Giải quyết việc làm cho lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay: thực trạng và giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Trong thời gian qua cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng diễn ra mạnh mẽ, từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, trong đó đáng chú ý là sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo, láp ráp sản phẩm linh kiện điện tử, công nghiệp chế biến. Quá trình chuyển dịc
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Giải quyết việc làm cho lao động ở tỉnh Vĩnh Phúc trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thực tế cho thấy giai đoạn vưa qua sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu công nghiệp, doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài và hàng ngàn doanh nghiệp hoạt động theo quy mô hộ gia đình khác… đã và đang không ngừng thu hút một bộ phận không nhỏ lao động trong và ngoài tỉnh tìm đến tỉnh Vĩnh Phúc dẫn tới hiện tượng giao lưu và mở rộng thị trường lao động của tỉnh. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng dẫn tới việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đất nông nghiệp bị thu hẹp lại. Người dân tại các vùng nông thôn của tỉnh phải di chuyển đến các khu công nghiệp, khu đô thị để kiếm việc làm. Thị trường lao động của tỉnh đang chịu áp lức lớn về tăng dân số và tăng cung lao động. Tình trạng người lao động mất việc và không có việc làm đang là vấn đề cấp thiết nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Khi mà các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với những khó khăn tài chính cũng như thị trường tiêu thụ. Giải pháp mà các doanh nghiệp hay sử dụng là cắt giảm nhân công làm cho tình trạng thất nghiệp của tỉnh ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Những người công nhân mất việc, những người lao động chưa có việc đang đứng trước những khó khăn tìm được việc làm phù hợp.
Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2008 và đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010.
Kết cấu dự kiến của đề tài
Gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về việc làm và tạo việc làm
Chương II: Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009-2010
Chương III: Một số giải pháp giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009-2010
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Đối tượng nghiên cứu: Chuyên đề nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho bộ phận dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008
Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê
Phương pháp phân tích thực chứng dựa trên những số liệu điều tra về lao động việc làm của tỉnh đã được công bố
Để hoàn thành tốt bài chuyên đề thực tập này, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới giảng viên hướng dẫn Th.s Nguyễn Thị Hoa và các anh chị trên Viện khoa học xã hội - động thương binh xã hội, đặc biệt là các anh chị thuộc trung tâm nghiên cứu lao động nữ và giới thuộc viện khoa học xã hội - bộ lao động thương binh xã hội.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM
I. VIỆC LÀM VÀ CƠ CẤU VIỆC LÀM
1. Khái niệm việc làm
Việc làm là mối quan tâm lớn nhất của mỗi quốc gia, của mọi người dân. Nhìn chung các lý thuyết về việc làm, các học giả đều thống nhất rằng một hoạt động được coi là việc làm khi đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất: đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm
Thứ hai: hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc tạo điều kiện cho người lao động tham gia để tạo ra thu nhập hoặc giảm chi phí trong gia đình hoặc tạo ra quyền có thể mang lại thu nhập trong tương lai.
Việc làm là những hoạt động cần thiết của người lao động, trong khuôn khổ pháp luật cho phép và có thu nhập chính đáng cho bản thân, gia đình và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Hoạt động đem lại thu nhập có thể lượng hóa hoặc cụ thể hóa dưới dạng như: người lao động được nhận tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc hiện vật từ người sử dụng lao động, tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua các hoạt động kinh tế mà bản thân người lao động làm chủ, đem lại thu nhập cho hộ gia đình mà bản thân người thực hiện công việc đó là thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm hay không phải được xem xét chủ yếu dựa trên tính hợp pháp và kết quả hoạt động đó.
Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi tư liệu lao động theo mục đích của con người. Theo quan điểm này việc làm có những đặc trưng sau:
Trước hết việc làm là sự biểu hiện quan hệ của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất(C)
Hai là lấy lợi ích( vật chất, tinh thần) mà các hoạt động đem lại cho cá nhân, xã hội và không bị ngăn cấm để xem xét hoạt động đó có được coi là việc làm hay không. Trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất được thể hiện bằng công thức sau:
VL= C/L
Trong đó: VL: Việc làm
C : Tư liệu sản xuất
V : Lượng lao động
Còn theo bộ luật lao động nước ta, khái niệm việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều dược thừa nhận là việc làm”.
2. Cơ cấu việc làm
Cơ cấu việc làm là sự tương quan giữa các bộ phận hợp thành tổng thể việc làm trong nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận việc làm với nhau.
Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu việc làm phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn với nhau. Cơ cấu việc làm biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu việc làm theo ngành, cơ cấu việc làm theo khu vực, Cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế, cơ cấu việc làm theo khu vực thể chế... Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề, tôi chỉ đi sâu phân tích hai loại cơ cấu là cơ cấu việc làm theo ngành và cơ cấu việc làm theo khu vực.
Cơ cấu việc làm theo ngành: Cơ cấu việc làm theo ngành là sự tương quan giữa việc làm trong các ngành với nhau, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và mối quan hệ qua lại cả về số và chất lượng giữa việc làm của các ngành với nhau.
Cơ cấu việc làm theo ngành bao gồm ba bộ phận cấu thành, bộ phận thứ nhất là việc làm trong ngành nông nghiệp- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành nông lâm nghiệp như: hoạt động sản xuất trong chăn nuôi, trồng trọt, trồng rừng và các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp. Bộ phận thứ hai là việc làm trong ngành công nghiệp xây dựng- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành công nghiệp xây dựng như: hoạt động khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có trong lòng đất, hoạt động gia công và chế biến sản phẩm có nguồn gốc từ nông lâm nghiệp, hoạt động xây dựng trong các ngành xây dựng và các dịch vụ phục vụ cho các hoạt động sản xuất trên. Bộ phận thứ ba là việc làm trong ngành dịch vụ- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ nhà hàng, du lịch, khách sạn…
Trong quá trình hoạt động sản xuất các ngành kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển dẫn tới việc làm giữa các ngành kinh tế cũng có có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển và hướng tới mục tiêu chung là tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là tăng nhanh tỷ trọng việc làm trong ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng việc làm trong ngành nông- lâm nghiệp.
Cơ cấu việc làm theo khu vực: Cơ cấu việc làm theo khu vực là sự tương quan giữa việc làm theo khu vực với nhau, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và mối quan hệ qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa việc làm trong khu vực này với việc làm trong khu vực kia.
Nếu như cơ cấu việc làm theo ngành được hình thành trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất thì cơ cấu việc làm theo khu vực lại được hình trên cơ sở việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Mỗi khu vực kinh tế là một bộ phận tổ hợp của nền kinh tế quốc dân, do đó sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, kết cấu hạ tầng và các điều kiện xã hội khác tạo cho mỗi khu vực có những đặc thù, những thế mạnh riêng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Cơ cấu việc làm theo khu vực phản ánh thế mạnh của từng khu vực, nó bao gồm hai bộ phận như sau: bộ phận thứ nhất là việc làm trong khu vực nông thôn- đó là các việc làm được tạo ra chủ yếu dựa trên thế mạnh sản xuất nông lâm nghiệp. Bộ phận thứ hai là việc làm trong khu vực thành thị- đó là các việc làm được tạo ra chủ yếu dựa trên thế mạnh trong hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Các bộ phận có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, mối quan hệ này bao hàm cả về số lượng và chất lượng.
3. Thất nghiệp và các hình thức thất nghiệp
3.1. Khái niệm thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội.
Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là, mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Một số quan niệm khác cho rằng thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở trung tâm môi giới nhưng chưa được giải quyết.
Theo tổ chức lao động quốc tế( ILO): thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương đang thịnh hành.
Bên cạnh thất ngiệp còn tồn tại những người có việc làm không đầy đủ hay còn gọi là thiếu việc làm, đó là những người đang có việc làm nhưng do nguyên nhân nào đó họ không sử dụng hết thời gian lao động theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống, muốn tìm thêm việc làm. Hiện tượng này tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
3.2. Phân loại thất nghiệp
Thất nghiệp hữu hình: Thất nghiệp hữu hình là tình trạng thất nghiệp xảy ra khi một bộ phận lực lượng lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm. Đây là hình thức thất nghiệp mà ta có thể nhìn thấy, hình thức thất nghiệp này chủ yếu xảy ra đối với lao động ở khu vực thành thị, nơi hình thức lao động làm công ăn lương là chủ yếu.
Thất nghiệp trá hình: Hay còn gọi là thiếu việc làm là một trong những đặc trưng cơ bản của của nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển. Đây là tình trạng xảy ra khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm việc, hay nói cách khác là tình trạng sử dụng không hết thời gian lao động. Hình thức thất nghiệp này xảy ra đối với cả lao động làm việc ở khu vực thành thị và nông thôn.
Trong khu vực thành thị hình thức thất nghiệp này tồn tại dưới các dạng khác nhau như: làm việc với năng suất thấp, không góp phần tạo ra thu nhập cho xã hội mà chủ yếu là tạo ra thu nhập đủ sống( nhiều khi dưới mức sống tối thiểu). Trong khu vực nông thôn thất nghiệp trá hình chủ yếu tồn tại dưới dạng thiếu việc làm. Nguyên nhân là do giới hạn của đất đai nông nghiệp, do khu vực kinh tế phi nông nghiệp nông thông phát triển chậm và do tính thời vụ của việc làm nông nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, ở một số vùng nông thôn do lấy đất nông nghiệp để xây dựng các công trình công cộng, phát triển công nghiệp và nhà ở nên đã xuất hiện tình trạng thất nghiệp trá hình.
Thất nghiệp tạm thời: hay còn gọi là thất nghiệp cơ cấu, là hình thức thất nghiệp trong thời gian chuyển đổi nghề nghiệp, thay đổi nơi làm việc vì muốn tìm việc làm tốt hơn, sinh viên ra trường đi tìm việc.
Thất nghiệp tự nguyện: là hình thức thất nghiệp ẩn náu trong những người làm nội trợ trong gia đình do các mức tiền công thấp không đủ bù đắp, thường là phụ nữ.
II. TẠO VIỆC LÀM VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1. Tạo việc làm
Thực chất của việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là những điều kiện cần thiết để có được việc làm. Hay nói cách khác những điều kiện về tư liệu sản xuất và sức lao động mới tồn tại như một khả năng. Muốn biến khả năng thành hiện thực cần phải có môi trường thuận lợi cho sự kết hợp hai yếu tố đó. Việc tạo ra môi trường là vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực việc làm. Thực tế chỉ ra rằng, khi khả năng quản lý nhà nước yếu kém nhiều việc làm được tạo ra nhưng không hiệu quả, năng suất thấp.
Do vậy, tạo việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời phải đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất: Môi trường cho sự kết hợp các yếu tố bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách khuyến khích thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích và thu hút vốn đầu tư, hệ thống các dịch vụ việc làm…
Thực hiện các giải pháp để phát triển việc làm và việc làm có hiệu quả cao: Các giải pháp này có thể kể đến các nhóm giải pháp về quản lý và điều hành, các biện pháp khai thác có hiệu quả công suất của máy móc thiết bị cải tiến công nghệ, duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiệm quản trị kinh doanh của người sử dụng lao động…
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động
2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu thổ nhưỡng, đất đai…có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó có công tác tạo việc làm của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương.
2.1.1. Vị trí địa lý:
Do đặc điểm tự nhiên mà mỗi địa phương đều nằm trên những vị trí địa lý nhất định, từ đó mà có những đặc điểm khác biệt về khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, lượng gió, lượng mưa, bão lụt…ảnh hưởng đến điều kiện sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là sản xuất nông lâm ngư nghiệp vì thế nó có thể cho phép mỗi địa phương hình thành một phương thức tổ chức sản xuất, lao động khác nhau.
Những vùng có vị trí thuận lợi thì cây cối xanh tươi, bốn mùa hoa trái, có các loại cây con hải sản hết sức đa dạng phong phú. Với điều kiện đất đai màu mỡ con người có thể phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến… xuất khẩu các mặt hàng đặc sản quý hiếm trên thị trường quốc tế. Đây cũng chính là những lợi thế nhất định của mỗi địa phương trong việc tạo ra công ăn việc làm thu hút người lao động.
Tuy nhiên có những vùng vị trí không thuận lợi sẽ ảnh hưởng xấu đến lao động sản xuất: hạn hán, lũ lụt…những vùng địa hình chia cắt, giao thông không thuận lợi, vùng không chịu sự phát triển lan tỏa từ các vùng kinh tế lân cận cũng gây khó khăn cho phát triển kinh tế, thu hút đầu tư giải quyết công ăn việc làm.
2.1.2. Khí hậu
Ở mỗi vùng, địa phương, quốc gia có những đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng rất lớn tới khí hậu của mỗi quốc gia. Ngay trong một quốc gia những vùng khác nhau cũng có khí hậu khác nhau. Nhiệt độ nóng lạnh, mưa gió bão lụt, độ ẩm… là những đặc trưng cơ bản của khí hậu của mỗi vùng, miền, quốc gia. Ở mỗi quốc gia khí hậu ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến các vấn đề kinh tế xã hội, khí hậu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của dân cư, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt khí hậu ảnh hưởng đến sự phát triển của nông nghiệp, quyết định cây con mùa vụ, canh tác, năng suất cây trồng… do đó khí hậu ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động.
Với những địa phương mà khí hậu ưu đãi có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm một cách dễ dàng qua việc phát triển nông, công nghiệp chế biến bằng cách thâm canh tăng vụ, tạo ra nhiều ngành nghề mới gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp.
Tuy nhiên những địa phương có khí hậu không thuận lợi thường xuyên hạn hán lũ lụt, mưa gió bất thường… như các tỉnh miền trung cũng gây không ít khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm giảm sút thậm chí cướp không những thành quả lao động của mọi người. Vì vậy tổ chức tạo việc làm cho người lao động ở các địa phương này gặp không ít khó khăn.
2.1.3. Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi, núi non
Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi núi non là những đối tượng lao động sẵn có của thiên nhiên cho mỗi địa phương. Có thể nói đất đai, như William petty đã viết “ lao động là cha và đất đai là mẹ của của cải”. Các nguồn tài nguyên này phong phú sẽ có cơ hội phát triển nhiều khu công nghiệp, trang trại nông lâm nghiệp chiếm ưu thế của vùng.
Vai trò của đất đối với lao động việc làm cực kỳ quan trọng. Đất đai giúp phát triển nông, lâm nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến từ các sản phẩm nông nghiệp; đất đai cho phép xây dựng các công trình xây dựng, nhà ở, cụm công nghiệp. Từ đó gián tiếp tạo ra rất nhiều công việc khác nhau cho con người.
Về tài nguyên dưới lòng đất, hầm mỏ cũng rất quan trọng với việc tạo ra việc làm cho con người. Các loại khoáng sản dưới lòng đất như than đá, vàng, thiếc, sắt nhôm… Giúp con người phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến từ các sản phẩm khai thác, từ đó tạo nhiều việc làm cho con người.
Các loại tài nguyên khác như sông ngòi, núi non cũng giúp con người tạo ra nhiều công ăn việc làm bằng cách phát triển các ngành nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản, trồng cây công nghiệp…
Như vậy có thể nói những tiềm năng trên cho phép chúng ta tổ chức phân công lao động tạo ra hàng trăm nghìn loại hình công việc khai thác từ các lợi thế tài nguyên trên. Với các địa phương có các điều kiện ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên sẽ có cơ hội tạo ra nhiều việc làm hơn cho con người, và ngược lại với những địa phương không có các điều kiện ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên sẽ ít có cơ hội tạo ra nhiều việc làm cho con người.
2.2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Kinh tế tăng trưởng ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ tiết kiệm dành cho tái sản xuất và do đó ảnh hưởng vốn đầu tư sản xuất cho giai đoạn sau của nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng cao, tỷ lệ tiết kiệm dành cho tái suất cao, vốn đầu tư sản xuất cho giai đoạn sau cao, và như như vậy quy mô sản xuất nền kinh tế được mở rộng, quy mô việc làm cũng được tăng theo. Và ngược lại tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, tỷ lệ tiết kiệm cho tái sản xuất thấp, vốn đầu tư thấp, quy mô sản xuất không được mở rộng thêm thậm chí bị thu hẹp để cắt giảm chi phí, việc làm mới không được tạo thêm thậm chí còn gia tăng tỷ lệ mất việc làm do bị sa thải.
Xuất khẩu sản phẩm: Các địa phương có lợi thế về xuất khẩu sản phẩm sẽ giúp các địa phương đó phát triển những ngành có lợi thế riêng. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao sẽ đóng góp vào GDP cao, góp phần tăng trưởng kinh tế, mở rộng quy mô các ngành có lợi thế riêng, từ đó mở rộng quy mô việc làm góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động.
Và ngược lại các địa phương nào không có lợi thế để xuất khẩu sản phẩm thì ít có cơ hội phát triển kinh tế, mở rộng quy mô ngành kinh tế có lợi thế, từ đó ít có điều kiện tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Tái cơ cấu kinh tế: Việc cơ cấu lại kinh tế có ảnh hưởng đến việc bố trí, sắp xếp lại lao động trong toàn bộ nền kinh tế. Một mặt tái cơ cấu kinh tế làm giảm số lượng việc làm trong nền kinh tế quốc dân. Thực chất của tái cơ cấu kinh tế là việc bố trí sắp xếp lại ngành nghề sản xuất kinh doanh sao cho hợp lý, cân đối phù hợp với thế mạnh của từng vùng, miền. Như vậy trong một chừng mực nào đó thì tái cơ cấu sẽ giảm nhu cầu về lao động hoặc dôi dư một số lao động do không đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề mới.
Mặt khác tái cơ cấu kinh tế cũng có tác dụng làm tăng thêm nhu cầu về lao động, tức là tăng thêm nhu cầu về việc làm. Việc cơ cấu lại kinh tế góp phần phát triển, mở rộng quy mô trong mỗi ngành nghề mà mỗi vùng, địa phương có thế mạnh. Nhiều ngành nghề mới ra đời nhờ lợi thế so sánh và đầu tư của chính phủ nhằm tăng cường năng lực sản xuất phục vụ trong nước và xuất khẩu. Đương nhiên nhu cầu lao động tăng thêm và từ đó tạo thêm việc làm cho người lao động.
2.3. Nhân tố về công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm
Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức lao động sản xuất. Hoạt động lao động của con người phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc thiết bị, công cụ lao động và công nghệ sản xuất. Để có việc làm với năng suất chất lượng cao, cần phải có kỹ thuật, máy móc thiết bị, công cụ lao động, công nghệ tiên tiến. Khoa học công nghệ cải tiến quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động giúp kinh tế phát triển, quy mô nền kinh tế mở rộng tạo điều kiện giải quyết được nhiều việc làm cho lao động. Nhưng khoa học công nghệ phát triển cũng sẽ góp phần tạo ra nhiều việc làm có năng suất chất lượng cao, sử dụng ít lao động chân tay và đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn, hay đòi hỏi trình độ chất xám từ người lao động nhiều hơn. Và như vậy người lao động không có trình độ sẽ có nguy cơ mất việc và không tìm được việc làm cao hơn. Nhưng tác động tiêu cực này chỉ có thể xảy ra khi nền kinh tế áp dụng trình độ khoa học công nghệ ở mức cao.
Tuy nhiên có một tác dụng tích cực nữa là việc ứng dụng khoa học công nghệ đã và đang tạo ra nhiều ngành nghề mới trong xã hội, mà trước đây loài người chưa từng biết tới( công nghệ điện tử và tin học). Ngành nghề mới và quy mô của mỗi ngành không ngừng mở rộng đã tạo cho con người những việc làm mới trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài lĩnh vực truyền thống như công, nông nghiệp còn phát triển nhiều lĩnh vực mới về công nghệ mới, dịch vụ… Tuy nhiên ngành nghề mới này cũng đòi hỏi người lao động phải có trình độ, tiêu chuẩn nghề nghiệp cao hơn nhiều so với trước.
Chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm: Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng hàng đầu để mở rộng quy mô sản xuất trong nền kinh tế. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất muốn tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động yếu tố đầu tiên là vốn đầu tư. Việc thu hút vốn đầu tư phụ thuộc rất lớn vào chính sách thu hút vốn. Nếu chính sách thu hút vốn đầu tư thông thoáng thì càng thu hút được nhiều vốn, càng có điều kiện tạo ra nhiều chỗ việc làm mới. Ngược lại chính sách thu hút vốn không thông thoáng, vốn đầu tư càng ít và càng ít có điều kiện tạo ra nhiều việc làm mới.
2.4. Tốc độ đô thị hóa
Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh sẽ có cơ hội tạo ra nhiều việc làm cho người lao động do các trung tâm công nghiệp, trường học, dịch vụ mọc lên nhiều. Nhưng đô thị hóa kèm theo dân số nhập cư tăng nhanh gây khó khăn cho giải quyết việc làm, đồng thời đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp thành đất xây dựng các cụm khu công nghiệp, công trình công cộng… đã khiến không ít người lao động dựa vào canh tác đất rơi vào tình trạng mất việc và khó tìm được việc làm mới.
Tóm lại, khung lý thuyết được trình bày trong chương này sẽ cung cấp đầy đủ những cơ sở lý luận cần thiết về việc làm, tạo việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm để nghiên cứu, phân tích thực trạng của giải quyết việc làm và từ đó có cơ sở đưa ra những giải pháp cần thiết để giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010. Cụ thể phần lý thuyết này sẽ được sử dụng làm cơ sở để phân tích đánh giá trong chương hai.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
I. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
Trong giai đoạn 2006-2008 vừa qua, Vĩnh Phúc đã thực hiện một loạt các giải pháp, chính sách sau để tạo việc làm cho người lao động của tỉnh:
1. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư của Vĩnh Phúc bước đầu đem lại hiệu quả rõ rệt. Ngoài những chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, thông thoáng, chính sách phát huy mọi nguồn lực thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; đặc biệt là kể từ thời điểm các luật khuyến khích đầu tư, luật doanh nghiệp được sửa đổi ban hành; khu vực doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang phát triển mạnh mẽ( trên 1700 doanh nghiệp năm 2007 và theo thống kê mới nhất cho tới thời điểm tháng 10/2008 là 2500 doanh nghiệp). Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Nhiều doanh nghiệp được cấp giấy phép đầu tư vào Vĩnh Phúc, nhiều nhà máy đã xây dựng xong và bắt đầu đi vào hoạt động, thu hút nhiều lao động. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang trên đà phát triển trong hai năm qua( doanh thu bình quân hàng năm đã tăng từ 116,57 tỷ năm 2006 lên 137,2 tỷ năm 2008). Tổng số lao động và số lao động làm việc bình quân/doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2006-2008. Cụ thể, tổng số lao động trong các doanh nghiệp năm 2006 là 14972 người và năm 2008 là 20785 người. Quy mô số lao động bình quân/doanh nghiệp đã tăng lên từ 155,96 lao động/doanh nghiệp năm 2006 lên 173,20 lao động/doanh nghiệp năm 2008. Đặc biệt mức độ thu hút lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp mới được thành lập thời kỳ này cao hơn nhiều so với trước đây, lao động địa phương chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp.
Đó là kết quả cho thấy các chính sách khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu tư có hiệu quả cao. Các doanh nghiệp mới đầu tư đi vào hoạt động thu hút nhiều lao động, các doanh nghiệp cũ hoạt động có doanh thu tăng cao qua các năm và do đó cơ hội tiết kiệm cho tái đầu tư mở rộng quy mô sẽ cao, là điều kiện để góp phần giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh.
2. Chính sách về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp
Một trong những chính sách mà Vĩnh Phúc đã sử dụng trong giải quyết việc làm là Vĩnh Phúc đã khuyến khích các công ty, doanh nghiệp tự mở các lớp, các trung tâm đào tạo để chủ động về nhân lực. Một số công ty, doanh nghiệp lớn như Toyota, Honda, VinaKorea…cũng có những mô hình này. Công ty Toyota mỗi năm đã tổ chức 25-30 khoa học, đào tạo được khoảng 300 kỹ thuật viên, cố vấn dịch vụ cho công ty. Nhằm nâng cao năng lực quản lý cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý, cán bộ nòng cốt, năm 2007 các doanh nghiệp đã phối hợp cùng trung tâm khuyến công của tỉnh hợp tác với viện kinh tế và phát triển- trường Đại học kinh tế quốc dân và trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm- Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tổ chức 4 lớp bồi dưỡng kiến thức cho 198 lãnh đạo, cán bộ quản lý doanh nghiệp và một số đoàn viên. Ngoài ra một số doanh nghiệp còn phối hợp với trường cao đẳng công nghiệp thực phẩm tổ chức 2 lớp tin học văn phòng và ứng dụng thương mại điện tử cho 22 cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Kết quả của chính sách này là chất lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp tốt hơn so với chất lượng của lực lượng lao động toàn tỉnh với trên 50% lao động đã qua đào tạo( trong đó chủ yếu là đã qua đào tạo nghề-23,21% năm 2006 và 35,71% năm 2008).
3. Tạo việc làm thông qua trung tâm giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động, hội chợ việc làm
Hình thức tuyển dụng lao động phổ biến nhất vẫn là “ qua các mối quan hệ cá nhân” và tiếp theo đó là hình thức “lao động tự tìm đến”. Hình thức tuyển dụng tiếp theo là “ thông qua thông báo tuyển dụng lao động gián tại các doanh nghiệp”. Trong khi hình thức tuyển dụng lao động thông qua hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch/ hội chợ việc làm vẫn chưa được doanh nghiệp quan tâm nhiều. Các trung tâm môi giới ở trên địa bàn tỉnh hoạt động vẫn chưa nhiều và hiệu quả hoạt động kém. Đến năm 2008, số người được trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm là 20.000 người trong đó chỉ có 5000 người là tìm được việc làm. Một kết quả cho thấy hiệu quả hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm còn kém. Do sự lắm bắt thông tin của các trung tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tuyển dụng của các doanh nghiệp chưa cao cũng như chưa lắm bắt rõ nhu cầu cầu của người lao động, vì vậy việc đưa thông tin đến người lao động và các nhà tuyển dụng gặp nhiều khó khăn.
Tuy tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị của Vĩnh Phúc thấp( tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 1.74%) nhưng tiếp cận dịch vụ giới thiệu việc làm của người thất nghiệp không đáng kể( chỉ có 3% trong số người thất nghiệp đến trung tâm giới thiệu việc làm).
Như vậy nhìn từ góc độ tuyển dụng lao động qua các kênh giao dịch chính thức trên thị trường lao động vẫn chưa thực sự phát triển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Mặc dù các kênh giao dịch chính thức trên thị trường lao động vẫn chưa được các doanh nghiệp sử dụng nhiều, nhưng trong thực tế các doanh nghiệp cũng không thực sự gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động, số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động chỉ chiếm 30% tổng số doanh nghiệp. Nhưng nhìn góc độ này về lâu dài thì đó là một hạn chế cần khắc phục trong tương lai khi mà diễn biến trên thị trường lao động ngày càng phức tạp. Trong số những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình tuyển dụng lao động, khó khăn lớn nhất đối với họ là không tìm được lao động có tay nghề và cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng của lao động tuyển mới cũng không được doanh nghiệp đánh giá cao.
Xuất khẩu lao động là một trong những chủ trương cơ bản nhằm xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động hiện đang được thực hiện một cách có hiệu quả không chỉ ở Vĩnh Phúc mà là chủ chương cơ bản của cả quốc gia. Chính vì thế công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động đã được tỉnh quan tâm. Đến nay Vĩnh Phúc có 27 đơn vị tham gia tuyển dụng lao động đi xuất khẩu, trong đó 4 đơn vị nhà nước, còn lại là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân. Kết quả năm 2006 tỉnh đã đưa đi xuất khẩu lao động 1536 người, năm 2007 là 1634 người( tăng 6,38% so với năm 2006), năm 2008 là 1036 người( giảm 36,7% so với năm 2007). Nhìn chung cả giai đoạn 2006-2008 số lao động đi xuất khẩu là giảm và đạt thấp chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, do thu nhập của lao động ở khu vực Đông nam á thấp, một số doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết theo hợp đồng với người lao động, trình độ lao động còn thấp, một số lao động bỏ trốn, vi phạm pháp luật gây tác động tiêu cực và ảnh hưởng về tâm lý đối với lao động khác.
4. Phát triển đa dạng các thành phần kinh tế để thu hút lao động
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, nhất là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực tư nhân. Khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới,._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22025.doc