Mở đầu
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, Việt Nam đã thu được rất nhiều thắng lợi to lớn, chúng ta đã thay đổi đáng kể mức sống của người dân, nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao. Để có được những thành công như vậy là nhờ có những chuyển biến trong tư duy lý luận và thực tiễn trên mọi mặt của nền kinh tế. Đảng ta đã xác định để đổi mới và phát triển không những phát huy tối đa năng lực sản xuất trong nước mà còn phải biết tận dụng nguồn lực từ bên ngoài. Thực tế cho thấy trong 20 nă
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải thích tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m qua, đặc biệt là trong những năm gần đây, ngoài khả năng sẵn có, chúng ta đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, đóng góp lớn cho công cuộc phát triển của đất nước. Trong các nguồn vốn đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chiếm vị trí rất quan trọng và có tác động không nhỏ tới kinh tế Việt Nam. Bên cạnh giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách, FDI còn có tác động tới nhiều mặt của nền kinh tế nứơc ta nói chung và khu vực kinh tế nói riêng, có cả tác động tiêu cực và tác động tích cực ở nhiều mức độ khác nhau. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tổng kết, đánh giá đúng đắn và có tầm khái quát về ảnh hưởng của FDI nhằm tìm ra giải pháp tăng tính hiệu quả và bền vững của nguồn vốn quan trọng này, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang ngày càng hội nhập vào quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới.
Được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong Bộ môn kinh tế đầu tư- Đại học kinh tế Quốc dân, chúng em, nhóm sinh viên lớp Kinh tế Đầu tư 45B đã thực hiện đề tài "Giải thích tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước". Mục đích của đề tài, đúng như tên gọi của nó là dựa trên vốn hiểu biết, các kiến thức đã được học của sinh viên chuyên ngành kinh tế đồng thời tiếp thu những ý kiến của thầy cô giáo, các bài viết của các nhà quản lý, nhà khoa học để giải thích tác động của FDI và doanh nghiệp FDI tới nền kinh tế nước ta.
Qua đề tài chúng em mong muốn có thể nắm bắt được một số khía cạnh trong hoạt động của khu vực FDI, đưa ra những nhận định vàgiải pháp hợp lý cho lĩnh vực này trong tình hình mới.
Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian và chưa tiếp cận nhiều trên thực tế nên mức độ hiểu biết về FDI còn chưa đầy đủ. Chúng em rất mong được sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô để hoàn thiện hơn đề tài này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương- người trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ chúng em hoàn thành đề tài nghiên cứu này cùng tập thể các thầy cô Bộ môn kinh tế Đầu tư- ĐHKTQD. Cùng với sự nhiệt tình của mình, chúng em hi vọng đề tài sẽ đạt kết quả tốt, đảm bảo về thờigian và chất lượng như là một lời cảm ơn ý nghĩa nhất gửi đến các thầy cô.
Chương I: Lý luận chung về tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước.
I. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển
1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn bỏ vốn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
2. Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là một phương thức đầu tư trực tiếp, hoạt động này nhằm duy trì và tạo ra năng lực sản xuất mới trong sản xuất kinh doanh-dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội.
II. Tác động tràn của FDI
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước.
1.1. Khái niệm FDI: Đầu tư trực tiếp (FDI) là một loại hình của đầu tư quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là loại hình đầu tư, trong đó chủ đầu tư nước ngoài tham gia đóng góp một số đủ lớn vào việc sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng đầu tư.
1.2. Tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước: chính là sự tác động gián tiếp của doanh nghiệp FDI khi hoạt động tại một quốc gia tới các doanh nghiệp trong nước đó.
2. Đặc điểm của FDI
Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo luật lệ của mỗi nước.
Quyền quản lý, điều hành đối tượng đầu tư tuỳ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì đối tượng đầu tư hoàn toàn do chủ đầu tư nứơc ngoài điều hành và quản lý.
Lợi nhuận từ hoạt động đầu tư phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định.
FDI được xây dựng thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp với nhau.
3. Các hình thức của FDI
Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó những hình thức được áp dụng phổ biến bao gồm:
-Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
-Doanh nghiệp liên doanh.
-Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên được áp dụng ở mức độ khác nhau.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ trong nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao và đặc khu kinh tế; đồng thời còn áp dụng các hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao(B. O. T), xây dựng- chuyển giao- kinh doanh(B. T. O) và xây dựng chuyển giao(B. T).
4. Tác động tích cực của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
4. 1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng
Vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế nhất là đối với các nước đang phát triển. Đây là những nước có tiềm năng về lao động và tài nguyên thiên nhiên, nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng này. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, các nước cần huy động vốn từ trong nứơc và nước ngoài, đầu tư phát triển để có được mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Trong tình hình hiện nay, việc huy động vốn từ trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển chung cho toàn xã hội cũng như khu vực kinh tế trong nước. Trong khi đó, trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay một khối lượng vốn lớn và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài, thì đó là cơ hội để các nước đang phát triển tranh thủ nguồn vốn đầu tư nước ngoài(ĐTNN) vào việc phát triển kinh tế.
ở nhiều nước đang phát triển, vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Ngay cả đối với các doanh nghiệp, việc thu hút vốn ĐTNN đã và đang là vấn đề được quan tâm, lượng vốn này cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp dưới hình thức hợp tác, liên doanh. Trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào nguồn vốn ĐTNN, đặc biệt là giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế.
Đối với các nước công nghiệp phát triển, ĐTNN vẫn là nguồn vốn bổ sung quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia này. Khác với các nước đang phát triển, không phải do thiếu vốn đầu tư, cũng không phải do trình độ kĩ thuật thấp kém mà các nước công nghiệp cần thu hút vốn ĐTNN. Thực tế thì chính các nước công nghiệp phát triển là những nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất và cũng thu hút phần lớn vốn ĐTNN. Năm 1994, các nước phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài 189 tỷ USD và thu hút 135 tỷ USD; các nước đang phát triển thu hút 81 tỷ USD, chiếm 37% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới. Xu hướng tăng cường hợp tác sản xuất và liên kết kinh tế quốc tế xuất phát từ lợi ích các quốc gia, khi tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, mỗi nước sẽ phát huy được lợi thế của mình và khai thác thế mạnh của mình.
4. 2. Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực kinh tế trong nước
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình kiên kết kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp hiện đại hoá trình độ công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, làm tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Một số ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một đi rồi đến chỗ xoá sổ.
4. 3. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo năng lực sản xuất, ngành sản xuất, phương thức sản xuất và kinh doanh mới, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh.
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn đầu tư bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, ... và vốn vô hình như chuyên gia, kĩ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý, ... Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư.
ở các nước đang phát triển, trình độ kĩ thuật còn lạc hậu, việc tự nghiên cứu, chế tạo là rất khó khăn và tốn kém. Do đó, cần biết tận dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật thông qua chuyển giao công nghệ. Còn ở các nước phát triển, mặc dù đã có trình độ sản xuất hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến nhưng mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực mà họ có ưu thế hơn và ngược lại chính sự tập trung đó cho phép họ có khả năng phát triển vượt trội lên ở một hay một số lĩnh vực nào đó. Và muốn thay thế cho kĩ thuật- công nghệ mới thì họ cũng phải tìm cho được nơi thải công nghệ cũ. Việc "thải" những công nghệ cũ này dễ dàng được nhiều nước chấp nhận. Chính sự lan toả những thành tựu khoa học kĩ thuật của nhân loại thường xuyên như thế đã tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng khoa học kĩ thuật. ảnh hưởng "lan toả" của khu vực FDI đối với các khu vực, các quốc gia thể hiện ở các mặt: sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI sẽ đồng hành với công nghệ tiên tiến và việc chuyển giao công nghệ này sẽ thúc đẩy năng suất lao động tăng lên; người lao động tại các doanh nghiệp FDI có cơ hội tiếp thu kĩ thuật, trình độ quản lý; sức ép từ khu vực FDI buộc các doanh nghiệp trong nước tăng cường đầu tư cho công nghệ, nhân lực để cạnh tranh với doanh nghiệp FDI mà còn có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước... Cùng với đó là sự ra đời của sản phẩm mới, phương thức sản xuất và kinh doanh nghiệp mới để mở rộng môi trường và nâng cao sức cạnh tranh.
4. 4. Thúc đẩy xuất khẩu và giao lưu thương mại quốc tế
Hoạt động thương mại diễn ra đều có lợi cho tất cả các quốc gia, các quốc gia sẽ chuyên môn hoá mà mình có lợi thế so sánh, chuyên sâu để lớn mạnh và chiếm ưu thế về mặt hàng đó. Khi đó các quốc gia sẽ xuất khẩu mặt hàng mà mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt hàng khác. Trên thực tế, các nước phát triển đã tận dụng và khai thác rất tốt các tiềm năng, thế mạnh của mình. Họ không những đầu tư ra nước ngoài mà còn thu hút đầu tư vào trong nước nhất là những ngành mà họ không có lợi thế nhưng lượng tiêu dùng lớn hay có khả năng phát triển để nhằm cân bằng cán cân thương mại.
Bên cạnh đó, các nước đang phát triển, mặc dù có những lợi thế so sánh song chưa có điều kiện để khai thác và sử dụng thì việc thu hút ĐTNN vào trong nước là rất cần thiết. Điều đó thúc đẩy cho các nước đang phát triển xuất khẩu được ra thị trường thế giới nhiều mặt hàng họ có lợi thế so sánh hơn, hạn chế nhập khẩu nhằm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
5. Hạn chế trong tác động của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
5. 1. Công nghệ không phải là công nghệ nguồn.
Tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tăng cường tiếp thu trình độ công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, mức độ hiện đại đến đâu còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới, có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nứơc nào tiếp nhận đầu tư. Đây là cơ hội của các nước đang phát triển có thể tiếp thu kĩ thuật- công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển được nhận công nghệ miễn phí mà họ cũng phải trả một khoản "học phí" không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. Các nước đang phát triển muốn tiếp thu được kĩ thuật công nghệ tiên tiến song thực tế thì không hẳn là như vậy. Những công nghệ mà họ được tiếp nhận chủ yếu là những công nghệ đã lạc hậu. Trong chuyển giao công nghệ, phần lớn mới chỉ được giao phần cứng, đó là máy móc thiết bị, còn phần mềm như kiến thức quản lý, tổ chức, các bí quyết đào tạo cán bộ quản lý và công nhân thực hiện công nghệ được chuyển giao là phần chiếm một tỷ trọng lớn trong quy trình công nghệ lại không được quan tâm đúng mức. Do đó, những nước tiếp nhận công nghệ sẽ phải chịu nhiều thiệt hại, như ô nhiễm môi trường, gây cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, ảnh hưởng tới sức khoẻ và đời sống dân cư.
5. 2. Gây ra sự cạn kiệt nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp trong nước
Trong quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng các công trình, khu công nghệ, khu chế xuất... sẽ làm phá vỡ môi trường cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, hệ động vật, thực vật bị phá huỷ không còn nguyên vẹn. Hầu hết các nước đang phát triển, khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài thường hay phải sử dụng những công nghệ lạc hậu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái. Hệ thống xử lý rác thải một cách hiện đại, hợp lý đòi hỏi một khối lượng lớn vốn bỏ ra, nên các nhà đầu tư thường ít quan tâm đến vấn đề xử lý rác thải. Các chất rác thải gần như được thải trực tiếp vào môi trường gây ô nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm nguồn nước... gây ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó việc khai thác sử dụng các nguồn nguyên liệu, năng lượng của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách tràn lan, không khoa học đã gây sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, than đá,... là một vấn đề đang được quan tâm. Trong tương lai không xa, chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề thiếu nhiên liệu, vật liệu đặc biệt là năng lượng. Các nhà đầu tư nước ngoài việc tìm kiếm thị trường đầu tư, ngoài việc quan tâm đến thị trường tiêu thụ họ còn quan tâm đến những thị trường có nguồn nguyên liệu đầu vào dồi dào để khai thác. Đó cũng chính là điều lo ngại cho các doanh nghiệp trong nước khi mà nguồn nguyên liệu đầu vào ngày càng trở nên cạn kiệt. Do đó, nguy cơ từ bây giờ chúng ta phải có biện pháp để giải quyết tình trạng này.
5. 3. Gây ra tình trạng “ chảy máu chất xám” tại chỗ và ảnh hưởng đến nguồn lao động trong các doanh nghiệp trong nước
ở các nước đang phát triển, có nguồn lao động dồi dào, đây là một yếu tố để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vì chi phí cho lao động rất rẻ. Nhưng đa phần nguồn lao động của các nước này đều chưa qua đào tạo hoặc được đào tạo với trình độ thấp. Công nhân lành nghề có kĩ năng còn ít và khả năng thực hành còn ít. Chỉ có một lượng nhỏ những người đã qua đào tạo với trình độ cao, mới có khả năng tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài. Nhưng bộ phận này lại chủ yếu làm việc cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN với mức thu nhập cao và nhiều ưu đãi. Đây chính là hiện tượng "chảy máu chất xám"tại chỗ. Hiện tượng này đang có xu hướng ngày càng tăng ở các nước đang phát triển.
Xét trên góc độ lợi ích kinh tế, trong cơ chế mới, ở những doanh nghiệp này, tranh chấp lao động là vấn đề khó tránh khỏi. Khi mà hầu hết các lao động có trình độ đều thích làm việc trong các doanh nghiệp FDI thì lượng lao động này trong các doanh nghiệp trong nước lại ít. Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước là làm sao để thu hút được lực lượng lao động này để nâng cao năng suất lao động cũng như tính cạnh tranh.
Chương II: Thực trạng tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
I. Tình hình thu hút và sử dụng FDI
1. Tình hình thu hút và thực hiện FDI
Cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nước ta. ĐTNN đã đóng góp hơn 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần làm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và tạo ra công ăn, việc làm cho người lao động. Đặc biệt là sự kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam vượt ngưỡng 4 tỷ vào năm 2004. Đây là mức thu hút vốn đầu tư cao nhất kể từ năm 1999 đến nay. Tuy nhiên năm 2004 có nhiều diễn biến thăng trầm của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong 5 tháng đầu năm 2004, mặc dù có thêm 189 dự án mới được cấp với tổng số vốn đăng kí đạt 621.6 triệu USD nhưng con số này thấp hơn cùng kì năm 2003( giảm 33.7% về số dự án và 12.4% về vốn đăng kí). Trong những năm gần đây nguồn vốn của ĐTNN trong khu vực kinh tế cũng tăng lên đang kể được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 1:Tình hình thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài(FDI) của khu vực kinh tế trong nước trong những năm qua
Đơn vị: triệu đồng
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Khu vực kinh tế trong nước
124011.2
140449.0
164349.4
193816.2
232400.0
277000.0
Khu vực có vốn ĐTNN
27171.8
30011.0
34775.1
37800.0
42600.0
48400.0
Cơ cấu (%) của khu vực có vốn ĐTNN
18.0
17.6
17.5
16.3
15.5
14.9
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Qua con số thống kê trên nhận thấy vốn ĐTNN vào khu vực kinh tế trong nước ngày càng tăng trong những năm gần đây, cứ mỗi năm lượng thu hút tăng lên khoảng trên dưới 4 tỷ, đây là con số không hề bé. Tuy nhiên trong cơ cấu kinh tế thì nó lại ngày càng giảm do con số vốn đầu tư trong nước ngày càng tăng, sau 5 năm từ năm 2000 cho đến năm 2005 con số đầu tư của các doanh nghiệp từ hơn 124 tỷ lên tới 277 tỷ. Đó cũng là một điều đáng mừng cho Việt Nam khi nền kinh tế ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng; tính chung 2 tháng đầu năm 2006, tổng vốn của dự án cấp mới và vốn đăng kí tăng thêm là 1164 triệu USD với 113 dự án được cấp phép đầu tư, tăng 15% về số vốn đăng kí và tăng 16% về số dự án so với cùng kì năm 2005.
Với kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được như trên đặc biệt là xu hướng tăng liên tục mức vốn của các dự án đang hoạt động để bổ sung mở rộng sản xuất quy mô trong vòng 5 năm qua là một dấu hiệu đáng mừng. Bởi vì một mặt nó thể hiện môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện, khả năng sinh lời của dự án đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn tiếp tục mở rộng quy mô. Mặt khác, nó thể hiện hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN tại Việt Nam rất khả quan. Nhiều nhà đầu tư khẳng định họ sẽ vẫn còn tiếp tục đầu tư thêm vào Việt Nam.
ở Việt Nam, hiện nay có trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó trên 100 quốc gia tập đoàn lớn thuộc danh sách 500 công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới do tạp chí Fortune bình chọn có đầu tư ở Việt Nam, chủ yếu đến từ các nước trong khu vực Châu á. 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam lần lượt là :Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, quần đảo Virgin thuộc Anh, Pháp, Hà Lan, Thái Lan và Malysia.
Cho đến 2005, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần làm gia tăng thêm năng lực sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Riêng doanh thu xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10.8 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2004 và nếu tính cả xuất khẩu dầu thô đạt 17 tỷ USD, chiếm 53% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nộp ngân sách của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đạt 1.29 tỷ USD, tăng 41% so với năm 2004. Với tốc độ tăng trưởng cả về sản xuất và xuất khẩu, nộp ngân sách của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Đầu tư nước ngoài không những đã thực sự đóng vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực trong nước từ đó nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm qua.
2. Những tồn tại và hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua.
Trong những năm 2005, công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có những chuyển biến, tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với nhu cầu và khả năng. Trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn có những hạn chế cần phải khắc phục.
Thứ nhất, còn có sự cạnh tranh giữa các địa phương trong việc thu hút vốn đầu tư, với các biện pháp chủ yếu là đưa ra các ưu đãi, giảm thuế, cho thuê đất giá rẻ,... Điều này thể hiện công tác quy hoạch đầu tư còn nhiều bất hợp lý và tính cộng đồng chưa cao trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Thứ hai, trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, phần vốn đầu tư chủ yếu đến từ các nước Châu á như Đài Loan(35. 5%), Nhật Bản(13. 4%),... Đầu tư của EU và Hoa Kì vào Việt Nam còn thấp.
Thứ ba, thủ tục cấp phép đầu tư còn rườm rà hoặc một số dự án được cấp phép trong thời gian khá lâu nhưng triển khai chậm, thậm chí chưa triển khai.
Thứ tư, việc thu hút vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ vẫn còn ở mức thấp trong cơ cấu vốn đầu tư thu hút mới(16.3%). Rào cản lớn nhất của ĐTNN trong lĩnh vực này chính là hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực dịch vụ chưa đồng bộ, thiếu rõ ràng, thông thoáng, thậm chí mới dừng ở mức độ thí điểm.
Trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều thuận lợi nhưng Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn. Nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Điều này đỏi hỏi phải có sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong nước trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nắm bắt cơ hội mới để tạo nên một làn sóng đầu tư nước ngoài mới có hiệu quả, góp phần thực hiện nhanh chóng mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
II. Thực trạng tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
1. Vai trò của FDI
Thoát khỏi chiến tranh, xây dựng đất nước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu với trình độ thấp kém, sản xuất nhỏ là phổ biến. Cùng với một thời gian dài duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu bao cấp, đóng cửa nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế chậm phát triển.
Từ năm 1987 các chính sách đổi mới ra đời đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế. Trong đó có việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là từ năm 1988, chúng ta đã bắt đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, nền kinh tế đã có những bước chuyển biến quan trọng. ĐTNN tạo cho nền kinh tế một gia tốc tăng trưởng để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo, tạo những bước phát triển tiếp theo. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế trong nước.
1. 1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam để thoát khỏi cảnh đói nghèo thì vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn, từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng, ngay cả thiếu điều kiện để đào tạo nhân lực. Do đó, trong những bước đi đầu tiên, để tạo được cú huých cho sự phát triển, tạo được tích luỹ ban đầu thì không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Trong đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức huy động vốn quan trọng cho những nước này khi mà tỷ lệ vốn tích luỹ trong nước đang còn ở mức thấp( mức tích luỹ của nền kinh tế mới đạt khoảng dưới 20% GDP, chưa đủ điều kiện phát triển nhanh nền kinh tế như đã dự kiến), ngay cả trong các doanh nghiêp cũng vậy, vốn luôn là vấn đề được quan tâm và lo ngại. Với việc thực hiện liên doanh với nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Vì khi liên doanh với nước ngoài, thứ nhất họ có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh, thứ hai khi liên doanh giữa ta với họ có nguy cơ đe doạ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp trợ giúp về sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, về tài chính,... Trong tình huống xấu nhất, khi gặp rủi ro, họ sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với chúng ta.
Hơn thế, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, NGO. Nó tạo ra hình ảnh đẹp về Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Ngay trong quan hệ đối nội, ĐTNN còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước.
Từ số vốn FDI qua các năm, ta có thể thấy được FDI là nguồn vốn bổ sung khá quan trọng trong tổng vốn đầu tư ở nước ta.
Hình 1:Tình hình thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài(FDI) của Việt Nam đến năm 2004
Nguồn :Bộ kế hoạch và đầu tư.
Nguồn: Bộ kế hoạch -đầu tư
Các kết quả FDI năm 2005 cho thấy cả nước thu hút được trên 5.8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng trên 25% so với năm 2004, vượt gần 30% mục tiêu ban đầu (4.5 tỷ USD) đề ra cho cả năm 2005, trong đó vốn cấp mới đạt trên 4 tỷ USD, vốn bổ sung đạt 1.8 tỷ USD.
Như vậy, mặc dù tổng số vốn của khu vực FDI so với tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội trong hai năm gần đây có chiều hướng giảm sút nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khá lớn.
Hiện nay, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế với nhịp độ tăng trưởng bình quân 10%/năm thì mức đầu tư gộp phải đạt được 30-35%GDP. Khả năng huy động vốn đầu tư từ trong nước trong những năm tới cao nhất cũng chỉ có thể đáp ứng được trên 50% nhu cầu đầu tư, số còn lại phải được bổ sung từ bên ngoài, trong đó FDI sẽ chiếm phần đáng kể.
1. 2. Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực kinh tế trong nước
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó, đầu tư trực tiếp là một động lực mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, cơ cấu kinh tế chủ yếu còn tập trung vào các ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lượng khoa học công nghệ thấp.
Nhờ có sự tham gia của khu vực FDI nên diện mạo kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ, nhất là trong sản xuất công nghiệp, xây dựng, khách sạn, du lịch. Nếu hoạt động FDI những năm đầu (ngoài dầu khí) tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản thì trong thời kì từ năm 1995 đến năm 2004 đã có chuyển biến tích cực, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 58% năm 1995 lên 82% năm 2004.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI làm xuất hiện nhiều ngành mới như khai thác dầu thô, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, điện tử, tin học, chế biến nông- lâm thuỷ sản chất lượng cao, da giày, may mặc xuất khẩu, hoá chất,... Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã kích thích ngành dịch vụ Việt Nam phát triển nhanh hơn, tạo ra phong cách kinh doanh mới cho người Việt Nam, nhất là trong các ngành viễn thông, kinh doanh bất động sản, du lịch, tài chính- ngân hàng,...
*Đối với ngành công nghiệp: công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao, chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong toàn ngành công nghiệp của Việt Nam. Giá trị sản xuất của khu vực này năm 2005 đã tăng 20.9%, cao nhất từ năm 2001 đến nay. Nhờ tốc độ tăng cao hơn mà tỷ trọng của công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong toàn ngành đã đạt 37.2%, cao hơn tỷ trọng của năm 2004 với 36%. Điều đó cũng làm cho một số nhà đầu tư Việt Nam đầu tư vào các lĩnh vực này, và đòi hỏi các doanh nghiệp cũng mở rộng sản xuất vào các ngành nghề có khả năng phát triển như lắp ráp, điện tử… làm cho mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng qua các năm thông qua tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở hai con số như bảng số liệu:
Bảng 2: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Khu vực kinh tế trong nước
32.4
34.2
30.8
35.2
34
32.4
Khu vực có vốn ĐTNN
21.8
12.6
15.2
18
15.7
20.9
Nguồn: Thời báo kinh tế 2005-2006 Việt Nam và thế giới.
Qua bảng số liệu cho ta thấy mối quan hệ giữa hai khu vực này gần như có sự đồng thời tăng giảm của tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong ba năm gần đây ( từ năm 2003 đến năm 2004 giảm xuống và tăng lên trong năm 2005). Tuy nhiên trong thời gian gần đây khi mà các doanh nghiệp FDI liên kết chặt chẽ với nhau trong một vài ngành đặc biệt là dầu thô thì tác động tràn của nó tới khu vực kinh tế trong nước có phần suy giảm làm cho các doanh nghiệp trong nước khó tiếp cận với ngành này.
*Đối với ngành dịch vụ: FDI chiếm 36% vốn đăng kí và 12% vốn thực hiện. Hoạt động FDI đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng dịch vụ cả nước đạt từ 6.8-7%/năm.
Bên cạnh đó, lĩnh vực đầu tư cũng chuyển mạnh sang các ngành khác. Năm 2003, ngành nông- lâm nghiệp có 23 dự án và 47.3 triệu USD vốn đăng kí, chiếm 3.8% số dự án và 2.5% vốn đăng kí, các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và hoạt động tư vấn có 88 dự án và 184 triệu USD vốn đăng kí, chiếm 11.7% số dự án và 9.7% vốn đăng kí. Khu vực khách sạn- nhà hàng có 20 dự án và 140 triệu USD vốn đăng kí, chiếm 2.6% số dự án và 7.4% số vốn đăng kí.
Hiện nay xu hướng chung là đầu tư giảm ở ngành công nghiệp và tăng ở các ngành dịch vụ. Năm 2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp nhẹ là 16%, công nghiệp thực phẩm là 6%, công nghiệp dầu khí 4%, trong khi vào nông- lâm nghiệp là 7% và dịch vụ cao nhất 34%. Đây cũng là điều phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Sự xuất hiện của FDI đã tạo ra việc làm cho một số lao động Việt Nam-những người không trực tiếp hưởng lương từ các chủ đầu tư nước ngoài nhưng làm việc trong các đơn vị hình thành do tác động của vốn FDI. Lượng lao động này thường hoạt động trong các khâu cung cấp nguyên vật liệu, đạ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35773.doc