Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay, quan niệm về phát triển được hiểu đầy đủ là: Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội; phải xoá đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp...
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
127 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải quyết việc làm ở nông thôn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và được sống một đời hạnh phúc” [39, tr.17]. Tư tưởng của Người luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết việc làm cho người lao động
ở nước ta hiện nay, nông thôn chiếm 74,37% dân số và 75,6% lực lượng lao động (32,7 triệu trong 43 triệu lao động cả nước) và gần 90% số người nghèo của cả nước vẫn đang sống ở nông thôn. Tỷ lệ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn chiếm 19,3%, thất nghiệp ở thành thị 5,1%. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhận định: "Tỷ trọng trong nông nghiệp còn quá cao. Lao động thiếu việc làm và không có việc làm còn nhiều. Tỷ lệ qua đào tạo rất thấp” [16, tr.166].
Thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, cản trở quá trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là vấn đề nóng bỏng, cấp thiết cho từng ngành, địa phương và từng gia đình. Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt, nhằm phát huy tiềm năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác, là hướng cơ bản để xoá đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ:
Giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều biện pháp, tạo ra nhiều việc làm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề, các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Khôi phục và phát triển các làng nghề… sớm xây dựng và thực hiện chính sách trợ cấp cho người lao động thất nghiệp [18, tr.140-150].
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định:
Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động nông thôn, nhất là các vùng nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở phi nông nghiệp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, giảm nhanh tỉ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm… [16, tr.195].
Ninh Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, với quy mô dân số xấp xỉ 1 triệu người, tốc độ phát triển dân số bình quân 1,32%/năm, nguồn lao động bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm lớn, nhưng mức độ giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Ninh Bình còn thấp so với nhu cầu. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Ninh Bình. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XIX nhiệm kỳ 2005 - 2010 xác định:
Đẩy mạnh việc đào tạo nghề, nhất là cho nông dân vùng giải phóng mặt bằng làm khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn với quy hoạch xây dựng nhà ở, khu vui chơi giải trí cho người lao động. Duy trì và phát triển làng nghề truyền thống, xây dựng các trường dạy nghề. Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, xây dựng cơ chế, chính sách về đào tạo nguồn lao động, tích cực xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động [17, tr.75].
Cũng xuất phát từ áp lực về lao động và việc làm ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở nông thôn Ninh Bình, vấn đề này đã được nhiều cơ quan, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Là một cán bộ công tác tại Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình với nhiệm vụ vận động hội viên, nông dân phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng nông thôn mới, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân, bản thân thấy đây là vấn đề cấp bách và trong chừng mực nhất định đã có quá trình tích luỹ tài liệu. Xuất phát từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài: "Giải quyết việc làm ở nông thôn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết việc làm là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhiều quốc gia. Do vậy, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về lao động, việc làm trong và ngoài nước. Tiêu biểu như:
- Thị trường lao động, thực trạng và giải pháp của PGS. Nguyễn Quang Hiển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS. Trần Hữu Trung, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997
- Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của Thạc sĩ. Nguyễn Thị Lan Hương, Nxb Lao động - xã hội, Hà nội, 2002
Các tác giả cho vấn đề việc làm cho người lao động và thất nghiệp là một trong những vấn đề toàn cầu, đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam. Nội dung của các công trình đã đề xuất hệ thống các quan điểm, phương hướng giải quyết việc làm và khuyến nghị, định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
- Đề tài “Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” (2001) do PGS.TS Trần Văn Chử làm chủ nhiệm đề tài. Các cộng tác viên của đề tài đã phân tích làm rõ mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các tác giả cho rằng: việc nâng cao chất lượng nguồn lao động không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu của phát triển, mà còn góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp. Từ đó, các nhà nghiên cứu đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và giải quyết việc làm ở nước ta.
Cũng đã có rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu viết về thực trạng lao động, vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta như:
+ Nguyễn Sinh Cúc (2003), "Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra; Tạp chí Con số và Sự kiện, số 8.
+ Nguyễn Hữu Dũng (2004), “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 247.
+ Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 3.
+ Bùi Văn Quán (2001), “Thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho giai đoạn 2001-2005”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số chuyên đề 3.
Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận văn tiến sĩ, thạc sĩ viết về vấn đề việc làm ở một số tỉnh: Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Kiên Giang.... với những cách tiếp cận khác nhau, nhưng chưa có đề tài, công trình khoa học nào phân tích, đánh giá vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình dưới dạng một luận văn khoa học kinh tế. Để thực hiện đề tài khoa học này, tác giả có lựa chọn và kế thừa một số kết quả nghiên cứu đã công bố, kết hợp khảo sát thực tiễn ở nông thôn Ninh Bình để phân tích, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương trên cơ sở những đường lối, quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Ninh bình đề ra trong những năm tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ, nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Trên cơ sở nhận thức lý luận, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết việc làm và đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình, luận văn đề xuất một số giải pháp giải quyết việc làm lao động ở nông thôn tỉnh Ninh Bình
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Khái quát những vấn đề cơ bản lý luận về việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình.
- Đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình, tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng.
- Trình bày căn cứ và nội dung những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn Ninh Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu chủ yếu giải quyết việc làm cho các hộ nông dân ở nông thôn tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn nghiên cứu vấn đề lao động, việc làm trên địa bàn nông thôn tỉnh Ninh Bình thời gian từ năm 2000-2005 và đưa ra giải pháp chủ yếu cho giai đoạn 2006 - 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận:
- Luận văn được viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý thuyết về lao động, việc làm và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
- Luận văn được viết trên cơ sở kế thừa những nghị quyết, chỉ thị về lao động việc làm của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia và tổng hợp, dựa trên những tài liệu thực tiễn của các ngành có liên quan đến phạm vi nghiên cứu để làm rõ vấn đề mà đề tài đề cập. Ngoài ra, tác giả luận văn trực tiếp điều tra một số xã đại diện cho các vùng nông thôn tỉnh Ninh Bình.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ ý nghĩa kinh tế - xã hội của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Ninh Bình.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Ninh Bình và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp sát thực nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Ninh Bình.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng, sở, ban, ngành có liên quan đến việc hoạch định chính sách, chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Ninh Bình, cũng như các địa phương khác có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
giải quyết việc làm ở nông thôn
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết việc làm ở nông thôn
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan trực tiếp đến giải quyết việc làm
* Dân số:
Dân số là cơ sở để hình thành lực lượng lao động. Dân số biến động có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy mô, cơ cấu cũng như sự phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động.
Theo nghĩa rộng: Dân số là tập hợp những người cư trú thường xuyên và sống trên một lãnh thổ nhất định (một quốc gia, một vùng lãnh thổ kinh tế, một đơn vị hành chính).
Theo nghĩa hẹp: Dân số là một tập hợp người hạn định trong phạm vi nào đó (về lãnh thổ và xã hội có tính chất gắn liền với sự tái sản xuất liên tục của nó).
Nhân khẩu thường trú: Là những người thường xuyên cư trú ở một địa điểm nhất định, nó phản ánh quy mô dân số của địa phương.
Nhân khẩu tạm trú: Là những người ở thường xuyên tại một nơi khác nhưng có mặt tại điểm dân cư đăng ký dân số.
Nhân khẩu có mặt: Là người đang ở tại một điểm dân cư không kể là nhân khẩu thường trú hay tạm trú.
Nhân khẩu thành thị: Những người cư trú thường xuyên ở các điểm đã quy định là thành thị gọi là nhân khẩu thành thị.
Nhân khẩu nông thôn: Những người cư trú thường xuyên ở ngoài các địa điểm được quy định là thành thị.
Nhân khẩu nông nghiệp: Là những người làm nghề nông (nông, lâm, ngư, diêm nghiệp) và những nhân khẩu chủ yếu sống nhờ vào thu nhập của những người đó.
Nhân khẩu phi nông nghiệp: Là những người làm các công việc không thuộc nghề nông và những nhân khẩu chủ yếu sống nhờ vào thu nhập của những người này.
Dân số trong độ tuổi lao động: Là những người ở trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật nước đó. ở nước ta hiện nay, theo Bộ Luật lao động quy định độ tuổi lao động là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (đối với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi (đối với nữ).
Dân số hoạt động kinh tế: Theo khuyến nghị của APR (tổ chức khu vực Châu á Thái Bình Dương về điều tra dân số và nhà ở) năm 1980, thì dân số hoạt động kinh tế gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp.
Giáo trình Khoa Kinh tế lao động Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - Hà Nội đưa ra khái niệm về dân số hoạt động kinh tế gồm: “Những người trong tuổi lao động có việc làm và những người chưa có việc làm, đang tìm việc làm”.
Dân số không hoạt động kinh tế: Gồm những người trong tuổi lao động đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình, đang đi học hoặc mất khả năng lao động, thất nghiệp nhưng không có nhu cầu làm việc, những người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ Luật lao động.
* Lao động:
- Lực lượng lao động: Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động.
Từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên Xô (cũ), (Matxcơva 1997, tiếng nga) lực lượng lao động là khái niệm định lượng của lao động.
Từ điển thuật ngữ Pháp (1997-1985) lực lượng lao động là số lượng và chất lượng những người lao động được quy đổi theo các tiêu chuẩn trung bình về khả năng lao động có thể sử dụng.
Nhà kinh tế học Da Vid Begg cho rằng: Lực lượng lao động có đăng ký bao gồm số người có công ăn việc làm cộng với số người thất nghiệp có đăng ký.
Theo tổ chức lao động của (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu lực lượng lao động
Dân số trong tuổi lao động quy định (a)
Khụng cú việc làm
Cú việc làm (b)
Khụng muốn làm việc viẹc
Muốn làm việc
E
Khụng chủ động tỡm việc
- Chủ động tỡm việc
- Sẵn sàng làm việc
N
U N
Lực lượng lao động
Khụng thuộc lực lượng lao động
E: Người có việc làm
Ư: Người thất nghiệp
N: Người không tham gia hoạt động kinh tế
Theo thuật ngữ về lĩnh vực lao động của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp. Lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế; lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao động [6, tr.11].
Từ những quan niệm của các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam, chúng tôi đưa ra quan niệm về lực lượng lao động như sau: Lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
- Lao động: Khái niệm về lao động có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng suy đến cùng, lao động là hoạt động đặc thù của con người, là ranh giới để phân biệt con người với con vật. Bởi vì, khác với con vật, lao động của con người là hoạt động có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật thể của tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [36, tr.230, 321].
Ph.Ăng ghen viết:
Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân loài người [38, tr.641].
Như vậy, có thể nói lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người, trong quá trình lao động con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi nó phù hợp với nhu cầu của mình. Nói cách khác, trong bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, lao động bao giờ cũng là điều kiện để tồn tại và phát triển của xã hội.
- Nguồn lao động và lực lượng lao động:
Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối lao động, việc làm trong xã hội.
Theo giáo trình Kinh tế phát triển của trường Đại học Kinh tế quốc dân (2005) đưa ra khái niệm “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân” [5, tr.167].
Việc quy định độ tuổi lao động tuỳ mỗi nước có quy định khác nhau, thậm chí khác nhau ở các giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế. ở nước ta, theo quy định của Bộ Luật lao động (2002) độ tuổi lao động đối với nam từ 15-60 tuổi và nữ là từ 15-55 tuổi. Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt, biểu hiện đó là số lượng và chất lượng.
Số lượng lao động: Là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động gồm: Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu việc làm và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định).
Chất lượng lao động: Cơ bản đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề (trí lực) và sức khoẻ (thể lực) của người lao động.
Lực lượng lao động: Theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế (ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo thực tế đang có có việc làm và những người thất nghiệp.
Theo giáo trình Kinh tế phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội (2005), ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: "Lực lượng lao động là bộ phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp” [5, tr.168]. Lực lượng lao động theo quan niệm như trên là đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế (tích cực) và nó phản ánh khả năng thực tế về cung ứng lao động của xã hội.
- Thị trường lao động
Nước ta từ khi chuyển sang vận hành theo nền kinh tế thị trường, thì thuật ngữ “Thị trường lao động” đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và đưa ra những khái niệm khác nhau. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh vào một phương diện nào đó của thị trường này.
Đề tài cấp nước KX 04-04 cho rằng: Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (bao gồm các mối quan hệ lao động cơ bản như: tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động...) ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động.
Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ (2003-2004), Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp, của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đưa ra khái niệm:
Thị trường lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thoả thuận trên cơ sở các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều kiện việc làm, bảo hiểm xã hội... thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng [53, tr.5].
Giáo trình của Khoa kinh tế lao động, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cũng đưa ra một số khái niệm về thị trường lao động như sau:
Là một không gian trao đổi tiến tới thoả thuận giữa người sở hữu sức lao động và người cần có sức lao động để sử dụng.
Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng lao động để thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động [5].
Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang Hiển (1995), trong tác phẩm Thị trường lao động thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội: "Thị trường lao động là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người làm thuê và đang sử dụng sức lao động của mình để được nhận một khoảng tiền công” [34, tr.9].
Theo ILO: Thị Trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động cũng như mức độ tiền lương và tiền công.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau về nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao động đó là: Không gian, người cần bán sức lao động, người cần mua sức lao động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên về nội dung này, và cũng từ những quan điểm đó, thị trường lao động được hiểu là: Biểu hiện quan hệ lao động diễn ra giữa một bên là người lao động và một bên là người sử dụng lao động, dựa trên nguyên tắc thoả thuận, thông qua các hợp đồng lao động.
Các yếu tố cấu thành thị trường lao động có thể khái quát thành 4 nhóm gồm: Cung lao động; cầu lao động; giá cả sức lao động (tiền lương, tiền công); thể chế; tổ chức và hệ thống công cụ của thị trường lao động.
+ Cung về lao động: Là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những người trong và ngoài độ tuổi lao động.
Số lượng cung lao động có thể xem xét 2 khía cạnh.
Cung thực tế lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động đang làm việc và những người thất nghiệp, cung thực tế về lao động chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
Cung tiềm năng về lao động: Bao gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động và những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình hoặc không có nhu cầu làm việc.
+ Cầu về lao động: Là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động với các mức tiền lương, tiền công tương ứng.
Cầu cũng như cung, cầu về lao động cũng phải được xem xét trên hai khía cạnh: Cầu thực tế và cầu tiềm năng.
Cầu thực tế về lao động: “Là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại một thời điểm nhất định” [53, tr.8].
Cầu thực tế về lao động = Chỗ việc làm cũ được duy trì + Chỗ việc làm bị bị trống + Chỗ việc làm mới
Chỗ làm việc trống: Là chỗ làm việc đã từng sử dụng lao động, nay không có lao động làm việc và đang có nhu cầu sử dụng lao động.
Chỗ làm việc mới: Là chỗ làm việc mới xuất hiện và đang có nhu cầu sử dụng lao động.
Cầu tiềm năng lao động: “Là số lao động tương ứng với tổng số chỗ việc làm có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, chính trị, xã hội” [53, tr.8].
Cầu tiềm năng = cầu thực tế + số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
+ Quan hệ cung, cầu lao động:
Thể hiện trên 3 trạng thái: Trạng thái cân bằng cung - cầu lao động, trạng thái rối loạn cân bằng cung cầu lao động và trạng thái cân bằng mới. Trong thị trường sức lao động quy luật cầu - cung thể hiện khá rõ. Nếu mức tiền công quá cao (xem sơ đồ 1.2) U1P1 thì có hiện tượng cung lao động lớn hơn về cầu lao động. Nghĩa là số người muốn đi làm việc sẽ lớn hơn số người tìm được việc làm ở mức tiền công này.
Đoạn D1S1 là số người bị thất nghiệp trên thị trường lao động. Ngược lại, khi mức tiền công thấp U2P2 thì khả năng thu hút lao động sẽ lớn hơn và xuất hiện cầu về lao động lớn hơn cung, đoạn S2D2 là sự thiếu hụt về lao động. Như vậy, theo quy luật của thị trường lao động thì giá cả tiền công luôn có xu hướng trở về U0P0 để cung và cầu về lao động được cân bằng.
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ cầu cung về lao động
S2
D2
DL
0
D1
S1
UP
SL
U1P1
U0P0
L
0
U2P2
Trong đó: OL: là số chỗ làm việc OUP: Tiền công
SL: Cung lao động DL: Cầu lao động
Cầu, cung lao động là hai vế của thị trường lao động, sử dụng nguồn lao động có hiệu quả, hoặc tận dụng nguồn lao động chỉ có thể đạt được khi cân bằng cung - cầu lao động được duy trì ở một mức độ nhất định. Mỗi vế cầu cung lao động luôn luôn biến đổi theo những nguyên nhân riêng của chúng và do tác động tương hỗ giữa chúng.
Trong các biện pháp tác động tới tương quan cầu - cung lao động thì tiền công có tác động mạnh và trực tiếp nhất.
Sơ đồ 1.2 dưới đây thể hiện các thành phần chủ yếu của tương quan cầu - cung lao động và các nhân tố tác động tới tương quan cầu - cung lao động.
Sơ đồ 1.3: Tương quan cầu cung lao động và các nhân tố tác động
Cỏc ch ớnh sỏch (dõn số, y tế, giỏo dục, di dõn, kế
hoạch hoỏ gia đỡnh….)
Đặc điểm chất lượng nguồn lao động (văn hoỏ, chuyờn mụn, KT…)
Đặc điểm nhõn khẩu học của nguồn lao động (dõn số, cơ cấu giới, tuổi, tỡnh trạng sức khoẻ, biến động tự nhiờn, cơ học dõn số và nguồn lao động)
Hệ thống đũn b ẩy kinh tế kớch thớch lao động
(tiền lương, thuế, giỏ….)
Tương quan cầu – cung lao động
Luật lệ, quy chế lao
động
Bảo trợ xó hội đối với
ng ười lao động
Sự phỏt triển kinh tế kộo theo sự phõn cụng sử dụng nguồn lao động
Giỏo dục hướng nghiệp, đào tạo lại chuyờn mụn, kỷ luật
Theo dạng việc
làm
Theo thành
phần kinh
tế
Theo vựng lónh thổ
Theo ngành
kinh tế
Điều kiện lao động
- Năng suất lao động:
Năng suất lao động là “Sức sản xuất của lao động cụ thể có ích” [37, tr.104]. Nói lên kết quả hoạt động của con người trong một đơn vị thời gian nhất định.
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian; hoặc bằng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm [38, tr.22].
Từ định nghĩa năng xuất lao động của C.Mác, mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian lao động.
Công thức tính:
Trong đó:
W: Là số lượng sẩn phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay là năng xuất lao động.
Q: Là khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian nhất định.
T: Là tổng thời gian hao phí để sản xuất ra Q sản phẩm
W thường được biểu diễn dưới dạng chỉ tiêu kép: Hiện vật, thời gian hay giá trị thời gian.
Các khái niệm dân số, dân số hoạt động kinh tế, nguồn lao động, lực lượng lao động, năng xuất lao động liên quan trực tiếp tới hoạt động giải quyết việc làm, trên cơ sở thống nhất những khái niệm này, đó là các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh giá và thông tin về tình trạng đủ việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp. Từ đó, chúng ta có thể đưa ra các chính sách, tìm các giải pháp tác động làm giảm thất nghiệp, thiếu việc làm, hơn nữa hệ thống khái niệm này là cơ sở để xác định chuẩn xác mức độ có thể về tỷ lệ người có việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp.
* Khái niệm về việc làm:
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc làm là công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của bản thân và gia đình người lao động phụ thuộc rất lớn vào việc làm của họ. Sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết việc làm. Với tầm quan trọng như vậy, việc làm được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như kinh tế, xã hội học, lịch sử... Khi nghiên cứu dưới góc độ lịch sử thì việc làm liên quan đến phương thức lao động kiếm sống của con người và xã hội loài người. Các nhà kinh tế coi sức lao động thông qua quá trình thực hiện việc làm của người lao động là yếu tố quan trọng của đầu vào sản xuất và xem xét vấn đề thu nhập của người lao động từ việc làm.
ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp...
Ngày nay các quan niệm về việc làm đã được hiểu rộng hơn, đúng đắn và khoa học hơn, đó là các hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập, mà không bị pháp luật cấm. Điều 13, chương II Bộ Luật lao động Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [44, tr.42].
Theo quan niệm trên, việc làm là các hoạt động lao động được hiểu như sau:
Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật cho công việc đó.
Làm những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng hiện vật.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và các thành viên trong gia đình.
Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm, quan niệm đó đã góp phần mở rộng quan niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen chân vào trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan điểm của Bộ Luật lao động đã nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
* Khái niệm giải quyết việc làm:
Giải quyết việc làm là việc tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm là nhằm khai khai thác triệt để tiềm năng của một con người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy, giải quyết việc làm phù hợp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó, có quyền cơ bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, tiến bộ khoa học - kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó.
Thứ hai, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di chuyển của lao động, chất lư._.ợng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng,
Thứ ba, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao, các giải pháp về quản lý thị trường, kỹ thuật... nhằm nâng cao hiệu quả của việc làm.
Chỉ khi nào trên thị trường người lao động và người sử dụng lao động gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò của nhà nước.
Vì vậy “giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm” [33, tr.18].
*Thiếu việc làm:
Theo ILO người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu thêm việc làm.
Theo một số chuyên gia về chính sách lao động việc làm thì cho rằng: Người thiếu việc làm là những người đang làm việc có mức thu nhập dưới mức lương tối thiểu và họ có nhu cầu làm thêm. TS. Trần Thị Thu đưa ra khái niệm “Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn” [54, tr.17].
Từ khái niệm người thiếu việc làm trên có thể hiểu như sau: Người thiếu việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để bổ xung thu nhập.
ILO cũng khuyến nghị các nước dùng khái niệm người thiếu việc làm hữu hình (dạng nhìn thấy được) và dạng người thiếu việc làm vô hình (khó xác định).
Thiếu việc làm hữu hình: Là khái niệm để chỉ hiện tượng người lao động làm việc có thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm đang tìm kiếm thêm việc làm và sẵn sàng để làm việc.
Tình trạng việc làm hữu hình được biểu thị bởi hàm số sử dụng thời gian lao động như sau:
K =
Số giờ làm việc thực tế
x 100%
Số giờ quy định
(Tính theo ngày, tháng, năm)
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Nguyên nhân của tình trạng này là do tay nghề hoặc kỹ năng của người lao động thấp không sử dụng hết khả năng hiện có hoặc do điều kiện lao động tồi, tổ chức lao động kém. Thước đo khái niệm thiếu việc làm vô hình là mức thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu.
Nguyên nhân thiếu việc làm:
Do nền kinh tế chậm phát triển, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp và giảm dần do đô thị hoá.
Do lực lượng lao động tăng quá nhanh, trong khi đó số chỗ làm việc mới tạo ra quá ít, do trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của người lao động còn thấp kém.
Do tính chất thời vụ, thời tiết khí hậu, do chính sách đầu tư chưa hợp lý, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được...v.v.
* Thất nghiệp:
Theo khái niệm của tổ chức lao động Quốc Tế (ILO), thất nghiệp (Theo nghĩa chung nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm [7, tr.177].
Cũng có quan điểm cho rằng: Thất nghiệp là hiện tượng gồm những phần mất thu nhập, do không có khả năng tìm được việc làm trong khi họ còn trong độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan mô giới về lao động nhưng chưa được giải quyết.
Như vậy, những người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc lực lượng lao động hay dân số hoạt động kinh tế. Một người thất nghiệp phải có 3 tiêu chuẩn:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện đang chưa có việc làm
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa làm việc đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu thức quan trọng để xem xét một người được coi là thất nghiệp thì phải biết được người đó có muốn đi làm hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khoẻ, có nghề nghiệp song không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự trữ” như kế thừa của bố mẹ, nguồn tài trợ.
* Phân loại thất nghiệp.
- Xét về nguồn gốc thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nhiên: Là loại thất nghiệp khi có một tỷ lệ nhất định số lao động ở trong tình trạng không có việc làm
Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không ngừng của ngành lao động giữa các vùng, giữa các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cầu - cung lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó.
Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần, hầu hết các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu đối với các đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách nhằm khuyến khích tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
- Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh con) thất nghiệp loại này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: Là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái, cung lớn hơn cầu về lao động.
Ngoài thất nghiệp hữu hình (thất nghiệp tự nguyện và không tự nguyện) còn tồn tại thất nghiệp trá hình:
Thất nghiệp trá hình: Là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm việc. Hiện tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp. Thất nghiệp loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: Là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ).
Thất nghiệp chia theo lứa tuổi: Là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào đó trong tổng số lực lượng lao động.
Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ: Là hiện tượng thất nghiệp xảy ra thuộc vùng lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi..).
Thất nghiệp chia theo ngành nghề: Là loại thất nghiệp xảy ra ở một ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên, người ta có thể chia thất nghiệp theo dân tộc, chủng tộc, tôn giáo...
1.1.2. Vai trò của giải quyết việc làm cho người lao động đối với sự phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì, con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế - xã hội.
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Bất kỳ một quá trình sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố cơ bản đó là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đó là những yếu tố vật chất cho quá trình lao động diễn ra. Thực vậy, tư liệu sản xuất tự nó không thể tạo ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu cần thiết của con người và xã hội, nếu như không có sự kết hợp của sức lao động.
C.Mác và Ph.Ăngghen khi nghiên cứu vai trò của sản xuất xã hội và các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất đã cho rằng: Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội loài người và là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả các hoạt động của con người.
Ngày nay, con người với trình độ khoa học - công nghệ cao là một thành tố quan trọng của lực lượng sản xuất cũng như trong công cuộc xây dựng đổi mới đất nước. Các chính sách của Đảng và Nhà nước ta là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu chung của cách mạng. Đảng ta coi việc phát huy nhân tố con người như là một nguồn lực quan trọng nhất của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây chính là nguồn tài nguyên vô giá, nguồn nội lực dồi dào cần được chăm sóc để phát triển. Đầu tư vào con người và phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững.
- Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là yếu tố khách quan của người lao động. Con người tồn tại phải được tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định như: Thức ăn, đồ mặc, nhà ở, học tập, phương tiện đi lại... Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản xuất với quy mô ngày càng mở rộng. Như vậy, để tồn tại và phát triển con người bằng sức lao động của mình, là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất tạo ra giá trị hàng hoá dịch vụ.
Sự phát triển kinh tế - xã hội, suy cho cùng, là nhằm mục tiêu phục vụ con người làm cho cuộc sống mỗi người ngày càng tốt đẹp hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn.
Từ lý luận và thực tiễn đã chứng minh có ba điều kiện cơ bản nhất để phát triển con người là: phải đảm bảo an toàn lương thực, an toàn việc làm và an toàn môi trường.
- Giải quyết việc làm là cơ sở để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, giải quyết việc làm không chỉ là trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quan hệ đến lao động, việc làm mà còn là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và cả bản thân người lao động. Điều 13, Bộ Luật lao động Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nêu rõ: “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội” [43, tr.42].
- Nước ta đến nay vẫn còn 62 triệu người sống ở nông thôn, trong đó độ tuổi lao động là 43,26 triệu người chiếm 75,18% lực lượng lao động, nguồn thu nhập chính là nông nghiệp. Đặc điểm của lao động nông thôn là tăng nhanh, ít qua đào tạo, đa dạng về lứa tuổi, sử dụng theo thời vụ, có nhiều cơ hội tìm việc làm nhưng giá tiền công lại rẻ, di chuyển lao động và một bộ phận lao động tự do.
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, sản xuất nông nghiệp đã phát triển tương đối toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, nhiều vùng nông thôn biến thành đô thị, nhiều diện tích đất nông nghiệp biến thành các khu công nghiệp, đường giao thông, trung tâm thương mại và đất khu dân cư. Tính chung, trong 10 năm 1995-2005 trung bình mỗi năm cả nước mất khoảng 50 nghìn ha đất nông nghiệp cho các nhu cầu phi nông nghiệp. Trong khi đó lao động nông nghiệp đã dư thừa trên 23% và số lượng cứ tăng dần với tốc độ 2%/năm. Năm 2001, lao động nông thôn, nông nghiệp có 24,72 triệu người, chiếm 80% lao động nông thôn; năm 2005 tăng lên gần 27 triệu người. Như vậy, trung bình mỗi năm lao động nông nghiệp tăng thêm khoảng 45 vạn người. Trong khi đó diện tích đất nông nghiệp lại giảm xuống kéo theo giảm việc làm cho nông dân. Ruộng đất ít, lao động thừa, việc làm thiếu và thu nhập thấp, đời sống nông dân còn nghèo, khoảng cách chênh lệch nông thôn và thành thị có xu hướng gia tăng. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo việc làm mới cho lao động nông thôn nói chung, nông dân nói riêng là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
- Nhân tố về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái:
Nếu điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái thuận lợi, sẽ có nhiều dự án, nhiều chương trình kinh tế - xã hội đầu tư và như vậy nơi đây sẽ có điều kiện hơn trong giải quyết việc làm cho người lao động. Ngược lại, không thể có sự thuận lợi trong giải quyết việc làm tại chỗ đối với người lao động sống ở những nơi điều kiện tự nhiên bất lợi (sa mạc, vùng băng giá, vùng núi cao, hải đảo...).
Giải quyết việc làm vừa là nhiệm vụ bức xúc, vừa là chiến lược lâu dài. Vấn đề đặt ra là phải bảo đảm cho môi trường nhân tạo hoà hợp với môi trường thiên nhiên, coi đây là một mục tiêu chính quan trọng trong giải quyết việc làm. Đồng thời, phải có giải pháp khắc phục tác động với thiên tai, sự biến động khí hậu bất lợi và hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường sinh thái nước ta. Vấn đề này cần được xuyên suốt trong toàn bộ chiến lược về việc làm thể hiện trong từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực, từng cộng đồng dân cư để con người thực sự làm chủ được mô trường sống của mình hoặc hạn chế được đến mức thấp nhất những tác động sấu do biến động môi trường. Như vậy, bảo vệ và cải thiện môi trường không chỉ là mục tiêu trong giải quyết việc làm mà còn là điều kiện để phát triển bền vững.
- Nhân tố về dân số:
Dân số, lao động, việc làm và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ và quy mô hợp lý là nguồn cung cấp nguồn nhân lực vô giá. Tuy nhiên, nếu dân số phát triển quá nhanh, quy mô phát triển lớn vượt khả năng đáp ứng và yêu cầu của xã hội, thì tăng trưởng dân số không phải là yếu tố tích cực mà lại là gánh nặng cho nền kinh tế.
Mức sinh, mức chết, cơ cấu giới, tuổi của dân số đều ảnh hưởng đến quy mô của lực lượng lao động. Nếu mức sinh cao dẫn đến gia tăng nhanh chóng số lượng người trong độ tuổi lao động tương lai.
Ngoài ra, vấn đề di dân và các dòng di dân, đặc biệt là di dân từ nông thôn ra đô thị gây ra các áp lực kinh tế - xã hội và chính trị còn nguy hiểm hơn so với tỷ lệ gia tăng dân số nhanh chóng. Quá trình đô thị hoá gây ra hậu quả trực tiếp đến vấn đề việc làm, để có thể thu hút hết số lao động này, cần phải nhanh chóng tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc. Hơn nữa chất lượng của số lao động này về học vấn, đào tạo, trình độ nghề nghiệp không đáp ứng được với yêu cầu công việc trong khu đô thị. Do đó tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ cao lên.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, việc khống chế mức tăng dân số được gắn với vấn đề giảm áp lực đối với việc làm. Vấn đề dân số thường được gắn với vấn đề sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm. Nhìn chung, giảm tỷ lệ gia tăng dân số cũng có nghĩa là có sự đầu tư cao hơn vào các lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ và các dịch vụ xã hội.
ở nước ta, nhân tố dân số đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển xã hội, con người vừa là mục tiêu, và động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, khi nguồn lực này tăng quá nhanh lại chưa sử dụng hết sẽ là lực cản, gây sức ép về đời sống và việc làm.
- Nhân tố về chính sách vĩ mô:
Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là nhà nước phải tạo các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ xung cho nhau hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.
+ Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như: Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực phi kết cấu, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, chính sách khôi phục và phát triển làng nghề...
+ Nhóm chính sách việc làm cho các đối tượng là người có công và chính sách xã hội đặc biệt khác như: Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người tàn tật, đối tượng xã hội....
+ Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, nhưng phương thức và biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế đồng thời liên quan đến những vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như: Tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ sản phẩm...
- Nhân tố liên quan đến giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ:
+ Về giáo dục - đào tạo:
Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học - công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học - công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Giáo dục - đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc. Người lao động qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội phân công sắp xếp.
Giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm bảo việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội. Giáo dục và đào tạo nhằm vào định hướng phát triển, trước hết cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động mới đủ về số lượng, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả để đảm bảo việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Về Khoa học - công nghệ:
Khoa học - công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu đội ngũ lao động. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành nghề mới, cùng với nó là xu hướng tri thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.
Trong nền kinh tế phát triển, người lao động muốn thích ứng với các công việc xã hội yêu cầu. Trước hết, họ phải là những người được trang bị nhất định về khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế ở những nước sản xuất kém phát triển thường có mâu thuẫn: Nếu công nghệ sản xuất tiên tiến với các dây chuyền sản xuất tự động hoá, chuyên môn hoá cao thì trình độ người lao động chưa bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao động bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế, bên cạnh công việc đào tạo nâng cao trình độ lành nghề cho người lao động, vấn đề lựa chọn áp dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền kinh doanh phải tính toán thận trọng. Bởi vì, chính sách khoa học - công nghệ có tác động mạnh mẽ đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động.
- Nhân tố toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế:
Toàn cầu hoá đặt ra những thách thức và những nguy cơ lớn đối với tình trạng việc làm ở tất cả các nước trên thế giới. Số lượng việc làm ở khu vực này có thể tăng lên nhưng lại giảm đi ở khu vực khác, một số loại việc làm sẽ mất đi nhưng một số loại việc làm mới xuất hiện.
Những biến đổi về quy mô và cơ cấu việc làm, sẽ gây không ít khó khăn và những chi phí lớn của cá nhân gia đình và toàn xã hội. Do mất việc làm người lao động phải tìm chỗ làm việc mới, phải học tập những kiến thức và kỹ năng mới, phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác để tìm việc làm, phải thích nghi với những điều kiện sống luôn thay đổi. Điều đó, đã gây gánh nặng về đào tạo lại, trợ cấp xã hội, trợ cấp thất nghiệp do chính phủ phải gánh chịu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, để khai thác và sử dụng tốt các yếu tố bên ngoài, đồng thời phải phát huy tối đa nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp trong giải quyết việc làm một cách năng động, hiệu quả, bền vững, tránh được những rủi ro. Cần có những nghiên cứu mang tính hệ thống tình hình thế giới, khu vực và các mối quan hệ giữa các điều kiện bên trong và bên ngoài, nhận thức và vận dụng đúng đắn quan hệ đó khi xây dựng chiến lược việc làm.
1.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn ở một số tỉnh ở nước ta
1.2.1. Kinh nghiệm của Nam Định
Nam Định có dân số 1.905.300 người, diện tích tự nhiên 163,7 ha, mật độ dân số bình quân 1164 người/km2 .
Thời kỳ bao cấp, ngành công nghiệp nhẹ của Nam Định khá phát triển, đặc biệt là công nghiệp dệt may đã tạo việc làm, đảm bảo đời sống cho trên 2 vạn lao động.
Bước vào thời kỳ đổi mới, khi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhất là vào thời kỳ 1996-1995, nền kinh tế của Nam Định gặp rất nhiều khó khăn. Thị trường truyền thống của Liên Xô và Đông Âu không còn, công nghệ sản xuất cũ lạc hậu, năng xuất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, hàng hoá tồn đọng lớn, kinh doanh thua lỗ...nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp công nghiệp bị phá sản, ngành công nghiệp của Nam Định bước vào thời kỳ suy thoái nghiêm trọng.
Sản xuất nông nghiệp của Nam Định cũng gặp không ít khó khăn, kinh tế nông nghiệp chậm phát triển so với các tỉnh lân cận. Nhìn chung đời sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn, sức ép về lao động, việc làm ngày càng trở lên bức xúc, gay gắt.
Sau 20 năm đổi mới (1996-2006), Nam Định đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn phát triển kinh tế tạo mở việc làm và đã thu được những kết quả quan trọng. Kinh nghiệm của Nam Định có thể khái quát như sau:
- Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định đã xây dựng chương trình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001-2005 với những mục tiêu giải pháp như: Khôi phục phát triển làng nghề, xây dựng khu công nghiệp và cụm công nghiệp, điểm công nghiệp có tính khả thi cao phù hợp với tình hình thực tế địa phương.
- Khôi phục và phát triển làng nghề, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tập trung xây dựng cụm công nghiệp, điểm công nghiệp nông thôn góp phần đẩy nhanh quá trình phân công lại lao động nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hoá.
Để đẩy nhanh phát triển nông nghiệp, Nam Định đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất, chất lượng và giá trị cây trồng, vật nuôi. Đặc biệt đã đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thuỷ sản với nhiều loại hình tổ chức sản xuất và quy mô phù hợp mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh, tạo mở được nhiều việc làm mới.
1.2.2. Kinh nghiệm của Thanh Hoá
Thanh Hoá là một tỉnh nông nghiệp là chủ yếu, với dân số hơn 3,6 triệu người, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn lao động dồi dào (hơn 2 triệu người) chiếm trên 50% dân số trung bình của tỉnh. Tuy có số lượng lao động đông nhưng chất lượng nguồn lao động còn thấp chưa đáp ứng với yêu cầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thanh Hoá còn là tỉnh nghèo, chậm phát triển, tài nguyên thiên nhiên đa dạng nhưng không nhiều và khó khai thác, thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu. Hàng năm, toàn tỉnh có trên 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm, chưa kể số lao động của năm trước chuyển sang, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn rất lớn, mới sử dụng 70% quỹ thời gian làm việc trong năm.
Để giảm sức ép lao động và việc làm, những năm qua Thanh Hoá đã tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến như: mía đường, vùng cây nguyên liệu sản xuất giấy; bảo vệ, chăm sóc, trồng rừng; đầu tư đánh bắt xa bờ; đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ, hải sản, phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm; khôi phục làng nghề truyền thống và phát triển ngành nghề mới; phát triển thương mại dịch vụ...Hàng năm đã tạo ra việc làm mới cho trên 10 vạn lao động, là một trong những tỉnh có nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Cụ thể như sau:
- Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh cùng các cấp, các ngành trong tỉnh luôn xác định giải quyết việc làm là một chương trình kinh tế-xã hội quan trọng, coi đó là yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
- Cùng với nhà nước, Thanh Hoá đã xây dựng được các văn bản pháp quy tạo điều kiện cho việc thực hiện các quan hệ lao động trong cơ chế thị trường, thuê mướn lao động, sử dụng lao động dược dễ dàng hơn.
- Các tổ chức chính trị như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ... đã tích tham gia giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, hướng dẫn nông dân phát triển sản xuất.
- Thông qua giải quyết việc làm, các chương trình kinh tế - xã hội đã được thực hiện có hiệu quả thiết thực. Huy động được các nguồn lực đa dạng, đầu tư cho phát triển kinh tế, tạo mở việc làm.
- Đã phát triển nhiều hình thức, mô hình tổ chức giải quyết việc làm phong phú, đa dạng ở các cấp, các ngành, các địa phương, đã xuất hiện nhiều những điển hình, nhân tố mới, góp phần tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động.
- Tập trung đào tạo nghề cho người lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là ở các lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, khôi phục ngành nghề truyền thống, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia mở cơ sở dạy nghề.
1.2.3. Kinh nghiệm của Thái Bình
Thái Bình là tỉnh nông nghiệp “đất chật người đông” với diện tích tự nhiên 1546, 01 km2, dân số 1,83 triệu người, mật độ dân số 1.188 người /km2, gấp 1,18 lần so với các tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông hồng và 5,7 lần so với cả nước, có 915 ngàn người trong độ tuổi lao động, chiếm 50% dân số của tỉnh, số dân ở nông thôn chiếm 93,7%, thu nhập bình quân đầu người thấp mới đạt 3.889.000 đông/người/năm vào năm 2003 [1,tr.1]. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao, chiếm 4,82% (năm 2004), tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn cũng chỉ đạt 79,19%. Vì vậy, tình trạng không có việc làm và thiếu việc làm ở cả thành thị và nông thôn còn rất lớn. Trong những năm qua, tỉnh Thái Bình đã tập trung vào thực hiện chương trình giải quyết việc làm thu được kết quả và kinh nghiệm như sau:
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo mở việc làm, khôi phục phát triển làng nghề truyền thống, du nhập ngành nghề mới, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu lao động..
- Chú trọng công tác đào tạo nghề cho người lao động, khuyến khích tư nhân và các tổ chức xã hội mở cơ sở đào tạo nghề cho nông dân.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
- Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách đầu tư thông thoáng để tạo nên sức hút đầu tư, lựa chọn đầu tư phát triển những ngành nghề có công nghệ phù hợp với khả năng, trình độ của người lao động
- Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội phát động các phong trào phát triển kinh tế như: Cho vay vốn, phổ biến kinh nghiệm sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới trong nông nghiệp... đã tạo được nhiều việc làm cho người lao động.
1.3. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn
Từ sự phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động và giải quyết việc làm ở một số địa phương trong nước thời gian qua, có thể rút ra bài học kinh nghiệm và vận dụng cho giải quyết việc làm, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta nói chung và ở Ninh Bình nói riêng như sau:
- Nhà nước cần phải có những chính sách vĩ mô về vai trò quản lý nhà nước để chống thất nghiệp, thiếu việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó, đề ra những giải pháp và chính sách đúng đắn, đồng bộ, đồng thời đảm bảo được những điều kiện để thực thi
- Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện: Đẩy mạnh thâm canh tăng năng xuất cây trồng vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với sự phát triển đa dạng các ngành nghề sử dụng nhiều lao động thu hút lao động, phân công lại lao động, tạo việc làm tại chỗ ở nông thôn.
- Đa dạng hoá các hình thức giải quyết việc làm: Phát triển kinh tế - xã hội tạo mở việc làm, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, phát triển hệ thống dịch vụ và chất lượng tìm việc làm của người lao động. Xã hội hoá giải quyết việc làm, huy động tổng hợp các nguồn lực và sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội và toàn thể nhân dân.
- Đào tạo nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, nhất là các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, yêu cầu chất lượng cao và khu vực thu hút nhiều lao động.
- Phát triển hệ thống sự nghiệp về lao động - việc làm như các trung tâm dịch vụ việc làm, cơ sở dạy nghề, các tổ chức xuất khẩu lao động.
- Trên cơ sở phát huy nội lực trong nước, mở rộng hợp tác quốc tế để tranh thủ và sử dụng có hiệu quả sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm cho giải quyết việc làm.
Tuỳ vào điều kiện tự nhiên, văn hoá, kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mà có những giải pháp giải quyết việc làm khác nhau. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Ninh Bình cần tham khảo và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm của các tỉnh, nhất là những tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng để giải quyết tốt việc làm cho người lao động ở nông thôn.
Chương 2
Thực trạng giải quyết việc làm ở nông thôn Ninh Bình
2.1. Đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
- Vị trí địa lý:
Ninh Bình là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng có toạ độ địa lý 19027’ vĩ độ bắc và từ 105032’ đến 106033’ kinh độ đông, mới được chia tách từ năm 1992; diện tích tự nhiên 1.427,63 km2, dân số 915.727 người, mật độ dân số đạt 662 người/km2. Toàn tỉnh có 8 huyện, thị xã (6 huyện, 2 thị xã), 145 xã, phường, thị trấn (trong đó có 18 phường và thị trấn).
Ninh Bình thuộc phía cực nam của đồng bằng Bắc bộ; phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam; phía Đông Bắc giáp tỉnh Nam Định; phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá; phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình; phía Đông Nam giáp biển đông.
Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, có hệ thống giao thông thuận lợi, nằm trên tuyến đường giao thông xuyên Bắc - Nam, ngoài Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam, còn có hệ thống cảng biển, đường sông, đường biển thuận lợi tạo điều cho quá trình giao lưu, hợp tác phát triển kinh tế, văn hoá với các tỉnh trong vùng và cả nước cũng như quốc tế thuận lợi.
- Địa hình:
Địa hình Ninh Bình rất đa dạng và phức tạp, có vùng đồi núi, vùng đồng bằng, vùng ven biển. Có thể chia theo 3 vùng sau:
+ Vùng đồi núi
Nằm ở phía Tây và Tây Nam bao gồm khu vực Tây huyện Gia Viễn; Tây Nam huyện Nho Quan; Tây
Nam huyện Hoa Lư và Tây Nam huyên Yên Mô. Diện t._.ai thác thị trường trong tỉnh, khu vực, trong nước, đi đôi với việc khai thác mở rộng thị trường ở nước ngoài trên cơ sở duy trì và phát triển quan hệ với các thị trường truyền thống dễ tính, tranh thủ cơ hội để mở rộng thị trường mới. Thực hiện cơ chế thông thoáng trong lưu thông hàng hoá, nâng cao chất lượng hàng hoá, phát triển sản xuất các loại sản phẩm hàng hoá như: Lúa hàng hoá, sản phẩm chế biến cói, thuỷ sản, chăn nuôi, đá mỹ nghệ, thêu ren, đồ gỗ xuất khẩu… mà thị trường có nhu cầu, thực hiện tốt việc gắn kết giữa các đơn vị làm nhiệm vụ chế biến nông sản, tiêu thụ sản phẩm với người sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tổ chức tốt thị trường ở nông thôn, kết hợp hợp lý giữa các thành phần kinh tế, chú trọng thương nghiệp ngoài quốc doanh, xây dựng mạng lưới thương mại phục vụ rộng khắp trên địa bàn các địa phương. Phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh, hình thành các tổ chức và đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu, thông tin, tư vấn dự báo thị trường, tổ chức quảng bá hàng hoá nông sản phẩm….cả trong và ngoài nước tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh nâng cao khả năng tiếp thị để giới thiệu sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Tạo điều kiện thuận lợi để các bạn hàng đến địa bàn tham quan các cơ sở sản xuất kinh doanh từ đó có điều kiện ký kết các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Tổ chức quảng bá, xây dựng thương hiệu những hàng hoá nông sản phẩm có chất lượng cao. Mở rộng liên doanh, liên kết với các tỉnh bạn để mở rộng thị trường. Trước mắt, cần giữ quan hệ với các công ty xuất nhập khẩu của các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá nông sản qua hợp đồng uỷ thác thúc đẩy sản xuất.
3.2.3. Hoàn thiện chính sách và đổi mới lãnh đạo quản lý về lĩnh vực giải quyết việc làm gắn với phát triển thị trường lao động
ở trên đã nêu hai nhóm giải pháp tác động đến cung nguồn lao động và tăng cầu nguồn lao động, để thực hiện tốt hai nhóm giải pháp trên cần phải có giải pháp điều tiết cung - cầu nguồn lao động, vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết cung - cầu nguồn lao động có nhiều, nhưng đối với Ninh Bình thì cần phải hoàn thiện chính sách và đổi mới lãnh đạo quản lý về lĩnh vực giải quyết việc làm gắn với phát triển thị trường lao động.
3.2.3.1. Phát triển thị trường lao động
Nói đến thị trường lao động là nói đến toàn bộ quan hệ về lao động diễn ra trong nền kinh tế. Thị trường lao động được hình thành từ cung, cầu của lao động và giá cả sức lao động hay mức tiền công. Các quan hệ giữa mua và bán trên thị trường là quan hệ dựa trên sự tự do của người lao động và người sử dụng lao động, chỉ có dựa trên quan hệ đó mới hình thành nên thị trường lao động.
Cũng như cả nước, ở Ninh Bình thị trường lao động đang trong quá trình hình thành cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá việc phát triển thị trường lao động là nhiệm vụ quan trọng, tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc sử dụng hiệu quả và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây cũng là một thách thức lớn, có ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng giao lưu, hội nhập kinh tế trong nước, khu vực và quốc tế. Phát triển thị trường lao động phải là một trong những mục tiêu hàng đầu cần tổ chức thực hiện gấp rút.
Để phát triển thị trường lao động ở Ninh Bình, trước hết cần quan tâm đến giảm cung lao động đi đôi với việc nâng cao chất lượng nguồn lao động. Chất lượng nguồn lao động là nội dung rất rộng, bao gồm trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, những thay đổi về kỹ thuật - công nghệ, kỷ luật làm việc, tình trạng sức khoẻ….các biện pháp áp dụng để giảm cung lao động mang tính dài hạn, phải thực hiện lâu dài và đồng bộ. Cùng với những biện pháp giảm cung lao động, vấn đề tăng cầu lao động cũng là mục tiêu quan trọng để giải quyết việc làm.
Những biện pháp thực hiện đối với cung và cầu về lao động luôn gắn liền với các chính sách kinh tế - xã hội, nên phải thực hiện đồng bộ với các chính sách xã hội. Từ những nhận thức trên về thị trường lao động, để đẩy nhanh phát triển thị trường lao động đáp ứng được yêu cầu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế, cần thực hiện một số giải pháp sau:
+ Cần coi trọng công tác quản lý Nhà nước về lao động, bao gồm hoạt động quản lý trong lĩnh vực chính sách về lao động: Xây dựng chính sách, quy hoạch, kế hoạch về nguồn nhân lực phân bố và sử dụng lao động trong tỉnh; Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình Quốc gia về việc làm, đào tạo nghề, di dân, đưa người đi làm việc ở nước ngoài.
+ Xây dựng hệ thống thông tin, thống kê thị trường tại các cơ sở thuộc Trung tâm dịch vụ việc làm: Thông tin về thị trường việc làm, những lĩnh vực, ngành nghề và địa bàn có khả năng thu hút được lao động mới; Thông tin về chất lượng lao động phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động như về tay nghề, khả năng hành nghề…; Thông tin về dịch vụ việc làm qua thực hiện thủ tục ký kết hợp đồng lao động; Thông tin về giá cả và điều kiện lao động; thông tin về các cơ sở dạy nghề và giới thiệu việc làm…
Phối hợp chặt chẽ với hệ thống trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm trong việc thu thập và cung cấp thông tin giúp cho nguồn lao động về định hướng về thủ tục, về cách thức tự tìm việc, chọn nghề thích hợp với điều kiện của lao động.
+ Đa dạng hoá các hình thức thông tin về lao động và việc làm. Ngoài các hình thức phổ biến hiện nay đang áp dụng là thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng (Báo, đài phát thanh, đài truyền hình) thông báo tại địa phương, các trung tâm dịch vụ việc làm về “người tìm việc” và “việc tìm người”, cần mở nhiều hội chợ việc làm tại các địa phương, các khu công nghiệp, các trường đào tạo; giao lưu giữa các cơ sở đào tạo và nơi có nhu cầu lao động, tạo cầu nối cung - cầu.
+ Định kỳ điều tra lao động, việc làm, thất nghiệp, phân tích và công bố rộng rãi những mánh khoé lừa gạt người lao động của các cá nhân, tổ chức đối với người lao động khi xin việc làm nói chung, nhất là xin đi xuất khẩu lao động.
3.2.3.2. Hoàn thiện chính sách và đổi mới lãnh đạo quản lý về lĩnh vực giải quyết việc làm
Lao động việc làm thuộc chương trình phát triển kinh tế - xã hội rộng lớn phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức kinh tế - xã hội. Vì vậy, để hoạt động giải quyết việc làm có hiệu quả cần phải có sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quyết định tới việc tạo mở việc làm mới cho người lao động. Thực tế trong những năm qua ở Ninh Bình các cấp Uỷ đảng, chính quyền đã thường xuyên quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm. Tuy vậy, vai trò lãnh đạo của cấp Uỷ đảng, quản lý của chính quyền đối với giải quyết việc làm còn bộc lộ nhiều thiếu sót tồn tại.
Để khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo của cấp Uỷ đảng, quản lý của Nhà nước về việc làm ở Ninh Bình, trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
* Đối với cấp Uỷ đảng:
Một là, từ Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp về công tác giải quyết việc làm các cấp ủy đảng cần phải cụ thể hoá thành chương trình chiến lược phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là chiến lược về giải quyết việc làm một cách đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn của địa phương. Biến Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp và Nghị quyết về giải quyết việc làm trở thành hiện thực.
Hai là, làm tốt công tác tuyên truyền về công tác giải quyết việc làm, nhằm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và trong toàn thể nhân dân về chủ trương đường lối phát triển kinh tế - xã hội, tạo mở việc làm, khuyến khích, động viên các thành phần kinh tế, các tổ chức xã hội, mỗi gia đình và mỗi người lao động tự tạo việc làm cho mình và cho xã hội.
Ba là, các cấp ủy đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền cụ thể hoá đường lối Nghị quyết của Đảng thành những chính sách, giải pháp cụ thể để giải quyết việc làm cho người lao động, gắn giải quyết việc làm với phát triển sản xuất trên cơ sở khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương.
Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức chính trị xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh) và các tổ chức xã hội khác tích cực vận động hội viên, đoàn viên của tổ chức mình đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển sản xuất, tạo mở việc làm.
Bốn là, đưa vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của dảng bộ, chi bộ, là nội dung quan trọng để xem xét, đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của chi bộ, đảng bộ.
* Đối với chính quyền:
+ Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục xây dựng chương trình giải quyết việc làm từ nay đến hết năm 2020. Trên cơ sở đó mà thể chế hoá đường lối, Nghị quyết của Đảng bộ thành những chính sách, giải pháp cụ thể, hữu hiệu để phát triển sản xuất kinh doanh tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động ở nông thôn.
+ Chính quyền cấp huyện cần phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội kiểm tra, kiểm soát, thực hiện các chương trình, dự án giải quyết việc làm.
+ Thực hiện công tác cải cách hành chính trong ngành lao động - thương binh xã hội; Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học với nhiệm vụ quản lý Nhà nước, nghiên cứu với thực hành và ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ vào lĩnh vực hoạt động của ngành, triển khai chương trình tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước về lao động và việc làm để nâng cao năng lực bộ máy quản lý đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
* Củng cố hệ thống sự nghiệp về giải quyết việc làm:
Trong những năm qua Ninh Bình đã đầu tư phát triển 4 trung tâm xúc tiến việc làm. Các trung tâm xúc tiến này đang đi vào hoạt động và đóng góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm cụ thể cho người lao động, là mô hình phù hợp với điều kiện của địa phương và đang hoạt động có hiệu quả.
Tuy nhiên, cần phải tiếp tục hoàn thiện mô hình trung tâm xúc tiến việc làm theo các hướng sau đây:
+ Cần phải có quy hoạch tổng thể các trung tâm xúc tiến việc làm. Tỉnh cần phải tạo điều kiện hơn nữa để nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm.
+ Khuyến khích thành lập các tổ chức giới thiệu việc làm mở rộng đối với mọi thành phần, mọi cơ quan, đoàn thể để tạo ra sự luân chuyển lao động, việc làm hiệu quả hơn.
+ Nên giữ hình thức trung tâm giới thiệu việc làm là đơn vị sự nghiệp có thu, không nên biến các trung tâm thành đơn vị hạch toán. Vì các trung tâm này làm các chức năng xã hội là chính, phần thu được chủ yếu là giảm một phần gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Có thể bộ khung quản lý của trung tâm Nhà nước hỗ trợ lương và kinh phí hành chính, không đánh thuế khâu dạy nghề, giảm thuế phần tổ chức sản xuất, trợ giúp ban đầu mua sắm trang thiết bị dạy nghề, xây dựng cơ bản…
+ Kiện toàn các trung tâm dịch vụ việc làm, trước mắt là xem xét các điều kiện cần có để thành lập trung tâm, kiểm tra hiệu quả hoạt động của các trung tâm, giám sát hoạt động của các trung tâm, hạn chế tình trạng lừa dối, thu lệ phí cao người cần việc làm, nhất là những người đi xuất khẩu lao động.
* Lồng ghép chương trình giải quyết việc làm với việc thực hiện các chương trình, dự án:
Giải quyết việc làm cho người lao động là một chương trình xã hội có tính chất liên ngành rõ nét, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành trong việc lồng ghép các chương trình hướng và mục tiêu giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động ở nông thôn, các chương trình như: Chương trình xoá đói giảm nghèo; chương trình cứu trợ xã hội; chương trình phát triển dân số kế hoạch hoá gia đình; chương trình phòng chống tai tệ nạn xã hội; chương trình đào tạo nghề; chương trình phát triển làng nghề…. Để thực hiện phối hợp trong việc lồng ghép các chương trình này đạt hiệu quả cần làm tốt một số việc sau:
+ Từ tỉnh đến cơ sở phải thành lập hoặc kiện toàn lại ban chỉ đạo giải quyết việc làm các cấp, có các thành phần tham gia bao gồm ngành lao động thương binh và xã hội, kế hoạch đầu tư, tài chính, các tổ chức quần chúng (Nông dân, thanh niên, phụ nữ…) do một phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm trưởng ban và ngành Lao động, thương binh xã hội làm phó ban hoặc uỷ viên thường trực. Trong ban chỉ đạo cần phải phân định giới hạn trách nhiệm và quyền hạn giữa cơ quan phối hợp với cơ quan điều hành chính. Khi phối hợp thì có sự tham gia liên ngành, còn khi điều hành, triển khai một chương trình cụ thể phải do một cơ quan chức năng của Nhà nước thực hiện (ngành Lao động - Thương binh - Xã hội).
+ Có thể thành lập Uỷ ban quốc gia giải quyết việc làm để làm chức năng phối hợp liên ngành và giao cho Bộ Lao động Thương binh và Xã hội điều hành, quản lý chương trình quốc gia xúc tiến việc làm. Mô hình có thể như sau:
Sơ đồ 3.1: Mô hình vê quản lý về chương trình quốc gia giải quyết việc làm
Uỷ Ban quốc gia giải quyết việc làm
Bộ Lao động - Thương binh và xó hội
(cơ quan thường trực Uỷ ban quốc gia và điều hành chương trỡnh)
Ban chỉ đạo của tổ chức xó hội cỏc cấp
(Phụ nữ, Nụng dõn, Thanh niờn….)
Ban chỉ đạocủa UBND cỏc cấp
Dự ỏn
Dự ỏn
Dự ỏn
Dự ỏn
Quan hệ trực tiếp
Quan hệ giỏn tiếp
* Giải quyết việc làm cho nông dân mất đất do đô thị hoá và phát triển khu công nghiệp:
Mất đất đang là một vấn đề xã hội ngày càng trở nên gay gắt, sự ra đời và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp của Ninh Bình, điều đó đã dẫn đến hàng trăm ha đất nông nghiệp nhường chỗ cho công nghiệp, hàng ngàn lao động ở nông thôn mất việc làm. Vấn đề đặt ra là phải có giải pháp thiết thực trong việc giải quyết việc làm cho người nông dân mất đất do đô thị hoá và phát triển công nghiệp. Vì vậy, tỉnh phải chú trọng hơn nữa việc phát triển các ngành nghề sản xuất, hỗ trợ vốn, kỹ thuật và đào tạo nghề phục vụ cho việc chuyển đổi nghề nghiệp trong các khu công nghiệp. Thực hiện chính sách “đổi đất lấy việc làm ổn định” chứ không chỉ đơn thuần là đổi đất lấy “tiền” và cơ sở hạ tầng như hiện nay.
* Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý quỹ quốc gia giải quyết việc làm:
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm nhằm tạo ra nguồn lực vật chất để thực hiện chương trình xúc tiến việc làm, nó là một trong những loại quỹ xã hội được dùng để tạo thêm chỗ việc làm mới hoặc tạo đủ việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Quỹ này mang tính chất trợ giúp tạo ra điều kiện ban đầu để người lao động tự tìm việc làm trong các thành phần kinh tế. Quỹ này chủ yếu là từ nguồn ngân sách Nhà nước đầu tư cho chương trình phát triển kinh tế xã hội, từ nguồn viện trợ và hợp tác quốc tế cho chương trình việc làm, từ sự đóng góp của nhân dân.
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm được quản lý và điều hành thống nhất từ Trung ương, quỹ này quay vòng dùng để cho vay theo dự án nhỏ tạo việc làm với lãi suất ưu đãi. Hiện nay Nhà nước đang giao cho hệ thống ngân hàng chính sách xã hội quản lý. Việc phân cấp cho địa phương và các tổ chức quần chúng chủ yếu là theo cơ chế uỷ quyền, nâng cao trách nhiệm của các cấp trong việc thẩm định xét duyệt và quyết định dự án cho sát đối tượng, đúng mục đích, sử dụng có hiệu quả. Các dự án được xây dựng có thể đi theo hai kênh:
+ Theo kênh Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện.
+ Theo kênh của tổ chức quần chúng (có sự thống nhất trên địa bàn).
Để tiếp tục vận hành quỹ này đạt hiệu quả cần có những cơ chế, chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất thu hút nhiều lao động.
áp dụng chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển ngành nghề tại nông thôn, hỗ trợ đầu tư những dự án sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, phát triển kinh tế trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn thu hút được nhiều lao động.
Có chính sách ưu tiên cho các hộ nông dân bị mất đất do quá trình đô thị hoá được vay lãi xuất ưu đãi, khuyến khích phát triển sản xuất và bảo hộ giúp những người lao động bị thất nghiệp mất việc làm.
Kết luận
Việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng và toàn dân, của các cấp các ngành. Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp để giải quyết việc làm cho lao động xã hội, thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội và các chương trình, dự án giải quyết việc làm. Nhờ đó hàng năm chúng ta đã giải quyết việc làm được hàng triệu lao động, cơ cấu lao động đã từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ lệ thất nghiệp của lao động thành thị đã giảm dần và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng dần. Tuy nhiên, do tốc độ tăng dân số còn cao, nhất là ở các vùng nông thôn nên hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động khá lớn, số người cần được giải quyết việc làm còn tồn đọng nhiều. Do đó sức ép về việc làm còn rất lớn đối với Ninh Bình.
Ninh Bình là một trong các tỉnh nghèo, kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, mật độ dân số cao, tài nguyên có hạn, tốc độ phát triển kinh tế chậm, tình trạng thất nghiệp còn nhiều. Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho người lao động, đặc biệt là lao động ở nông thôn chiếm tới 86% lực lượng lao động là rất cần thiết.
Nhận thức được vị trí, vai trò của vấn đề giải quyết việc làm, trong những năm qua, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách để giải quyết việc làm cho người lao động. 5 năm qua đã tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn người lao động. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng lên, chất lượng nguồn lao động bước đầu có tiến bộ, từng bước đáp được yêu cầu của thị trường lao động trong và ngoài tỉnh.
Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong tỉnh cũng còn bộc lộ nhiều thiếu sót và tồn tại:
+ Số người đến tuổi lao động ngày một tăng, số người thất nghiệp ở khu vực thành thị và số người thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn nhiều gây sức ép rất lớn về nhu cầu giải quyết việc làm cho chính quyền các cấp.
+ Trong những năm qua, kinh tế tuy phát triển nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra, chuyển dịch cơ cấu kinh tế bước đầu có kết quả song còn chậm; lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ có tiềm năng nhưng do nguồn lực đầu tư còn hạn chế nên chưa được mở rộng và phát triển . Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp chưa được phát triển nên sản xuất cầm chừng, khả năng mở rộng sản xuất thu hút lao động bị hạn chế, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải giải thể, phá sản.
+ Trình độ tay nghề của người lao động còn thấp chưa đáp ứng được đòi hỏi của người sử dụng lao động nên gặp khó khăn trong tìm việc làm.
+ Cơ chế chính sách giải quyết việc làm còn thiếu đồng bộ và chưa đủ mạnh.
Vì vậy, sức ép về lao động và việc làm ở nông thôn vẫn còn là vấn đề bức xúc và khó khăn. Để nhanh chóng giảm được sức ép về lao động và giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn cần phát huy thế mạnh và tiềm năng của tỉnh hướng vào sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động, trước mắt cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:
+ Phát triển kinh tế xã hội và đa dạng hoá các ngành nghề để tạo mở việc làm cho người lao động (đây là giải pháp cơ bản quan trọng).
+ Hỗ trợ trực tiếp cho lao động thất nghiệp và thiếu việc làm (thông qua các chính sách như hỗ trợ về vay vốn, hỗ trợ đào tạo nghề…).
+ Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, đây là một lĩnh vực có tiềm năng lớn đang được khai thác và mở rộng, cần tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước về xuất khẩu lao động.
+ Đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ: Thu hút đầu tư nhằm xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp của tỉnh, mở rộng dạy nghề đặc biệt là dạy nghề cho lao động khu vực nông thôn, coi trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
+ Đầu tư bổ sung, lồng ghép các chương trình để giải quyết việc làm cho người lao động.
+ Tổ chức tốt công tác đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ thực hiện chương trình giải quyết việc làm ở các cấp, hướng dẫn các chủ dự án mở rộng sản xuất kinh doanh tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động.
Những giải pháp trọng yếu trên vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Đó là những bước đi vững chắc về lao động và việc làm trong những năm tới góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn tỉnh, xây dựng Ninh Bình trở thành tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Kiến nghị
1. Đối với Trung ương
+ Hoàn thiện một số chính sách về lao động - việc làm cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
+ Đề nghị với Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương quan tâm đến các tỉnh nghèo tăng cường vốn vay giải quyết việc làm, có chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp mạnh, các doanh nghiệp nước ngoài tập trung đầu tư vào xây dựng và phát triển các khu công nghiệp của tỉnh.
2. Đối với địa phương
+ Đề nghị Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục xây dựng chương trình, mục tiêu giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2010, trong đó đưa mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Ninh Bình thành một trong những mục tiêu và giải pháp của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
+ Đề nghị Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hàng năm trích nguồn ngân sách địa phương bổ xung vốn giải quyết việc làm để đầu tư vào các dự án tạo việc làm cho người lao động.
Danh mục tài liệu tham khảo
Bùi Xuân An (2005), Giải quyết việc làm ở Thái Bình thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Ban Chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung ương (2005), Báo cáo kết quả lao động - việc làm 1-7-2005, Hà Nội.
Ban Chỉ đạo điều tra Lao động - việc làm Ninh Bình (2004), Báo cáo nhanh kết quả điều tra lao động việc làm 1-7-2004 tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.
Ban Chỉ đạo điều tra Lao động - việc làm Ninh Bình (2005), Báo cáo nhanh kêt quả điều tra lao động việc làm 1-7-2005 tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.
Bộ môn Kinh tế phát triển - Khoa Kế hoạch và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2005), Giáo trình kinh tế phát triển, Nxb Lao động và Xã hội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Số liệu thống kê lao động việc làm ở Việt Nam 2004, Nxb Lao động và Xã hội, Hà Nội.
Trần Văn Chử (2001), Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Kỷ yếu khoa học đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đỗ Minh Cương (2003), "Dạy nghề cho lao động nông thôn hiện nay", Nông thôn mới, (91).
Cục Thống kê Ninh Bình (2005), Niên giám thống kê 2004, Ninh Bình
Cục Thống kê Ninh Bình (2006), Niên giám thống kê 2005, Ninh Bình.
Cục Thống kê Ninh Bình (2005), Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2001 - 2005 và dự báo thời kỳ 2006-2010, Ninh Bình.
Cục Thống kê Ninh Bình (2005), Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình năm 2005. Ninh Bình.
Cục thống kê Ninh Bình (2005), Ninh Bình 50 năm xây dựng và phát triển 1995-2004, Ninh Bình.
Nguyễn Hữu Dũng (2003), "Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hoá công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn", Lao động và Xã hội, (209).
Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trang (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (2005), Văn kiện trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, Lưu hành nội bộ.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành trung ương khoá IX , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Minh Hằng, Lê Huy Đồng (2005), Phân phối và phân hoá giầu nghèo sau 20 năm đổi mới, Nxb Lao động - xã hội.
Nguyễn Lan Hương (2002), Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình (2005), Dự án mô hình hỗ trợ nông dân nghèo sản xuất, phát triển nghề chiếu cói xã Yên Mỹ - Yên Mô - Ninh Bình, Ninh Bình.
Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình (2005), Dự án xây dựng mô hình ổn định phát triển sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm dứa cay en, xã Cúc Phương - Nho Quan- Ninh Bình, Ninh Bình.
Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình (2005), Dự án mô hình hỗ trợ nông dân nghèo sản xuất, phát triển nghề mộc, xã Gia Lâm - Nho Quan tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.
Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình (2004), Báo cáo kết quả thực hiện 3 dự án phối hợp giữa Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình, Ninh Bình.
Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình (2003), Báo cáo kết quả 5 năm Hội Nông dân thực hiện chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo (1998-2003), phương hướng, nhiệm vụ năm (2003-2008), Ninh Bình.
Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình (2004), Báo cáo kết quả Hội Nông dân thực hiện phong trào thi đua sản xuất - kinh doanh giỏi, xây dựng điển hình tiên tiến cánh đồng 50 triệu/ha/năm, hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng, Ninh Bình.
Hội Nông dân thị xã Ninh Bình (2004), Báo cáo tổng kết phong trào “Nông dân làm kinh tế giỏi” Biểu dương điển hình tiên tiến giai đoạn 1999-2004, Thị xã Ninh Bình.
Hội Nông dân phường Bích Đào - Thị xã Ninh Bình - tỉnh Ninh Bình (2004), Báo cáo tham luận tại Hội nghị biểu dương nông dân điển hình tiên tiến Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình, Phường Bích Đào.
Hội Nông dân huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình (2005), Báo cáo kêt quả điển hình tiên tiến thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm, hộ nông dân có thu nhập 50triệu đồng/năm, Huyện Yên Khánh.
Trần Thị Tuyết Hương (2005), Giải quyết việc làm trong quá trính phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Hưng Yên đến 2010, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường lao động thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê, Hà Nội.
V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C.Mác (1984), Tư bản, Tập 1, Quyển 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác (1984), Tư bản, Tập 2, Quyển 2, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác-Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10 (1945 – 1946) (1996), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 4 (1945-1946), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Văn Kỳ (2004), Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm ở Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Phạm Đăng Khuyến (2004), Báo cáo tham luận tại Hội nghị biểu dương các điển hình tiên tiến Hội Nông dân tỉnh Ninh Bình, tháng 10/2004, Yên Khánh.
Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Ninh bình (2006), Báo cáo đánh giá cho vay vốn giải quyết việc làm 2003 -2005, Ninh Bình.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Bộ Luật Lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Xuân Phong (2005), Báo cáo kết quả thực hiện đề tài Khảo sát điều tra trình độ nghề của người lao động trong khu vực dân cư để xây dựng cơ chế chính sách đào tạo nghề cho người động, đặc biệt trong khu vực nông thôn , Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Bình.
Bùi Văn Quán (2001),"Thực trạng lao động - việc làm ở nông thôn và một số giải pháp cho giai đoạn 2001-2005", Lao động và Xã hội, (259).
Số liệu tổng hợp từ phiếu điều tra hộ điểm nghiên cứu (2006), Ninh Bình
Sở Tư pháp Ninh Bình (2005), Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (Từ 01/07 đến 31/12/2005), Ninh Bình.
Sở Tư pháp Ninh Bình (2005), Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (Từ 01/01 đến 30/6/2005), Ninh Bình.
Sở Lao động Thương binh và Xã hội (2005), Báo kết quả thực hiện chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001-2004 và phương hướng, giải pháp đên 2005, dự kiến chương trình 2006-2010, Ninh Bình.
Sở Lao động Thương binh và Xã hội (2005), Báo kết tổng kết năm 2005 và kế hoạch năm 2006 về công tác lao động thương binh và xã hội, Ninh Bình.
Nguyễn Đăng Thảo (2001), Mối quan hệ giữa chất lượng nguồn nhân lực với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ năm 2000-2001, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thơm (2004), Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp, Tổng quan khoa học đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2003-2004, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Thị Thu (2003), Tạo việc làm cho người lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Tỉnh uỷ Ninh Bình (2004), Các văn bản chủ yếu của Tỉnh uỷ ban hành trong nhiêm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Tập I, Ninh Bình.
Tỉnh uỷ Ninh Bình (2004), Các văn bản chủ yếu của Tỉnh uỷ ban hành trong nhiêm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Tập II, Ninh Bình.
Tỉnh uỷ Ninh Bình (2006), Nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh uỷ về đẩy mạnh phát triển trồng, chế biến cói; thêu ren và chế tác đá mỹ nghệ giai đoạn 2006-2010, Ninh Bình.
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, viện thông tin khoa học xã hội, Thị trường lao động trong kinh tế thị trường, Hà Nội.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2006), Niên giám Ninh Bình 2001 - 2002, Nxb Thông tấn xã.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2005), Dự thảo Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2006-2010, Ninh Bình.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (1999), Chương trình giải quyết việc làm tỉnh Ninh Bình đến hết năm 2005, Ninh Bình.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2003), Báo cáo quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Ninh Bình đến năm 2010, Ninh Bình.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2005), Báo cáo tóm tắt dự án rà soát lại quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp, nông thôn Ninh Bình thời kỳ 2005-2010, Ninh Bình.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2006), Báo cáo tình hình sản xuất tiểu thủ công nghiệp nông thôn giai đoạn 2001-2006, Ninh Bình.
._.