Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ trước đến nay, vấn đề việc làm luôn được xã hội và mọi người quan tâm. Ngày nay, quan niệm về "phát triển" được hiểu một cách đầy đủ là: tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội; phải xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp, đảm bảo được công bằng xã hội. Vì vậy, việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của tất cả các quốc gia, đặc biệt là của các nước đang phát triển. Ở nước ta, vấ

doc125 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đề việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr. 218]. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát huy được tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác là hướng cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Thái Bình là tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng, "đất chật, người đông" với diện tích tự nhiên 1.546,01 km2, dân số 1,83 triệu người, mật độ dân số 1.188 người/km2, gấp 1,18 lần so với các tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng và 5,7 lần so với cả nước; có 915 ngàn người trong độ tuổi lao động, chiếm 50% dân số của cả tỉnh, số dân ở nông thôn chiếm 93,7%, thu nhập bình quân đầu người thấp mới đạt 3.889.000 đồng/người/năm vào năm 2003 [5, tr. 34]. Thu nhập của người lao động cơ bản dựa vào sản xuất nông nghiệp, chất lượng lao động thấp, lao động phổ thông là chủ yếu, chưa qua đào tạo. Những năm 1997 - 1998 ở nông thôn Thái Bình diễn biến phức tạp, tình hình khiếu nại, tố cáo của nhân dân diễn ra diện rộng trên địa bàn của cả tỉnh. Việc khiếu nại đông người của nhân dân Thái Bình có nhiều nguyên nhân khác nhau, song trong đó có nguyên nhân quan trọng là việc làm thiếu, đời sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, vấn đề việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề bức xúc nhất đặt ra với các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân Thái Bình. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI chỉ rõ: "Coi trọng và phát huy nhân tố con người; chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để góp phần giữ vững ổn định kinh tế - xã hội" [26, tr. 90]. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình nhằm đánh giá đúng đắn thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lao động của tỉnh là một đòi hỏi bức xúc có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài "Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc làm là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Ở nước ta, từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, liên quan đến chủ đề luận văn đã có nhiều công trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu có bài viết xoay quanh vấn đề này, tiêu biểu như: - Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS. Trần Hữu Trung (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); - Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam của GS.TS Đỗ Thế Tùng (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 6-2002); - Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương (Nxb Lao động - xã hội, 2002); - Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của Nguyễn Thị Hằng (Tạp chí Cộng sản, số 23 - 8/2003); - Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay do thạc sĩ Đinh Đặng Định chủ biên (Nxb Lao động, Hà Nội, 2004); - Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của GS.TS Phạm Đức Thành, PGS.TS Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 298 - 12/2003); Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm như ở một số tỉnh: Đồng Nai, Hà Tĩnh, Kiên Giang...; ở Thái Bình, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh có ban hành "Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm từ 2000 - 2005". Song, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị đến nay chưa có công trình nào viết về vấn đề này dưới dạng luận văn khoa học để tìm ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cho giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài "Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp" dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu * Mục đích đề tài Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm, phân tích thực trạng việc làm ở Thái Bình, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả việc làm ở Thái Bình. * Nhiệm vụ của đề tài - Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp. Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999 đến nay, rút ra những mặt làm được và chưa được, chỉ rõ những nguyên nhân tồn tại, hạn chế. - Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình trong những năm tới. * Giới hạn của đề tài Đề tài tập trung vào các vấn đề có tính trọng điểm: giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999 đến năm 2004, xây dựng một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm cho lao động Thái Bình trong thời gian từ nay đến năm 2010. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên lý luận của khoa học kinh tế chính trị, căn cứ vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa xoay quanh vấn đề việc làm. Bên cạnh đó, đề tài có kế thừa, chọn lọc một số đề xuất, số liệu thống kê của một số công trình khoa học có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. * Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng phương pháp truyền thống của khoa học kinh tế chính trị: sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu, đồng thời còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, đối chiếu và phân tích, thống kê… 5. Những đóng góp chủ yếu của đề tài + Làm rõ quan niệm về việc làm và ý nghĩa kinh tế - xã hội của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. + Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999 đến nay. + Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 VIỆC LÀM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI TĂNG, GIẢM VIỆC LÀM 1.1. VIỆC LÀM VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA 1.1.1. Khái niệm về lao động, việc làm và thất nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm về lao động Có nhiều cách tiếp cận và hiểu khác nhau về lao động nhưng suy cho cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người với con vật và xã hội loài người với xã hội loài vật; bởi vì: khác với con vật, lao động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo C.Mác: "Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người" [20, tr. 61]. Ph.Ăngghen viết: Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người [21, tr. 641]. Trong quá trình lao động, con người đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm biến đổi tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống. Đó là quá trình sản xuất vật chất được kết hợp bởi ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, nhờ có lao động mà con người khẳng định mình là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chỉ rõ: trong các nguồn lực cơ bản (lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ), mỗi nguồn lực đều có thể bị khan hiếm, cạn kiệt nhưng nguồn lực con người là vô tận nếu quốc gia đó có chính sách đúng đắn về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và khai thác nguồn lực này một cách khoa học. Vì vậy, V.Lênin khẳng định: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người lao động" [18, tr. 430]. Trong nguồn lao động của mỗi quốc gia hay một địa phương nào đó thì người lao động được xếp vào nguồn lao động. Nguồn lao động là số lượng của dân cư của quốc gia đó hay của địa phương đó có khả năng lao động. Hay có thể hiểu rằng: nguồn lao động là bộ phận dân cư có toàn bộ thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động. Tiềm lực của đất nước mạnh hay yếu trước hết phụ thuộc vào yếu tố nguồn lực lao động; bởi vì, với tư cách là nguồn lực, lao động trực tiếp tham gia tạo cung của nền kinh tế. Với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Điều khác biệt cơ bản giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung và tạo cầu của nền kinh tế, vừa trực tiếp điều tiết quan hệ đó gắn với các thể chế kinh tế xã hội do con người tạo nên. Nguồn lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao và phong phú, vừa là chủ thể sáng tạo ra công nghệ, điều chỉnh cơ bản kinh tế để thăa mãn các nhu cầu đó. Hiện nay trên thế giới, tiêu chí cơ bản để bố trí dân cư vào nguồn lao động được dựa trên độ tuổi và tình trạng sức khỏe. Nhưng quy định giới hạn về độ tuổi lao động tối đa và tối thiểu ở các nước có sự khác nhau. Ví dụ, độ tuổi lao động tối thiểu ở Braxin: 10 tuổi, ở Mỹ: 16 tuổi. Qui định về độ tuổi tối đa như: Mêhicô, Malayxia là 65 tuổi; Phần Lan, Đan Mạch là 75 tuổi… Theo Bộ luật lao động hiện hành ở nước ta, nguồn lao động: nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi, có khả năng lao động (trừ những người tàn tật không có sức lao động). Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động, bao gồm những người trong độ tuổi lao động, có sức khăe đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, bao gồm các chỉ tiêu: số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, số người đang đi học, số người đang làm việc và sự phân bố lao động theo lãnh thổ, theo ngành, theo khu vực kinh tế… Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời sống xã hội, chất lượng nguồn lao động cũng không ngừng được tăng lên. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động bao gồm: tình trạng sức khăe của người lao động, chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách tiền lương và các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Như đã đề cập, lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, vậy quá trình đó chỉ có thể tiến hành khi đã được dựa trên những tiền đề vật chất phục vụ cho quá trình đó đầy đủ. Trên bình diện một nước hay một địa phương nào đó thì quá trình lao động của bộ phận dân cư có sức lao động lại được thể hiện ở số lượng việc làm. Việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, là một chỉ tiêu cơ bản để xem xét, đánh giá sự tiến bộ hay lạc hậu của mỗi quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định. 1.1.1.2. Việc làm Khi nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác có đề cập đến việc làm nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể về việc làm, như: "Sự tăng lên của bộ phận tư bản khả biến của tư bản, và do đó sự tăng thêm số công nhân đã có việc làm, bao giờ cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân khẩu thừa tạm thời" [20, tr. 159]. Theo cách tiếp cận của C.Mác cho thấy giữa việc làm có liên quan mật thiết với lao động. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những nơi làm việc cụ thể mà ở đó lao động diễn ra, là điều kiện cần thiết nhằm thăa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là hoạt động lao động của con người. Dưới góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa các yếu tố con người và yếu tố vật chất hay giữa sức lao động và tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất vật chất. Có nhiều cách quan niệm khác nhau về việc làm, song xét cho cùng thực chất của việc làm là sự kết hợp sức lao động của con người với tư liệu sản xuất. Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận có hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp… Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, quan niệm về việc làm đã được nhìn nhận đúng đắn và khoa học. Điều 13, Chương II Bộ luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [3, tr. 42]. Với khái niệm này, các hoạt động lao động sau đây được xác định là việc làm, bao gồm: - Toàn bộ các hoạt động tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần không bị pháp luật cấm, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật; - Tất cả những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Như vậy, khái niệm việc làm theo Bộ luật lao động của nước ta bao gồm một phạm vi rất rộng: từ những công việc được thực hiện trong các doanh nghiệp, công sở đến mọi hoạt động lao động hợp pháp như các công việc nội trợ, chăm sóc con, cháu trong gia đình… đều được coi là việc làm. Khái niệm trên làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Điều đó được thể hiện ở chỗ: - Thứ nhất, thị trường lao động được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế, trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản xuất kinh doanh và sự đan xen giữa chúng, nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian. - Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, thuê mướn lao động theo khuôn khổ của pháp luật quy định. Quan niệm mới về việc làm như Bộ luật lao động quy định cho thấy đã có sự thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm. Từ chỗ việc làm phải là người nằm trong guồng máy biên chế của Nhà nước và giải quyết việc làm là trách nhiệm của Nhà nước nay đã chuyển sang nhận thức mới: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả trong thành phần kinh tế tư nhân, cá thể và hộ gia đình… Với khái niệm đó, nó đã xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, mọi cá nhân và toàn xã hội tạo mở nhiều việc làm cho người lao động. Điều đó được Bộ luật lao động quy định rõ ràng: "Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội" [3, tr. 142]. Như vậy, với quan niệm trên đã làm cho nội dung của việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động ở các thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác còn ngăn chặn những việc làm trái với quy định dễ nảy sinh trong sản xuất kinh doanh. Từ khái niệm việc làm, có thể làm rõ hơn một số khái niệm dẫn suất như: người có việc làm, thiếu việc làm. * Người có việc làm Đối với nước ta, người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, đang làm việc để nhận tiền lương (tiền công), hoặc đang làm công việc dịch vụ cho bản thân, gia đình và các việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình. Có việc làm là có thu nhập, là đòi hỏi chính đáng của người lao động. Tạo được việc làm tức là thu hút được nguồn lực lao động vào quá trình sản xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội, tạo ra tiền đề vật chất để giải quyết tốt mối quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Trong hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn quan tâm đến con người, tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Đảng ta khẳng định: "Phát huy yếu tố con người và lấy con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động" [8, tr. 36]. Thực tiễn những năm qua cho thấy, với các chính sách về lao động và việc làm của Đảng và Nhà nước ta đã có tác động tích cực, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động; vì vậy, đời sống của đại bộ phận nhân dân lao động được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động vẫn nổi lên là một trong những vấn đề bức xúc, đặc biệt là đối với những vùng, những địa phương đất chật, người đông, nhiều người lao động còn không có hoặc thiếu việc làm. * Thiếu việc làm Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về vấn đề này, theo TS. Trần Thị Thu đưa ra khái niệm mà nhiều nhà nghiên cứu cho là hợp lý và khoa học: "Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn" [25, tr. 17]. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định, hoặc làm những công việc mà tiền công thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để bổ sung. 1.1.1.3. Thất nghiệp Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại: trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên xác định. Người ta không thể loại bỏ được nó mà chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên. Bởi vì, khi mức thất nghiệp cao (quá mức tự nhiên), tài nguyên bị lãng phí, thu nhập của người dân bị giảm sút và rơi vào tình trạng nghèo đói, dẫn đến nền kinh tế suy thoái, ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thực trạng của một nền kinh tế, là mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia và của mọi thành viên trong xã hội. Có nhiều quan niệm khác nhau về thất nghiệp, nhưng nội dung cơ bản của thất nghiệp là đề cập về việc: người lao động có khả năng làm việc, mong muốn làm việc nhưng không được làm việc. Samuelson - nhà kinh tế học của trường phái hiện đại cho rằng: "Thất nghiệp là những người không có việc làm, nhưng đang chờ để trở lại việc làm hoặc đang tích cực tìm việc làm" [32, tr. 271]. Như vậy, thất nghiệp (không có việc làm) là hiện tượng người lao động bị mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp có nhiều loại: · Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi. · Thất nghiệp do chuyển đổi: là một dạng của thất nghiệp cơ cấu, đây là loại thất nghiệp do sự mất cân bằng trong một thời kỳ dài giữa cung và cầu lao động. Nó nảy sinh do có những điều chỉnh trong chính sách kinh tế, dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu sản xuất, tiêu thụ trong toàn bộ nền kinh tế, làm cho một số ngành kinh tế truyền thống bị suy thoái và làm nảy sinh một số ngành mới. Những thay đổi này làm cho các kỹ năng, tay nghề cũ của người lao động trở nên không thích hợp với những ngành nghề mới. Họ buộc phải thôi việc hoặc phải mất một thời gian nhất định để đào tạo, huấn luyện lại tay nghề [14, tr. 144]. Thất nghiệp cơ cấu thường xảy ra ở các nước đang phát triển có nền kinh tế đang chuyển đổi như nước ta; loại thất nghiệp này có quy mô lớn hơn, trầm trọng hơn so với thất nghiệp do thay đổi cơ cấu ở các nước phát triển. · Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp phát sinh do người lao động muốn có thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình. · Thất nghiệp theo mùa vụ: là thất nghiệp do cầu lao động dao động giảm, thường vào những thời kỳ nhất định trong năm. · Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo thời kỳ của nền kinh tế. Ở nước ta, theo khái niệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Người bị coi là thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, hiện tại đang đi tìm việc làm hay không đi tìm việc do không biết tìm việc ở đâu; và những người trong tuần lễ trước thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm ra việc [14, tr. 142]. Với khái niệm trên, theo Bộ luật lao động ở nước ta hiện nay: những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) có khả năng lao động, không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất nghiệp. Tuy nhiên, các đối tượng sau đây mặc dù nằm trong độ tuổi lao động nhưng không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động: - Người không có khả năng lao động - Người không có nhu cầu tìm việc làm - Người đang đi học - Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình Thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan tâm lớn của tất cả các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá mức tự nhiên (cho phép) tài nguyên sẽ bị lãng phí, thu nhập của người lao động giảm và rơi vào tình trạng nghèo đói; nền kinh tế suy thoái, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Do đó, tỉ lệ thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu trọng yếu để xem xét, đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, sự tiến bộ xã hội, là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. 1.1.2. Những khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm ở nước ta Ở nước ta, nguồn lao động hàng năm vẫn tăng ở mức cao (khoảng 3,4 - 3,5%), số lao động chưa có việc làm ở thành thị rất lớn chiếm khoảng 9 - 12% tổng lao động thành thị, là tỷ lệ vượt quá giới hạn cho phép để đảm bảo an toàn xã hội. Khu vực nông thôn là nơi tập trung 80% dân số và lao động, nhưng do chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, kinh tế hàng hóa còn ở trình độ thấp, do đó nạn thiếu việc làm là rất phổ biến và nghiêm trọng. Trong điều kiện bình quân đất canh tác trên một lao động rất thấp (0,3 ha/1 lao động), nếu làm thuần nông sẽ dư thừa 1/2 số lao động [7, tr. 96]. Theo dự báo, "năm 2005, lực lượng lao động ở nước ta sẽ là 42,4 triệu người, năm 2010 sẽ tăng lên 47,7 triệu người" [17, tr. 147]. Đây là nguồn lực to lớn nhưng đó cũng là sức ép nặng nề đối với vấn đề giải quyết việc làm và là bài toán khó giải. Có thể khái quát những khó khăn như sau: Một là, nhu cầu việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn rất hạn hẹp, chưa gắn kết được giữa lao động với tiềm năng sẵn có. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải tạo ra điều kiện và môi trường đồng bộ (luật pháp, cơ chế, chính sách) để tác động, khai thác được các nguồn lực (lao động, đất đai, tài nguyên, vốn…) để phát triển thị trường lao động, giải quyết việc làm, làm cho cung và cầu về lao động ăn khớp, phù hợp với nhau ở mức cao nhất. Hai là, vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản, lâu dài có tính chất chiến lược, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt mang tính xã hội sâu sắc đòi hỏi cùng một lúc phải tập trung giải quyết việc làm cho một số đối tượng như: con em các gia đình chính sách xã hội, bộ đội xuất ngũ, thanh niên đến tuổi lao động, đối tượng tệ nạn xã hội sau cải tạo, người xuất cảnh trái phép hồi hương…; nếu không giải quyết việc làm cho số đối tượng này sẽ dễ phát sinh những "điểm nóng" về mặt xã hội, dẫn đến nguy cơ mất an toàn xã hội. Ba là, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi, để có cơ cấu kinh tế tiến bộ đòi hỏi phải tổ chức lại lao động trên phương diện toàn xã hội, tất yếu dẫn đến xu thế đẩy lao động tách khỏi việc làm, dẫn đến dư thừa một bộ phận lớn lao động xã hội. Thực tiễn cho thấy: những năm qua, trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lao động ở khu vực này dư thừa khoảng 35%, tương đương với 1,2 triệu người, trong khi đó lao động có kỹ thuật lại thiếu nghiêm trọng và đang có xu hướng "bị hút vào" các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài…; tất cả những tác động đó làm cho quá trình giải quyết việc làm gặp phải muôn vàn khó khăn. * Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng thiếu việc làm - Tình trạng giải quyết việc làm ở nước ta gặp phải khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau, song nguyên nhân chủ yếu nhất là: nước ta là nước chậm phát triển, điểm xuất phát thấp, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, thiếu những tiền đề vật chất cần thiết mà trước hết là nền đại công nghiệp để thay đổi nhanh chóng toàn bộ cơ cấu kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại; hạ tầng cơ sở thấp kém, không đồng bộ; công nghệ lạc hậu, vốn thiếu, chất lượng lao động thấp, quan hệ kinh tế đối ngoại còn ở mức hạn hẹp…; những nguyên nhân đó đã làm hạn chế và gây ra nhiều trở ngại, khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động. - Trong cơ chế cũ, chúng ta đã xây dựng một hệ thống chính sách khuyến khích người lao động tìm việc làm trong khu vực Nhà nước là chủ yếu và bao cấp rất nặng nề. Nhà nước bố trí công ăn việc làm đến tận từng người lao động, điều đó đã kìm hãm tiềm năng lao động, triệt tiêu động lực của họ trong phát triển việc làm và tự chịu trách nhiệm về đời sống của chính bản thân mình. Ngày nay, chuyển sang nền kinh tế thị trường đã mở ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động của toàn xã hội, song hệ thống chính sách lại chưa đồng bộ để tạo ra tiền đề, điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm giải phóng triệt để mọi tiềm năng (lao động, vốn, đất đai...) để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm; chưa có hệ thống đào tạo phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường sức lao động. - Về tổ chức, chưa xây dựng một hệ thống sự nghiệp hoàn chỉnh giải quyết việc làm; đặc biệt là các Trung tâm xúc tiến việc làm; Trung tâm chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động... Chương trình quốc gia về việc làm chưa được tập trung, chỉ đạo còn phân tán. Quỹ quốc gia về việc làm còn nhỏ bé và chưa được đầu tư đúng mức. - Quản lý nhà nước về lao động và việc làm còn nhiều bất cập, năng lực hoạch định chính sách và điều hành thực thi chính sách về lao động và việc làm còn nhiều hạn chế, qua nhiều khâu trung gian, thiếu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ. 1.1.3. Ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm Việc làm và thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã tổng kết: có ba yếu tố cơ bản nhất để phát triển con người là phải đảm bảo an toàn lương thực, an toàn việc làm và an toàn môi trường. Như vậy, thế giới ngày nay cho rằng, mọi chiến lược phát triển đều phải hướng vào việc phát triển con người, lấy con người làm trung tâm trong phát triển xã hội và tiến bộ xã hội; trong đó việc làm là một tiêu chí quan trọng để xem xét, đánh giá sự phát triển của xã hội, là thước đo tiến bộ của xã hội. Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền đòi hỏi có được việc làm vì đó là một trong những quyền cơ bản của con người. Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa thế giới đã từng nói: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc" [23]. Để có được hạnh phúc, con người cần phải được tự do, đặc biệt tự do trong lao động là điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động và là cơ sở để hoàn thiện và phát triển con người. Khi nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất của xã hội loài người, C.Mác đã chỉ rõ: "Sản xuất vật chất là cơ sở cho tồn tại và phát triển của con người" [36, tr. 6]. Theo C.Mác, muốn tồn tại và phát triển, con người phải lao động, phải tiến hành sản xuất. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người, làm biến đổi bản chất tự nhiên của con người, đồng thời hình thành nên và phát triển bản chất xã hội của con người. Nhờ lao động, con người khẳng định được mình là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại. Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đảng ta chủ trương lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong mỗi bước đi và trong quá trình phát triển. Trong quá trình này, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề cấp bách nhất; bởi vì giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm là cơ sở để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr. 210]. 1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG, GIẢM VIỆC LÀM 1.2.1. Dân số và cơ cấu dân số Số lượng, tốc độ gia tăng và cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn tới nguồn lao động và vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Dân số, l._.ao động và việc làm là những vấn đề có liên quan mật thiết với nhau; xem xét mức độ biến động dân số những năm gần đây ở nước ta, cho thấy: "Tốc độ gia tăng dân số hàng năm vẫn tăng 1,3% năm; đến giữa năm 2003, dân số cả nước ta đã lên tới gần 81 triệu người; hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh niên tham gia vào lực lượng lao động xã hội" [14, tr. 24; 29]. Đây là một sức ép lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay. Dân số tăng nhanh dẫn tới việc phân bố dân cư không hợp lý, không gắn kết được lao động với các nguồn lực khác (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn…) khiến cho tạo việc làm mới càng khó khăn, thất nghiệp càng cao. Dân số gia tăng sẽ buộc ngân sách nhà nước nói chung, xã hội nói riêng phải giảm chi cho đầu tư phát triển, tăng chi cho tiêu dùng. Vì vậy, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng nguồn lao động giảm xuống, cơ hội để tìm việc làm càng gặp khó khăn. Do đời sống của người lao động gặp khó khăn, nhu cầu về việc làm lớn, cơ hội có việc làm ở khu vực nông thôn ít, nhất là những lúc nông nhàn dẫn đến tình trạng di dân tự do từ nông thôn đổ ra đô thị để tìm việc làm kiếm sống. Nguồn lao động này phổ biến là có sức khỏe, có kiến thức, có tay nghề, là lực lượng nòng cốt ở nông thôn; hậu quả làm cho khu vực nông thôn mất đi nguồn lực quan trọng, cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại, nguồn lao động di cư tự do này gây ra sức ép khó khăn cho các đô thị vì nguồn lao động này khó có thể cạnh tranh và có được việc làm ở những ngành kinh tế hiện đại mà chủ yếu làm những công việc dịch vụ; từ đó gây nên khó khăn trong công tác quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch, hộ khẩu, làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội ở đô thị. Dân số là cơ sở hình thành nguồn lao động, là căn cứ để xác định nhu cầu giải quyết việc làm. Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam với tư cách là một nước có dân số đông, song đã bước đầu tiến vào thời kỳ ổn định. Tốc độ tăng dân số dự kiến sẽ giảm 1,3% vào năm 2005 xuống còn 1,1% vào năm 2010 [17, tr. 152]. Đây là những thuận lợi rất cơ bản và có những tác dụng sau đây với thị trường sức lao động: - Giảm nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ sử dụng, đặc biệt đối với dịch vụ y tế, sức khăe và giáo dục cũng như các chi phí giáo dục có liên quan khác; - Giảm tỷ lệ người ăn theo, thông qua đó tăng thu nhập bình quân đầu người; - Tăng tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Theo quy luật co giãn của thu nhập so với tiết kiệm, khi thu nhập tăng lên thì mức độ tiết kiệm của dân cư tăng lên, tức là tăng khả năng đầu tư mở rộng cầu lao động, từ đó tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động. Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn sau đây: · Mặc dù mức sinh và mức chết đã giảm đáng kể trong thời gian qua, song vẫn còn có sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng. Trong khu vực thành thị, tổng mức sinh đã giảm từ 2,5 xuống còn 1,7 con/phụ nữ. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn mức này vẫn gần như gấp đôi (4,4 và 2,6 con/phụ nữ). Điều này làm tăng sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa hai vùng, tiếp tục tạo ra những lực đẩy kích thích dòng di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị. · Giữa các vùng tình hình cũng tương tự. Trong khi các vùng phát triển như đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đạt hoặc thấp hơn mức sinh thay thế (tương ứng là 2,0; 1,9 và 2,1), các vùng kém phát triển nhất như Đông Bắc và Tây Nguyên vẫn còn ở những mức rất cao (3,6 và 3,9) [17, tr. 153]. · Ngoài ra, giảm tốc độ tăng dân số sẽ dẫn đến việc "già hóa" dân số, với tỷ lệ người cao tuổi tăng lên và đòi hỏi các chi phí về bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội tăng lên..., ảnh hưởng lớn tới cơ cấu và chất lượng của dân số. Từ những thực tế trên đây, vần đề đặt ra là cần hướng tới việc "bảo tồn tính cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số" nhằm đạt được mục tiêu: ổn định tỷ lệ sinh hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, trên cơ sở đó mà phát triển nguồn lực lao động cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường sức lao động. Công cuộc đổi mới đất nước những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội, điểm quan trọng nhất là tăng trưởng kinh tế cao đã tạo ra sự tăng lên không ngừng của nhu cầu sử dụng lao động. Hàng năm số lao động có việc làm đều tăng: "Từ năm 1991 đến 2000, số người có việc làm tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu người, tức là tăng 32,2%, bình quân hàng năm tăng khoảng 2,9%" [14, tr. 124]. Mặc dù đạt được những thành tựu trên, song do sức ép về dân số, vấn đề lao động và việc làm vẫn là vấn đề hết sức bức xúc vì do tốc độ gia tăng dân số trước đây quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng tăng, tốc độ giải quyết việc làm không thể nào tăng kịp với tốc độ tăng rất nhanh của nguồn lao động. Theo dự báo: "Dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 đạt 51,5 triệu, chiếm 61% tổng dân số, năm 2010 đạt 56,8 triệu, chiếm 64% tổng dân số" [17, tr. 146]. Đây là bài toán khó giải nhưng bắt buộc chúng ta phải giải quyết có hiệu quả để đất nước ta tiếp tục phát triển nhanh và bền vững; vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội - Con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. 1.2.2. Tiến bộ khoa học - công nghệ Tiến bộ của khoa học, công nghệ sẽ làm tăng yêu cầu việc làm cho lao động phức tạp, có kỹ thuật và ngược lại, làm giảm việc làm đối với lao động giản đơn. Quá trình phát triển của mỗi quốc gia ngày nay được cấu trúc lại dựa trên những lợi thế của nguồn lực con người với hàm lượng trí tuệ ngày một gia tăng. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học - công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào sản phẩm ngày một giảm rõ rệt, hàm lượng lao động "chất xám" kết tinh vào sản phẩm ngày càng cao. Theo dự báo: "Đến năm 2010, phần tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm chỉ còn 1/10" [33, tr. 31]. Như vậy, sự phát triển của khoa học - công nghệ mang lại nhiều cơ hội để người lao động tạo ra việc làm, phát huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức. Kinh nghiệm ở các nước đang phát triển cho thấy: khi đưa khoa học, công nghệ tiến bộ vào sản xuất sẽ làm cho những nước có nguồn lao động giản đơn dư thừa nhưng thiếu lao động phức tạp, có kỹ thuật cao như Việt Nam hiện nay mất đi ưu thế của lao động nhiều giá rẻ. Xu hướng chung hiện nay là tăng lao động phức tạp có kỹ thuật cao, giảm lao động giản đơn. Như vậy, vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động (thể lực và trí lực) mà điểm quan trọng có tính quyết định là trí tuệ của nguồn lao động; bởi vì, sự yếu kém của trí tuệ là lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người. Điều này đã được C. Mác khẳng định: "Sự ngu dốt là sức mạnh của ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó sẽ là nguyên nhân của nhiều bi kịch nữa" [22, tr. 438]. Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Vì vậy, đòi hỏi người lao động phải có phẩm chất trí tuệ cao; nghĩa là người lao động phải có năng lực sáng tạo, áp dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến, khả năng biến tri thức của mình thành kỹ năng nghề nghiệp, thể hiện qua trình độ tay nghề thành thạo, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, làm chủ được công nghệ, hoàn thành tốt công việc mà mình đảm nhiệm. Ở nước ta hiện nay có nguồn lao động dồi dào, bước vào năm 2005 lực lượng lao động là 42,4 triệu người [17, tr. 147]. Đây là nguồn lực cơ bản nhất để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, chỉ có lực lượng lao động đông thì không đủ và không thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà vấn đề bức bách hàng đầu đặt ra hiện nay là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đó là giải pháp cơ bản để tạo việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, là nhân tố quyết định đảm bảo vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công. Chính vì vậy, Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX khẳng định: "Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lao động thủ công, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và sức mạnh quốc phòng, an ninh. Chú trọng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và thành tựu của khoa học, công nghệ cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn" [12, tr. 93-94]. 1.2.3. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, là cơ sở quan trọng hàng đầu của sản xuất vật chất, tạo ra việc làm cho người lao động. Tài nguyên thiên nhiên là một phạm trù kinh tế rộng lớn. Đối với một quốc gia, nó bao gồm tất cả những gì có trong vùng trời, vùng biển, trên mặt đất, trong lòng đất, khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý… đều tác động đến sự phát triển, giàu có hay nghèo đói của mỗi quốc gia, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy: ở quốc gia nào hoặc ở vùng nào có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú thì ở nơi đó có điều kiện thuận lợi hơn đối với vấn đề giải quyết việc làm và cơ cấu việc làm ở những nơi này cũng phong phú đa dạng hơn so với những nơi khác. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Nhờ đó đã góp phần tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm không thể tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động; vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đòi hỏi phải phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với các nguồn lực khác như lao động, vốn, công nghệ… để tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Tuy vậy, có những quốc gia, thậm chí một địa phương nào đó của một quốc gia có nguồn tài nguyên nghèo nàn, khan hiếm như Nhật Bản mà vẫn tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Bởi vì, họ đã xây dựng được chính sách và giải pháp về việc làm đúng đắn và khoa học. 1.2.4. Xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động, Liên hợp quốc gọi là "Di dân quốc tế", là hình thức biểu hiện cơ bản của thị trường lao động. Vấn đề giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường sức lao động. Theo nghĩa đó, xuất khẩu lao động là hướng đi quan trọng vừa tăng cầu lao động, giải quyết việc làm cho người lao động, vừa tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động và tăng thu cho ngân sách nhà nước, vừa nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của nhân loại, vừa mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế. Hiện nay, xuất khẩu lao động (đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài) là hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế. Nhiều nước đã coi xuất khẩu lao động là một chính sách lớn, một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng nhằm giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp. Ngoài hình thức xuất khẩu lao động còn có các hình thức khác như: hợp tác nghiên cứu khoa học, hợp tác triển khai và ứng dụng công nghệ, trao đổi chuyên gia… cũng đang mở rộng. Tất cả những hình thức trên đã tạo nên trào lưu dịch chuyển và phân công lao động quốc tế, giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của mỗi quốc gia. Vì vậy, xuất khẩu lao động được nhiều nước coi là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho người lao động. Ví dụ: "Năm 1988, số người lao động của Philippin làm việc tại nước ngoài là 4 triệu người; năm 1995, lượng kiều hối gửi qua các kênh chính thức về Philippin là trên 4 tỷ USD" [36, tr. 232]. Ở nước ta, công tác xuất khẩu lao động đã đạt được một số kết quả đáng kể, số lượng lao động xuất khẩu đã tăng dần hàng năm và đang có xu hướng gia tăng. Chúng ta đã mở ra nhiều thị trường mới có thu nhập tương đối cao như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Li Bi… đặc biệt là gần đây, nước ta đã bắt đầu chuyển sang xuất khẩu lao động theo hình thức nhận thầu như ở Lào, Cô-oét, Angiêri… Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động cũng còn nhiều hạn chế, kết quả xuất khẩu lao động chưa tương xứng với tiềm năng lao động và nhu cầu của đất nước, sức ép về lao động và việc làm vẫn hết sức bức bách. Trong thời gian tới, chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động, phát triển và mở rộng hơn nữa thị trường lao động để giải quyết được số lao động dôi dư hiện có, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. 1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước Để giải quyết việc làm, vấn đề quan trọng hàng đầu là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện thuận lợi để người lao động có thể tự tạo việc làm thông qua những chính sách kinh tế - xã hội cụ thể. Các chính sách tác động đến việc làm có nhiều loại, có loại tác động trực tiếp, có loại tác động gián tiếp tạo thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ có quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung lẫn cầu về lao động; đồng thời làm cho cung và cầu về lao động xích lại gần nhau, phù hợp với nhau, thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu lao động với cơ cấu kinh tế. Chính sách giải quyết việc làm rất đa dạng đã được nhiều nhà khoa học đề cập đến. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ giới hạn đề cập tới một số chính sách chủ yếu nhất. 1.2.5.1. Chính sách đất đai Đất đai có vị trí đặc biệt quan trong, bởi vì nó vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động của quá trình sản xuất xã hội. Đối với nước ta, đất đai là đối tượng cơ bản nhất để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Theo Luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, người nông dân có các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) khẳng định: "Quyền sử dụng đất đai bước đầu trở thành một nguồn vốn để Nhà nước và nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh" [13, tr. 58]. Nhờ có chính sách đúng đắn về đất đai đã tạo ra tiềm năng mới để giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo mở việc làm, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Khuyến khích người có điều kiện (kể cả người trong nước và nước ngoài) đến khai hoang và kinh doanh theo mô hình trang trại ở các vùng đất còn hoang hóa, quai đê lấn biển… tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao trong những năm qua. Tuy nhiên, dưới góc độ chính sách việc làm, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai hướng vào các nội dung sau: - Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân dồn điền, đổi thửa tập trung ruộng đất theo chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước. - Thừa nhận quyền sử dụng ruộng đất là một loại hàng hóa đặc biệt, đòi hỏi phải được lưu thông tự do và đảm bảo khả năng sinh lợi. - Xây dựng khung giá đất phù hợp với thực tiễn khách quan đối với mỗi vùng, mỗi địa phương sát với giá thị trường nhằm chống nạn đầu cơ trục lợi từ đất, chống thất thu cho ngân sách nhà nước... Chỉ trên cơ sở đó mới giải phóng mọi tiềm năng của sản xuất, đặc biệt là tiềm năng lao động để tạo mở việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân. 1.2.5.2. Chính sách huy động vốn Vốn có vị trí quan trọng, là yếu tố cơ bản để giải quyết việc làm, nếu vốn được gia tăng sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác như: lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ… để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm. Xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn, Đảng ta chỉ rõ: Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư vào phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư [9, tr. 228]. Vốn trong nước có vai trò quyết định tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vì nó là yếu tố nội lực để đảm bảo xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ không phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, mở cửa hiện nay, "Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế" [10, tr. 119], cần phải mở rộng thu hút vốn nước ngoài để bổ sung cho nguồn vốn trong nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra nhu cầu vốn rất lớn; trong khi đó, nước ta vẫn là một nước nghèo, tích lăy từ nội bộ nền kinh tế rất thấp, mâu thuẫn giữa tích lăy và tiêu dùng diễn ra gay gắt. Vì vậy, muốn huy động được tối đa các nguồn vốn để phát triển kinh tế, tạo mở việc làm đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách huy động vốn đúng đắn, hữu hiệu và đồng bộ. Trước mắt, cần phải rà soát, hủy bỏ những cơ chế chính sách không phù hợp với thực tiễn, bổ sung, ban hành cơ chế chính sách mới phù hợp để huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển sản xuất, tạo mở nhiều việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. 1.2.5.3. Chính sách giáo dục đào tạo Chính sách giáo dục đào tạo có ý nghĩa quyết định tới việc làm của người lao động. Thực tiễn cho thấy, chỉ khi nào được trang bị kiến thức, kỹ năng đầy đủ, người lao động mới có hy vọng có khả năng tìm được việc làm. Nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, Đảng ta chỉ rõ: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo la quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả" [9, tr. 109]. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào nhưng 70% lực lượng lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, lao động phổ thông là chủ yếu, chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong xu thế hội nhập, mở cửa hiện nay, yêu cầu đặt ra với nước ta không chỉ là phải thực hiện chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế công nghiệp mà còn phải chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đó là thách thức rất lớn dẫn đến dư thừa quá nhiều lao động phổ thông mà lại thiếu quá nhiều lao động có kỹ thuật, đặc biệt là lao động "chất xám". Từ đó, đặt ra cho chính sách giáo dục đào tạo gặp rất nhiều khó khăn: vừa phải đào tạo nguồn nhân lực để đi ngay vào kinh tế tri thức để tiếp thu khoa học công nghệ mới, vừa phải giải quyết việc làm cho hàng chục triệu lao động phổ thông. Vì vậy, công tác giáo dục đào tạo trở nên hết sức bức bách. Để giải quyết được khó khăn trên đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư cho giáo dục đào tạo, phải có chính sách và giải pháp hữu hiệu để khắc phục ngay những yếu kém, bất cập như: sự mất cân đối về cơ cầu đào tạo, "bệnh thành tích" chạy theo số lượng, xem nhẹ chất lượng; cơ sở vật chất thiếu thốn không đồng bộ và những tiêu cực khác đang phát sinh làm cản bước phát triển nguồn nhân lực; phải thật sự coi giáo dục đào tạo là "quốc sách hàng đầu" trong tất cả các chính sách được ưu tiên. Bởi vì, vấn đề giải quyết việc làm, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội phụ thuộc vào giáo dục đào tạo. Năm 1994, UNESCO tổng kết: "Những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có hiệu quả thì số phận quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản" [2, tr. 13]. 1.2.5.4. Chính sách phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một trong những chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là con đường và hướng đi tất yếu để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đơn giản là công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đơn thuần mà nó còn có tác dụng làm biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chứ không chỉ giải quyết việc làm. Nhưng nếu chỉ xét riêng trong lĩnh vực giải quyết việc làm, chống thất nghiệp thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác động và ảnh hưởng rất lớn. Điều đó được thể hiện như sau: Một là, tạo ra nhiều việc làm mới một cách trực tiếp; Hai là, kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực liên quan tới khu công nghiệp, từ đó làm nảy sinh hàng loạt chỗ làm việc mới một cách gián tiếp như: vùng nguyên liệu, đào tạo nghề, gia công…; Ba là, vì lao động trong công nghiệp thường có thu nhập cao, nhu cầu tiêu dùng tăng lên cả về số lượng và chất lượng sẽ kéo theo sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ; Bốn là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải tăng nhanh về chất lượng đội ngũ lao động, thúc đẩy người lao động phải tự học hỏi, nâng cao trình độ nghề nghiệp… Do đó, đánh giá, xem xét tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với vấn đề giải quyết việc làm không thể chỉ dựa vào kết quả số lao động nó thu hút một cách trực tiếp mà phải tính đến việc tác động của nó tới việc phát triển các ngành khác và sức hút lao động của các ngành đó. Thấy rõ được vị trí, vai trò quan trọng của công nghiệp, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng và Nhà nước ta luôn luôn trăn trở, quan tâm và có nhiều Nghị quyết, chính sách về phát triển công nghiệp. Bước vào thập niên mới của thế kỷ XXI, Đảng ta chỉ rõ: Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: "Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [10, tr. 159]. 1.2.5.5. Chính sách khôi phục và phát triển nghề truyền thống, du nhập và phát triển ngành, nghề mới Một trong những tiềm năng và thế mạnh của nước ta là có nhiều nghề truyền thống có từ rất lâu đời. Đó là những nghề: dệt tơ lụa, gốm sứ, đúc đồng, sơn mài, khảm trai, chế biến các món ăn đặc sản… nằm rải rác ở tất cả các vùng, miền trong cả nước. Nghề truyền thống có khả năng thu hút nhiều lao động, tận dụng được lao động tại chỗ, giải quyết được việc làm cho nhiều người với nhiều lứa tuổi khác nhau. Đi đôi với khôi phục và phát triển nghề truyền thống cần phải có chính sách du nhập và phát triển ngành, nghề mới để tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đặc biệt là lao động ở khu vực nông thôn đang thiếu việc làm. Để khôi phục và phát triển nghề truyền thống, du nhập và phát triển nhiều ngành nghề mới, Nhà nước cần phải có cơ chế chính sách trợ giúp và khuyến khích các cơ sở sản xuất và hộ gia đình như: cho thuê mặt bằng sản xuất, miễn giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất thấp, phát triển các hội, hiệp hội theo các ngành nghề truyền thống để giúp đỡ nhau về công nghệ, vốn và thị trường, tiếp nhận công nghệ mới và các dự án quốc tế… Thực tiễn cho thấy, những năm qua nhờ có chính sách đúng đắn nên chúng ta đã khôi phục được nhiều nghề truyền thống đã một thời bị mai một, mở mang, phát triển được nhiều ngành, nghề mới. Tuy nhiên, tiềm năng này còn rất lớn, đòi hỏi Nhà nước phải tổng kết để rút kinh nghiệm, có cơ chế chính sách mới hữu hiệu, tiếp tục nhân rộng, phát triển nhiều làng nghề, xã nghề trên mọi miền của đất nước; tạo mở nhiều việc làm, tăng thêm thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống cho người lao động. 1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NƯỚC NGOÀI VÀ TRONG NƯỚC Trên thế giới, vấn đề giải quyết việc làm ở mỗi quốc gia có hướng đi không giống nhau. Trong khuôn khổ của bản luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết việc làm của Nhật Bản và Trung Quốc, không có tham vọng đề cập đến cách giải quyết việc làm của các nước khác. 1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã để lại hậu quả nặng nề về người và của cho Nhật Bản. Đất nước bị tàn phá kiệt quệ, Nhật Bản phải tìm hướng đi lên từ "đôi bàn tay trắng". Trước tình hình hụt hậu quá xa về kinh tế và công nghệ so với phương Tây, Nhật Bản đã lựa chọn con đường phát triển từ "đầu tư cho giáo dục". Năm 1947, Nhật Bản chỉ rõ: luật giáo dục được coi là nhiệm vụ của quốc gia và là quyền cơ bản của người dân Nhật. Nền giáo dục dựa vào truyền thống thuần Nhật, chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, kỷ luật, tính kiên trì, lòng yêu lao động, tiết kiệm. Hệ thống giáo dục được ưu tiên đặc biệt: "Từ năm 1960 đến nay đầu tư cho giáo dục công cộng chiếm trên 5% GNP" [35, tr. 5]. Giáo dục phổ cập miễn phí cho tất cả trẻ em từ 6 đến 15 tuổi. Do đặt giáo dục là nhiệm vụ trên hết, Nhật Bản đã tạo được nguồn lực lao động có trình độ tay nghề cao - động lực quyết định làm nên kỳ tích sự tăng trưởng "thần kỳ" của kinh tế, đưa nước Nhật trở thành cường quốc kinh tế. Để học tập kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, Nhật Bản thực hiện chính sách "nhập khẩu đại học, du học tại chỗ" bằng cách liên kết với các trường đại học của Mỹ và phương Tây mở các chi nhánh trường đại học tại Nhật với giáo viên, nội dung, chương trình giảng dạy như ở chính quốc, kết hợp bổ sung một số môn học do Nhật Bản xây dựng. Bằng cách đó, sinh viên Nhật Bản vừa tiếp thu được kỹ thuật tiên tiến của phương Tây, vừa gắn với tình hình thực tiễn của nước Nhật. Cùng với chăm lo xây dựng hệ thống giáo dục tiên tiến, Nhật Bản cũng rất quan tâm tới chính sách y tế, chăm sóc sức khăe cho người lao động. Tỷ lệ chi tiêu quốc gia cho chăm sóc sức khỏe tăng từ 2,6% GNP năm 1961 lên 4,3% GNP năm 1975. Nhờ đó, thể lực người lao động của Nhật Bản được nâng lên nhiều, chẳng hạn: Chiều cao bình quân của thanh niên nam ở tuổi 17 tăng lên từ 1,57 (mét) vào năm 1950 lên 1,69 (mét) năm 1975; của nữ tương ứng là 1,53 và 1,57 (mét). Tuổi thọ trung bình ở Nhật cũng tăng đáng kể: nam tăng từ 63,5 (tuổi) năm 1955 lên 71,8 (tuổi) năm 1975 và tương ứng của nữ là 67,8 và 77,0 tuổi [35, tr. 69]. Qua nghiên cứu hệ thống và phương pháp giáo dục đào tạo của Nhật Bản cho ta thấy Nhật Bản đã chủ động điều chỉnh mục tiêu giáo dục gắn với sự thay đổi kết cấu kinh tế phù hợp với từng giai đoạn. Ở giai đoạn thứ nhất, chú trọng phát triển quy mô nhằm phổ cập giáo dục. Giai đoạn thứ hai, vào những năm 80, do yêu cầu phải chiếm lĩnh kỹ thuật công nghệ cao, Nhật Bản lại tập trung đầu tư cho giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học nhằm nâng cao kiến thức cho người lao động. Do đó, so với các nước phát triển, lực lượng lao động của Nhật có trình độ học vấn và tay nghề kỹ thuật cao hơn, trở thành một trong những nước dẫn đầu trong nền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Nhật Bản đã biết kết hợp tài tình những yếu tố "tâm lý và kinh tế" để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, tạo nên đội ngũ những người lao động toàn tâm, toàn ý vì sự phồn vinh của doanh nghiệp (hãng, công ty, xí nghiệp). Ngoài tiền lương, công chức còn được lĩnh tiền thưởng. Mỗi khi có sáng kiến mang lại lợi ích cho doanh nghiệp thì người lao động có tiền thưởng. Mức tiền thưởng nhiều hay ít phụ thuộc vào hiệu quả của sáng kiến và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, nhờ đó đã kích thích người lao động có ý thức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Điều đáng chú ý và là nét đặc thù riêng có là Nhật Bản áp dụng chế độ tuyển dụng lao động suốt đời và chế độ trả lương theo thâm niên công tác. Song có sự khác biệt của chế độ tuyển dụng lao động suốt đời so với một số nước khác (như ở Việt Nam và Trung Quốc ở thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung) là ở chỗ các doanh nghiệp Nhật Bản đã thành công trong việc xây dựng và duy trì lòng trung thành tuyệt đối của người lao động đối với doanh nghiệp mình làm việc. Họ không những luôn luôn cố gắng đạt được chất lượng và năng suất cao mà còn luôn thể hiện kỷ luật lao động chặt chẽ, không tự động thôi việc hoặc từ chối công việc được giao phó. Đây chính là điều quan trọng mà người lao động tự nguyện tuân thủ để đổi lấy sự ổn định về việc làm. Mối quan hệ đó được duy trì suốt cuộc đời làm việc của người lao động, kể từ lúc họ nhận vào làm việc ở một doanh nghiệp cho đến khi nghỉ hưu, được hai bên "ngầm hiểu" và trở thành đạo luật bất thành văn trong quan hệ lao động tại thị trường sức lao động của Nhật, nhất là đối với các hãng hoặc công ty lớn. Một trong những giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề việc làm là: Nhật Bản đã duy trì "cơ cấu kinh tế hai tầng" với sự tồn tại song song của hai khu vực kinh tế: kinh tế truyền thống (gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và khu vực kinh tế hiện đại. Vì vậy, Nhật Bản không những đã thu hút đông đảo lực lượng lao động có tay nghề thấp mà còn cho phép sử dụng cả lao động nhàn rỗi ở mọi lứa tuổi phục vụ cho các doanh nghiệp nhỏ, là nơi tiếp nhận lao động của các doanh nghiệp lớn khi thiếu việc làm. Vì vậy, sự tồn tại của khu vực sản xuất kinh doanh nhỏ được ví như chiếc van an toàn cho các xí nghiệp lớn và công nhân của họ. 1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc [14, tr. 78] Hàng năm, Trung Quốc có khoảng 11 triệu người gia nhập thị trường lao động. Thêm vào đó, hiện có khoảng từ 6 đến 9 triệu lao động dôi dư từ các doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu về việc làm. Lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn có khoảng 150 triệu người. Mặc dù Trung Quốc vẫn giữ được mức tăng trưởng kinh tế cao nhất trong những năm gần đây, nhưng mức tăng trưởng này vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về chỗ làm việc cho người lao động. Nhận thức rõ về tầm quan trọng của vấn đề lao động và việc làm Chính phủ Trung Quốc đã đặt mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất. Các biện pháp cụ thể xác định nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này là: Thứ nhất, đưa mục tiêu giải quyết việc làm vào trong các kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; cải cách cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nhanh khu vực dịch vụ, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; phát triển khu vực kinh tế phi nhà nước; thực hi._. các biện pháp quản lý, cải tiến thủ tục hành chính theo mô hình "một cửa, một dấu" ở những công việc có liên quan đến doanh nghiệp, trong các lĩnh vực: đăng ký kinh doanh, đất đai, xây dựng... tạo ra sự chuyển biến đồng bộ, thông thoáng có sức hút "hấp dẫn" mọi đối tác về đầu tư sản xuất kinh doanh tại Thái Bình. Bốn là, tăng cường hơn nữa chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các lớp tập huấn, các trung tâm dạy nghề miễn phí, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở dạy nghề và truyền nghề tại Thái Bình. 3.2.5. Đẩy mạnh di dân chủ động, có tính toán cụ thể nhằm phát triển vùng kinh tế mới Là tỉnh "đất chật, người đông", mật độ dân số cao nhất cả nước (1.188 người/km2, gấp 5,7 lần so với mật độ dân số trung bình của cả nước); vì vậy, vấn đề di dân phát triển vùng kinh tế mới là một giải pháp quan trọng góp phần vào giải quyết việc làm cải thiện đời sống của nhân dân trong tỉnh. Những năm gần đây công tác di dân trong tỉnh đã thu được một số kết quả quan trọng: "Chỉ tính trong 4 năm (2001 - 2004) đưa dân đi phát triển vùng kinh tế mới được 852 hộ, với số khẩu 2.918 khẩu và 1.883 lao động. Di dân dưới hình thức lập nghiệp lâu dài tại các đơn vị quốc phòng được 382 lao động, trong đó tại binh đoàn 15 là 121 lao động và binh đoàn 16 là 261 lao động" [4, tr. 8]. Tuy nhiên, công tác di dân phát triển vùng kinh tế mới ở tỉnh còn bộc lộ nhiều thiếu sót tồn tại, tốc độ còn chậm, hình thức di dân tự phát nghèo nàn, chưa đa dạng, mới thực hiện di dân ngoài tỉnh, chưa chú ý đến việc di dãn dân trong địa bàn tỉnh nên mật độ dân số ở các huyện, vùng không đồng đều. Nguyên nhân cơ bản của những yếu kém trên là do còn ảnh hưởng tâm lý xã hội cũ, nhiều người còn có quan niệm sai lệch di dân là "Tha phương, cầu thực", chưa có quan niệm mới đúng đắn "Đất nước đẹp giàu, đâu cũng là quê hương". Mặt khác, chính sách đối với di dân xây dựng vùng kinh tế mới chưa đủ mạnh, cơ sở hạ tầng ở vùng đưa dân đến thấp kém, do chưa có sự tính toán khoa học, cụ thể nên đời sống của dân di cư gặp nhiều khó khăn (ví dụ: năm 2001 Thái Bình đưa 88 hộ, với tổng số 354 người đi phát triển kinh tế mới ở huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Do cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, nước sạch... xây dựng chưa đồng bộ nên đời sống người dân đi xây dựng kinh tế mới ở nơi này lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn). Để khắc phục những yếu kém tồn tại trên; đẩy mạnh, nhân rộng và phát triển vùng kinh tế mới nhằm tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Công tác di dân từ nay đến năm 2010 tỉnh cần tập trung thực hiện tốt các mục tiêu: "Bình quân mỗi năm đưa dân đi xây dựng kinh tế mới ngoài tỉnh từ 38.000 đến 40.000 người. Trong đó: đưa dân đi phát triển kinh tế mới từ 3.800 hộ đến 4.500 hộ với 18.000 - 20.000 người, đưa lao động vào các binh đoàn quân đội làm kinh tế lâu dài từ 5.000 người trở lên, di dân nội tỉnh từ 3.500 hộ đến 4.500 hộ với trên 20.000 người" [4, tr. 9]. Để thực hiện được mục tiêu trên, tỉnh cần phải thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau: Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ và nhân dân có quan niệm đúng đắn đối với vấn đề di dân, xây dựng và phát triển vùng kinh tế mới, coi đó vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi và là trách nhiệm của mỗi người dân, với tư tưởng mới tiến bộ: "Đất nước đẹp giàu, đâu cũng là quê hương". Người đi xây dựng và phát triển vùng kinh tế mới là đi làm giàu cho gia đình mình và cho quê hương, góp phần phân bố lại dân cư, tổ chức lại sản sản xuất, phát huy và khai thác thế mạnh của từng vùng, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân và tăng cường thế trận an ninh nhân dân và quốc phòng toàn dân. Hai là, thông tin đầy đủ cho nhân dân biết về tình hình địa lý tự nhiên, đất đai, khí hậu, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng và những thuận lợi khó khăn ở vùng dự định đưa dân đến, để dân biết, dân bàn và tự nguyện ra đi lập nghiệp ở vùng kinh tế mới. Ba là, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ ở những vùng kinh tế mới. Tỉnh cần phải dành ngân sách thăa đáng để đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng ở những vùng kinh tế mới một cách hoàn chỉnh, đồng bộ trước khi đưa dân đến, nhằm khắc phục sự chênh lệch về đời sống vật chất và tinh thần giữa quê hương cũ và quê hương mới. Đồng thời, cần có chính sách ưu đãi đặc biệt cho dân đi xây dựng phát triển kinh tế mới như: các chính sách cấp đất ở, đất canh tác, miễn thuế, cấp vốn; thực hiện các quyền chuyển nhượng nhà ở, đất thổ cư, đất nông nghiệp và các quyền lợi khác... một cách thăa đáng, thuận lợi, nhanh chóng đảm bảo được quyền lợi và tạo ra tâm lý phấn khởi cho người dân ra đi xây dựng và phát triển vùng kinh tế mới. Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền, sự phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội đối với công tác di dân phát triển vùng kinh tế mới; phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đồng thời, phải chú trọng kiện toàn tổ chức di dân từ tỉnh đến huyện phù hợp với yêu cầu thực tiễn để thường xuyên nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc để thực hiện tốt nhiệm vụ vận động, tổ chức nhân dân hăng hái tình nguyện ra đi xây dựng vùng kinh tế mới. Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, rút kinh nghiệm kịp thời việc di dân phát triển vùng kinh tế mới ở từng địa bàn và từng đợt. Chú trọng xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến ở những vùng quê hương mới mà người Thái Bình đang sinh sống, tạo ra sức hút mạnh mẽ lôi cuốn nhiều gia đình và nhiều người lao động hăng hái tình nguyện ra đi xây dựng quê hương mới, góp phần giải quyết vấn đề lao động và việc làm một cách thiết thực và hiệu quả. 3.2.6. Thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động Thực chất của hoạt động xuất khẩu lao động là "Di dân quốc tế", ngày nay dưới tác động mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, việc di chuyển nhân lực giữa các nước đã trở thành hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế. Ở tỉnh Thái Bình, những năm gần đây bước đầu đã coi xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng và thu được một số kết quả: "Bình quân hàng năm (2001 - 2004) đã đưa được 2.500 lao động sang làm việc ở Malaysia và Đài Loan qua con đường hợp tác lao động" [24, tr. 5]. Hoạt động này, đã góp phần vào vấn đề giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu lao động ở tỉnh còn bộc lộ nhiều thiếu sót tồn tại: phương thức, hình thức đưa lao động ra nước ngoài làm việc còn nghèo nàn, chưa mở rộng xuất khẩu lao động sang nhiều nước, chất lượng nguồn lao động xuất khẩu thấp, số lượng lao động xuất khẩu chưa nhiều, quyền lợi người đi xuất khẩu lao động chưa được quan tâm đúng mức... Để thực hiện mục tiêu từ nay đến năm 2010 bình quân mỗi năm đưa 3.500 lao động sang làm việc ở nước ngoài, hoạt động xuất khẩu lao động của tỉnh cần phải tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, tổ chức tốt việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động quốc tế. Để thực hiện được yêu cầu trên, công tác đào tạo cần phải tập trung nâng cao nghiệp vụ kỹ thuật nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, kiến thức ngoại ngữ, truyền thống văn hóa của nước mà người lao động sẽ sang làm việc. Xây dựng các trung tâm đào tạo mở các lớp dành riêng cho xuất khẩu lao động. Việc cấp chứng chỉ công nhận trình độ nghề nghiệp phải được thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của pháp luật. Tỉnh trích ngân sách hỗ trợ khoảng 250.000 đồng/lượt người để giúp cho người lao động học nghề, học ngoại ngữ, tin học, giáo dục định hướng từ các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm. Hai là, cho người đi xuất khẩu lao động được vay vốn từ ngân hàng chính sách xã hội với lĂi suất thấp để trang trải chi phí đi làm việc ở nước ngoài. Chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội bảo lãnh bằng tín chấp, tạo mọi thuận lợi cho những người có hoàn cảnh khó khăn hoàn thành các thủ tục cần thiết để được đi làm việc ở nước ngoài. Ba là, xây dựng, hoàn thiện hệ thống quản lý xuất khẩu lao động đồng bộ, vững mạnh. Cần phải đổi mới hệ thống quản lý xuất khẩu lao động theo hướng giảm đầu mối trung gian, hoàn thiện bộ máy tinh, gọn nhưng hiệu quả hoạt động cao; chỉ có như vậy mới tránh được những tiêu cực và giảm được chi phí do bộ máy quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả mang lại. Cần phải tuyển chọn cán bộ quản lý xuất khẩu lao động có phẩm chất đạo đức trong sạch, có trình độ quản lý và trình độ ngoại ngữ thông thạo, hiểu được phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước và địa phương có lao động Việt Nam đến làm việc. Người quản lý phải là người đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bốn là, đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền đối với hoạt động xuất khẩu lao động. Công tác thông tin, tuyên truyền là biện pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa những hành vi tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động. Vì vậy, cần tăng cường hoạt động thông tin, tuyên truyền rộng rãi, công khai trong nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động, giúp cho nhân dân nắm được yêu cầu, tiêu chuẩn đặt ra đối với người đi xuất khẩu lao động. Qua đó mà phòng và tránh được các mánh khóe lừa đảo và các hành vi tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động. Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xuất khẩu lao động. Tỉnh cần có cơ chế và biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động. Phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có hành vi lừa gạt, chiếm đoạt tài sản hoặc thiếu trách nhiệm khi tổ chức đưa người lao động ra nước ngoài nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động theo luật định. 3.2.7. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động Đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động không những có vai trò quyết định trong việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện kinh tế - xã hội mà còn tạo điều kiện cho mỗi con người có thể tìm được việc làm phù hợp, có thu nhập cao hơn, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định: "Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện cơ bản để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [10, tr. 108]. Những năm qua, công tác đào tạo nghề ở tỉnh bước đầu đã được chú trọng, các cơ sở dạy nghề được mở rộng, tăng cường, đã kết hợp giữa đào tạo cơ bản, dài hạn với ngắn hạn làm cho năng lực đào tạo nghề của tỉnh ngày càng tiến bộ hơn; bình quân mỗi năm (2000 - 2004) đào tạo được 9.000 lao động có tay nghề, đáp ứng được một phần nhu cầu của xã hội và của người lao động [30, tr. 3]. Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề của tỉnh còn nhiều thiếu sót tồn tại, hệ thống trường dạy nghề và các cơ sở dạy nghề chỉ tập trung ở thành phố Thái Bình chưa phân bố đều trong các huyện, số lượng cơ sở dạy nghề hiện có chỉ đáp ứng 40% nhu cầu học nghề. Cơ cấu đào tạo nghề chưa hợp lý, một số nghề chưa được đưa vào chương trình đào tạo dẫn đến cơ cấu lao động sau đào tạo không đồng bộ, hẫng hụt lao động trên nhiều lĩnh vực. Chất lượng đào tạo kém, số người chưa qua đào tạo nghề còn rất lớn chiếm 81,5% lực lượng lao động của tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém trên là: - Về chủ quan: Tỉnh chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện về vị trí, vai trò của vấn đề đào tạo nghề cho nên chưa thật sự quan tâm đúng mức đến lĩnh vực này. Thể hiện ở chính sách đầu tư, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở dạy nghề, chính sách đối với người dạy và người học nghề chưa đủ mạnh, chưa thiết thực nên công tác đào tạo nghề của tỉnh còn chậm phát triển, chưa ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. - Về khách quan: Nền kinh tế của tỉnh chậm phát triển, mức thu nhập của dân thấp, tâm lý xã hội còn coi trọng về giáo dục đại học - cao đẳng, xem nhẹ về học nghề làm cho công tác đào tạo nghề gặp nhiều trở ngại khó khăn. Để khắc phục những tồn tại yếu kém trên, thực hiện tă?t mục tiêu đào tạo nghề của tỉnh từ 2005 - 2010 là: "Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 40% đến 50%, trong đó công nhân kỹ thuật chiếm từ 25% đến 30%; bình quân mỗi năm giải quyết việc làm mới cho 20.000 - 25.000 lao động, xuất khẩu 3.000 lao động" [30, tr. 3]; trong thời gian tới công tác đào tạo nghề của tỉnh cần tập trung thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau: Một là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội làm chuyển biến sâu sắc nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò "quốc sách, hàng đầu" của công tác đào tạo nghề đối với sự phát triển phồn vinh của xã hội, cũng như đối với việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình. Tổ chức, phát động và duy trì các phong trào thi đua "luyện tay nghề, thi thợ giỏi", tôn vinh về giá trị xã hội với các danh hiệu cao quý như: "bàn tay vàng", nghệ nhân... cho những người có tay nghề giỏi, tạo ra phong trào thi đua yêu nước trong lĩnh vực đào tạo nghề, học nghề. Hai là, quy hoạch lại mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình trường, lớp dạy nghề. Sắp xếp lại hệ thống trường và cơ sở dạy nghề theo hướng chuyên sâu. Duy trì và củng cố bốn trường hiện có (Trường công nhân kỹ thuật, Trường dạy nghề giao thông, Trường công nhân xây dựng, Trường dạy chữ - dạy nghề cho người tàn tật). Từ nay đến năm 2010 thành lập 7 trung tâm dạy nghề thuộc 7 huyện với lực lượng mỗi trung tâm đào tạo 500 học sinh/năm. Phương thức hoạt động của các trung tâm thực hiện theo quy định của pháp luật về đào tạo; dạy nghề phải gắn với nhu cầu lao động của từng vùng, củng cố các cơ sở dạy nghề thuộc các tổ chức xã hội, các hợp tác xã và tư nhân theo hướng chuyên sâu, nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng để giúp cho người lao động cần gì học nấy, phục vụ kịp thời nhu cầu giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ. Ba là, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy nghề. Căn cứ vào nhu cầu lao động trên các lĩnh vực để đào tạo có kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm từng ngành, nghề để đáp ứng kịp thời cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để đổi mới phương pháp dạy nghề nhằm bảo đảm cho người học vừa tiếp thu được kiến thức cơ bản, vừa nắm chắc được kỹ nghệ thực hành. Cần phải huy động các chuyên gia, các nghệ nhân, những thợ giỏi (tay nghề bậc cao) tham gia xây dựng nội dung, chương trình, giảng dạy và đánh giá kết quả đào tạo. Việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo phải bám sát nhu cầu xã hội, theo hướng tiếp cận trình độ khoa học công nghệ tiên tiến ở khu vực và trên thế giới; ưu tiên các lĩnh vực công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên dạy nghề. Tỉnh cần tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, chuẩn hóa về trình độ và chất lượng; đáp ứng được yêu cầu vừa tăng được quy mô, vừa nâng cao được chất lượng hiệu quả đào tạo. Cần xây dựng chính sách, chế độ đãi ngộ thăa đáng đối với giáo viên dạy nghề, nâng cao đời sống và vị thế xã hội của họ; nhằm khuyến khích đội ngũ giáo viên dạy nghề không ngừng phấn đấu vươn lên trong giảng dạy, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo. Năm là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho các trường và các cơ sở dạy nghề. Tỉnh cần xây dựng quy hoạch tổng thể mặt bằng, bảo đảm từng trường dạy nghề có đủ điều kiện diện tích tác nghiệp theo quy định. Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở trường lớp dạy nghề đồng bộ, phấn đấu đến năm 2006 các trường dạy nghề có đủ 100% số phòng học đạt tiêu chuẩn kỹ thuật qui định; đồng thời từng bước đồng bộ hóa: thư viện, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, ký túc xá, công trình vệ sinh, nước sạch... để các trường dạy nghề ngoài việc có cơ sở vật chất đồng bộ còn có môi trường, cảnh quan "xanh, sạch, đẹp" thực sự hấp dẫn đối với người học. Sáu là, đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp đào tạo nghề. Đào tạo và đào tạo lại nghề cho người lao động là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Nếu không nâng cao chất lượng nguồn lao động thì không thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động. Nhiệm vụ này chỉ có thể thực hiện có hiệu quả khi Nhà nước và nhân dân cùng làm. Xã hội hóa sự nghiệp đào tạo nghề vừa là một xu hướng tất yếu, vừa một giải pháp bắt buộc và cấp thiết đặt ra tỉnh phải quan tâm giải quyết. Trước mắt, cần tập trung thực hiện tốt các việc sau: · Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển dạy nghề và học nghề; tạo cơ hội cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ nhất là học sinh phổ thông được học nghề. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân có khả năng được tổ chức hoặc tham gia đào tạo nghề cho người lao động. · Tranh thủ chất xám, trình độ khoa học kỹ thuật của các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học, các trường đại học... trong giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo nghề. · Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề với nhiều hình thức phong phú: có thể đưa công nhân đi đào tạo ở nước ngoài, có thể tranh thủ các nguồn tài trợ (các dự án của các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài), mời chuyên gia sang đào tạo... 3.2.8. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý nhà nước về tạo việc làm ở tỉnh Thái Bình Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền có ý nghĩa quyết định tới việc tạo mở nhiều việc làm mới cho người lao động. Nhưng thực tế ở Thái Bình trong những thời gian qua vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền đối với vấn đề giải quyết việc làm còn bộc lộ nhiều thiếu sót tồn tại (đã được nêu ở mục 2.3.5, chương 2). Để khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của Nhà nước về việc làm ở Thái Bình, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: * Đối với các cấp ủy Đảng Thứ nhất, cần phải xây dựng được đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là chiến lược về giải quyết vấn đề lao động và việc làm một cách đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Vấn đề này phải được thể hiện rõ trong quá trình dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng bộ các cấp, xin ý kiến đóng góp của nhân dân trong tỉnh, đưa vào chương trình nghị sự của Đại hội và trở thành nghị quyết của Đại hội Đảng bộ các cấp của tỉnh trong nhiệm kỳ tới. Thứ hai, phải biến nghị quyết của Đại hội Đảng bộ các cấp, đặc biệt là nghị quyết về giải quyết việc làm trở thành hiện thực của cuộc sống, bằng cách: - Tuyên truyền sâu rộng, làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và trong toàn thể nhân dân về chủ trương đường lối phát triển kinh tế - xã hội, tạo mở việc làm của tỉnh; khuyến khích, động viên các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mỗi gia đình và mỗi người lao động tự tạo việc làm cho mình và cho xã hội. - Các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền cụ thể hóa đường lối nghị quyết của Đảng thành những chính sách, giải pháp cụ thể tạo mở được nhiều việc làm trên cơ sở khai thác có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của địa phương, phát triển sản xuất gắn với giải quyết việc làm cho người lao động. - Các cấp ủy Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức chính trị xã hội (Công đoàn, Đoàn thanh niên, phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh) và các tổ chức xã hội khác tích cực vận động các hội viên của tổ chức mình hăng hái thi đua, giúp đỡ lẫn nhau phát triển sản xuất, tạo mở việc làm. Thứ ba, đưa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của Đảng bộ, chi bộ; là một trong những nội dung quan trọng để xem xét, đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của chi bộ, Đảng bộ trong mỗi kỳ sinh hoạt Đảng; là tiêu chí trọng yếu (cơ bản) để phân loại đảng viên hoàn thành nhiệm vụ và xếp loại chi bộ, Đảng bộ (trong sạch vững mạnh và các danh hiệu khác...) sau mỗi năm hoạt động. * Đối với chính quyền - Ủy ban nhân dân tỉnh phải nhanh chóng xây dựng được "chiến lược" giải quyết việc làm từ nay đến năm 2020, chấm dứt cung cách xây dựng chính sách việc làm "ngắn hạn" kiểu "ăn đong, chắp vá" như thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó mà thể chế hóa đường lối nghị quyết của Đảng bộ thành những chính sách, giải pháp cụ thể, hữu hiệu để phát triển sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. - Chấn chỉnh, kiện toàn hệ thống tổ chức giải quyết việc làm ở cả ba cấp: tỉnh - huyện - xã. Bố trí cán bộ chuyên trách có năng lực và phẩm chất tốt ở những "mắt khâu" then chốt, xóa bỏ các tổ chức trung gian, hình thành hệ thống tổ chức chỉ đạo chương trình giải quyết việc làm theo hình thức trực tuyến: "tỉnh ® huyện ® xã" và "tỉnh ® cơ sở" (cơ quan, trường - lớp dạy nghề và các tổ chức xã hội... có liên quan đến vấn đề giải quyết việc làm). - Chấn chỉnh, nhiệm vụ, nội dung chương trình, cơ cấu ngành nghề đào tạo của các trường dạy nghề, các trung tâm và cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh, nhằm đảm bảo nguồn nhân lực sau khi được đào tạo đáp ứng được nhu cầu của thị trường sức lao động cả về chất lượng và cơ cấu nghề nghiệp. - Có chính sách ưu tiên thu hút đầu tư những ngành nghề có khả năng giải quyết việc làm cho số đông lao động phổ thông. Đồng thời chú trọng phát triển song song ngành nghề ở cả hai lĩnh vực: truyền thống (doanh nghiệp vừa và nhỏ) lẫn hiện đại (doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến) cả ở nông thôn và thành thị. - Tăng cường quản lý nhà nước bằng chính sách, pháp luật đối với mọi hoạt động liên quan đến các vấn đề tạo mở việc làm. Đảm bảo mọi hoạt động như: tư vấn, hỗ trợ, đào tạo, sản xuất kinh doanh tạo mở việc làm... được tự do, thông thoáng trong khuôn khổ của pháp luật quy định. Xử lý nghiêm minh theo luật định đối với bất kỳ tổ chức và cá nhân nào có hành vi vi phạm đến chính sách lao động và việc làm. Tóm lại, chỉ có áp dụng đồng bộ các giải pháp trên đây thì vấn đề sức ép lao động và việc làm của tỉnh mới từng bước được giải quyết; chương trình giải quyết việc làm của tỉnh mới thật sự có hiệu quả và đi vào cuộc sống. KẾT LUẬN Việc làm là một trong những vấn đề mang tính toàn cầu, vừa cơ bản, vừa lâu dài, vừa bức xúc trước mắt. Đối với hầu hết khắp các quốc gia trên thế giới, mở rộng việc làm được coi là yếu tố "chìa khóa" trong mọi chiến lược hướng vào xóa đói, giảm nghèo và tiến bộ xã hội. Đối với nước ta, giải quyết việc làm không những có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện rõ bản chất chính trị cũng như năng lực tổ chức, quản lý xã hội của Nhà nước. Thái Bình là tỉnh nghèo, kinh tế thuần nông, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, mật độ dân số cao, tài nguyên có hạn, tốc độ phát triển kinh tế chậm, tình trạng thất nghiệp nhiều. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm, đảm bảo đời sống của người lao động là mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Nhận thức được vị trí, vai trò của vấn đề giải quyết việc làm trong những năm qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh đã có nhiều chủ trương, giải pháp để giải quyết vấn đề việc làm. Những kết quả thu được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giáo dục - đào tạo, xóa đói giảm nghèo... bước đầu đã tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn người lao động. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị giảm xuống, chất lượng nguồn lao động bước đầu có tiến bộ, từng bước đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm của tỉnh còn bộc lộ nhiều thiếu sót, tồn tại: tỷ lệ người thất nghiệp lớn, số người thiếu việc làm cao đang là hiện tượng phổ biến đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Mặt khác, số lao động chưa qua đào tạo còn quá lớn, chất lượng nguồn lao động thấp, tốc độ phát triển kinh tế chậm, cơ chế chính sách giải quyết việc làm còn thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh... Vì vậy, sức ép về lao động và việc làm vẫn còn là vấn đề bức xúc và khó khăn. Để nhanh chóng giảm được sức ép về lao động và việc làm, phát huy thế mạnh và tiềm năng của tỉnh hướng vào sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động đòi hỏi phải áp dụng đồng bộ hệ thống các chính sách, giải pháp; trước mắt cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp như: - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; - Xây dựng và phát triển kinh tế biển thành ngành kinh tế mũi nhọn; - Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du nhập và phát triển ngành nghề mới; - Đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân; - Đẩy mạnh di dân một cách chủ động, có tính toán cụ thể để phát triển vùng kinh tế mới; - Thực hiện có hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động; - Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường sức lao động; - Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý nhà nước đối với vấn đề giải quyết việc làm; Những giải pháp trọng yếu trên vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, xóa đói, giảm nghèo nâng cao đời sống của nhân dân; xây dựng Thái Bình trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững; cùng với cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội - con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; phấn đấu thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Danh mục tài liệu tham khảo Trần Kim Anh (6/5/2005), "Phát triển nuôi trồng thủy sản", Báo Nam Định, (1078). Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1997), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật lao động, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chi cục Di dân phát triển vùng kinh tế mới Thái Bình (2004), Báo cáo phương hướng nhiệm vụ di dân giai đoạn 2005 - 2010, số 94 ngày 22/12. Cục Thống kê tỉnh Thái Bình (2004), Niên giám thống kê Thái Bình năm 2003. Cục thống kê Thái Bình (2004), Một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu của Thái Bình năm 2004, số 71/TKTH ngày 02/12. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đinh Đăng Định (chủ biên) (2004), Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb lao động, Hà Nội. Trần Xuân Giai (2005), "Tiếp tục đẩy nhanh phát triển nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa", Báo Nam Định, (1092), ra ngày 08/6/2005. Trần Hồ (2005), "Phát triển công nghiệp dân doanh", Báo Nam Định, (1080, 1081, 1082, 1084), ra ngày 11, 12, 16, 20/5/2005. Nguyễn Thị Lan Hương (Chủ biên), (2002), Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Maxcơva. Bùi Sĩ Lợi (1999), "Giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Thanh Hóa", Lao động và xã hội, (9), tr.35-36. C.Mác (1984), Bộ tư bản, Tập thứ nhất, quyển I, phần 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2/9/1945), Tuyên ngôn Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Ba Đình, Hà Nội. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện chương trình việc làm, số 785/LĐTBXH, ngày 10/9. Trần Thị Thu (2003), Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2001), Nghị quyết số 02-NQ/TU phát triển kinh tế biển, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Nghị quyết số 01-NQ/TU phát triển làng nghề, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Đề án về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Thái Bình. Tỉnh ủy Thái Bình (2004), Nghị quyết số 13-NQ/TU phát triển đào tạo, dạy nghề giai đoạn 2004 - 2010, Thái Bình. Tổng cục Thống kê (2001), Tư liệu kinh tế - xã hội 61 tỉnh, thành phố, Nxb Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Văn Trình - Nguyễn Tiến Dũng - Vũ Văn Nghinh (2000), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Hà Lê Trung (1993), "Thế giới hậu chiến tranh", Quan hệ quốc tế, (48), tr. 31. Bùi Sĩ Trùy (Chủ biên), (2000), Điều tra dân số, việc làm và nhà ở tỉnh Thái Bình. Nguyễn Minh Tú (Chủ biên), (1996), Các chính sách huy động và phân bổ nguồn lực cho phát triển kinh tế Nhật Bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Thế Tùng (Chủ biên), (2000), Giáo trình kinh tế chính trị, Chương trình cao cấp, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Thế Tùng (2002), "Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam", Lao động và công đoàn, (6), tr.19. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình (2001), Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm 2001 - 2005, Thái Bình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2782.doc
Tài liệu liên quan