấn đề giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu dưới giác độ kinh tế chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. Mục đích của luận văn là nghiên cứu đánh giá thực trạng nghèo và giảm nghèo trên địa bàn các huyện ngoại thành của Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo của Thủ đô trong thời gian tới. Nhiệm vụ của luận văn: khái quát và hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo và giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa, phân tích đánh giá thực trạng giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội thời gian từ năm 2000 đến nay, làm rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân; đề xuất những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội đến 2013 và tầm nhìn 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề nghèo và giảm nghèo cùng các quan hệ kinh tế xã hội có liên quan. Phạm vi nghiên cứu: về không gian bao gồm các huyện ngoại thành Hà Nội; về thời gian từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị làm cơ sở, kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử, coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh, hệ thống hoá, nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết. 6. Đóng góp của luận văn. - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ về giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa - Đánh giá khách quan thực trạng đói nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa trên các phương diện: kết quả, hạn chế và nguyên nhân - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới. 7. Kết cấu luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 1.1.1. Quan niệm về vấn đề nghèo 1.1.1.1. Quan niệm của một số tổ chức quốc tế Hiện nay, trên thế giới có nhiều quan niện về đói nghèo của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, tuy nhiên quan niệm của của Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan, ESCAP đã đưa ra khái niệm về nghèo khổ thu nhập một cách hệ thống hơn: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của đất nước” 1.1.1.2. Quan niệm của Việt Nam Các nhà nghiên cứu và quản lý ở nước ta thừa nhận và sử dụng khái niệm nghèo do Uỷ ban Kinh tế- xã hội khu vực châu Á- Thái bình dương (ESCAP) đưa ra nói trên và đây cũng là quan điểm của tác giả luận văn. 1.1.1.3. Quan niệm về chuẩn nghèo Chuẩn nghèo là tiêu chí để xác định ai là người nghèo trong xã hội. Thông thường chuẩn nghèo phản ánh mức chi tiêu tối thiểu cần thiết của con người cho việc tham gia các hoạt động trong đời sống kinh tế. Chuẩn nghèo là một thước đo tương đối, nó được thay đổi theo các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và tập quán tiêu dùng dân cư. Chuẩn nghèo quốc gia được xem như là mức sàn để xác định chuẩn nghèo cho các địa phương khác nhau. Mỗi địa phương căn cứ vào mức sống, nhu cầu chi tiêu, sức mua của đồng tiền, mức lạm phát, vv... có thể có các chuẩn nghèo của riêng mình theo các giai đoạn nhất định. 1.1.2. Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nghèo trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam Thứ nhất, nguồn lực để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh hạn chế và nghèo nàn, đặc biệt là tình trạng nông dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa. Thứ hai, trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định. Thứ ba, hạn chế về điều kiện tiếp cận với pháp luật, về bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Thứ tư, các nguyên nhân về nhân khẩu học. Thứ năm, nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng thiên tai, các rủi ro khác. Thứ sáu, bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ em. Thứ bảy, bệnh tật và sức khỏe yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng 1.1.3. Sự cần thiết phải thực hiện giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. xuất phát từ yêu cầu cơ bản và toàn diện của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhìn về góc độ kinh tế, xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện (tiền đề) cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Nhìn về góc độ xã hội, đói nghèo sẽ dẫn đến những sức ép căng thẳng về xã hội dễ dẫn đến lệ thuộc kinh tế vào các nước giàu. Quá trình đô thị hóa có mặt trái là làm sâu sắc thêm các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo và tái nghèo cho một bộ phận dân cư. 1.2. NỘI DUNG CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI GIẢM NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 1.2.1 Nội dung công tác giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa Mét lµ, tạo điều kiện hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tự vươn lên xoá đói giảm nghèo. Đối với bộ phận dân cư buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành khác trong quá trình đô thị hóa thì các biện pháp hỗ trợ phát triển sản xuất từ phía chính quyền và các tổ chức kinh tế, xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng để giúp họ thoát nghèo và không tái nghèo. Hai là, Thực hiện tốt công tác tái định cư bằng cách hỗ trợ các hộ buộc phải tái định cư do đô thị hóa nhanh chóng hòa nhập với các điều kiện sản xuất và sinh hoạt mới. Ba là, xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa,. nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ cơ sở; thể chế hoá sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội vào giảm nghèo. Bèn là, tập trung phát triển các loại hình dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Kết hợp chặt chẽ chương trình xóa đói, giảm nghèo với chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Năm là, bảo đảm tính công khai, minh bạch và làm rõ trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tạo điều kiện để chính quyền địa phương chủ động, người dân bàn bạc, thảo luận, nhằm tạo ra sự đồng thuận và hợp tác. 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa 1.2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế. Sự phát triển của kinh tế có vai trò quyết định tới sự phát triển của những lĩnh vực hoạt động xã hội khác, trong đó có giảm nghèo. Trình độ phát triển kinh tế có tác động trực tiếp tới công tác giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và thu nhập của dân cư trong quá trình đô thị hóa, không những tạo điều kiện vật chất cho sự hỗ trợ ngày càng lớn của nhà nước cho người nghèo, mà còn giúp cho người nghèo có thêm thuận lợi để tự vươn lên. 1.2.2.2. Chính sách của Nhà nước Thứ nhất, nhóm chính sách về tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người nghèo, bao gồm: Chính sách cho vay tín dụng với cơ chế ưu đãi có tác dụng hỗ trợ nguồn lực cho phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo; Chính sách hỗ trợ đất sản xuất; Chính sách khuyến nông, khuyến lâm- ngư; Chính sách trợ giá, trợ cước. Thứ hai, nhóm chính sách hỗ trợ thông qua cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản. Thực tiễn quá trình đô thị hóa ở nước ta thời gian qua cho thấy, địa phương nào có chính sách đô thị hóa gắn với giảm nghèo phù hợp, không những có thể đẩy nhanh quá trình đô thị hóa hiện tại, mà còn tạo điều kiện cho quá trình đô thị hóa tiếp theo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. 1.2.2.3. Hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động hai mặt tới giảm nghèo, vừa mở rộng cơ hội thu hút nguồn lực cho giảm nghèo song cũng có thể làm trầm trọng thêm tình trạng nghèo đói trong quá trình đô thị hóa. Hội nhập kinh tế thúc đẩy quá trình độ thị hóa và do đó có thể làm sâu sắc thêm những nguy cơ gây nghèo và tái nghèo từ quá trình đô thị hóa. 1.2.2.4. Năng lực tự vươn lên thoát nghèo của bản thân người nghèo. Trình độ học vấn thấp, những tập quán, thói quen canh tác, sản xuất lạc hậu,.. là nhân tố cản trở chuyển đối nghề nghiệp và kinh doanh hiệu quả, do đó cản trở giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa Nhiều hộ nông dân được nhận khối lượng tiền từ đền bù giải phóng mặt bằng đã không cố gắng chuyển đổi nghề nghiệp mà tiêu sài lãng phí và cuối cùng lại rơi vào tình trạng nghèo sau một thời gian. Một số hộ khác do thiếu kiến thức nên làm ăn bị thua lỗ. 1.3. KINH NGHIỆM VỀ GIẢM NGHÈO Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ BÀI HỌC CHO HÀ NỘI 1.3.1 Kinh nghiệm giảm nghèo ở Thành phố Hồ Chí Minh - Chỉ đạo quyết liệt, có lộ trình giảm nghèo thích hợp; ưu tiên huy động các nguồn lực đầu tư cho mục tiêu giảm nghèo ở các địa phương. - Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi xã hội như tạo điều kiện cho hộ nghèo ổn định cuộc sống và vượt chuẩn nghèo. - Chương trình giảm nghèo gắn kết chặt chẽ với Cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; - Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, kiểm tra, giám sát 1.3.2. Bài học về giảm nghèo cho Thủ đô Hà Nội Thứ nhất, §ổi mới cơ chế, chính sách phï hîp với yêu cầu giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa. Thứ hai, xác định đúng đối tượng nghèo đói và nguyên nhân cụ thể dẫn đến đói nghèo của từng nhóm dân cư trong quá trình đô thị hóa để triển khai chính sách hỗ trợ giúp đỡ phù hợp Thứ ba, huy động sự tham gia của các cấp, các ngành vào công tác xóa đói, giảm nghèo đói ở từng địa phương trong quá trình đô thị hóa. Thứ tư, triển khai vµ thùc hiÖn ®ång bé nhiều biện pháp khác nhau để thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo Thứ năm, tranh thủ được các nguồn lực nước ngoài cả về mặt vật chất, vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm. Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH NGHÈO VÀ NGUYÊN NHÂN NGHÈO Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI 2.1.1. Khái quát chung về Hà Nội và tình hình nghèo của Hà Nội Cuối năm 2007 tỷ lệ hộ nghèo tính chung trên địa bàn Hà Nội mới là dưới 5% (trung bình của cả nước -14,87%). Đầu năm 2009, theo chuẩn nghèo mới, toàn Thành phố có: 117.825 hộ nghèo, với 406.232 nhân khẩu, chiếm 8,43% tổng số hộ toàn thành phố. Trong tổng số hộ nghèo có: 39.543 hộ với 147.219 nhân khẩu cận nghèo, chiếm 2,83% so với tổng số hộ dân cư. 2.1.2. Tình hình nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa Các huyện ngoại thành chiếm 90,33% diện tích tự nhiên Hà Nội (3.021,18 km), 60,34% dân số (3.761.174 người), trong đó dân số nông thôn chiếm 93,92% (3.532.677 người). Quá trình đô thị hóa tại các huyện ngoại thành đang diễn ra mạnh mẽ với sự hình thành các dự án khu dân cư. Tính tới ngày 31/12/2008, diện tích đất cần phải thu hồi phục vụ cho các dự án tại các huyện ngoại thành Hà Nội là 11,543.04ha (chiếm 85,85% tổng diện tích đất phải thu hồi trên địa bàn Thành phố), trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp - 11,424.41 ha (chiếm 98,97% diện tích đất phải thu hồi tại các huyện ngoại thành Hà Nội). Tỷ lệ nghèo trung bình của các huyện ngoại thành vào đầu năm 2009 - 12,19%. Những huyện có tỷ lệ nghèo cao đều nằm khá xa trung tâm Thủ đô. Tác động tiêu cực của việc thu hồi đất nông nghiệp tới tỷ lệ nghèo của các huyện ngoại thành chưa thể hiện rõ. Do đó, đô thị hóa có thể là một trong những nhân tố có tác động tới tình hình nghèo, song chưa phải là nguyên nhân chủ yếu. 2.1.3. Nguyên nhân nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội 2.1.3.1. Nguyên nhân khách quan Trước những năm 2000, các vùng ngoại thành Hà Nội có điều kiện kinh tế và cơ sở hạ tầng yếu kém. Trình độ dân trí chưa cao, nguồn vốn tự có trong dân để phát triển sản xuất còn ít, nông dân còn chưa thích ứng với phát triển sản xuất hàng hoá gắn với cơ chế thị trường, thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ chậm. Ruộng đất manh mún cản trở áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo hướng tập trung và hiện đại hoá nông nghiệp. Ngành nghề phụ phát triển chưa đồng bộ, lao động dư thừa nhiều nên thu nhập của nông hộ hầu hết là rất thấp. 2.1.3.2. Nguyên nhân chủ quan Năm 2006: tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo do thiếu vốn sản xuất chiếm 81,69%; thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật - 43,12%; thiếu việc làm cần hỗ trợ nghề - 28,48%; Hộ thuộc đối tượng chính sách chiếm 5,24 %; Nguyên nhân tình hình nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa: thiếu vốn, thiếu hoặc không có ruộng đất canh tác; thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật và phương thức tổ chức sản xuất, không có việc làm ổn định; tình hình thiếu sức lao động hoặc gia đình có người tàn tật, ốm đau hoặc mắc tệ nạn xã hội; gia đình đông con làm tăng tỷ lệ đói nghèo; bất cập trong chính sách của Nhà nước với nông nghiệp, nông thôn; ngoài ra là các yếu tố khác gây nghèo đói như trây lười lao động, do mắc tệ nạn xã hội, rủi do trong sản xuất kinh doanh.... Hộ nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội thường do các tác động bởi một nhóm hoặc nhiều nguyên nhân trên đây gây ra. Vì vậy để thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo cần xem xét giải quyết đồng bộ các nguyên nhân cho phù hợp với từng hộ gia đình, từng xã, huyện. 2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO Ở CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI 2.2.1. Chủ trương và chính sách giảm nghèo của Hà Nội 2.2.1.1. Quan điểm và chủ trương của các cấp bộ Đảng và Chính quyền Trước 1/8/2008, tại Hà Nội, các quan điểm, chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo đối với các huyện ngoại thành Hà Nội được cụ thể trong: Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội; Chương trình số 06/CT – TU, của Thành uỷ về phát triển kinh tế ngoại thành Hà Nội và xây dựng nông thôn mới; Nghị quyết số 16/NQ-TƯ ngày 21/5/2005 của Ban Thường vụ Thành uỷ về việc phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn. Ở Hà Tây, Chủ trương xóa đói giảm nghèo cũng được thể hiện trong nhiều văn bản như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VIII, IX, X; Chỉ thị số 23/CT-TU ngày 10 tháng 01 năm 1996 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “Về lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo”, Nghị quyết 04/NQ của HĐND tỉnh và Quyết định của UBND tỉnh số 1062/QĐ-UB về “Chương trình xóa đói, giảm nghèo”. Sau ngày điều chỉnh địa giới hành chính (01/08/2008), Thành ủy đã triển khai thực hiện Chương trình hành động số 02-CTr/TU về “Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. UBND Thành phố ban hành Quyết định số 1592/QĐ-UBND về Kế hoạch xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 2009 – 2013. 2.2.1.2. Những cơ chế, chính sách cụ thể của Hà Nội về giảm nghèo. Trước ngày 01/08/2008 các cơ chế chính sách về xóa đói giảm nghèo được thực hiện tương đối riêng rẽ trên địa bàn Hà Nội và Hà Tây. Tại Hà Nội được cụ thể hoá trong: Nghị quyết số 19/2001/NQ-HĐ ngày 18/ 7/2001 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 của Thủ đô; Kế hoạch số 09/KH – UB ngày 14/3/2000 của UBND Thành phố; Quyết định số 33/QĐ – UB ngày 04/1/2000 của UBND Thành phố. Quyết định số 171/QĐ – UBND của UBND Thành phố về miễn giảm học phí và 100% các khoản đóng góp khác đối với học sinh nghèo; Kế hoạch số 61/KH – UB ngày 28/8/2004 của UBND Thành phố về phát triển kinh tế xã hội huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Quyết định số 5042/QĐ – UBND ngày 05/12/2006 của UBND Thành phố về thực hiện cơ chế, chính sách hỗ trợ hộ cận nghèo Thành phố Hà Nội giai đoạn 2006 – 2010. - Ngày 27/12/2007, UBND thành phố Hà Nội đã có Quyết định số 5192/QĐ – UBND về việc phê duyệt đề cương và dự toán kinh phí lập Tiểu đề án giảm hộ nghèo khu vực nông thôn ngoại thành Hà Nội. Tại Hà Tây, nhiều chính sách đã được thực hiện như đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện các dự án ngành, làm điểm rồi nhân rộng các mô hình xóa đói, giảm nghèo, các hộ nghèo được tạo điều kiện vay vốn với lãi suất thấp để phát triển sản xuất, đi học và đi lao động nước ngoài. Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân còn thực hiện xây dựng nông thôn mới, ngói hóa nhà ở cho hộ nghèo; quan tâm việc học văn hóa, học nghề và khám chữa bệnh cho người nghèo… Sau ngày 01/08/2008, Thành phố cũng đã ban hành nhiều văn bản đề cập tới vấn đề giảm nghèo như Nghị quyết Số: 07/2008/NQ-HĐND ngày 02/8/2008 “Về nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của thành phố Hà Nội 5 tháng cuối năm 2008”, Nghị quyết Số: 09/2008/NQ-HĐND, ngày 09/12/ 2008 “Về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 của thành phố Hà Nội”, Kế hoạch của UBND số 50/KH-UBND ngày 7/4/2009 về “Thực hiện chương trình giảm nghèo Thành phố Hà Nội năm 2009”, Chỉ thị số 23/CT-UBND ngày 17/07/2009 “Về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015”… 2.2.2. Tình hình triển khai thực hiện giảm nghèo tại các huyện ngoại thành. 2.2.2.1. Về công tác tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập Trong sản xuất nông nghiệp: Cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm cây lương thực, tăng diện tích cây công nghiệp ngắn ngày. Chương trình phát triển kinh tế trang trại, kinh tế vườn đồi, phát triển thuỷ sản và các mô hình sản xuất áp dụng giống mới, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất được đầu tư mở rộng. Xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển Hoàn thành nâng cấp cải tạo điện nông thôn; Đầu tư phát triển giao thông ngoại thành; Xây dựng các công trình thuỷ lợi, cứng hoá kênh mương và cấp nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất kinh doanh; Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho ngành giáo dục. Tạo điều kiện về vốn cho các hộ nghèo vay phát triển sản xuất  Thông qua Ngân hàng chính sách, uỷ thác nguồn vốn cho các tổ chức chính trị – xã hội, ’’Quỹ vì người nghèo ’’... Tổng số hộ nghèo, cận nghèo được vay vốn là 44.292 lượt hộ, với tổng số tiền là 280.945 triệu đồng. Mức vay bình quân từ 4 đến 6 tr đồng /1 hộ, thời gian vay ngắn từ 1 – 2 năm. 2.2.2.2. Về công tác tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội : - Tạo điều kiện cho các hộ nghèo tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, pháp lý. Đầu tư mạng lưới y tế, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh trong các huyện ngoại thành; Công tác xã hội hoá giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực - Công tác trợ giúp pháp lý: đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các buổi tập huấn…. Tổng số trong 5 năm đã trợ giúp pháp lý miễn phí cho trên 5.328 vụ việc đối với người nghèo. - Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và giải quyết việc làm cho người nghèo tại các huyện ngoại thành. Từ năm 2001 đến nay, từ thành phố đến các xã đã mở được 1479 lớp đào tạo dạy nghề và tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho 35.546 lượt người; bên cạnh đó các tổ chức chính trị – xã hội đã có 1890 lớp tập huấn....Các huyện, xã đã triển khai cho tạo điều kiện cho vay được 756 dự án với số tiền 65,7 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 37.565 việc làm. - Hỗ trợ sửa chữa, làm nhà ở cho các hộ nghèo Đã xây dựng và sửa chữa làm mới nhà ở cho 3.578 hộ nghèo, hộ chính sách (mỗi hộ trị giá từ 5 đến 20 triệu đồng). Với tổng giá trị trên 32 tỷ đồng. Quỹ vì người nghèo đã hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho 534 nhà ở cho các hộ nghèo. - Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình  Tỷ lệ sinh bình quân các huyện năm 2001 giảm 1,5%, tỷ lệ sinh con lần thứ 3 giảm xuống còn 10,05% ; đến năm 2004, tỷ lệ sinh giảm 0,08%, tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm trở lên giảm 0,31%. ; tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm 2,35%. - Các sở, ban, ngành, đoàn thể Thành phố , các cơ quan, đơn vị tham gia hỗ trợ chương trình giảm nghèo: Các sở, ban, ngành, đơn vị thuộc thành phố đã tích cực triển khai các hoạt động hỗ trợ các hộ nghèo trên địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội. 2.2.2.3. Nâng cao năng lực và nhận thức của đội ngũ cán bộ giảm nghèo và truyền thông: đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chương trình, kế hoạch về xoá đói giảm nghèo của Thành phố. 2.2.3. Hạn chế trong công tác giảm nghèo và nguyên nhân - Những hạn chế: gồm 8 nội dung cơ bản sau: + Hiện nay tỷ lệ hộ nghèo vẫn ở mức cao : 12.19%. Số hộ nghèo các huyện ngoại thành đang chiếm 91,03% tổng số hộ nghèo toàn thành phố. + Công tác xây dựng quy hoạch chi tiết của các huyện chậm. Công tác cải cách hành chính còn nhiều lúng túng. + Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển; chưa có chính sách, môi trường thuận lợi thu hút đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn. + Do một số hộ nghèo thiếu ý chí vương lên trong cuộc sống, vì vậy họ rất khó thoát nghèo hoặc rễ bị tái nghèo + Chưa phát huy và khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế đất đai, nguồn lao động + Chưa có chính sách hỗ trợ, động viên kịp thời đối với cán bộ làm công tác giảm nghèo tại tuyến cơ sở. + Việc tuyên truyền, thu hút xã hội hoá trong giảm nghèo chưa thực sự có hiệu quả, còn nặng về hành chính. Nguồn vốn xoá đói, giảm nghèo vận động trong nhân dân còn thấp. + Nguồn lực hỗ trợ của các Sở, ban, ngành, đoàn thể Thành phố còn hạn chế. Hệ thống quản lý, chỉ đạo nông nghiệp và phát triển nông thôn còn chồng chéo. - Nguyên nhân của hạn chế. + Một số địa phương nhận thức của cấp uỷ Đảng, chính quyền và một số ban, ngành, đoàn thể chưa sâu sắc, đầy đủ về chương trình xoá đói giảm nghèo. + Việc theo dõi, quản lý dự án vay vốn ở một số huyện, xã chưa chặt chẽ; công tác chỉ đạo tại một số đơn vị thiếu kiên quyết, rứt điểm, hiệu quả. + Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng chưa thực sự bền vững. Kết quả đào tạo nghề, giải quyết việc làm hầu như chỉ mang tính thời vụ. + Trình độ dân trí của các hộ nghèo thấp, việc tiếp cận và phát huy khoa học kỹ thuật trong đời sống và phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế; tinh thần tự lực, tự cường, tự thân vận động để vương lên thoát nghèo chưa cao. Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2013 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020 3.1. BỐI CẢNH TÌNH HÌNH KINH TẾ - Xà HỘI THỦ ĐÔ 3.1.1. Về kinh tế 3.1.1.1.Thuận lợi Một là, Tăng trưởng kinh tế khá cao: so với năm 1985, GDP năm 2005 của Thành phố tăng khoảng 6,4 lần (bình quân tăng 9,7% năm); cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, thu ngân sách tăng trên 10 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng 47,4 lần; Hai là, Hạ tầng đô thị phát triển mạnh theo hướng văn minh, hiện đại. Hoàn thành xây dựng nhiều tuyến đường, tuyến phố, nút giao thông quan trọng; hình thành nhiều khu đô thị mới theo hướng đồng bộ, hiện đại. Ba là, đã huy động, sử dụng có hiệu quả tiềm năng, nguồn lực; được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự hợp tác và giúp đỡ của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Bốn là, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố đề ra: đến năm 2015 Hà Nội cơ bản là thành phố công nghiệp. Đến năm 2020 Thành phố Hà Nội phải trở thành đô thị văn minh, hiện đại. 3.1.1.2.Khó khăn Một là, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới và trong nước từ cuối năm 2008. Hai là, kinh tế ngoại thành vẫn nhiều bất cập. Các ngành công nghiệp nguồn, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển. Ba là, hạn chế về khoa học công nghệ, bất cập về đào tạo, nghiên cứu phát triển ngành, lĩnh vực công nghệ cao. Bốn là, môi trường đầu tư chưa thật thông thoáng, công tác quản lý nhà nước còn hạn chế, sơ hở. Liên kết, liên doanh với các địa phương khác còn yếu. Thu hút nguồn lực phát triển kinh tế ngoại thành triển khai chưa hiệu quả. Năm là, Diện tích đất nhiều nhưng hiệu quả khai thác chưa chưa cao. Hệ thống giao thông chưa đáp ứng thực tiễn phát triển của kinh tế. Nhiều vấn đề bức xúc trong nhân dân chưa được quan tâm đúng mức. 3.1.2. Về văn hoá – xã hội 3.1.2.1.Thuận lợi Hiện nay Hà Nội có 42% xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm xuống còn 14,1%; có 19,8% các trường đạt chuẩn quốc gia, đã phổ cặp bậc Trung học phổ thông đạt 75% thanh niên trong độ tuổi. Cơ bản xoá các phòng học cấp 4 (bán kiên cố), ở bậc phổ thông trung học; tỷ lệ học 2buổi/ngày của học sinh tiểu học đạt 89%; tỷ lệ đầu tư cho giáo dục từ 20% tổng chi ngân sách (năm 2000) tăng lên 22,5% (năm 2005). Chương trình xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tích cực, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho hơn 10000 lao động. 3.1.2.2.Khó khăn Phát triển văn hoá - xã hội của Hà Nội hiện nay đã có nhiều tiến bộ, song chưa tương xứng với vai trò, vị trí của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Thể hiện rõ qua các những tồn tại, hạn chế như: Công tác quản lý Nhà nước về văn hoá còn yếu kém; một số quy hoạch, dự án, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng với sự phát triển. 3.2. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG NHỮNG NĂM TỚI 3.2.1. Phương hướng giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội. Thứ nhất, thực hiện giảm nghèo theo các chương trình, kế hoạch và các giải pháp gắn phát triển kinh tế - xã hội các huyện ngoại thành. Thứ hai, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân, đặc biệt là nông dân trong quá trình đô thị hóa Thứ ba, tạo thuận lợi cho việc ổn định cuộc sống đối với bộ phân nhân nhân buộc phải tái định cư trong quá trình đô thị hóa. Thứ tư, giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa gắn với sự tăng cường sức mạnh, hiệu quả hoạt động của của hệ thống chính trị, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong các vùng thực hiện đô thị hóa nói riêng và trên địa bàn toàn bộ Thủ đô Hà Nội nói chung. 3.2.2. Mục tiêu giảm nghèo 3.2.2.1. Mục tiêu tổng quát đến năm 2013 Đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, từng bước cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với hộ nghèo. Tăng cường các biện pháp giảm nghèo bền vững, tránh tái nghèo, hỗ trợ, khuyến khích hộ nghèo vươn lên mức sống khá. Tập trung nguồn lực, giải pháp hỗ trợ hộ nghèo diện chính sách có công, hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ nghèo có đối tượng BTXH. 3.2.2.2. Các chỉ tiêu giảm nghèo chủ yếu Giảm tỷ lệ hộ nghèo chung toàn Thành phố từ 1% đến 2%/năm, hạn chế thấp nhất số hộ tái nghèo; Phấn đấu đến cuối năm 2013 tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3%, Thành phố không còn xã nghèo và xã, thôn thuộc Chương trình 135; Năm 2009 – 2010. 3.2.3. Quan điểm giảm nghèo Luôn đặt nhiệm vụ xoá đói, giảm nghèo các huyện ngoại thành gắn liền với việc xây dựng và phát triển Thủ đô, là việc làm thường xuyên và lâu dài; xoá đói giảm nghèo là sự kết hợp thống nhất giữa kinh tế với xã hội; phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên chính bản thân người nghèo, hộ nghèo; Huy động mọi nguồn lực từ các sở, ban, ngành thành phố đến các nguồn lực của các đơn vị đóng trên địa bàn; xoá đói giảm nghèo để phát triển, phát triển để xoá đói giảm nghèo. 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 3.3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách về xoá đói, giảm nghèo Thứ nhất, xây dựng và ban hành các chương trình, kế hoạch đảm bảo tính đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả: Thứ hai, chính sách hỗ trợ đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho các hộ dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp Thứ ba, chính sách y tế và giáo dục Thứ tư, chính sách tín dụng ưu đãi cho các hộ nghèo 3.3.2. Phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô kết hợp với xóa đói giảm nghèo._. Tập trung hoàn thành quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn; Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; Phát triển đô thị gắn với xây dựng nông thôn; Thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm; Triển khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ hộ nghèo:Về hỗ trợ vốn;Về giáo dục; Về y tế. 3.3.3. Huy động các nguồn lực phục vụ xoá đói, giảm nghèo. Đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, vận động các cấp, các ngành, các đơn vị đóng trên địa bàn và bên ngoài cùng với các tầng lớp nhân dân tham gia giúp đỡ các xã, thôn đặc biệt khó khăn và hộ nghèo, người nghèo; Vận động các tổ chức, các nhân có điều kiện giúp đỡ cụ thể từng xã, thôn, từng hộ nghèo; Đẩy mạnh các phong trào xoá đói giảm nghèo, giúp nhau xoá đói giảm nghèo; tự giúp nhau thoát nghèo, vươn lên làm giàu trong công đồng dân cư; Tăng cường cán bộ cho cơ sở; Kiện toàn củng cố Ban Chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo các cấp. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo các cấp, phân công rõ trách nhiệm từng thành viên Ban Chỉ đạo. 3.3.4. Kết hợp xoá đói giảm nghèo với an sinh xã hội - Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xoá đói giảm nghèo và an sinh xã hội. - Kịp thời và chủ động phòng ngừa tái nghèo và có chính sách an sinh xã hội phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực khi kinh tế - xã hội Thủ đô chịu tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. - Tăng đầu tư và ngân sách cho thực hiện hiệu quả chính sách và các chương trình mục tiêu về phát triển xã hội, an sinh xã hội. 3.3.5. Liên kết phát triển vùng Thủ đô gắn với xoá đói, giảm nghèo - Phát triển một số trung tâm đô thị, du lịch, nghiên cứu đào tạo và các hoạt động lĩnh vực công nghệ cao, hạn chế công nghiệp tập trung lớn và kiểm soát bảo vệ môi trường. - Liên kết phát triển kinh tế vùng Thủ đô trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế toàn vùng. Hà Nội đi đầu cả nước về giảm nghèo đến năm 2020. 3.4. KIẾN NGHỊ 3.4.1. Đối với Trung ương, Thành phố Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách xã hội nhằm giúp các hộ nghèo đói phát triển sản xuất kinh doanh và khắc phục khó khăn trong cuộc sống như: + Chính sách về đất đai theo hướng tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp; xen xét, quy định mức đền bù đất khi nhà nước thu hồi phục vụ các công trình công cộng, công trình quốc gia và các công trình dân sinh phù hợp với giá thị trường trong từng thời điểm. + Ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn về điện, đường, trường, trạm, các công trình thuỷ lợi, coi đó là biện pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, + Về xã hội: giảm tối đa các khoản đóng góp các khoản chưa cần thiết đối với các vùng nông thôn; có chính sách ưu đãi hơn nữa dành cho nông dân khi vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Trung ương cần có chính sách hỗ trợ bảo hiểm xã hội việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất. + Các chính sách khác: đẩy mạnh việc phân cấp cho các địa phương trong điều hành kinh tế - xã hội. Nâng cao trách nhiệm của các địa phương trong việc phát triển kinh tế - xã hội trên, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn + Trung ương và Thành phố cần có chính sách miễn hoặc giảm thuế hợp lý cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có dự án hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo. Đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của cá hộ nghèo cần có chính sách miễn giảm thuế 3.4.2. Đối với các huyện ngoại thành Hà Nội - Tập trung sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nâng cao năng lực, nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức và người dân về chương trình giảm nghèo. - Thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Thành phố về giảm nghèo. - Phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kết hợp với du lịch sinh thái, phát triển các cây, con có giá trị kinh tế cao. - Tập trung đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh, ưu tiên các xã nghèo, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. - Phục hồi và tu bổ, tôn tạo những di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn huyện góp phần phát triển du lịch, dịch vụ. - Các huyện cần đặc biệt quan tâm có những chính sách hỗ trợ phù hợp để đẩy mạnh việc phát triển làng nghề. - Tại các vùng đô thị hóa cần tích cực phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, tạo điều kiện cho người nông dân có việc làm. KẾT LUẬN Quá trình đô thị hóa đã diễn ra việc thu hồi và chuyển mục đích sử dụng một diện tích lớn đất nông nghiệp, có tác động đáng kể tới hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của một bộ phân không nhỏ dân cư, đặc biệt là nông dân tại các huyện ngoại thành. Nhờ các chính sách và biện pháp tích cực từ phía chính quyền Thành phố, phần lớn các hộ nông dân đã thích ứng với quá trình đô thị hóa, chuyển đổi thành công hoạt động sản xuất kinh doanh và thoát khỏi cảnh nghèo. Thành tựu giảm nghèo tại các huyện ngoại thành đã đóng góp vào thành tựu giảm nghèo và quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của Thành phố. Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo tại các huyện ngoại thành vẫn còn không ít những hạn chế. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội trong thời gian tới phải thực hiện đồng bộ các giải pháp như tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách về giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô với giảm nghèo, tăng cường huy động các nguồn lực phục vụ giảm nghèo, kết hợp giảm nghèo với đảm bảo an sinh xã hội, liên kết phát triển vùng Thủ đô gắn với giảm nghèo. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------*****------- NGUYỄN CÔNG BẰNG GIẢM NGHÈO TẠI CÁC HUYỆN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS.ĐOÀN XUÂN THUỶ HÀ NỘI - 2009 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Đói, nghèo là vấn đề đặc biệt bức xúc trong phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, vì vậy cuộc chiến chống đói, nghèo ngày nay đã trở thành tâm điểm trong chiến lược và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm thực hiện trong suốt quá trình xây dựng xã hội mới. Nhờ đó Việt Nam đã đạt những thành công rất lớn trong xóa đói, giảm nghèo đặc biệt trong những năm đổi mới: Nếu như vào năm 1990 tỷ lệ hộ nghèo đói chiếm tới 60 % dân số, thì đến năm 1998 tỉ lệ này đã giảm xuống còn là 37%; năm 2002 - 29%; 2004 - 18,1%; năm 2006 - 15,57%; năm 2007 - 14,75% . Trong những năm qua, cùng với các địa phương khác trong cả nước, Thủ đô Hà Nội đã có nhiểu cố gắng trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Mặc dù gặp không ít khó khăn, cản trở nhưng với nỗ lực lớn, Đảng, chính quyền và nhân dân Thủ đô đã bước đầu khai thác được các lợi thế của trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước để phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo. Hà Nội đã trở thành một trong số địa phương tiêu biểu, đi đầu của cả nước về thành tựu xóa đói, giảm nghèo. Tính đến năm 2005 về cơ bản Hà Nội không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm theo từng năm. Tính đến cuối năm 2007, Hà Nội chỉ còn 2,3% hộ nghèo, hoàn thành vượt mức Nghị quyết thành phố đề ra. Những thành tựu đó đã tạo ra những thuận lợi mới cho phát triển kinh tế và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân Thủ đô. Kể từ 01/8/2008 Thủ đô Hà Nội bước sang thời kỳ phát triển mới với sự mở rộng đáng kể về địa giới hành chính. Hà Nội ngày nay gồm 29 đơn vị hành chính, trong đó có 18 huyện (gồm 5 huyện thuộc Hà Nội trước đây và 13 huyện mới hợp nhất). Quá trình đô thị hóa cùng sự mở rộng địa giới hành chính đã bổ sung thêm không gian và nguồn lực cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại, xứng tầm với tư cách là Trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH. Tuy nhiên, cùng với đó cũng có nhiều vấn đề mới đang đặt ra trong quá trình phát triển, đòi hỏi phải được nghiên cứu và giải quyết. Một trong những vấn đề mới nảy sinh của Thủ đô ngày nay là sự chênh lệch trong trình độ phát triển giữa các khu vực nội thành và ngoại thành. Các huyện ngoại thành, đặc biệt những huyện mới của Hà Nội vẫn đang ở trình độ phát triển tương đối thấp với tỷ lệ hộ nghèo cao. Nếu tính chung cho Hà Nội ngày nay, tỷ lệ hộ nghèo đang ở mức cao: 16%. Bên cạnh đó, dưới tác động của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, nguy cơ tái nghèo ở Hà Nội vẫn tồn tại. Vấn đề nghèo ở Hà Nội nếu không được nghiên cứu và giải quyết thỏa đáng có thể gây nhiều bức xúc về chính trị, xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Những thành công về giảm nghèo của Hà Nội không những tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển của Thủ đô, mà còn có tác động tích cực tới phong trào xóa đói, giảm nghèo tại các địa phương khác trong cả nước. Với mong muốn đóng góp vào sự phát triển của Thủ đô, tác giả đã chọn vấn đề “Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn Về vấn đề đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu. Các tác giả nước ngoài, đặc biệt là các nhà nghiên cứu của UNDP và ngân hàng thế giới đã đề cập tới vấn đề nghèo, thực trạng nghèo ở Việt Nam theo các phương diện vùng, miền, giới, lứa tuổi, từ đó đưa ra những khuyến nghị về chính sách đối với giảm nghèo nói chung trên phậm vi toàn quốc và một số địa phương. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước cũng đề cập nhiều tới vấn đề nghèo, tiêu biểu như: Những giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ nông dân nghèo vùng đồng bằng Sông Hồng. Luận án Tiến sĩ của NCS Lê Thị Nghệ, Bộ NN&PTNT bảo vệ năm 1995 tại Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội đã đưa ra những giải pháp giảm nghèo mang tính vùng miền đầu tiên ở nước ta. Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam. Luận án Tiến sĩ của NCS Vũ Thị Hiểu, Bộ LĐTBXH, bảo vệ tại Đai học Kinh tế Quốc dân năm 1996 đã đưa ra những đề xuất giảm nghèo thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng lao động ở Việt Nam. Các giải pháp tín dụng đối với người nghèo ở Việt Nam hiện nay - Luận án Tiến sĩ của NCS Đào Văn Hùng bảo vệ tại Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội ngày 02/03/2001, nghiên cứu về chính sách tín dụng trong hỗ trợ giảm nghèo. Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam /Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang (chủ biên). NXB Nông nghiệp, Hà Nội -2001 phân tính về thực trạng, những giải pháp và kết quả thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở vùng Tây Bắc giai đoạn 2006-2010, luận văn Thạc sĩ của Ngô Xuân Quyết, bảo vệ tại Đại học Kinh tế Quốc dân tháng 12/2006 đưa ra những giải pháp xoá đói giảm nghèo mang tính khu vực. Hoàn thiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với tỉnh miền núi (Lấy ví dụ tỉnh Kon Tum) - luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Trung Hải, bảo vệ tại Đại học Kinh tế quốc dân tháng11/2006, đưa ra việc hoàn thiện chính sách xoá đói giảm nghèo ở một tỉnh Tây Nguyên. Hoàn thiện chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam - luận văn Thạc sĩ của Trần Tuấn Cường, bảo vệ tại Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008, đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu, bài báo, đề tài nghiên cứu khác được nêu trong danh mục tài liệu tham khảo của luận văn này. Ở thành phố Hà Nội cũng đã có các nghiên cứu về xoá đói giảm nghèo dưới dạng các chuyên đề, bài viết ở nhiều mức độ, phạm vi khác nhau. Tuy vậy, về vấn đề giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội sau khi mở rộng địa giới hành chính cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu, đặc biệt dưới giác độ của khoa học kinh tế chính trị. Đó vẫn là khoảng trống trong khoa học, cần được tập trung nghiên cứu một cách tương đối chuyên biệt. Giải quyết vấn đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn không những đối với giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội nói riêng, mà còn góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. Mục đích của luận văn là nghiên cứu đánh giá thực trạng nghèo và giảm nghèo trên địa bàn các huyện ngoại thành của Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả công tác giản nghèo của Thủ đô trong thời gian tới. Để đạt được mục đích trên luận văn sẽ tập trung giải quyết các nhiệm vụ: Thứ nhất, khái quát và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghèo và giảm nghèo, làm rõ các nhân tố tác động tới công tác giảm nghèo. Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm giảm nghèo của một số địa phương trong nước và rút ra bài học kinh nghiệm cho Hà Nội. Thứ ba, phân tích đánh giá thực trạng giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội thời gian từ năm 2000 đến nay, làm rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân. Thứ tư, đề xuất những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội thời gian đến 2015 và tầm nhìn 2020. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề nghèo và giảm nghèo cùng các quan hệ kinh tế xã hội có liên quan. Phạm vi nghiên cứu về không gian bao gồm các huyện ngoại thành Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu về thời gian: về thực trạng nghèo và giảm nghèo từ năm 2000 đến nay, đặc biệt là trong thời gian 5 năn gần đây và đề xuất giải pháp đến 2013 và tầm nhìn 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị làm cơ sở, kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, tiếp cận lịch sử, coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh, hệ thống hoá, mô hình hoá nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết. 6. Đóng góp của luận văn. - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ về giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa - Đánh giá khách quan thực trạng đói nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa trên các phương diện: kết quả, hạn chế và nguyên nhân - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới. 7. Kết cấu luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa Chương 2: Thực trạng giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội từ năm 2000 đến nay. Chương 3: Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy và nâng cao hiệu quả giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 1.1.1. Quan niệm về vấn đề nghèo 1.1.1.1. Quan niệm của một số tổ chức quốc tế Trong các nghiên cứu cơ bản về nghèo từ đầu những năm 70, nghèo chỉ được coi là sự nghèo khổ về tiêu dùng hay nghèo khổ vật chất, (nghèo khổ thu nhập), với tư tưởng cốt lõi và căn bản nhất để một người bị coi là nghèo đói, đó là sự "thiếu hụt" so với một mức sống nhất định, mà sự thiếu hụt này được xác định theo các chuẩn mực xã hội và phụ thuộc và không gian và thời gian . Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch) năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa về nghèo như sau: " Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đô la (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại " Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra quan điểm: Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực. [ 9, tr.2] Đến tháng 9/1993, tại hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tổ chức tại Băng cốc – Thái Lan, ESCAP (United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific) đã đưa ra khái niệm về nghèo khổ thu nhập một cách hệ thống hơn, đó là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của đất nước Qua khái niệm trên, có thể thấy: Nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện, đó là thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm tiêu dùng ở mức độ tối thiểu, đặc biệt là những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn tới những người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, có cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng. Để đo lường nghèo khổ vật chất, điều quan trọng nhất là phải xác định chuẩn nghèo (ngưỡng nghèo). Những người có múc thu nhập dành cho chi tiêu vật chất dưới ngưỡng này được coi là những người nghèo. 1.1.1.2. Quan niệm của Việt Nam Theo quan niệm thông thường của người Việt Nam thì nói đến nghèo là nói đến tình trạng khó khăn chung về việc không có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản, song chủ yếu lại là các nhu cầu về phi lương thực thực phẩm như nhà ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Khi nghiên cứu về vấn đề nghèo theo cấp độ để xây dựng và ban hành các chính sách giảm nghèo cụ thể, người ta còn đưa ra và sử dụng các thuật ngữ như: hộ nghèo, xã nghèo. Các nhà nghiên cứu và quản lý ở nước ta hiện nay cũng thừa nhận và sử dụng khái niệm nghèo do Uỷ ban Kinh tế- xã hội khu vực châu Á- Thái bình dương (ESCAP) đưa ra nói trên và đây cũng là quan điểm của tác giả luận văn. Theo tác giả luận văn, đây là định nghĩa chung nhất về đói nghèo vì vậy khái niệm nghèo trong luận văn này được hiểu là: tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương. 1.1.1.3. Quan niệm về chuẩn nghèo Chuẩn nghèo là tiêu chí để xác định ai là người nghèo trong xã hội. Thông thường chuẩn nghèo phản ánh mức chi tiêu tối thiểu cần thiết của con người cho việc tham gia các hoạt động trong đời sống kinh tế. Ngân hàng thế giới đã đưa ra nguyên lý chung để xác định chuẩn nghèo, tức là xác định mức chi tiêu tối thiểu. Theo đó, mức chi tiêu tối thiểu được chia làm hai bô phận: chi cho tiêu dùng lương thực thực phẩm (C1- 70 % tổng nhu cầu chi tiêu) và chi cho các nhu cầu vật chất khác (C2 -30%). Xác định nhu cầu chi tiêu tối thiểu cho lương thực thực phẩm được xác định theo một căn cứ khoa học đó là nhu cầu hấp thụ calori trung bình một ngày đêm cho 1 người (theo WB thì con số trung bình 2100 kilocalori). Chuẩn nghèo là một thước đo tương đối, nó được thay đổi theo các điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và tập quán tiêu dùng dân cư, vì thế, chuẩn nghèo quốc gia sẽ thay đổi theo thời gian, theo vùng (thành thị, nông thôn, miền núi) và có xu hướng tăng lên theo sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo mức hao phí trung bình đó, việc xác định nhu cầu chi tiêu tối thiểu cho lương thực thực phẩm được tính: Trên cơ sở nhu cầu dinh dưỡng cần có, hình thành danh mục rổ hàng hoá cần thiết để đáp ứng, bao gồm danh mục mặt hàng và lượng tiêu dùng cần có trong một ngày đêm và có thể tính theo đơn vị tháng. Danh mục và lượng hàng hoá tiêu dùng có thể không giống nhau đối với mỗi quốc gia tuỳ theo trình độ phát triển, nhu cầu và tập quán tiêu dùng của dân cư. Căn cứ vào mức giá cả tại thời điểm xây dựng chuẩn nghèo, tính toán được mức chi phí cần có cho từng loại mặt hàng và tổng chi phí cho toàn bộ số hàng hoá cần tiêu dùng trong 1 ngày hoặc tính cho 1 tháng. Từ đó, người ta tính ra chuẩn nghèo chung và chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm Theo Ngân hàng Thế giới, chuẩn nghèo tổng quát là thu nhập 1 USD/ngày theo sức mua tương đương của địa phương, tại châu Mỹ La tinh và Carribean - 2 USD, Đông Âu - 4USD, các nước công nghiệp - 14,40 USD. Tại Việt Nam, chuẩn nghèo được thay đổi theo giai đoạn. Trong giai đoạn 1998- 2000, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã đưa ra chuẩn nghèo cho từng khu vực như sau: Nông thôn, miền núi, hải đảo: 55.000 đồng/người/tháng; Nông thôn, đồng bằng 70.000 đồng/người/tháng và thành thị là 90.000 đồng/người/tháng. Trong giai đoạn 2001- 2005, chuẩn nghèo với từng khu vực như trên được nâng lên là: 80.000, 100.000 và 150.000/người/tháng. Từ 01/01/2009 chuẩn nghèo quốc gia mới như sau: Hộ nông dân có thu nhập bình quân đầu người từ 300.000 đồng một tháng trở xuống, hộ thành thị từ 390.000 đồng trở xuống sẽ được xếp vào diện hộ nghèo, được hưởng các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Chuẩn nghèo quốc gia được xem như là mức sàn để xác định chuẩn nghèo cho các địa phương khác nhau. Mỗi địa phương căn cứ vào mức sống, nhu cầu chi tiêu, sức mua của đồng tiền, mức lạm phát, vv... có thể có các chuẩn nghèo của riêng mình theo các giai đoạn nhất định. 1.1.2. Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nghèo trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam Theo Liên hợp quốc, có 5 nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng nghèo đói ở các nước đang phát triển, bao gồm hiện tượng bế quan toả cảng; mức độ rủi ro cao trong cuộc sống; sự thiếu thốn những điều kiện cần thiết để người nghèo tự vươn lên thoát nghèo; những hạn chế, bất cập trong chính sách hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức quốc tế; sự tham gia không đầy đủ của người nghèo vào hoạt động hoạch định chính sách phát triển. Tình trạng nghèo và tái nghèo tại Việt Nam cũng do nhiều nguyên nhân và quá trình đô thị hóa ngoài những tác động tích cực tới giảm nghèo, luôn có tác động làm sâu sắc thêm những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo của một bộ phận dân cư trong quá trình đô thị hóa. Những nguyên nhân chủ yếu của đói nghèo có thể trở thành sâu sắc thêm trong quá trình đô thị hóa bao gồm: Thứ nhất, nguồn lực để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh hạn chế và nghèo nàn. Theo số liệu điều tra hộ nghèo năm 2004 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 79% số hộ nghèo đói thuộc diện thiếu vốn sản xuất; 29% - thiếu đất và không có đất sản xuất. Rõ ràng là để sản xuất cần phải có các yếu tố đầu vào. Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố đầu vào thường do thị trường cung cấp, mà muốn có được chúng thì các chủ thể kinh doanh cần có vốn, vì vậy sự hạn hẹp về vốn sẽ tác động xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh, thu nhập, làm cho một bộ phận dân cư phải chịu đựng cảnh nghèo. Ở nước ta, bên cạnh yếu tố vốn, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu của các hộ nông dân, do đó nếu thiếu hoặc không có đất sản xuất thì hộ nông dân khó có thể thoát nghèo. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp, họ vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các phương án sản xuất mang lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo phương pháp sản xuất truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Sự hạn hẹp về vốn và đất sản xuất đồng thời cũng tác động xấu tới cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; nhiều yếu tố đầu vào sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón... đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị giá trị sản phẩm. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới... Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn khá nhiều người nghèo, đặc biệt là người rất nghèo, không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt, do không có tài sản thế chấp, những người nghèo, phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn. Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt là các thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường, đã làm cho người nghèo ngày càng trở nên nghèo hơn. Cũng theo số liệu điều tra hộ nghèo năm 2004 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, 35% số hộ nghèo đói thuộc diện thiếu thông tin về thị trường. Trong quá trình đô thị hóa, yêu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị cùng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông ... đã làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Trong quá trình đó, một số nông dân sẽ trở thành không có đất – tư liệu sản xuất chủ yếu để canh tác, do đó nguy cơ trở thành nghèo là rất lớn. Thứ hai, trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định. Sự hạn hẹp về nguồn tài chính là yếu tố cản trở việc đào tạo nâng cao trình độ của người nghèo, vì vậy người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; trung học cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lượng giáo dục mà người nghèo tiếp cận được còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. Bộ phận dân cư nông thôn bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cần phải được chuyển đổi nghề nghiệp sang các công việc khác. Tuy nhiên, trình độ học vấn thấp là yếu tố cản trở rất lớn đối với quá trình này. Việc đào tạo chuyển đổi nghề cho nông dân mất đất là vô cùng khó khăn và phức tạp, khó có thể giải quyết trong thời gian ngắn, do đó nguy cơ nghèo và tái nghèo từ nguyên nhân này là rất cao. Thứ ba, người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã; phí dịch vụ pháp lý còn cao. Đối với bộ phận dân cư mất đất trong quá trình đô thị hóa, với sức ép về chuyển đổi cuộc sống và hoạt động kinh tế cùng trình độ học vấn thấp, khả năng tiếp cận với pháp luật và bảo vệ quyền lợi hợp pháp lại càng khó khăn hơn nếu chính quyền không quan tâm tới lợi ích của họ. Do đó, nguy cơ trở thành nghèo và tái nghèo cũng tăng lên. Thứ tư, các nguyên nhân về nhân khẩu học. Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Đông con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Năm 1998, số con bình quân trên 1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao. (Tỷ lệ người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất). Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng tránh thai thấp, tỷ lệ nam giới nhận thức đầy đủ trách nhiệm kế hoạch hóa gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao động rất thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói của họ. Các gia đình nông dân chịu ảnh hưởng lớn từ quá trình đô thị hóa sẽ gặp phải sức ép lớn hơn về việc làm, đặc biệt đối với các gia đình đông người với nhiều thế hệ cùng chung sống. Thực tế cho thấy, mặc dù các doanh nghiệp và chính quyêng địa phương đều cam kết tạo việc làm cho dân cư bị thu hồi đất sản xuất, song các vấn đề tuổi tác, trình độ học vấn và chuyên môn tay nghề của nông dân và con em họ vẫn đang là yếu tố cản trở các doanh nghiệp thu hút và sử dụng nguồn nhân lực tại các địa phương. Thứ năm, nguy cơ dễ ._.c làng nghề, điểm tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để giải quyết việc làm. Quy hoạch hệ thống thương mại dịch vụ đảm bảo sự phát triển đồng bộ, khuyến khích phát triển các siêu thị, sắp xếp hệ thống chợ nông thôn đảm bảo thuận tiện cho sản xuất và lưu thông hàng hoá; phát triển các loại hình du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề gắn với du lịch lịch sử theo lợi thế của từng huyện. Quy hoạch phải có sơ sở khoa học và thực tiễn cao, thống nhất, đồng bộ, phù hợp với quy hoạch chung về phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Thứ hai, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động: Thành phố tập trung đẩy mạnh việc hoàn thành và đưa các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các dự án làng nghề vào hoạt động; các huyện phối hợp, tạo điều kiện về mặt bằng cho việc phát triển các khu công nghiệp mới; tiếp tục khôi phục và mở rộng các làng nghề truyền thống có lợi thế về nguyên liệu, phát triển các làng nghề mới. Ưu tiên đầu tư công nghiệp chế biến, giết mổ gia xúc gia cầm; chế biến rau, quả. Đẩy mạnh phát triển hệ thống thương mại, dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh (như dịch vụ bưu chính viễn thông, thú y, thuỷ lợi, thị trường vốn, cung ứng vật tư...). Đến năm 2020 phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ 8 – 10%/ năm.Trong đó tốc độ tăng về sản xuất nông nghiệp đạt trên 2%/năm; lao động nông nghiệp còn dưới 20% lao động xã hội; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%. Phấn đấu nâng cao thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn bình quân đạt 25triệu đồng/người/năm trở lên. Số hộ nghèo còn dưới 2%. Tỷ trọng công nghiệp dịch vụ nông thôn đạt 85% trong cơ cấu kinh tế Thứ ba, phát triển đô thị gắn với xây dựng nông thôn: Thành phố cùng với các huyện tập trung đầu tư xây dựng nông thôn, tạo sự liên kết hợp lý về cơ sở hạ tầng giữa khu vực ngoại thành và nội thành, xoá dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, gắn kết các điểm dân cư trong thành phố. Xây dựng kiên cố các tuyến đường giao thông liên xã, đường làng, ngõ, xóm; xây dựng kiên cố hoá đường nội đồng trong các vùng sản xuất chuyên canh đảm bảo nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Ưu tiên đầu tư vùng xâu, vùng xa, vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hoàn thành xây dựng hệ thống các công trình thuỷ lợi, cải tạo hệ thống sông Tích, sông Đáy, sông Nhệ phục vụ tưới tiêu chung toàn Thành phố. Hoàn thành hệ thống mạng lưới điện và thiết lập các công trình đầu mối phân phối điện đến từng điểm dân cư. Đầu tư hệ thống điện chiếu sáng công cộng cho các trung tâm xã, các khu dân cư tập trung. Từ Thành phố và các huyện, xã đẩy mạnh xã hội hoá đầu tư phát triển hệ thống cấp nước, hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải nông thôn. Tập trung đẩy nhanh việc thực hiện dồn điển đổi thửa, tổ chức sản xuất tập trung trong nông nghiệp, áp dụng công nghệ cao, bảo vệ môi trường sinh thái Thứ tư, thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Các huyện phải chủ động phối hợp với ác sở, ngành chức năng của Thành phố và các trường học, doanh nghiệp trên địa bàn để tổ chức rộng rãi việc dạy nghề cho thanh niên đến tuổi lao động, hướng vào những ngành, nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường và địa phương. Tổ chức đào tạo, đào tạo lại thông qua các hình thức như: đào tạo tại chỗ, vừa học vừa làm… Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ đối với những ngành nghề truyền thống. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng tay nghề cho người lao động thông qua các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đóng trên địa bàn. Tạo điều kiện để ngày càng có nhiều người nghèo làm việc tại các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp trên địa bàn, vừa đem lại lợi ích thiết thực cho người nghèo, vừa nâng cao đời sống của người dân, vừa không bị ảnh hưởng bởi các vấn đề tệ nạn xã hội khác do lao động nơi khác đến. Ưu tiên con em hộ nghèo, gia đình chính sách vào học nghề tại các trung tâm dạy nghề của các Huyện và Thành phố; ưu đãi giải quyết cho người nghèo đi lao động học tập ở nước ngoài. Thứ năm, triển khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ hộ nghèo Về hỗ trợ vốn trợ giúp người nghèo, hộ nghèo: Việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo của các huyện ngoại thành trong thời gian tới cần có nguồn vốn hợp lý. Một mặt cần đẩy mạnh cho hộ nghèo vay vốn từ các nguồn vốn ưu đãi của quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm, ngân hàng chính sách xã hội và Quỹ tín dụng của các đoàn thể. Mặc khác cần nâng cao tỷ trọng nguồn vốn vận động trong nhân dân bằng cách tuyên truyền vận động chính người thân, dòng họ tham gia hỗ trợ; vận động đóng góp của các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài địa bàn các huyện; các tổ chức phi chính phủ, tổ chức từ thiện quốc tế…tham gia ủng hộ quỹ xoá đói, giảm nghèo. Các huyện có các xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25% tập trung triển khai thực hiện tốt việc giải ngân cho các hộ nghèo vay theo nguồn vốn Ngân sách Thành phố uỷ thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội với phí 0,3%/tháng theo sự chỉ đạo của Thành phố (dự kiến có khoảng 15.000 hộ nghèo được vay). Về giáo dục: tập trung tạo điều kiện cho con em các hộ nghèo được tới trường. Đây là một trong những giải pháp tích cực giúp, là yếu tố cơ bản để giảm nghèo bền vững. Các huyện tập trung triên khai thực hiện tốt việc miễn giảm học phí cho học sinh nghèo (theo Quyết định số 42/QĐ – UBND ngày 15/01/2009 của Uỷ ban nhân dân Thành phố). Vận động tặng sách vở, đồ dùng học tập, cấp học bổng cho học sinh vượt khó với phương châm “không để học sinh nào bỏ học vì nghèo”. Vận động học sinh bỏ học tiếp tục đến trường hoặc tham gia các lớp học phổ cặp giáo dục, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề của Huyện... Về y tế: Tạo điều kiện thuận lợi để hộ nghèo tiếp cận với các dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Tập trung thực hiện chính sách hỗ trợ kinh phí khám chữa bệnh đối với người nghèo. Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, người mù có hoàn cảnh khó khăn, bệnh nhân phong và người dân tộc thuộc Chương trình 135. Đồng thời nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của các đơn vị y tế cơ sở và đẩy mạnh các hoạt động xã hội hoá chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo. Miễn phí chữa trị, cai nghiện bắt buộc tại các Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội của Thành phố. 3.3.3. Huy động các nguồn lực phục vụ xoá đói, giảm nghèo. Để thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, một trong những nhiệm vụ quan trọng phải huy động được các nguồn lực trong xã hội tham gia. Bên cạnh nguồn lực được cấp trong nguồn ngân sách, Thành phố và các huyện ngoại thành cần đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền, vận động các cấp, các ngành, các đơn vị đóng trên địa bàn và bên ngoài cùng với các tầng lớp nhân dân tham gia giúp đỡ các xã, thôn đặc biệt khó khăn và hộ nghèo, người nghèo. Vận động các tổ chức, các nhân có điều kiện giúp đỡ cụ thể từng xã, thôn, từng hộ nghèo. Tham gia sửa chữa nâng cấp các đường giao thông, nhà văn hoá, trường học, bệnh viện và các khu vui chơi, giản trí, tu bổ sửa chữa và làm mới nhà cho hộ nghèo. Đặc biệt đẩy mạnh các phong trào xoá đói giảm nghèo, giúp nhau xoá đói giảm nghèo; tự giúp nhau thoát nghèo, vươn lên làm giàu trong công đồng dân cư. Tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển trang trại ở vùng nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa... qua đó tạo nhiều việc làm mới và giúp thêm nhiều nguồn lực cho công tác xoá đói, giảm nghèo. Thành phố tiếp tục duy trì việc giao trách nhiệm các sở, ban, ngành, các Tổng Công ty, Công ty thuộc Thành phố giúp đỡ xã nghèo, hộ nghèo. Có chính sách huy động và sử dụng nguồn trí thức trẻ tốt nghiệp các trường Đại học, Cao đẳng tình nguyện về vùng khó khăn công tác để tham gia thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo, đồng thời tăng cường cán bộ cho cơ sở trong các mặt công tác như: giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, ứng dụng khoa học, kỹ thuật, giống mới vào sản xuất và chế biến nông thuỷ sản, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế- xã hội nhanh và bền vững. Tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, góp phần tích cực trong xoá đói, giảm nghèo Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về xoá đói, giảm nghèo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để kêu gọi các tổ chức trên địa bàn và ngoài địa bàn Thủ đô, các tổ chức quốc tế hỗ trợ giúp đỡ về nguồn lực, kinh nghiệm trong công tác xoá đói, giảm nghèo. Thực hiện đa dạng hoá hoặc lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án. Tập trung thực hiện giảm nghèo đối với các xã , huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao (43 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25%). Kiện toàn củng cố Ban Chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo các cấp, đặc biệt là tuyến xã đảm bảo phát huy được hiệu quả hoạt động. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo các cấp, phân công rõ trách nhiệm từng thành viên Ban Chỉ đạo đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả giữa các cấp, các ngành, giữa các thành viên trong Ban Chỉ đạo và các tổ chức có liên quan. 3.3.4. Kết hợp xoá đói giảm nghèo với an sinh xã hội Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa là một xu thế khách quan, là yếu tố quyết định thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng hiện đại. Do vậy, xoá đói giảm nghèo và giải quyết an sinh xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình Thủ đô đang đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chính sách xoá đói giảm nghèo và an sinh xã hội đối với nông dân trong những năm tới phải bảo đảm kết hợp giữa giải quyết những vấn đề xã hội cơ bản và lâu dài ở nông thôn với những vấn đề nóng bỏng, cấp bách trước mắt hướng vào phát triển bền vững xã hội nông thôn. Để đạt được những mục tiêu đó, chúng ta phải tập trung nỗ lực giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau: Một là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xoá đói giảm nghèo và an sinh xã hội. Trong đó, tiếp tục tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất và sức lao động, tự do hóa mạnh hơn nữa đối với lao động nông thôn; thể chế hóa chính sách an sinh xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội đa tầng, tạo cơ hội cho nông dân tiếp cận; sửa đổi chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, dạy nghề, nhà ở... phù hợp với tăng trưởng kinh tế ; Thành phố và các huyện làm tốt công tác hỗ trợ người cao tuổi, người tàn tật ổn định cuộc sống; xây dựng quỹ dự phòng thiên tai tại địa phương; xây dựng chiến lược phát triển hệ thống an sinh xã hội đến năm 2020. Hai là, kịp thời và chủ động có giải pháp phòng ngừa tái nghèo và có chính sách an sinh xã hội phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực khi kinh tế - xã hội Thủ đô chịu tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Trước mắt, để ổn định đời sống của người nghèo, đối tượng chính sách xã hội và người có thu nhập thấp, Thành phố và các huyện ngoại thành Hà Nội tập trung tổ chức thực hiện đầy đủ, đúng, kịp thời, có hiệu quả các chính sách bảo trợ xã hội, chính sách đối với hộ nghèo đã được ban hành, không để bất kỳ người dân, hộ gia đình nào bị đói, có chính sách mà không được hưởng. Tăng nguồn lực cho chương trình giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn, miền núi, đặc biệt ưu tiên cho 43 xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. Ba là, tăng đầu tư và ngân sách cho thực hiện hiệu quả chính sách và các chương trình mục tiêu về phát triển xã hội, an sinh xã hội như việc làm, phát triển nguồn nhân lực, dạy nghề, xuất khẩu lao động; giảm nghèo; hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn; chương trình trợ giúp người cao tuổi; chương trình trợ giúp người tàn tật; chương trình phòng chống tệ nạn xã hội. ... 3.3.5. Liên kết phát triển vùng Thủ đô gắn với xoá đói, giảm nghèo Vùng Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng là trung tâm của nền văn minh lúa nước Bắc bộ. Trên cơ sở mối quan hệ không gian hiện hữu của Hà Nội với khu vực nông thôn rộng lớn bao quanh và các tỉnh lị đang thu hút đầu tư mạnh do lợi thế về quan hệ không gian kinh tế với Thủ đô, đồng thời dựa vào các yếu tố địa lí, tài nguyên, cảnh quan cũng như lịch sử hình thành hình thái dân cư tạo ra các điểm đô thị gắn với xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế sẽ diễn ra. Trong giai đoạn tới dân số và đất đai của Thủ đô sẽ chịu sự kiểm soát gia tăng; các trung tâm thương mại tài chính lớn của quốc gia, các khu nghiên cứu- đào tạo công nghệ cao, trung tâm văn hoá lớn được tập trung hình thành. Các vùng có tiềm năng phát triển mở rộng Thủ đô sẽ được thúc đẩy thông qua việc phát triển một số trung tâm đô thị, du lịch, nghiên cứu đào tạo và các hoạt động lĩnh vực công nghệ cao, hạn chế công nghiệp tập trung lớn và kiểm soát bảo vệ môi trường. Về giáo dục, 3 trung tâm đào tạo của vùng là Hà Nội - Hải Phòng - Nam Định, trong đó Hà Nội là trung tâm và Hải Phòng-Nam Định là hai địa bàn hỗ trợ nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho quốc gia. Vùng Bắc bộ và Vùng Đồng bằng sông Hồng, với dự kiến đến năm 2020 có 70 trường đại học. Việc Hà Nội tiếp tục mở rộng không gian kinh tế cũng như phát triển các khu đô thị mới, quận nội thành mới cũng sẽ tạo nên tăng trưởng kinh tế cao. Có thể dự đoán, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời kỳ 2011 - 2020 sẽ ngang bằng hoặc hơn giai đoạn 2001 - 2010. Vào năm 2020, quy mô GDP của Hà Nội sẽ gấp 2,6 - 2,8 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người của Hà Nội sẽ đạt 5.500 - 6.000 USD. Với cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp đã được định hướng và đang dần định hình hiện nay, đến năm 2020, khi đã hoàn thành công nghiệp hóa, Hà Nội sẽ có một cơ cấu kinh tế hiện đại với tỷ trọng tuyệt đối thuộc về các ngành dịch vụ và các ngành sản xuất dựa trên công nghệ cao. Khi đó, Hà Nội sẽ có một nền công nghiệp hiện đại được tạo dựng qua quá trình phát triển có chọn lọc. Ðó là nền công nghiệp sạch, mang lại hiệu quả kinh tế lớn trên cơ sở ứng dụng công nghệ cao. Bản thân ngành công nghiệp sẽ có sự phát triển cân đối giữa công nghiệp nguồn và công nghiệp phụ trợ. Sản phẩm do ngành công nghiệp Hà Nội sản xuất ra, từ các mặt hàng tiêu dùng, phương tiện sinh hoạt đến công cụ, tư liệu sản xuất đều thể hiện không chỉ sự tinh xảo của kỹ thuật, công nghệ hiện đại mà còn sự tinh tế của văn hóa Thăng Long thấm sâu trong nó. Khu vực dịch vụ tạo ra 70-80% GDP của Hà Nội sẽ cung cấp chủ yếu là các dịch vụ cao cấp cho mọi đối tượng trong và ngoài nước. Dần từng bước, đến năm 2020, chúng ta sẽ thấy sự khẳng định vai trò, vị trí của Hà Nội là trung tâm thương mại, dịch vụ, xuất nhập khẩu theo hướng mở, văn minh, hiện đại. Ðó là một trung tâm thương mại, trung tâm tài chính, trung tâm khoa học - công nghệ, trung tâm giao dịch quốc tế không chỉ của cả nước mà của cả khu vực. Nông nghiệp thủ đô sẽ dần dần từ bỏ cách thức sản xuất truyền thống và mặc dù bị thu hẹp về diện tích sản xuất trong quá trình đô thị hóa nhưng sẽ có năng suất và chất lượng vượt trội nhờ dựa vào công nghệ sinh học và các quy trình sản xuất được tối ưu hóa. Ðó là một nền nông nghiệp đô thị - sinh thái. Chính việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại trong tất cả các ngành sản xuất và dịch vụ nêu trên đem lại sự phát triển bền vững và sẽ tạo tiền đề, định hướng cho nền kinh tế thủ đô tiếp cận kinh tế tri thức. Liên kết phát triển kinh tế vùng Thủ đô trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế toàn vùng. Hà Nội sẽ trở thành trung tâm kinh tế của khu vực phía bắc và một trong những đầu tàu phát triển kinh tế của cả nước. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, Hà Nội cùng cả nước sẽ hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với lợi thế của mình, Hà Nội sẽ tham gia trong phân công lao động quốc tế theo chiều sâu trên cơ sở các ngành sản xuất ứng dụng công nghệ cao, đồng thời phát huy vai trò của một trung tâm tài chính, đào tạo, khoa học - công nghệ và trung tâm giao dịch quốc tế của khu vực. Sự liên kết phát triển kinh tế Vùng Thủ đô đem lại sự phát triển toàn diện của các mặt đời sống xã hội thủ đô đến năm 2020. Người dân Hà Nội sẽ được hưởng phúc lợi xã hội đầy đủ với chất lượng sống cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được xây dựng đồng bộ, hiện đại. Cùng với phát triển kinh tế là quá trình xây dựng con người Hà Nội thanh lịch, văn minh, hiện đại và gìn giữ, phát huy bản sắc văn hiến nghìn năm Thăng Long - Hà Nội. Những giá trị văn hóa ấy sẽ không chỉ thể hiện qua cốt cách, trong ứng xử của mỗi người, mà sẽ được nâng tầm thành văn hóa lãnh đạo, quản lý, văn hóa kinh doanh, văn minh giao tiếp... Bản sắc văn hóa Thăng Long - Hà Nội sẽ thấm sâu, lan tỏa để trở thành cội nguồn, động lực cho sự phát triển của Thủ đô. Hà Nội sẽ là Thành phố đi đầu trong cả nước về xóa đói, giảm nghèo. Đến năm 2020, Hà Nội có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất trong cả nước. 3.4. KIẾN NGHỊ 3.4.1. Đối với Trung ương, Thành phố - Đảng, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách xã hội nhằm giúp các hộ nghèo đói phát triển sản xuất kinh doanh và khắc phục khó khăn trong cuộc sống như: + Chính sách về đất đai: trong thời gian tới, chính sách về đất đai cần thực thi theo hướng tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việ sử dụng đất vào mục đích chuyên dùng phù hợp với quy hoạch, nhất là đấ làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp; kịp thời sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai phù hợp với tình hình thực tế; xen xét, quy định mức đền bù đất khi nhà nước thu hồi phục vụ các công trình công cộng, công trình quốc gia và các công trình dân sinh phù hợp với giá thị trường trong từng thời điểm. + Về xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng: Quan tâm có những chính sách ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn về điện, đường, trường, trạm, các công trình thuỷ lợi, coi đó là biện pháp quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, góp phần tích cực trong công tác xoá đói, giảm nghèo. Tập trung nguồn lực đẩy mạnh việc xây dựng cầu Nhật Tân, cầu Tứ Liên theo như quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Triển khai quy hoạch phát triển đường Vành đai 4, 5, 6 để phát triển kinh tế các huyện phía tây nam Hà Nội. + Về xã hội: Cần giảm tối đa các khoản đóng góp các khoản chưa cần thiết đối với các vùng nông thôn như: phí an ninh, phí vệ sinh môi trường....Tiếp tục nghiên cứu có chính sách ưu đãi hơn nữa dành cho nông dân khi vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh như: thời gian vay phù hợp với mùa vụ sản xuất; dành nhiều hơn nữa vốn trung hạn cho người nghèo được vay. Mở rộng bảo hiểm y tế đối với các hộ nông dân để nông dân có điều kiện khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, đề nghị Trung ương và Thành phố tiếp tục nghiên cứu tăng mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho các đối tượng chính sách để đảm bảo cac đối tượng chính sách có mức sống ngang bằng với mức sống trung bình của người dân trên địa bàn. Trung ương cần có chính sách hỗ trợ bảo hiểm xã hội việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất, tất cả các đơn vị tuyển dụng người nông dân bị thu hồi đất vào làm việc phải ký hợp đồng lao động cho những người này từ 3 năm trở lên, mức lương hằng tháng không thấp hơn 120% mức lương tối thiểu. Bên cạnh đó, đối với Thành phố cần có chính sách trích số tiền thu được từ hoạt động chuyển nhượng đất để hỗ trợ một phần mức bảo hiểm xã hội cho doanh nghiệp đó theo số người đã được tuyển dụng. Thời hạn doanh nghiệp được hưởng mức hỗ trợ này chính là thời gian mà đơn vị tuyển dụng ký hợp đồng với người nông dân bị thu hồi đất. + Các chính sách khác Tiếp tục đẩy mạnh việc phân cấp cho các địa phương trong việc quản lý và xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo tại địa phương trên cơ sở mục tiêu, phương hướng đã được Nhà nước phê duyệt. Nâng cao trách nhiệm của các địa phương trong việc phát triển kinh tế - xã hội trên, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn Trung ương và Thành phố cần có chính sách miễn hoặc giảm thuế hợp lý cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có dự án hỗ trợ tạo việc làm cho người nghèo. Đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của cá hộ nghèo cần có chính sách miễn giảm thuế từ 2 đến 5 năm đầu để động viên, tạo có hội cho các hộ nghèo yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh. 3.4.2. Đối với các huyện ngoại thành Hà Nội - Tập trung sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và nâng cao năng lực, nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức và người dân trên địa bàn huyện về chương trình giảm nghèo. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng “Quỹ vì người nghèo” và các hoạt động xã hội hoá công tác giảm nghèo. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo. - Coi việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Thành phố về giảm nghèo là việc làm thường xuyên, liên tục và lâu dài. Hàng năm phải có kế hoạch cụ thể, thường xuyên tuyên truyền những mô hình hay, những hộ làm kinh tế giỏi để các xã, các hộ khác làm theo. Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức, giáo dục pháp luật, kế hoạch hoá gia đình, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh thoát nghèo, làm giàu của các hộ nghèo với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với hộ nghèo. Tư vấn trợ giúp pháp lý cho người nghèo. - Phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kết hợp với du lịch sinh thái, phát triển các cây, con có giá trị kinh tế cao. - Tập trung đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh như: các công trình thuỷ lợi, đuờng liên thôn, liên xã, trường, trạm y tế, điện, nước sachj, chợ... đặc biệt ưu tiên các xã nghèo, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. - Phục hồi và tu bổ, tôn tạo những di tích lịch sử văn hoá trên địa bàn huyện góp phần phát triển du lịch, dịch vụ. Nghiên cứu và đầu tư các công trình văn hoá tại các xã khó khăn nhằm phát triển du lịch và dịch vụ, góp phần nâng cao đời sống tinh thần, tạo việc làm và phát triển kinh tế địa phương. - Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có số lượng làng nghề nhiều nhất trong toàn quốc, tập trung chủ yếu ở các huyện ngoại thành Hà Nội. Đây là lợi thế rất lớn để phát triển kinh tế xã hội và xoá đói giảm nghèo. Vì vậy, các huyện cần đặc biệt quan tâm có những chính sách hỗ trợ phù hợp để đẩy mạnh việc phát triển làng nghề như: Hỗ trợ tạo điều kiện về mặt bằng; tạo điều kiện vay vốn ưu đãi; hỗ trợ trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề... - Đô thị hóa sẽ khiến không gian của thành phố không ngừng được mở rộng. Đô thị hóa và công nghiệp hóa hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển, tạo nên một vòng tuần hoàn có hiệu quả. Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp sẽ khiến một lượng lớn nông dân bị mất đất, chính vì vậy, tích cực phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho người nông dân có việc làm là chính sách lâu dài và cũng là vấn đề cấp bách mà các huyện ngoại thành cần tập trung giải quyết. Các huyện tuỳ theo điều kiện cụ thể có thể thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng nghề cho những nông dân bị thu hồi đất để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc làm cho họ; khuyến khích các đơn vị, ưu tiên sắp xếp công ăn việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất. KẾT LUẬN Giảm nghèo là vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm lớn trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở Nước ta, trong những năm đổi mới, công tác giảm nghèo đã được chú trọng đặc biệt trên phạm vi toàn quốc cũng như tại từng địa phương. Thành phố Hà Nội, với vị trí là thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa của cả nước đã có nhiều thành tích trong giảm nghèo, đặc biệt tại các huyện ngoại thành. Thực tế những năm qua cho thấy, tại các huyện ngoại thành Hà Nội tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh do yêu cầu phát triển mở rộng Thủ đô trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong quá trình đó đã diễn ra quá trình thu hồi và chuyển mục đích sử dụng một diện tích lớn đất nông nghiệp, có tác động đáng kể tới hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của một bộ phân không nhỏ dân cư, đặc biệt là nông dân tại các huyện ngoại thành. Tuy nhiên, nhờ các chính sách và biện pháp tích cực từ phía chính quyền thành phố, phần lớn các hộ nông dân đã thích ứng với quá trình đô thị hóa, chuyển đổi thành công hoạt động sản xuất kinh doanh và thoát khỏi cảnh nghèo. Thành tựu giảm nghèo tại các huyện ngoại thành đã đóng góp vào thành tựu giảm nghèo và quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của thành phố. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu tích cực, song công tác giảm nghèo tại các huyện ngoại thành vẫn còn không ít những hạn chế như công tác xây dựng quy hoạch chi tiết của các huyện còn chậm, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển, vốn đầu tư trực tiếp cho phát triển kinh tế ngoại thành còn ít, dàn trải, hiệu quả chưa cao, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện chương trình giảm nghèo của một số cấp uỷ, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể tại một số xã chưa tốt... Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Hà Nội trong thời gian tới phải thực hiện đồng bộ các giải pháp như tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách về giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thủ đô với giảm nghèo, tăng cường huy động các nguồn lực phục vụ giảm nghèo, kết hợp giảm nghèo với đảm bảo an sinh xã hội, liên kết phát triển vùng Thủ đô gắn với giảm nghèo. Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa là vấn đề rộng lớn, phức tạp, thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và đòi hỏi phải được giải quyết đúng đắn, kịp thời. Trong bản luận văn này, mặc dù đã có nhiều có gắng để nghiên cứu về vấn đề giảm nghèo tại các huyện ngoại thành của Thủ Đô trong quá trình đô thị hóa, song do những hạn chế về thời gian cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, nên những vấn đề được đề cập mới chỉ ở mức nghiên cứu ban đầu của học viên, do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Học viên rất mong được nhận những đóng góp của các Quý Thầy Cô để có thể phát triển hướng nghiên cứu này tốt hơn trong tương lai. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang (chủ biên), (2001), Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo các dự án thuộc chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm, Hà Nội. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2007), báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các chương trình giảm nghèo 2 năm (2006 - 2007), Hà Nội. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2007), tài liệu tham khảo “những mô hình, kinh nghiệm giảm nghèo ở Việt Nam”, Hà Nội. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2007), tài liệu tham khảo “những mô hình, kinh nghiệm giảm nghèo ở Việt Nam”, Hà Nội. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo sơ kết thực hiện chương trình, mục tiêu xoá đói giảm nghèo và việc làm 2001 -2003, nhiệm vụ và giải pháp, Hà Nội. Trần Tuấn Cường (2008), Hoàn thiện chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt Nam - luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2005), Niên giám thống kê 2004, Hà Nội. Cục Thống kê Thành phố Hà Nội (2008), Niên giám thống kê 2007, Hà Nội. Cục Thống kê Hà Tây (2007), Niên giám thống kê 2006, Hà Tây. Đại học Kinh tế Quốc dân, Giáo trình Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội. Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), Giáo trình An sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân., Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trung Hải (2006), Hoàn thiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với tỉnh miền núi (Lấy ví dụ tỉnh Kon Tum) - luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Vũ Thị Hiểu (1996), Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Đai học Kinh tế Quốc dân Hà Nội . Đào Văn Hùng (2001), Các giải pháp tín dụng đối với người nghèo ở Việt Nam hiện nay - Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Liên Hợp Quốc tại Việt Nam (2006), Chiến đấu chống đói nghèo là yếu tố quan trọng để thúc đẩy quyền con người, Hà Nội.. Ngân hàng thế giới (2006), Báo cáo phát triển Việt nam 2007, Hướng tới tầm cao mới. Ngân hàng thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt nam 2008, Bảo trợ xã hội Lê Thị Nghệ (1995), Những giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của hộ nông dân nghèo vùng đồng bằng Sông Hồng. Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội . Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam (2008), Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 ngày 29 tháng 05 năm 2008 “Về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan”, Hà Nội. Ngô Xuân Quyết (2006), Một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa đói giảm nghèo ở vùng Tây Bắc giai đoạn 2006-2010, luận văn Thạc sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Thành uỷ Hà Nội (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIV Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010, Hà Nội. UBND Thành phố Hà Nội (2000), Kế hoạch thực hiện chương trình trợ giúp người nghèo trên địa bàn Thành phố năm 2000, Hà Nội. UBND Thành phố Hà Nội (2006), Chương trình, mục tiêu xoá đói giảm nghèo thành phố Hà Nội, Hà Nội. UBND Thành phố Hà Nội (2009), Kế hoạch thực hiện chương trình giảm nghèo Thành phố Hà Nội năm 2009, Hà Nội. UBND Thành phố Hà Nội (2009), Quyết định về việc bổ sung kinh phí hoạt động cho Sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Nội (Quỹ hỗ trợ đời sống, học tập, đào tạo nghề và việc làm cho các hộ bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp, Hà Nội. UBND Thành phố Hà Nội (2009), Báo cáo Tổng kết của Ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2009, Hà Nội. UBND tỉnh Hà Tây (1994), Báo cáo đề tài tình hình đói nghèo và một số giải pháp chủ yếu từng bước xóa đói giảm nghèo trong nông thôn, Hà Tây. UBND tỉnh Hà Tây (2000), Báo cáo kết quả điều tra hộ nghèo năm 2000, Hà Tây. UBND tỉnh Hà Tây (2001), Tài liệu Hội nghị sơ kết 3 năm Chương trình xóa đói giảm nghèo 1998-2000, Hà Tây. UBND tỉnh Hà Tây (2002), Báo cáo kết quả hoạt động ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo, Hà Tây.. UBND tỉnh Hà Tây (2005), Báo cáo kết quả tổng điều tra hộ nghèo năm 2005 tỉnh Hà Tây, Hà Tây. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31364.doc