Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của hầu hết các quốc gia. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người, nam cũng như nữ, để tạo thu nhập và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2179 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc; một mặt, là điều kiện để phát huy được tiềm năng lao động, nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống. Mặt khác, cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền vững. Đặc biệt trong điều kiện nước ta tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất còn nghèo, đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa. Việc ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người là đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, là con đường ngắn nhất để đi tắt, đón đầu, chống nguy cơ tụt hậu và chủ động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Bắc Ninh là một tỉnh mới được tái lập từ 1/1/1997 với diện tích tự nhiên 803,87 km2, dân số 951.600 người, mật độ dân số 1.184 người/km2. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, kết cấu hạ tầng thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng. Chất lượng lao động thấp, hầu hết lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo, vấn đề bảo đảm việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Bắc Ninh. Mặt khác, tỷ lệ tăng dân số của tỉnh còn khá cao, trong khi đất nông nghiệp có hạn, diện tích canh tác bình quân đầu người ngày càng giảm... Đất chật, người đông, ngành nghề và dịch vụ kém phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu về lao động ở tỉnh, tạo nên sự bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động đó đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài: "Giải quyết việc làm ở Bắc Ninh - Thực trạng và giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ta từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều tác giả đã có công trình, bài viết xung quanh vấn đề này, tiêu biểu như: Vấn đề tạo việc làm tăng thu nhập ở nông thôn của TS Nguyễn Sinh Cúc, Tạp chí Thông tin lý luận 11/1990; Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của tác giả Trần Đình Hoan - Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; Về giải quyết việc làm ở nông thôn từ năm 1994, 1995 đến năm 2000 của tác giả Nguyễn Khang, Tạp chí Lao động và xã hội 9/1993; Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS Nguyễn Hữu Dũng và TS Trần Hữu Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997... Ngoài ra, cũng có một số luận văn thạc sĩ viết về đề tài việc làm ở một số tỉnh như Đồng Nai, Kiên Giang…Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, cho đến nay chưa có công trình khảo sát, nghiên cứu nào về chuyên đề này dưới dạng một luận văn khoa học, để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động dôi thừa ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài - Mục đích của đề tài: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh, phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. - Nhiệm vụ của đề tài: + Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp. Làm rõ những nhân tố tác động đến việc giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. + Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ 1997 - 2000. + Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. - Giới hạn nghiên cứu của đề tài: Đề tài chỉ tập trung vào vấn đề có tính chất trọng điểm: giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ 1997 - 2000 thông qua một số giải pháp chủ yếu trong thời gian từ nay đến năm 2010. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương các khóa xung quanh vấn đề này. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và các số liệu thống kê trong một số công trình nghiên cứu có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. - Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp: hệ thống, tổng hợp, thống kê, so sánh đối chiếu và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề. 5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay. - Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm giải quyết từng bước việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 việc làm và các nhân tố tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động trong nền kinh tế thị trường 1.1. Một số khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp 1.1.1 Khái quát về lao động và việc làm Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống. Do đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người và xã hội loài người với các loài động vật và xã hội loài vật khác. Trong quá trình lao động, con người không những tạo ra của cải, mà còn cải tạo bản thân mình làm cho con người phát triển cả về thể lực và trí lực. Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của cải cho phép đáp ứng nhu cầu của con người, và những nhu cầu này phát triển, vô hạn nên bản thân lao động cũng phát triển và vô hạn, ít nhất cũng là sự phát triển của chính bản thân con người. Song, những nhu cầu không chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế, vật chất, mà còn bao gồm tất cả những lĩnh vực kết tinh thành văn hóa, xã hội, đời sống cộng đồng. Trong thực tiễn, không phải là thiếu lao động, mà là thiếu việc làm. Việc làm chỉ là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động được diễn ra. Trong xã hội có giai cấp thì việc làm chịu chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị và hệ thống luật pháp dựa trên cơ sở lợi ích của giai cấp đó hoạch định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con người như là một cơ sở đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm thì lại là phạm trù giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích kinh tế những giai cấp nắm trong tay các điều kiện vật chất của lao động có thể thu hút nhanh chóng những khối lượng lớn sức lao động vào các quá trình sản xuất và cũng vì lợi ích kinh tế họ sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên việc làm của xã hội bị thu hẹp lại. Mặt khác, quá trình lao động không chỉ diễn ra đơn độc giữa một cá thể và tự nhiên, mà trong quá trình đó, con người tác động vào nhau nhờ đó mà hình thành nên tập quán, truyền thống và trở thành những đặc trưng văn hóa của một dân tộc, quốc gia. Như vậy sự thay đổi cơ bản về mặt văn hóa cũng phải được xảy ra trong quan hệ của chúng ta với lao động và sự giàu có. Phải coi lao động là sáng tạo ra của cải, tất cả những gì góp phần tạo ra giá trị theo nghĩa kinh tế, tạo ra sự sung túc về phương diện cá nhân, tạo ra mối quan hệ xã hội về phương diện tập thể [24, tr. 25]. Theo Mác: "Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên" [20, tr. 266]. Trong quá trình đó con người đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên một cách có ý thức, có mục đích nhằm biến đổi những vật thể của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Trong quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố: lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Tuy nhiên, trong quá trình đó, người lao động giữ vị trí quan trọng hàng đầu, vì nó không chỉ là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu tồn tại của con người với tư cách một xã hội, mà còn sáng tạo ra những yếu tố khác cấu thành lực lượng sản xuất xã hội. Trong một quốc gia, một vùng hay một địa phương cụ thể thì người lao động được thể hiện ở nguồn lao động. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của bộ phận dân cư có khả năng lao động. Nói một cách cụ thể, nguồn lao động là bộ phận dân cư của đất nước, có toàn bộ những khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn lao động là một yếu tố quan trọng hợp thành tiềm lực của đất nước. Nói đến nguồn lao động là nói đến số lượng tối đa của dân cư có khả năng lao động. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn lao động là độ tuổi và tình trạng sức khỏe. ở nước ta, nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi), có khả năng lao động (trừ những người tàn tật mất sức lao động loại nặng). Ngoài ra, nguồn lao động còn bao gồm số người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động và dưới độ tuổi lao động từ 13-15 tuổi) thực tế có việc làm. Kết quả điều tra cho thấy, số người trên độ tuổi lao động thực tế có việc làm chiếm 2/3 trong tổng số người trên độ tuổi lao động. Và số trẻ em từ 13-15 tuổi ở nông thôn phải làm những việc giúp đỡ gia đình như: chăn trâu cắt cỏ, tham gia hoạt động sản xuất… chiếm tỷ lệ khá cao. Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động, bao gồm những người đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Trong đó những chỉ tiêu quan trọng là: số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, số người đang đi học, số người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố theo lĩnh vực, theo ngành, theo lãnh thổ… Mức tăng nguồn lao động là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao động và số dân cư đến độ tuổi nghỉ hưu. Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời sống xã hội, chất lượng nguồn lao động cũng không ngừng được tăng lên. Các chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá chất lượng nguồn lao động: trình độ văn hóa, khả năng tiếp thu của người lao động; trình độ chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề; kinh nghiệm thực tiễn; trình độ quản lý và phong cách làm việc; sức khỏe. Nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, thì quá trình đó chỉ có thể diễn ra khi đã được dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên bình diện một quốc gia cụ thể, thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của bộ phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do đó việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mà cả quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp khi tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Do đó, việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, nó thuộc loại những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc dân, khu vực Nhà nước, kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động từ A đến Z. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ… Từ khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách căn bản. Theo Bộ luật Lao động ở điều 13 chương II khái niệm việc làm đã được xác định là: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Như vậy, theo quan niệm trên, việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Trước hết nó xóa bỏ được quan niệm cũ cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, bởi vì, lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình… ý nghĩa kinh tế, xã hội của quan niệm này là ở chỗ nó xóa bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Mặt khác, khái niệm trên còn làm nổi rõ đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, thể hiện ở chỗ cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm. Ví dụ, nghề giúp việc gia đình là nghề mà trước đây chưa được xã hội tôn trọng, thì nay đã trở thành việc làm đáng khuyến khích và được pháp luật bảo vệ. Ngược lại, mọi công dân đều không được làm những việc mà pháp luật nghiêm cấm như: mại dâm, buôn bán ma túy, sản xuất và buôn bán thuốc nổ… Với quan niệm việc làm như Bộ luật Lao động quy định sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng, tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời ngăn chặn những việc làm phi pháp dễ nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa. Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần làm sáng rõ khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý. Việc làm đầy đủ được hiểu là sự thỏa mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm cho mọi thành viên có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Cũng có thể nói việc làm đầy đủ là ở trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, để đạt tới mức độ đảm bảo việc làm đầy đủ phải có một quá trình nhất định. Quá trình ấy ngắn hay dài là tùy thuộc vào trình độ, hoàn cảnh khách quan, chủ quan của từng nước. Một nước có điểm xuất phát càng thấp, trong quá trình phát triển vấn đề đảm bảo việc làm đầy đủ cho người lao động càng khó khăn và cấp thiết. ở nước ta hiện nay, tình trạng phổ biến là thiếu việc làm đầy đủ dưới cả hai dạng: thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình. Thiếu việc làm vô hình là phân bố không cân đối giữa lao động và các yếu tố sản xuất khác. Thiếu việc làm vô hình do sự bố trí và sử dụng lao động bất hợp lý nên thường xảy ra một trong các trường hợp sau đây: - Việc làm không tạo ra cơ hội để sử dụng đầy đủ chất lượng và khả năng người lao động. - Thu nhập mang lại từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập trung bình. - Năng suất lao động ở nơi người lao động làm việc thấp hơn so với mức trung bình. Thiếu việc làm hữu hình là tình trạng không có đủ khối lượng công việc để làm hết mức thời gian quy định trong một ngày lao động bình thường và người lao động đang đi tìm việc khác hoặc sẽ nhận một việc làm bổ sung. Trong quá trình thực hiện việc làm đầy đủ, quá trình toàn dụng lao động, cần từng bước, từng bộ phận thực hiện việc làm hợp lý. Việc làm hợp lý không những hàm chứa nội dung việc làm đầy đủ mà còn nói rõ việc làm đó phải phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc làm hợp lý do vậy có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn so với việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý phản ánh sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người với điều kiện vật chất của sản xuất và xã hội, hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích của xã hội. Tuy nhiên, khái niệm việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vì trong nền kinh tế thị trường có điều tiết thì việc làm đầy đủ và việc làm hợp lý không có nghĩa là không có người thất nghiệp. Đối với những nước phát triển, sản xuất phát triển nhưng nguồn lao động tăng chậm dẫn đến thiếu sức lao động. Ngược lại, đối với những nước đang và kém phát triển, khả năng mở rộng sản xuất có hạn, nguồn lao động lại rất dồi dào, dẫn đến một bộ phận muốn làm việc, nhưng không có việc để làm, nghĩa là thất nghiệp. 1.1.2. Khái quát về thất nghiệp Thất nghiệp (không có việc làm) là phạm trù kinh tế gắn với trạng thái tâm lý xã hội căng thẳng của những người lao động, trong đó khả năng vận dụng thần kinh và bắp thịt của họ bị kìm giữ bởi thiếu các điều kiện vật chất và pháp lý cho lao động bất chấp nguyện vọng mong muốn làm việc của họ. Đây là phạm trù chủ yếu liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, nó nảy sinh chủ yếu bởi mối quan hệ lợi ích kinh tế, trong đó những người nắm giữ trong tay các điều kiện vật chất của lao động vì lợi ích của mình hoặc vì bị giới hạn bởi khả năng tổ chức và pháp lý mà buộc phải loại bỏ một bộ phận những người có khả năng lao động ra khỏi quá trình sản xuất xã hội, đặt họ và gia đình phải đối mặt trước những giới hạn chật hẹp và nguy cơ bị mất những nguồn nuôi dưỡng chủ yếu. Biểu hiện ra trên bề mặt xã hội, ở các văn bản pháp lý, thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, hiện chưa có việc làm và đang tích cực tìm việc làm. Theo khái niệm này, ở nước ta những người trong độ tuổi lao động (nữ từ 15-55 tuổi, nam từ 15-60 tuổi) không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất nghiệp. Tuy nhiên những người trong độ tuổi lao động nhưng thuộc các đối tượng sau đây không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động: - Người đang đi học. - Người không có khả năng lao động. - Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình. - Người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại, thì trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên xác định. Người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất nghiệp tự nhiên, chứ không loại bỏ được nó. Tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, là mối quan tâm của mọi Chính phủ và của mọi thành viên trong xã hội. 1.2. những nhân tố tác động đến vấn đề giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường Nếu trừu tượng hóa các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình lao động sản xuất, mà chỉ xét việc làm như một tổng thể các điều kiện vật chất, các điều kiện pháp lý trong đó quá trình lao động (làm việc) có thể được diễn ra, thì việc làm chịu chi phối bởi các nhân tố sau: 1.2.1. Tài nguyên đất đai là đối tượng lao động cơ bản, là nhân tố chủ yếu tạo ra việc làm cho người lao động Đất đai là một yếu tố của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt không chỉ đối với nông nghiệp mà còn đối với công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp… Nước ta có diện tích hơn 330.000 km2 đứng thứ 58 trên thế giới; diện tích bình quân đầu người là 0,45 ha, đứng thứ 159 trong số hơn 200 nước trên thế giới. Hiện nay cả nước có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, bình quân 0,68 ha/hộ nông nghiệp, (đặc biệt vùng đồng bằng sông Hồng bình quân một lao động nông nghiệp chỉ có 600 m2) thì nhu cầu lao động ở nông thôn cho nông nghiệp tối đa chỉ 19 triệu người. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi nông nghiệp, sẽ dư thừa tương đối lao động rất lớn, khoảng 10 triệu người [8, tr. 25]. Do yêu cầu của quá trình đô thị hóa, diện tích đất nông nghiệp ngày bị mất dần, nhất là ở những vùng nông thôn ven đô thị lớn, thị xã, thị trấn, hai bên trục đường giao thông… Cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra khá mạnh, lao động nông thôn đang có xu hướng tăng lên. Tình hình trên dẫn đến bình quân diện tích đất canh tác trên một lao động ở nông thôn Việt Nam vào loại thấp nhất thế giới và do đó thời gian sử dụng ngày công nông nghiệp rất thấp. Theo tài liệu điều tra, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm 210 ngày/năm, còn lại làm dưới 200 ngày/năm, trong đó, 21% chỉ làm việc 90 ngày/năm (mỗi ngày làm bình quân từ 4-5 giờ). Theo tính toán, nếu căn cứ vào quỹ đất và làm thuần nông, lao động nông thôn dư thừa ít nhất khoảng 30% (tương đương 8-9 triệu người) [9, tr. 86-87]. Hiện nay nước ta có khoảng 3 triệu ha đất nông nghiệp có khả năng khai thác, 9 triệu ha rừng và đất trống đồi trọc, 90 vạn ha mặt nước, ao, hồ và hàng vạn ha đất ven biển, nếu có chính sách tốt sẽ giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động. Việc sử dụng đất trong các doanh nghiệp nông lâm nghiệp cũng còn nhiều lãng phí. Theo quy hoạch đất dành cho các nông, lâm trường quốc doanh lên tới 1,2 triệu ha, nhưng trên thực tế mới sử dụng khoảng 40%, trong khi đó dân lại thiếu đất để canh tác. Việc di dân xây dựng các vùng kinh tế mới là hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho các vùng nông thôn, trước hết là vùng đồng bằng sông Hồng - nơi có mật độ dân số cao nhất cả nước, khoảng 800 người/km2. 1.2.2. Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất - yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất Theo C.Mác thì vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay điều kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao động, hay nói cách khác, nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao phí vào việc sản xuất một đơn vị sản phẩm; tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi phải hao phí lao động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm được bằng với số lao động cần thiết để sản xuất máy móc đó, thì như Mác nói: trong trường hợp này, lao động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản xuất một hàng hóa không giảm bớt, hay năng suất lao động không tăng lên. Trong điều kiện đó, việc áp dụng máy móc có sự khác nhau về mặt kinh tế: lao động được giảm bớt trong phạm vi này (ở nơi mà máy móc là tư liệu sản xuất) nhưng lại bị chuyển sang phạm vi khác (ở nơi sản xuất máy móc). Dưới CNTB, máy móc tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi lao động trẻ em và lao động phụ nữ. Giá trị của sức lao động giảm xuống là do: "... Bằng cách ném tất cả mọi thành viên trong gia đình người công nhân vào thị trường lao động, máy móc cũng phân phối giá trị sức lao động của đàn ông cho toàn thể gia đình người đó" [20, tr. 569]. Nói cách khác việc thu hút lao động trẻ em và lao động phụ nữ là một nguồn mới để sản xuất giá trị thặng dư tương đối. ở đây, việc thu được giá trị thặng dư tương đối không phải do nâng cao năng suất lao động, mà là do nâng cao trình độ bóc lột. Nếu gạt bỏ bản chất tư bản chủ nghĩa của nó mà chỉ xét máy móc thiết bị như là một điều kiện vật chất tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối lượng lớn việc làm cho người lao động, thì việc sử dụng máy móc là cơ sở thiết lập ra các xí nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời là cơ sở để nâng cao năng suất lao động tạo thu nhập và việc làm. CNH, HĐH ở nước ta hiện nay được coi là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 2001 - 2010 mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua: "Chiến lược đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp" [12, tr. 148]. CNH, HĐH là quá trình đổi mới trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình sản xuất, nhằm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trên phương pháp sản xuất công nghiệp. Đồng thời, phát triển các ngành công nghệ cao. Đó là những công nghệ dựa vào những thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hóa, năng lượng mới. Đối với lĩnh vực lao động - việc làm, sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy, việc phổ biến các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho những nước có sức lao động rẻ và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật, trí thức, phi sản xuất trực tiếp và giảm lao động giản đơn, kỹ năng thấp. Như vậy trong xã hội hiện đại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước được hiện tượng này của sự phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực. Hiện nay, ngay cả nước Mỹ vẫn còn thừa khoảng 10 triệu chỗ làm việc và chỉ có hơn 2 triệu người thất nghiệp toàn phần nhưng không thể bố trí được việc làm vì không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật [29, tr. 18]. Vì vậy, xu hướng chắc chắn xảy ra khi phát triển khoa học và công nghệ là sự gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công nhân không lành nghề. Ngay ở Việt nam, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có liên doanh, có sử dụng công nghệ tiên tiến cũng không tuyển dụng đủ lao động vì tỷ lệ lao động được qua đào tạo còn thấp. Thực tế cho thấy trang bị máy móc thiết bị càng hiện đại thì nguy cơ thất nghiệp càng cao. Do đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung là giải pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này, trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm quốc gia thông qua nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho nông dân, phát triển nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội… 1.2.3. Dân số và vấn đề tỷ lệ tăng dân số hợp lý cũng là điều kiện để giải quyết việc làm cho người lao động Khi nhắc đến dân số, người ta thường nghĩ ngay đến chuyện ngăn ngừa nhịp độ tăng sinh sản, chú ý đến giảm tỷ lệ sinh đến mức thấp nhất. Trên thực tế, không hẳn như vậy. Chẳng hạn, trên một số vùng miền núi xa xôi, hẻo lánh, có những dân tộc, số dân hiện nay chỉ còn tính hàng trăm. Như vậy, ở những vùng này chúng ta có đặt vấn đề giảm tỷ lệ sinh đẻ không? Sự thực dân số là một vấn đề nằm trong yếu tố tự nhiên nhưng lại liên quan rất lớn đến quá trình phát triển xã hội. Nó là quá trình thường xuyên, liên tục tái sản xuất ra con người và cuộc sống con người với tính cách là những cá thể xã hội mang những nhu cầu và đòi hỏi vốn có, là quá trình trân trọng, giữ gìn và nâng cao nòi giống. Vấn đề đặt ra ở đây là cần hướng tới việc bảo tồn tính cân bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số. Tính ổn định đó chịu sự chi phối của hàng loạt điều kiện, không loại trừ điều kiện nào: trình độ phát triển sản xuất, mức độ tăng trưởng kinh tế, tính chất các quan hệ xã hội, pháp luật, chuẩn mực đạo đức truyền thống, định hướng giá trị, các yếu tố văn hóa (dân trí, thẩm mỹ, truyền thông, giáo dục, y tế…), việc kết hợp tâm lý dân tộc và xu hướng thời đại v.v… Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai tăng cũng càng nhanh, đồng thời nó sẽ tạo áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới nhiều chiều cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi tiêu nhiều hơn cho các mục đích tiêu dùng, ít đầu tư cho sản xuất, phát triển, nhất là cho phát triển nguồn nhân lực. Quy mô nguồn lao động lớn, cơ hội việc làm ở nông thôn ít, dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn ra đô thị vì mục đích mưu sinh kiếm sống. Thành phần phổ biến trong hiện tượng thường là lao động trẻ, khỏe có vốn kiến thức khá nhất ở khu vực nông thôn. Hậu quả là nông thôn bị mất đi nguồn lao động có sức khỏe, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết cho sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn. Nhưng tại đô thị, bộ phận lao động này cũng khó cạnh tranh để có thể có việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại mà chỉ chủ yếu gia nhập khu vực phi kết cấu. Việc sử dụng nguồn nhân lực bị lãng phí. Đó là chưa kể đến số di dân mùa vụ, hình thành các chợ lao động, làm phức tạp cho công tác quản lý đô thị, làm gia tăng tệ nạn xã hội. Gia tăng dân số nhanh khiến cho việc phân bố dân cư bất hợp lý, không gắn lao động với đất đai, tài nguyên, đối tượng lao động, với cơ sở vật chất, kỹ thuật khiến cho tạo việc làm khó khăn, thất nghiệp và thiếu việc làm cao. Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao chất lượng nguồn lao động. Đầu tư vào lớp trẻ ít, chất lượng trong tương lai của nguồn lao động thấp. Khó có khả năng đầu tư nâng cao năng lực và chất lượng của những người trong tuổi lao động. Kinh nghiệm và tri thức của người lao động cao tuổi cũng khó được phát huy bởi phải nhường chỗ cho lớp trẻ. Đất nước luôn ở tình trạng các giải pháp tình thế để giải quyết lao động dôi dư, mà cho về nghỉ trước tuổi luôn là giải pháp đầu tiên được nghĩ đến. Nước ta từ khi thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế - xã hội đáng phấn khởi. Tuy nhiên do tốc độ gia tăng dân số trong quá khứ quá nhanh, nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm không tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động. Thời kỳ 1976 - 1980, tỷ lệ tăng nguồn lao động bình quân hàng năm là 3,25% nhưng tỷ lệ tăng việc làm chỉ là 2,8%. Con số tương ứng của thời kỳ 1981 - 1985 là 2,87% và 2,67%; còn của thời kỳ 1986 - 1990 là 3,06% và 2,54%. Trong giai đoạn 1991 - 1996 chúng ta đã giải quyết được trên 6 triệu việc làm. Năm 1997 giải quyết được 1,2 triệu và năm 1998 là 1,4 triệu [7, tr. 42]. Tuy nhiên, trên thực tế số người bước vào độ tuổi lao động hàng năm vẫn lớn hơn nhiều so với chỗ làm việc mà chúng ta có thể tạo ra. Đó là một sức ép lớn, ngoài ra còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng kinh tế, của sức cạnh tranh yếu kém của nền kinh tế nước ta. Chỉ tính riêng trong khu vực Nhà nước, đến cuối năm 1998 đã có khoảng 10% số lao động không bố trí được việc làm. Theo điều tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị n._.ăm 1997 là 6,01%, năm 1998 là 6,85%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn giảm từ 73% năm 1997 xuống còn 71% năm 1998. Các số liệu thống kê và dự báo dân số còn cho thấy năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35,7 triệu người, năm 2000 là 46,5 triệu và năm 2015 con số này sẽ lên tới 62 triệu người. So với năm 1990, năm 2015 sẽ có thêm 26 triệu người trong độ tuổi lao động. Đây chính là bài toán mà chúng ta phải giải quyết để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước. 1.2.4. Thị trường hàng hóa sức lao động (gọi tắt là thị trường lao động) Thị trường hàng hóa sức lao động là toàn bộ các quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động. Trên thị trường lao động, mức cung, cầu về lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động và sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động bao gồm những người cần thuê và đang sử dụng sức lao động của người khác và những người có nhu cầu đi làm thuê hoặc đang làm việc cho người khác bằng sức lao động của mình để được nhận một khoản tiền công. Khi nghiên cứu thị trường lao động, dưới góc độ việc làm thì nội dung quyết định nhất là quan hệ cung - cầu về lao động. Giải quyết việc làm hay giảm thất nghiệp, trong cơ chế thị trường, về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường lao động. Trước hết ta hãy làm rõ khái niệm cung về lao động và cầu về lao động. Cung về lao động Cung lao động là khối lượng lao động sẵn sàng được sử dụng, đó là toàn bộ khối lượng thời gian mà những người lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc với những mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định. Cung về lao động phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Số người tham gia lực lượng lao động xã hội. - Mức tiền công thực tế được nhận. - Mối quan hệ lợi ích giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. - Mức sống của dân cư. - Trình độ phát triển, phong tục tập quán… Cầu về sức lao động (gọi tắt là cầu về lao động) Cầu về lao động là số lượng sức lao động mà các chủ doanh nghiệp có khả năng thuê và sẵn sàng thuê với các mức tiền công khác nhau trong một thời gian nhất định. Cũng như cung, cầu về lao động cũng bị chi phối bởi nhiều yếu tố: - Cầu về hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. - Tiền công lao động. - Các yếu tố về kỹ thuật, công nghệ. - Mức độ ưu tiên đầu tư theo các ngành, vùng… Quan hệ cung cầu về lao động chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là các yếu tố sau: - Khả năng phát triển thị trường để thu hút lao động (mở rộng cầu về lao động). Yếu tố này phụ thuộc vào mô hình và cơ cấu kinh tế: phát triển các ngành, đặc biệt là ngành sử dụng nhiều lao động; phát triển các vùng, trước hết là các vùng nông thôn nhiều tiềm năng thu hút được lao động; phát triển các thành phần kinh tế và sự đan xen giữa các thành phần kinh tế; phát triển đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh và mối liên kết giữa chúng; mở rộng không gian kinh tế (trong nước và ngoài nước …). - Sự phát triển của nguồn lao động: sự cung ứng sức lao động vào thị trường lao động hàng năm; sự tồn đọng của lao động chưa có việc làm (thất nghiệp) trong một thời điểm nhất định; mức độ căng thẳng hay sức ép về việc làm… - Sự phù hợp giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế (việc làm) về không gian và thời gian; vấn đề chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu thị trường lao động. - Khả năng tổ chức thị trường lao động, đặc biệt là phát triển các tổ chức xúc tiến việc làm, dịch vụ việc làm… Trong thị trường lao động, quan hệ cung - cầu về lao động được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Để hiểu thực chất của cơ chế điều chỉnh quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường, chúng ta phải xuất phát từ một phạm trù rất cơ bản là hàng hóa sức lao động. Trong nền kinh tế thị trường, có quan hệ thuê mướn lao động trên thị trường lao động, thì sức lao động ở mức độ nhất định còn là hàng hóa. Sức lao động là hàng hóa nhưng không phải tất cả các mối quan hệ của con người cũng trở thành hàng hóa, chỉ riêng lĩnh vực thuê mướn, sử dụng sức lao động và trả công mới mang quan hệ hàng hóa - tiền tệ và chỉ trên mặt đó mà thôi. ở nước ta hiện nay, quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường biểu hiện như sau: Một là, trên phạm vi cả nước, cung về lao động lớn hơn cầu về lao động và tình trạng này tiếp tục kéo dài trong những năm tới dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm. ở đây, chủ yếu xét đến khả năng phát triển việc làm còn rất hạn chế, mặc dù tiềm năng còn rất lớn. Bởi vì chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch, nhưng diễn ra chậm chạp và khó khăn. Hai là, cung lớn hơn cầu về lao động còn được xem xét về mặt tăng cung lao động với tỷ lệ còn cao, hàng năm lao động tăng 3,2% - 3,5%, dẫn đến mỗi năm có khoảng 1,1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Đến năm 2000 tỷ lệ tăng tự nhiên nguồn lao động vẫn trên 2,8% [8, tr. 121-122]. Số này tham gia vào thị trường lao động ngày một đông và với khả năng tự giải quyết việc làm rất khác nhau. Song họ có điểm chung rất cơ bản là thường không có nghề. Vì vậy, công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp bách và có tính chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của lao động trên thị trường. Ba là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu chỉ làm thuần nông, tự cung, tự cấp, lao động thiếu hoặc không có việc làm lên đến 30%. Số này sẽ tự do di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung để tìm kiếm việc làm. Lao động tự do di chuyển từ nông thôn ra tìm kiếm việc làm ở thành thị và các vùng khác sẽ làm cho cung về lao động trên thị trường lao động càng lớn. Bốn là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về mặt kết cấu, dẫn đến tình trạng "thất nghiệp kết cấu". Điều này thể hiện ở chỗ một số ngành tiềm năng còn lớn, có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng chưa tạo ra được những điều kiện để biến khả năng thành hiện thực (về vốn, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật, công nghệ, thị trường tiêu thụ…) như lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch…ở một số vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển còn nhiều đối tượng lao động và thiếu lao động, nhưng khả năng di dân và di chuyển lao động đến rất hạn chế. Trong khi đang có xu hướng đẩy lao động ra ở một số lĩnh vực, đồng thời lại xuất hiện một số lĩnh vực và hình thức khác đang có khả năng thu hút thêm lao động như kinh tế hộ gia đình, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ, nhưng lại chưa có chính sách khuyến khích thỏa đáng. Đặc biệt là thiếu một đội ngũ lao động trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp dụng công nghệ mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… 1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta còn rất nhiều khó khăn. Đất nước vẫn chưa thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội; tình hình lao động, việc làm trở thành vấn đề xã hội gay gắt và bức xúc, quan hệ đến từng gia đình, là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, của toàn xã hội và mọi người. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã thực hiện đường lối đổi mới và bằng hệ thống các chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân tố mới đa dạng để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Nhận thức, quan niệm và chủ trương về tạo việc làm trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường đã được thay đổi theo tư duy mới - Bước ngoặt trong đổi mới về việc làm ở Việt Nam. Quan niệm về việc làm đã được ghi rõ ở Điều 13 chương II Bộ luật Lao động: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Chủ trương về tạo việc làm đã được chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng như sau: "Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn " [10, tr. 114-115]. Đối với người lao động: cơ hội lựa chọn việc làm ngày càng được mở rộng. Từ chỗ thụ động, trông chờ vào sự bố trí công việc của Nhà nước, người lao động trở nên năng động hơn, chủ động tự tạo việc làm trong các thành phần kinh tế cho mình và cho người khác. Các quan hệ lao động - việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự do phát huy năng lực của mình, được giải phóng khỏi khuôn phép của cơ chế cũ và tự chủ hơn trong tìm kiếm việc làm phù hợp với quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường. Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp, nên đẩy mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến khích phát triển, mở ra khả năng to lớn tăng trưởng việc làm. Đối với Nhà nước, vai trò trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản. Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ chế, chính sách thông thoáng, tạo hành lang pháp luật, xóa bỏ hàng rào về hành chính và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, tự do hành nghề, hợp tác và thuê mướn lao động. Cơ hội việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý chí chủ quan của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao động… Giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp là mục tiêu xã hội hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm là chương trình trọng điểm của Nhà nước. Đảng ta luôn coi: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân " [12, tr. 210]. Để giải quyết việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là Nhà nước phải tạo ra các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có rất nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Theo Bộ luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế quản lý hành chính về lao động sang cơ chế thị trường. Việc triển khai Bộ luật này đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội trong thời gian qua. Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: luật đầu tư nước ngoài, luật đất đai, luật doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước… đã thúc đẩy các yếu tố của các thị trường, trong đó thị trường lao động hình thành, mở ra tiềm năng mới giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm. Đồng thời với các cải tiến trong quản lý hành chính, hộ khẩu, hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền tệ hóa tiền lương, tách chính sách tiền lương, thu nhập khỏi chính sách xã hội, góp phần làm tăng tính cơ động của lao động. Phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo và dịch vụ việc làm nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, bổ sung và hoàn thiện một số chính sách vĩ mô sau: Chính sách huy động các nguồn vốn Vốn là nhân tố cơ bản của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung và giải quyết việc làm nói riêng. Sự gia tăng về vốn làm tăng năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy gia tăng sản lượng và năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất ra, tạo khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nhân tố: tài nguyên, lao động… Huy động tối đa các nguồn vốn trong nước kết hợp với việc thu hút các nguồn vốn bên ngoài để phát triển sản xuất, mở rộng và phát triển việc làm cho lao động toàn xã hội. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư " [10, tr. 228]. Vốn trong nước là quan trọng nhất không chỉ ở tỷ lệ của nó trong tổng nguồn vốn đầu tư phát triển, mà còn là nhân tố đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế và là điều kiện, tiền đề để thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn bên ngoài. Yêu cầu vốn đầu tư với quy mô lớn như vậy, điều kiện hiện nay của nền kinh tế không thể đáp ứng đầy đủ được bằng nguồn vốn trong nước. Do đó, thu hút các nguồn vốn bên ngoài có ý nghĩa rất quan trọng. Chính sách đất đai Chính sách đất đai luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta, là một vấn đề quan trọng trong hệ thống chính sách phát triển kinh tế và phát triển nông nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, hội nhập và mở cửa, chính sách đất đai không chỉ là công cụ điều hành vĩ mô về kinh tế, mà còn trực tiếp tác động đến đời sống xã hội, chính trị của đất nước, của các địa phương và cuộc sống của hàng chục triệu con người. Đối với nước ta đất đai là đối tượng cơ bản nhất của quá trình sản xuất và phát triển việc làm, đặc biệt là ở nông thôn. Theo Luật Đất đai, đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Người nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, được chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất để tập trung ruộng đất vào các hộ gia đình có khả năng sản xuất nông nghiệp hàng hóa… Đó là những chính sách rất cơ bản trong lĩnh vực ruộng đất, góp phần to lớn vào giải phóng tiềm năng lao động, tạo mở việc làm. Tuy nhiên, dưới góc độ chính sách việc làm, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nông dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo ra việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Chính sách thuế Thuế là nguồn thu quan trọng nhất, chủ yếu nhất của ngân sách Nhà nước, là công cụ cơ bản điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư. Mặt khác, thuế còn là đòn bẩy mạnh mẽ khuyến khích sản xuất phát triển, tạo mở việc làm. Xét cho cùng, thì vấn đề sau mới là quan trọng nhất, quyết định nhất. Bởi vì chỉ có khuyến khích phát triển sản xuất, tạo việc làm mới và tăng nguồn thu cho ngân sách ngày càng lớn. Mặc dù nước ta đã có luật thuế, Chính phủ cũng luôn thay đổi mức thuế cụ thể cho phù hợp với thực tế. Song, để khuyến khích các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho nhiều người trong cơ chế thị trường, Nhà nước "tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai, minh bạch, giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư; khuyến khích phát triển sản xuất và đảm bảo công bằng xã hội. Tiến hành cải cách thuế giai đoạn 3 theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, giảm tỷ trọng thuế gián thu, áp dụng các sắc thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động sản" [12, tr. 327]. Chính sách đầu tư Chính sách đầu tư là hệ thống chính sách khuyến khích và bảo đảm đầu tư của Nhà nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. Chính sách đầu tư phát triển dựa vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia; chính sách tích lũy tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, chính sách tạo vốn và sử dụng vốn. Chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hội nhập với khu vực và thế giới, giải phóng sức sản xuất xã hội. ở tầm vĩ mô, đó là quan điểm cơ bản để khuyến khích đầu tư. Lực lượng tham gia đầu tư được mở rộng: vốn ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, nguồn vốn của dân cư, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Hình thức đầu tư được mở rộng bao gồm: đầu tư của ngân sách, tín dụng Nhà nước, tín dụng ngân hàng, và đầu tư gián tiếp thông qua cổ phiếu, trái phiếu. Chính sách khuyến khích đầu tư bao gồm hệ thống chính sách tạo điều kiện và môi trường thuận lợi: sự ổn định về chính trị, xã hội, môi trường kinh tế, cơ sở hạ tầng, tâm lý và hệ thống chính sách khuyến khích của Nhà nước vào những lĩnh vực, vùng nhất định; chính sách khuyến khích đầu tư ngoài nước và chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Ngoài ra, Nhà nước sử dụng hệ thống các chính sách, tạo điều kiện và môi trường khuyến khích đầu tư. Bằng hệ thống chính sách, Nhà nước có thể khuyến khích đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, vùng cần thiết thông qua các công cụ thuế, tín dụng, giá đất đai, tỷ giá, chính sách bảo hộ có chọn lọc và có thời gian để phát triển những ngành công nghiệp non trẻ. 1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số tỉnh 1.3.1. Kinh nghiệm của Sơn La Sơn La là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc của nước ta, có diện tích 1.405,5 nghìn ha, với số dân là 906.800 người; trong đó, người trong độ tuổi lao động chiếm 46% dân số. Tỷ lệ lao động ở khu vực nông thôn chiếm 74,88% số lao động của tỉnh. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng còn thấp, mới chỉ đạt từ 68-72%. Như vậy, 1/4 thời gian nông nhàn cần các ngành nghề, dịch vụ, tạo nguồn thu nhập cho bà con nông dân đang đặt cho tỉnh Sơn La bài toán cần giải quyết. Mặt khác, mỗi năm có khoảng 7.000 học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, chỉ có 1.950 em vào học tiếp các trường phổ thông trung học, còn khoảng 5.000 cần được đào tạo nghề, hướng nghiệp. Hàng nghìn học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ra trường, bộ đội xuất ngũ bổ sung cho lực lượng lao động của tỉnh; đây là một áp lực lớn trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh [45, tr. 2]. Trong 10 năm qua, đặc biệt là 5 năm gần đây tình hình kinh tế - xã hội ở Sơn La có nhiều khởi sắc, chuyển dịch kinh tế đúng hướng, nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, GDP đạt mức bình quân 9,6%/năm, tổng sản phẩm quốc dân tăng gấp đôi, giảm tỷ lệ đói nghèo từ 31,4% xuống còn xấp xỉ 15% [45, tr. 2]. Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở Sơn La có thể rút ra một số bài học về giải quyết việc làm như sau: - Hạ thấp tỷ lệ tăng dân số. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên từ 3,55% (năm 1991), đến nay giảm còn khoảng 2,25%; góp phần giảm áp lực gia tăng dân số. - Tổ chức cân đối lại lực lượng lao động giữa các khu vực thị trấn, thị xã với khu vực nông thôn, giữa sản xuất công nghiệp, dịch vụ với sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó đã tạo ra hàng vạn chỗ làm việc, hàng chục nghìn hộ gia đình sản xuất ổn định, thu nhập ngày một tăng. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất hàng hóa, phá thế độc canh, tự cấp, tự túc; mô hình kinh tế trang trại mà vai trò chủ sản xuất là hộ gia đình đang được hình thành. Xây dựng mô hình trang trại cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi phát triển mạnh ở các vùng, tạo thêm hàng vạn chỗ làm việc. - Mở rộng các ngành nghề dịch vụ, các hình thức tổ chức sản xuất mới để tạo thêm việc làm mới. 1.3.2. Kinh nghiệm của Hà Nội Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, có tốc độ phát triển và quá trình đô thị hóa nhanh, thị trường lao động Hà Nội cũng phát triển sôi động hơn các địa phương khác. Lực lượng lao động ở Hà Nội có chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn các tỉnh lân cận. Những năm qua Hà Nội đã tạo mở nhiều việc làm cho người lao động, trong thời gian 1995-1998 số người được giải quyết việc làm trong khu vực thành thị khoảng 171.698 người. Kinh tế của Hà Nội phát triển với tốc độ tương đối nhanh và liên tục so với các địa phương trong cả nước. GDP bình quân đầu người của Hà Nội không ngừng tăng lên, năm 1995 đạt trên 6 triệu VND (tương đương với 564 USD theo tỷ giá năm 1995), bằng 2,1 lần bình quân chung cả nước và 1,6 lần vùng đồng bằng sông Hồng. Năm 1996 đạt 7,2 triệu, năm 1997 đạt 8,2 triệu, năm 1998 đạt 8,9 triệu đồng/người [29, tr. 58]. Có thể khái quát lại kinh nghiệm của Hà Nội về giải quyết việc làm như sau: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH gắn với sự phát triển đa dạng các ngành nghề sử dụng nhiều lao động. - Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn ngoại thành, phát triển thị trường lao động tại chỗ: đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất cây trồng, thu hút lao động, phát triển nông nghiệp đa dạng, tạo thêm việc làm ở các huyện ngoại thành, phát triển chăn nuôi và kinh tế vườn, thực hiện đồng bộ chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển ngành nghề và dịch vụ nhỏ ở nông thôn. - Phát triển mạnh quan hệ kinh tế với các nước và xuất khẩu lao động. - Hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo và dạy nghề cho người lao động. - Tạo môi trường thuận lợi, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tạo việc làm, có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển thị trường lao động, tạo việc làm phù hợp. - Đổi mới tổ chức hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm ở Hà Nội. - Tăng cường các biện pháp quản lý di dân tự do đến Hà Nội. - Hoàn thiện bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ này. 1.3.3. Kinh nghiệm của Thanh Hóa Thanh Hóa là một tỉnh nông nghiệp, có số dân đông đúc, nguồn lao động dồi dào: hơn 1,8 triệu; nhưng chất lượng lao động thấp: năm 1997 tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I là 13,26%, tốt nghiệp cấp I và cấp II là 70,11%, tốt nghiệp cấp III chỉ có 16,63%; lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật mới đạt 12,18% (theo kết quả điều tra năm 1994); trong đó lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 2,01%, trung học chuyên nghiệp là 5,12% và công nhân kỹ thuật là 5,05%. Nguồn lao động lại phân bố không đều và tập trung chủ yếu trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp (trên 83%). Lao động làm việc trong các ngành thương mại, du lịch, dịch vụ thấp (4%) nhưng lại có xu hướng không ổn định. Lao động làm việc trong khu vực quốc doanh chỉ chiếm gần 7% và đang có xu hướng giảm sút. Điều đáng quan tâm là cơ cấu lao động phân bố theo khu vực chưa hợp lý, ở trung du, miền núi diện tích đất tự nhiên chiếm tới 2/3 diện tích toàn tỉnh, nhưng lao động chỉ có 23,45%. Hàng năm toàn tỉnh có hơn 3 vạn người đến tuổi lao động chưa có việc làm (chưa kể số lao động của năm trước chuyển sang), số lao động thất nghiệp ở thành thị còn cao hơn (năm 1996: 6,16%, năm 1998: 6,42%); tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn phổ biến (mới sử dụng hơn 70% quỹ thời gian làm việc trong năm) [20, tr. 35]. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, những năm qua Thanh Hóa đã có nhiều cố gắng tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến, đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi, chăm sóc bảo vệ rừng, phát triển khai thác hải sản xa bờ, nuôi trồng thủy sản, thành lập các cơ sở sản xuất mới, mở mang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, mở rộng diện tích vụ đông… Trong ba năm 1996 - 1998 Thanh Hóa đã tạo thêm việc làm mới cho hơn 9 vạn lao động và hàng vạn lao động có việc làm đầy đủ hơn, nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn từ 66,7% năm 1996 lên 72,6% năm 1998 [20, tr. 35]. Kinh nghiệm về giải quyết việc làm của Thanh Hóa được thể hiện như sau: - Tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển; đồng thời, gắn các chương trình kinh tế - xã hội với chương trình giải quyết việc làm. - Đẩy mạnh đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, từng bước thay đổi cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhanh tỷ lệ đào tạo công nhân kỹ thuật, đặc biệt là lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi, cơ khí, dịch vụ và khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống ở nông thôn; khuyến khích các cơ sở tư nhân mở cơ sở dạy nghề, đặc biệt là đào tạo nghề truyền thống của địa phương. - Tăng cường các hoạt động dịch vụ việc làm trên cơ sở củng cố và tăng cường các trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh, nhằm tư vấn cho người lao động chọn nghề học, hình thức, nơi học, chọn nơi làm việc, tư vấn về pháp luật lao động; đồng thời cung cấp thông tin về thị trường lao động và người sử dụng lao động, tổ chức cung ứng lao động cho người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật lao động. - Hỗ trợ trực tiếp cho người lao động tạo thêm việc làm ở cả nông thôn và thành thị. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế trang trại, gia đình, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thành lập quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm của tỉnh và Ban chỉ đạo giải quyết việc làm ở cả 3 cấp: tỉnh, huyện, xã. - Có chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất như: tạo điều kiện thuận lợi cho thuê mướn địa điểm tổ chức sản xuất, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, miễn giảm thuế trong thời gian đầu cho các mặt hàng mới, nhất là các mặt hàng sử dụng nguyên liệu, lao động tại địa phương; củng cố quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển: mở rộng các HTX tín dụng ở các địa phương, khuyến khích, xây dựng, kiện toàn và phát triển các mô hình mới về tổ chức sản xuất - kinh doanh như: đầu tư - sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ sản phẩm; thiết lập các mối quan hệ hợp tác trên cơ sở hợp đồng kinh tế, điều hòa lợi ích thỏa đáng giữa người sản xuất nguyên liệu với người chế biến ra thành phẩm, đầu tư ứng trước về vốn, giống, kỹ thuật để thu mua sản phẩm. 1.3.4. Kinh nghiệm của Đồng Nai Đồng Nai là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, có diện tích 586.034 ha, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên của cả nước, với số dân 1.984.541 người. Là một tỉnh có tiềm năng kinh tế về nhiều mặt, lại nằm trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế của các tỉnh phía Nam, nằm cạnh thành phố Hồ Chí Minh -một trung tâm kinh tế lớn và năng động nhất cả nước; Đồng Nai có nhiều kiện kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. UBND Tỉnh đã xây dựng chương trình giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh và hình thành các chương trình, dự án có mục đích như: di dân, định canh định cư, chương trình 327/HĐBT, cho vay vốn theo dự án nhỏ giải quyết việc làm tại chỗ, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế và tạo việc làm cho đối tượng tệ nạn xã hội. Mặt khác, công tác quản lý nhà nước về lao động, việc làm đã được chú ý và tăng cường. Đồng thời, tỉnh cũng mở rộng quan hệ với nước ngoài và đã tranh thủ được các nguồn tài trợ của một số tổ chức quốc tế, để xây dựng kết cấu hạ tầng, hỗ trợ vốn tạo việc làm, nhất là cho người nghèo ở vùng sâu, vùng xa. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, dịch vụ. Từ năm 1991 - 2000 đã giải quyết việc làm cho 499.939 lao động. Trong 10 năm lao động được tuyển vào các doanh nghiệp là 197.634 người chủ yếu là ở thành phố Biên Hòa và các thị trấn trong tỉnh. Trong đó DNNN tuyển 17.960 lao động, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH: 80.074 lao động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: 99.600 lao động. Giải quyết việc làm tại chỗ tạo được 302.305 chỗ làm việc mới. Trong đó dự án 120 tạo được 68.874 lao động, xóa đói giảm nghèo: 65.371, các chương trình khác: 168.060 [18, tr. 53]. Để có được những kết quả nói trên, Đồng Nai đã tiến hành một số chủ trương và biện pháp như sau: - Chương trình giải quyết việc làm được xác định là một chương trình kinh tế - xã hội quan trọng đã được các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm thực hiện nghiêm túc, để tạo lập điều kiện, môi trường và các nguồn lực quan trọng nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. - Quan niệm về việc làm đã được người lao động nhận thức và hiểu theo đúng nghĩa là những hoạt động tạo ra thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm. Họ đã chủ động bỏ vốn ra để sản xuất, tự tạo việc làm cho mình và cho người khác thông qua cơ chế, chính sách của Nhà nước. - Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức, đoàn thể tại cơ sở như: Hội Nông dân tập thể, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Thông qua các tổ chức này người lao động được hưởng quyền lợi thiết thực là giải quyết việc làm, cho vay vốn sản xuất, vay vốn xóa đói giảm nghèo, hưởng các công trình phúc lợi của các dự án có mục tiêu… - Phát triển trung tâm dịch vụ việc làm trên địa bàn tỉnh, thực hiện tốt nhiệm vụ cung ứng lao động cho các thành phần kinh tế, nhất là giới thiệu lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Giải quyết việc làm gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh. - Huy động tối đa mọi nguồn vốn trong tỉnh kết hợp với việc thu hút các nguồn vốn bên ngoài, thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó có chương trình giải quyết việc làm. - Cho vay vốn giải quyết việc làm tại chỗ theo Nghị quyết 120/HĐBT đã góp phần vào chương trình giải quyết việc làm nói chung trong toàn tỉnh, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực. - Ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và những người có khả năng để đầu tư mở các cơ sở dạy nghề, các trường đào tạo nghề cùng với Nhà nước, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, đáp ứng được những yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chương 2 Thực trạng giải quyết việc làm và những bức xúc đặt ra ở tỉnh Bắc Ninh 2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên [45, tr. 4-5] Bắc Ninh là một tỉnh mới tái lập năm 1997 từ tỉnh Hà Bắc cũ. Nằm trong châu thổ sông Hồng, Bắc Ninh tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang ở phía Bắc, tỉnh Hải Dương ở phía Đông, thành phố Hà Nội ở phía Nam và Tây. Bắc Ninh nằm sát ven dải hành lang đường 18 và nằm trong vùng kinh tế trọng điểm tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Khu vực có tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh._.nh nghiệp lớn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực hiện đào tạo theo phương thức vừa học, vừa làm. - Cần cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư tư nhân trong mọi lĩnh vực. - Khuyến khích các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại để giải quyết việc làm tại chỗ. Các cấp chính quyền có vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin, giới thiệu sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ và tạo cầu nối giữa nông dân và các cơ quan hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân. - Nâng cao hiệu quả thực hiện các chương trình giải quyết việc làm bằng cách xây dựng hệ thống hướng dẫn, giám sát, kiểm tra điều chỉnh chặt chẽ từ cơ quan của tỉnh đến các cấp cơ sở. Nâng cao vai trò của các cấp chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm, bao gồm trách nhiệm về đóng góp tài chính, hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn kỹ thuật, giám sát và đánh giá, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chương trình khi không đạt được mục tiêu. Không nên thực hiện chương trình giải quyết việc làm một cách dàn trải, nên ưu tiên cho các vùng căng thẳng về giải quyết lao động và cần sự hỗ trợ của Nhà nước Trung ương. Tuy nhiên, chương trình cũng chỉ nên triển khai ở một số nơi đã có đủ điều kiện về đội ngũ cán bộ địa phương am hiểu thực tế và có khả năng giám sát, đánh giá hiệu quả của các biện pháp giải quyết việc làm, ở nơi người lao động có đủ khả năng vay vốn để tự tạo công ăn việc làm. - Cần hoàn thiện khung pháp luật về lao động như quy định về tiền công, tiền lương, các chế độ đối với người lao động khi chuyển việc, thôi việc, mất việc, an toàn lao động… 3.2.4. Hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích không lớn 803,87 km2 với số dân cũng không nhiều 951.600 người, nhưng mật độ dân số lại quá cao 1.184 người/km2 (gấp hơn hai lần mật độ dân cư của cả nước). "Đất chật, người đông", vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh còn hạn hẹp. Do đó, hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số nhằm tạo ra sự phù hợp giữa quy mô, tốc độ tăng của nguồn lao động với khả năng thu hút việc làm là một giải pháp quan trọng làm giảm sức ép về việc làm hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh. Thực tế cho thấy, tốc độ tăng dân số Bắc Ninh giảm dần chủ yếu là do tỷ lệ sinh giảm xuống. Năm 2000, tốc độ tăng tự nhiên là 1,22% thấp hơn so với trung bình cả nước. Dự kiến đến năm 2005 tỷ lệ đó giảm xuống 0,97% và năm 2010 còn 0,87%. Để đạt được tốc độ tăng tự nhiên trên đây, đồng thời kiểm soát được dân số nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản về phát triển kinh tế của tỉnh, hàng năm bằng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, Bắc Ninh cố gắng giảm tỷ lệ sinh tối thiểu từ 0,03 - 0,05%/năm. Bảng số 10: Dự báo dân số Bắc Ninh theo các giai đoạn Năm Dân số (người) Dưới tuổi LĐ (người) Trong tuổi LĐ (người) Trên tuổi lao động (người) Tỷ lệ sinh (%) Tỷ lệ tăng tự nhiên (%) 2000 2005 2010 2020 951.600 1.000.400 1.058.000 1.174.000 390.900 400.600 412.800 434.400 485.000 517.100 550.200 622.200 76.100 86.300 95.000 117.400 1,64 1,39 1,29 1,02 1,22 0,97 0,87 0,62 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [45, tr. 20]. Để thực hiện được mục tiêu, chiến lược dân số mà tỉnh đã đề ra, cần thực hiện các biện pháp sau đây: - Làm tốt công tác truyền thông dân số đến từng gia đình, đến từng cá nhân, để mọi người hiểu rõ được nội dung kế hoạch hóa gia đình. Thông qua việc giáo dục dân số của các đoàn thể, các tổ chức xã hội… làm cho mọi người hiểu được lợi ích và sự cần thiết của kế hoạch hóa gia đình, thực hiện mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con. - Bảo đảm các dịch vụ kỹ thuật tránh thai một cách dễ dàng, an toàn và có hiệu quả. Hỗ trợ hoặc có thể cung cấp miễn phí các phương tiện, dụng cụ trách thai và các dụng cụ y tế, thuốc men cho những người thực hiện kế hoạch hóa gia đình. - Công tác giáo dục dân số và kế hoạch hóa gia đình đến từng gia đình, từng vùng dân cư, thôn xóm phải thông qua các cán bộ chuyên trách công tác kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy, cần phải đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ này, đồng thời cũng cần phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với họ. Có như vậy mới thực hiện thành công được chương trình DS-KHHGĐ. - Nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân trong tỉnh, nhất là đối với người sống ở khu vực nông thôn. Giúp họ hiểu được lợi ích của việc kế hoạch hóa gia đình đối với chính bản thân họ, với gia đình họ và đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. - Cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người không chịu thực hiện kế hoạch hóa gia đình, sinh con thứ 3 trở lên. 3.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề để đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn lao động Đào tạo nghề là sự nghiệp của toàn xã hội. Đầu tư cho đào tạo nghề là đầu tư cho phát triển bền vững và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội trực tiếp. Vì vậy, đào tạo nghề đòi hỏi sự đầu tư lớn, Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất ban đầu cho các cơ sở đào tạo; đặc biệt là đối với những ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành trọng yếu của nền kinh tế quốc dân, cho xuất khẩu lao động và cho những vùng khó khăn; đồng thời tạo điều kiện và môi trường để mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia phát triển đào tạo nghề, đặc biệt là những ngành nghề phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu đào tạo nghề ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010 [6, tr. 7]: - Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực kỹ thuật với chất lượng cao, với quy mô và cơ cấu ngành nghề hợp lý phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập. - Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề, gắn đào tạo với việc làm, với sử dụng lao động, phấn đấu đến năm 2010 sẽ có khoảng 80% lao động có việc làm sau khi đào tạo. - Cải tổ hệ thống giáo dục nghề nghiệp để: + Hình thành hệ thống mạng lưới rộng khắp với quy mô và số cơ sở trọng điểm hợp lý nhằm vừa đáp ứng nhu cầu đào tạo đại trà, vừa đáp ứng nhu cầu đào tạo mũi nhọn. + Tổ chức đào tạo đa dạng, linh hoạt, liên thông để đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất và đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người lao động. + Bộ máy quản lý nhà nước được tổ chức năng động, đơn giản, gọn nhẹ nhưng đủ mạnh để quản lý hệ thống và phải dành quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo trong điều kiện luôn biến động của thị trường. Tình hình hiện nay ở nước ta, tâm lý chung của học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học là muốn vào các trường đại học và đó cũng là mong muốn của các bậc cha mẹ. Chính vì vậy, mà hàng năm số lượng thí sinh thi vào các trường đại học ngày càng đông. Ngược lại, số thanh niên vào học các trường nghề rất ít, phần lớn là do hoàn cảnh khó khăn hoặc học lực yếu. Bên cạnh đó, trường dạy nghề chính quy hiện nay vẫn dạy theo chương trình cũ còn các doanh nghiệp thì lại nhập thiết bị mới, vì vậy, "sản phẩm" của các trường chính quy không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Một bất cập lớn đang diễn ra hiện nay là đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng kinh tế, chưa gắn với sản xuất và thị trường lao động. Nhiều cơ sở dạy nghề đang rơi vào tình trạng dạy cho người học "cái mình có" chứ không dạy "cái thị trường cần" để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội. Đào tạo công nhân kỹ thuật lại chưa có các chính sách phù hợp. Những chính sách gắn đào tạo với việc làm vô cùng lỏng lẻo, danh mục nghề đào tạo, danh mục nghề xã hội, tiêu chuẩn cấp bậc nghề… còn đang để trống. Cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý, mấy năm gần đây, kế hoạch đào tạo đại học đã vượt quá 50%, còn đào tạo công nhân đạt tỷ lệ quá thấp. Nhiều trường cùng đào tạo một nghề trên một địa bàn, có nghề lại không có trường nào đào tạo. ở Bắc Ninh số người chưa được đào tạo nghề còn rất lớn chiếm 90% lực lượng lao động của tỉnh. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất thấp 11,77% (năm 2000). Để nâng cao chất lượng nguồn lao động của tỉnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường lao động, thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2001 - 2010 cần phải đẩy mạnh các hình thức đào tạo nghề. Trong điều kiện của Bắc Ninh hiện nay, yêu cầu đẩy mạnh các hình thức đào tạo nghề rất cần thiết để vừa bổ sung, cải thiện hiện trạng nguồn nhân lực, khắc phục những bất hợp lý về phân bổ nguồn nhân lực, những khó khăn về nguồn lực, nhất là về tài chính, nâng cao hiệu quả đầu tư cho đào tạo nghề của tỉnh. Vì vậy, cần phải thực hiện các biện pháp sau: Thứ nhất, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội: làm chuyển biến nhận thức của mọi người dân về vị trí và vai trò của công tác đào tạo nghề đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng như đối với việc làm và sự ổn định phát triển của mỗi người, mỗi gia đình. Duy trì các hoạt động thi tay nghề, thi thầy giỏi, trò giỏi, thợ giỏi. Tôn vinh về giá trị xã hội đối với người có "bàn tay vàng", đối với các nghệ nhân… tạo phong trào thi đua yêu nước trong lĩnh vực đào tạo nghề. Các cấp chính quyền cần phối hợp với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây dựng phong trào thanh niên học nghề, lập nghiệp; với hội Phụ nữ về đào tạo nghề cho phụ nữ; với Liên đoàn lao động về tổ chức phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi; với Hội khuyến học nhằm đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề trong mọi tầng lớp dân cư. Thứ hai, huy động ngân sách cho công tác đào tạo nghề: tăng ngân sách cho đào tạo nghề bằng huy động từ nhiều nguồn: ngân sách Nhà nước cấp, các nguồn hợp tác quốc tế thông qua các dự án hỗ trợ và vay vốn, các doanh nghiệp có trách nhiệm đóng góp cho đào tạo nghề, các nguồn đầu tư của tổ chức trong và ngoài nước, huy động đóng góp của cá nhân và gia đình người học… Đổi mới cơ chế cấp, phát quản lý và sử dụng ngân sách theo hướng ngân sách cho đào tạo nghề được phân bổ trực tiếp đến các cơ sở dạy nghề. Thứ ba, đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo nghề: phải thường xuyên cập nhật kiến thức, thông tin mới, nâng dần nội dung chương trình giảng dạy, chất lượng nguồn nhân lực lên ngang các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào hay xuất khẩu lao động sang các nước khác ngày càng nghiêng về lao động được đào tạo, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Ngoài ra, còn phải chú ý đến khâu thực hành, ứng dụng, giáo dục kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp, rèn luyện kỹ năng và những khả năng thích ứng của người lao động với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường. Đặc biệt cần có nội dung, chương trình đào tạo riêng phù hợp cho những đối tượng tham gia xuất khẩu lao động như ngoại ngữ, chuyên môn kỹ thuật, những kiến thức về kỷ luật lao động của doanh nghiệp nước sẽ đến. Thứ tư, mở rộng quy mô và các hình thức đào tạo nghề. - Hệ thống đào tạo nghề bao gồm tất cả các cơ sở dạy nghề thuộc loại hình: công lập, bán công, dân lập, tư thục chịu sự quản lý của Nhà nước. Hệ thống đào tạo nghề bao gồm: + Các trung tâm dạy nghề do chính quyền địa phương, cơ sở, các tổ chức đoàn thể xã hội thành lập để đào tạo nghề ngắn hạn cho người lao động. + Đào tạo nghề tại các doanh nghiệp. + Các cơ sở, lớp đào tạo nghề tư nhân. + Các trường đào tạo nghề chính quy của Nhà nước. + Đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế. - Đa dạng hóa các hình thức đào tạo nghề: ngoài đào tạo tập trung, chính quy cần coi trọng các hình thức đào tạo tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo lại, đào tạo ngoài giờ, kèm cặp tại các cơ sở sản xuất. Khuyến khích các nghệ nhân, thợ cả mở lớp dạy nghề theo phương pháp truyền nghề trực tiếp. Thứ năm, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề: củng cố và nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề. Tăng cường quản lý đối với các cơ sở đào tạo nghề, nắm chắc đối tượng quản lý, nội dung quản lý, kế hoạch hóa công tác đào tạo hàng năm và dài hạn. Cần tăng cường tổ chức kiểm tra, thanh tra về thực hiện mục tiêu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, quy chế chuyên môn, quy chế thi cử, cấp văn bằng chứng chỉ, chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề. Thứ sáu, Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng và thường xuyên chăm lo đến đời sống của đội ngũ giáo viên và những người đã qua đào tạo; cải tiến chế độ tiền lương, phụ cấp và nâng cao vị trí xã hội của người dạy nghề, nhằm tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hết khả năng chuyên môn, không ngừng phấn đấu vươn lên đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3.2.6. Tiến hành hợp tác lao động quốc tế Hiện nay sự nỗ lực tạo thêm việc làm trong tỉnh chỉ mới giải quyết được một phần trong số lao động không có việc làm. Hàng năm lại có thêm một vạn người đến tuổi lao động. Trước tình hình đó, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế - xã hội cần được đẩy mạnh nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế. Để xuất khẩu lao động thực hiện được mục tiêu: góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, bồi dưỡng đào tạo một đội ngũ lao động có tay nghề vững vàng đáp ứng được yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước, tạo thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, tăng cường hợp tác mối quan hệ quốc tế cần thực hiện các giải pháp sau: 1. Tổ chức tốt việc đào tạo chuẩn bị đủ nguồn lao động đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động quốc tế. Người lao động cần được đào tạo toàn diện cả ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức pháp luật và sự hiểu biết khác… phục vụ cho quá trình làm việc và sinh sống tại nước ngoài. Ngoài ra, còn phải giáo dục về kiến thức pháp luật, sự hiểu biết về đất nước, con người, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo… Đây là những nội dung cần thiết trang bị cho người lao động để họ thích nghi được với môi trường mới. Cần xây dựng các trung tâm dạy nghề và ngoại ngữ riêng cho lĩnh vực xuất khẩu lao động. Chương trình đào tạo phải được biên soạn cho phù hợp với từng khu vực, từng nước, đảm bảo chất lượng nguồn lao động đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động quốc tế. 2. Xây dựng cơ chế cho vay tín dụng từ các nguồn vốn quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xóa đói giảm nghèo và các nguồn vốn khác để cho các đối tượng nghèo và đối tượng chính sách vay với lãi suất ưu đãi. Các tổ chức tín dụng cũng cần có cơ chế cho người nghèo và các đối tượng chính sách vay với lãi suất thấp để trang trải chi phí đi làm việc ở nước ngoài. Các chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội bảo lãnh, bằng tín chấp để giảm chi phí cho người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn và các đối tượng xã hội đi làm việc ở nước ngoài. 3. Cần có chính sách, chế độ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đào tạo người lao động xuất khẩu. Hiện tại các doanh nghiệp còn yếu kém về cơ sở vật chất, vốn liếng còn nghèo nàn, kinh nghiệm lại chưa nhiều. Lao động Việt Nam cần cù, thông minh nhưng cũng có nhiều điểm yếu kém (nhất là về trình độ ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật), nếu không được đào tạo thì họ khó có khả năng được chấp nhận ở các thị trường sử dụng lao động nước ngoài. 4. Hoàn thiện hệ thống quản lý xuất khẩu lao động. Hệ thống quản lý xuất khẩu lao động cần được đổi mới theo hướng tinh giảm đầu mối trung gian, hoàn thiện bộ máy tinh gọn nhưng hiệu quả hoạt động cao. Có như vậy mới giảm được chi phí, tránh được phiền hà và cả những tiêu cực do bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực mang lại. Bộ máy quản lý phải bao quát và xử lý tốt mọi nội dung quản lý nhà nước, đảm bảo tính linh hoạt, năng động. Cán bộ quản lý xuất khẩu lao động phải có trình độ ngoại ngữ thành thạo, thông hiểu được phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước nơi đang làm việc. Mặt khác, phải có trình độ nghiệp vụ và vốn sống, kinh nghiệm của người làm công tác quản lý lao động ở nước ngoài, người quản lý phải là người đại diện bảo vệ cho quyền lợi người lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. 5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối với chương trình xuất khẩu lao động. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền vừa là biện pháp thúc đẩy công tác xuất khẩu lao động phát triển, vừa ngăn ngừa những hành vi tiêu cực. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chương trình xuất khẩu lao động. Giúp người lao động nắm được tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra đối với người đi xuất khẩu lao động. Qua đó họ hiểu được các mánh khóe lừa đảo và các hành vi tiêu cực để phòng tránh. 6. Ban hành các chính sách, chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với mọi đối tượng có liên quan đến xuất khẩu lao động. Cần có các biện pháp hữu hiệu ngăn chặn tình trạng tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động. Những cá nhân và tổ chức nào có hành vi phạm pháp (lừa gạt, chiếm đoạt tài sản hoặc vô trách nhiệm khi tổ chức đưa người ra nước ngoài…) đều bị trừng phạt thích đáng theo pháp luật. Kết luận Giải quyết việc làm đang là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt, là vấn đề gay cấn và nhạy cảm đối với cộng đồng, đối với từng gia đình và mọi thành viên trong xã hội. Giải quyết việc làm không những có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội mà còn thể hiện rõ năng lực tổ chức quản lý cũng như bản chất chính trị của Nhà nước. Bắc Ninh là một tỉnh "đất chật, người đông", dân số tuy không lớn nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn cao, tình trạng thất nghiệp ở khu vực nông thôn tuy không nhiều nhưng tình trạng dư thừa lao động lại khá cao. Chính vì vậy, tạo mở việc làm, hạn chế thất nghiệp là một vấn đề kinh tế - xã hội đang được đặt ra một cách bức bách, là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Ninh. ý thức về tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bắc Ninh đã có những chủ trương và giải pháp đúng đắn để giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh. Trong những năm qua, vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động đã được các cấp, các ngành của tỉnh quan tâm chỉ đạo và thực hiện. Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng cơ bản, giáo dục - đào tạo, xóa đói giảm nghèo… đã giúp cho hàng chục nghìn người lao động có việc làm. Tỷ lệ người thất nghiệp ở thành thị giảm, hệ số sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn được nâng lên; chất lượng lao động bước đầu có chuyển biến nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm và đào tạo nghề còn những hạn chế và tồn tại. Tỷ lệ người thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm chậm. Tình hình dư thừa thời gian lao động ở khu vực nông thôn vẫn còn cao; phân bố lao động chủ yếu tập trung ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, người lao động được đào tạo đạt tỷ lệ thấp, tổ chức dạy nghề chưa gắn với việc làm nên hiệu quả chưa cao… Vì vậy, vấn đề giải quyết việc làm vẫn còn là vấn đề bức xúc, khó khăn. Để phát huy tiềm năng và thế mạnh của tỉnh, hướng vào sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Vấn đề giải quyết việc làm gắn với chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các hình thức kinh doanh tạo nhiều việc làm mới, phát triển thị trường lao động, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực… là những giải pháp cơ bản, vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài để giải quyết tốt vấn đề giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Phạm Ngọc Anh (1999), "Các giải pháp tạo việc làm cho lao động nông thôn", Nghiên cứu lý luận, (7), tr. 19-22. 2. Nguyễn Tuệ Anh (1999), "Phát triển thị trường lao động ở nước ta", Nghiên cứu kinh tế, (259), tr. 47-55. 3. Nguyễn Hòa Bình (2000), "Giải pháp nào cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện nay", Con số và sự kiện, (3), tr. 21-24. 4. Nguyễn Sinh Cúc (1999), "Giải pháp tạo việc làm ở nông thôn thời kỳ CNH, HĐH", Thông tin lý luận, (7), tr. 28-32. 5. Cục Thống kê Bắc Ninh (2001), Niên giám thống kê 2000, Bắc Ninh. 6. Đỗ Minh Cương (2001), "Về chiến lược đào tạo nghề thời kỳ 2001-2010", Lao động và xã hội, (5), tr. 7. 7. Doãn Mậu Diệp (1999), " Dân số, lao động và việc làm ở Việt Nam", Tư tưởng văn hóa, (3), tr. 42. 8. Nguyễn Hữu Dũng (2000), "Chiến lược an toàn việc làm trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước", Lao động và công đoàn, (228), tr. 25. 9. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Lê Duy Đồng (2000), "Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực và tạo mở việc làm trong thời kỳ 2001-2010", Lao động và xã hội, (4), tr. 29-31. 14. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam đến năm 2010", Tạp chí Cộng sản, (7), tr. 29-36. 15. Nguyễn Thị Hằng (1999), "Về triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm", Lao động và xã hội, (4), tr. 20-26. 16. Trương Thị Thúy Hằng (1999), "Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam", Những vấn đề kinh tế thế giới, (1), tr. 57. 17. Trương Thị Thúy Hằng (1997), "Thị trường lao động Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (232), tr. 69-72. 18. Huỳnh Tấn Kiệt (2000), Giải quyết việc làm cho người lao động ở tỉnh Đồng Nai - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 19. Hương Liên (1998), "Giải quyết mối quan hệ cung cầu lao động theo hướng nào", Báo Nhân Dân, ngày 23/3/1998. 20. Bùi Sỹ Lợi (1999), "Về giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn ở Thanh Hóa", Lao động và xã hội, (9), tr. 35-36. 21. Trần Văn Luận (1997), "Sử dụng nguồn lao động khu vực thành thị-thực trạng và giải pháp", Nghiên cứu kinh tế, (229), tr. 40-48. 22. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Phan Sĩ Mẫn (1997), "Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay", Nghiên cứu kinh tế, (225), tr. 21-23. 24. Nguyễn Lê Minh (2000), "Thị trường lao động và hội chợ việc làm", Lao động và xã hội, (3), tr. 24-25. 25. Nguyễn Xuân Nga (2001), "Nâng cao chất lượng nguồn lao động cho cạnh tranh và hội nhập", Lao động và xã hội, (1), tr. 24. 26. Jacques Nikonoff (2001), "Xây dựng một xã hội không có thất nghiệp và để thay đổi lao động", Thông tin lý luận, (5), tr 25. 27. Lê Duy Phúc (1999), "Giải quyết việc làm ở nông thôn nhìn từ góc độ cung cầu", Kinh tế và dự báo, (12), tr. 19-22. 28. Nguyễn Lương Phương (2000), "Những đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động và những giải pháp pháp lý nhằm đẩy mạnh xuất khẩu lao động trong tình hình mới", Nhà nước pháp luật, (4), tr. 52-58. 29. Đỗ Thị Xuân Phương (2000), Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm (qua thực tế ở Hà Nội), Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 30. Phan Thanh Tâm (2000), "Lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nước ta hiện nay, thách thức và giải pháp", Kinh tế và dự báo, (7), tr. 15-16. 31. Phạm Đỗ Nhật Tân (1998), "Sự hội nhập khu vực về xuất khẩu lao động của Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (10), tr 49-52. 32. Nguyễn Quý Thanh, Nguyễn Quý Nghị (2000), "Sự phát triển của khoa học công nghệ và vấn đề lao động - việc làm", Công tác khoa giáo, (6), tr. 18. 33. Phạm Đức Thành (2000), "Lao động và việc phát triển công nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng", Kinh tế và phát triển, (35), tr. 29-32. 34. Phạm Đức Thành (2001), "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH ở Việt Nam", Lao động và xã hội, (1), tr. 45-46. 35. Nguyễn Thế Thảo (2000), "Phát triển làng nghề để giải quyết việc làm ở Bắc Ninh", Lao động và xã hội, (10), tr. 12-13. 36. Nguyễn Thông (2000), "Một số biện pháp giải quyết việc làm năm 2000", Kinh tế và dự báo, (2), tr. 13-16. 37. Nguyễn Thị Thơm (2000), "Cơ cấu nguồn lao động nước ta - những bất cập và giải pháp", Lao động và xã hội, (9), tr. 35-36. 38. Cao Thị Thúy (1999), "Một số vấn đề về tình trạng lao động thừa mà thiếu", Nghiên cứu kinh tế, (12), tr. 56-61. 39. Phạm Hồng Tiến (2000), "Vấn đề việc làm ở Việt Nam", Nghiên cứu kinh tế, (260), tr .32-38. 40. Trần Việt Tiến (1999), "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước", Kinh tế và phát triển, (32), tr. 40-43. 41. Hà Quý Tình (1998), "Nguồn nhân lực nông thôn - thực trạng và giải pháp", Nghiên cứu lý luận, (10), tr. 24-26. 42. Tỉnh uỷ Bắc Ninh (2001), Báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Nguyễn Lương Trào (1995), "Xuất khẩu lao động để giải quyết việc làm trong điều kiện hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (11), tr. 13-15. 44. Bùi Anh Tuấn (1998), "Tạo việc làm cho người lao động thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam", Những vấn đề kinh tế thế giới, (55), tr. 5. 45. Đức Tuấn (2000), "Giải quyết lao động và việc làm ở Sơn La", Báo Nhân Dân, ngày 2/12/2000. 46. Đỗ Thế Tùng (1996), "Vấn đề lao động và việc làm", Trung tâm Thông tin tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 47. Trần Hữu Trung (1999), "Việc làm của người lao động đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống", Tạp chí Cộng sản, (21), tr. 33-37. 48. UBND tỉnh Bắc Ninh (2000), Chương trình giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động tỉnh Bắc Ninh, Bắc Ninh. 49. UBND tỉnh Bắc Ninh (2001), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh đến 2010 và một số định hướng chiến lược đến 2020, Bắc Ninh. Phụ lục Phụ lục 1: Mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế bắc ninh Chỉ tiêu 2000 2005 2010 2020 Dân số (nghìn người) 951,6 1004 1058 1174 GDP (Tỷ đồng, giá 1994) 2472,6 4657,3 8393,4 22780,4 - Nông, lâm nghiệp 947,5 1238,3 1471,4 2178,1 - Công nghiệp-XD 866,2 2110,9 4235,4 12026,1 Trong đó công nghiệp 638,4 1725,4 3605,1 10706,8 - Dịch vụ 658,9 1308,1 2686,6 8576,2 Nhịp tăng 13,5 13,0 10,5 - Nông, lâm nghiệp 5,5 4,5 4,0 - Công nghiệp-XD 19,5 17,2 11,0 Trong đó công nghiệp 22,0 18,9 11,5 - Dịch vụ 14,7 15,1 12,3 Cơ cấu GDP (giá hiện hành) 100,0 100,0 100,0 100,0 - Nông, lâm nghiệp 39,5 26,9 17,8 9,5 - Công nghiệp-XD 33,8 44,1 49,0 52,2 Trong đó công nghiệp 24,9 36,1 41,8 46,1 - Dịch vụ 26,7 29,0 33,2 38,3 Cơ cấu GDP (giá 1994) 100,0 100,0 100,0 100,0 - Nông, lâm nghiệp 38,3 26,6 17,5 9,6 - Công nghiệp-XD 35,0 45,3 50,5 52,8 Trong đó công nghiệp 25,8 37,1 43,0 47,0 - Dịch vụ 26,7 28,1 32,0 37,6 GDP/ng (USD hiện hành) 249,3 437,2 733,0 1786,2 GDP/ng (USD 1994) 236,7 422,5 722,7 1767,5 Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn (Tr.USD) 49,0 115,0 350,0 1050,0 Riêng địa phương (Tr USD) 29,8 70,0 240,0 750,0 Tỷ lệ huy động ngân sách(%) 6,9 6,1 6,4 6,5 Tỷ lệ tích lũy/GDP (%) 27,5 32,0 35,0 37,0 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [49, tr. 19]. Phụ lục 2: nhu cầu đào tạo lao động tỉnh Bắc Ninh Chỉ tiêu Đơn vị tính 1997 2000 2005 - Dân số Người 932.424 978.450 1.036.725 - Lao động trong độ tuổi Người 470.874 499.000 545.000 - Lao động được đào tạo Người 73.340 99.800 152.600 Tỷ lệ so với tổng số % 16 20 28 - Lao động được đào tạo nghề Người 51.790 69.860 109.900 Tỷ lệ so với tổng số % 11 14 20 Chia theo ngành kinh tế - Lao động được đào tạo nghề Người 51.790 18.070 39.140 Tỷ lệ % 100 100 100 Trong đó: + Lao động nông nghiệp Người 23.600 7000 3914 Tỷ lệ % 46 39 10 + Lao động công nghiệp và XD Người 24.480 8.000 23.484 Tỷ lệ % 47 44 60 + Dịch vụ Người 3710 3.070 11.742 Tỷ lệ % 7 17 30 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 15]. Phụ lục 3: cân đối sử dụng lao động Trong các ngành kinh tế quốc dân tỉnh Bắc Ninh (giai đoạn 1999-2005) Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999 2000 2005 Tổng dân số Người 942.564 955.289 978.450 1.036.725 Số LĐ cần bố trí việc làm Người 486.800 493.500 499.000 545.000 Tỷ lệ so với dân số % 51,65 51,66 51,00 52,56 Số LĐ đã có việc làm Người 465.200 473.600 482.000 524.000 Tỷ lệ so với lao động cần bố trí việc làm % 95,56 95,97 96,59 96,69 Phân theo ngành KTQD Nông, lâm, thuỷ sản Người 365.480 360.140 354.800 328.050 Tỷ lệ so với LĐ có việc làm % 78,56 76,04 73,60 62,60 Công nghiệp và xây dựng Người 48.400 55.000 67.500 115.250 Tỷ lệ so với LĐ có việc làm % 10,4 11,61 14,00 21,99 Dịch vụ Người 51.320 58.460 59.800 81.000 Tỷ lệ so với LĐ có việc làm % 11,03 12,34 12,40 15,45 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 16]. Phụ lục 4: Kế hoạch đào tạo nghề đến năm 2005 Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2005 Số Lđ Tỷ lệ Số Lđ Tỷ lệ Số Lđ Tỷ lệ Số Lđ Tỷ lệ Tổng số LĐ 482.600 493.500 499.000 545.000 Số được đào tạo 80.687 16,57 89.187 18,10 99.800 20,00 148.500 28,00 Trong đó: Đào tạo ĐH, CĐ, THCN 21.711 4,46 24.230 4,91 27.944 5,60 39.050 7,10 CN và sơ cấp 20.533 4,2 22.754 4,59 26.432 5,28 37.950 6,90 Đào tạo kèm cặp truyền nghề 38.443 7,9 42.203 8,6 45.426 9,12 71.500 13,00 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 16]. Phụ lục 5: Tỷ trọng lao động có khả năng lao động tham gia vào các ngành kinh tế quốc dân Đơn vị: (%) Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2005 Lao động trong độ tuổi tham gia vào các ngành KTQD 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Chia ra: - Nông, lâm, ngư nghiệp 81,0 78,5 76 73,6 62,6 - Công nghiệp và XD 10,0 11,2 12,6 14,0 20,3 - Dịch vụ 9,0 10,3 11,4 12,4 17,1 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [48, tr. 17]. Phụ lục 6: Tăng trưởng nguồn lao động Bắc Ninh Giai đoạn Trong tuổi lao động (1.000 người) Tỷ lệ so với dân số (%) Nhịp tăng 1995 458 50,7 2000 485 51,0 1,2 2005 517,1 51,5 1,3 2010 550,2 52,0 1,3 2001-2010 1,3 2020 622,2 53,0 1,2 Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh [49, tr. 21]. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2595.DOC
Tài liệu liên quan