MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có tiềm năng lao động rất lớn với trên 42 triệu lao động trong đó lao động nông nghiệp chiếm trên 70% (trên 30 triệu lao động nông nghiệp). Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và đặc biệt là lao động nông thôn rất khó khăn, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp có xu hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tới sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh của quốc gia, nguyên nhân của vấn đề này là
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2154 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Nền kinh tế của đất nước phát triển chậm, khả năng thu hút lao động và tạo việc làm mới hạn chế; trình độ của độ ngũ người lao động thấp, không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, thông tin về thị trường, thông tin về khoa học công nghệ rất yếu, nghèo, thiếu vốn, thiếu công nghệ...
Để phát triển nền kinh tế đòi hỏi đất nước phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ cơ cấu kinh tế thuần nông, độc canh hay nói cách khác là một đất nước nông nghiệp, sản xuất nhỏ lạc hậu phải chuyển sang nền văn minh mới: nền văn minh công nghiệp, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam trở thành một đất nước công nghiệp hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực.
Đi liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng CNH, HĐH, nhiều thành phố, khu công nghiệp, thị trấn, thị tứ mới được mọc lên. Hay có thể nói, đô thị hóa là kết quả tất yếu của quá trình CNH, HĐH nền kinh tế nước nhà.
Đô thị hóa đem lại nhiều cái lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước, song bản thân nó lại gây ra không ít những mâu thuẫn mới đòi hỏi phải được giải quyết: quá trình đô thị hóa gia tăng sẽ đẩy một bộ phận nông dân ra khỏi vùng đất mà họ vẫn thường sinh sống (quá trình bần cùng hóa những người lao động) làm cho đất canh tác bình quân đầu người đã thấp (0,17ha/người lao động) nay còn thấp hơn.
Lao động nông nghiệp không có việc làm, thất nghiệp gia tăng, đời sống thấp, mâu thuẫn xã hội tăng. Góp phần giải quyết các vấn đề bức xúc nêu trên, đề tài "Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay" là một vấn đề có ý nghĩa trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
a) Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và một số nước láng giềng trong khu vực, từ đó đề xuất phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nước ta trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay.
b) Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa, kinh nghiệm tạo việc làm cho lao động ở một số nước trong khu vực.
- Nghiên cứu thực trạng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và tác động của nó tới việc làm cho người lao động.
- Nghiên cứu hiện trạng việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất những biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu lao động nông nghiệp; quá trình đô thị hóa; việc làm cho lao động nông nghiệp; tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trongquá trình đô thị hóa.
- Phạm vi nghiên cứu: Tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
- Thời gian: từ 1986 đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung. Đặc biệt, chú trọng sử dụng các phương pháp đặc trưng của kinh tế chính trị - phương pháp trừu tượng hóa. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác: thống kê, so sánh, điều tra, phân tích, tổng hợp...
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
- Đánh giá được thực trạng, định hướng quá trình đô thị hóa ở nước ta thời gian qua và tác động của nó tới việc làm của người lao động.
- Đánh giá được thực trạng về việc làm của người lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
- Đề xuất phương hướng biện pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa hiện nay ở nước ta.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 mục.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
1.1. LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm lao động nông nghiệp
Khái niệm "lao động" tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa ra các quan niệm về "lao động" tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung chủ yếu vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao động là hoạt động, là phương thức tồn tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con người, là sự nỗ lực vật chất và tinh thần của con người dưới dạng hoạt động tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao động là hành động xã hội, người ta phân biệt năm yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao động: đối tượng lao động, mục đích lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động và chủ thể lao động. Trong đó chủ thể lao động là con người với tất cả đặc điểm tâm sinh lý, xã hội được hình thành và phát triển trong quá trình xã hội hóa cá nhân. Đối với mỗi dạng hoạt động lao động đòi hỏi ở mỗi cá nhân một tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đồng tình với khái niệm "lao động" chính là bản thân con người với tất cả sự nỗ lực vật chất, tinh thần của nó, thông qua hoạt động lao động của mình, sử dụng các công cụ lao động, tác động đến đối tượng lao động để đạt được mục đích nhất định [14, tr. 15]. Lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nông nghiệp được coi là lao động nông nghiệp.
Để hiểu rõ hơn bản chất khái niệm "lao động", chúng ta cần nghiên cứu thêm các khái niệm: nguồn nhân lực, nguồn lao động.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng là nguồn lực con người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận nguồn lực có thể huy động được để tham gia vào quá trình phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là bộ phận của dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, là tổng thể những người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Về chất lượng, nguồn nhân lực thể hiện ở sức khỏe, trình độ chuyên môn, ý thức, tác phong, thái độ làm việc của người lao động.
Nguồn lao động (hay lực lượng lao động) là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động quy định thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt: số lượng và chất lượng như nguồn nhân lực. Về độ tuổi, mỗi quốc gia có quy định giới hạn tối đa và giới hạn tối thiểu khác nhau: giới hạn tối thiểu ở Braxin: 10 tuổi, Úc: 15 tuổi, Mỹ: 16 tuổi,... phần lớn các quốc gia quy định độ tuổi này từ 14 hoặc 15 tuổi. Ở Việt Nam quy định 15 tuổi, giới hạn tối đa: các nước Bắc Âu (Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Phần Lan) quy định độ tuổi này là 74 tuổi. Còn các nước đang phát triển: Malaixia, Ai Cập, Mêhicô,... quy định độ tuổi này là 65 tuổi. Ở Việt Nam độ tuổi này được quy định: 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ [25, tr. 5].
Trong điều kiện ngày nay (nền kinh tế thị trường, hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, nền kinh tế tri thức,...) việc không ngừng nâng cao chất lượng nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Số lượng lao động đông đảo không còn chiếm ưu thế, nhất là với lao động có chất lượng thấp.
Điểm đáng lưu ý của lao động nông nghiệp là mọi hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp đều gắn liền với đối tượng cây trồng, vật nuôi - là những cơ thể sống với những đặc điểm riêng biệt, không thể xóa bỏ, làm cho lao động nông nghiệp mang sắc thái riêng, không giống với lao động trong một số ngành kinh tế khác. Đặc biệt là tính chất thời vụ của lao động nông nghiệp, làm cho lao động nông nghiệp lúc thì căng thẳng, lúc lại nhàn rỗi; tình trạng thiếu việc làm tạm thời là khá phổ biến.
1.1.2. Khái niệm việc làm
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, chương 2 (việc làm) Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Khái niệm này được vận dụng trong các cuộc điều tra về thực trạng lao động và việc làm hàng năm của Việt Nam và được cụ thể hóa thành ba dạng hoạt động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân. Bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng; hoặc hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử dụng; hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai điều kiện:
+ Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình.
+ Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, và là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm,... Không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm - chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính gia đình mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì hoạt động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và pháp luật của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc làm: Ví dụ: mại dâm của phụ nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan, Philippin vì được pháp luật bảo hộ và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động đó được coi là hoạt động phi pháp, vi phạm pháp luật và không được thừa nhận là việc làm.
Tuy nhiên, với khái niệm trên, theo tác giả luận văn có điểm còn bất hợp lý: có những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã hội, không vi phạm pháp luật, nhưng không tạo ra thu nhập "trực tiếp" cho người tham gia hoạt động - như công việc nội trợ của phụ nữ,... lại không được coi là việc làm. Nhờ phụ nữ làm công việc nội trợ, đã góp phần làm giảm chi tiêu của gia đình; tạo điều kiện cho chồng, con yên tâm hoạt động sản xuất, kinh doanh đồng thời góp phần tăng thêm lượng vốn đầu tư vào sản xuất, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cả gia đình. Như vậy, thực chất của vấn đề ở đây là công việc nội trợ của phụ nữ cũng đã góp phần làm tăng thu nhập của cả gia đình.
Với ý nghĩa đó, tác giả luận văn đồng tình với quan điểm: việc làm là một dạng hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng [39, tr. 32].
Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có lợi nhuận, các doanh nghiệp sẽ tăng cường sử dụng lao động, tăng sản lượng, khối lượng việc làm sẽ tăng lên. Mặt khác, khi nhu cầu thị trường suy giảm, các doanh nghiệp sẽ phải cắt giảm sản lượng, khối lượng việc làm sẽ giảm.
Trong xu thế CNH, HĐH nền kinh tế, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, được ứng dụng nhanh chóng vào sản xuất và tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội đã làm cho khối lượng công việc có yêu cầu về mặt kỹ thuật cao tăng nhanh chóng.
Mặt khác, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới "cầu" lao động và "cơ cấu" lao động. Nếu người lao động không tự nâng cao tay nghề, nâng cao trình độ của mình theo kịp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh; phân công lao động xã hội không phát triển, không tạo ra được nhiều chỗ làm mới cho người lao động thì tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm là điều khó tránh khỏi.
Trong nông nghiệp, lao động mang tính thời vụ, do vậy vào thời kỳ căng thẳng, khối lượng công việc nhiều, tăng đột biến. Tuy nhiên, lúc nhàn rỗi, khối lượng công việc giảm đột ngột, thậm chí có lúc người nông dân không có việc làm. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay dân số ở khu vực nông thôn vẫn tăng nhanh, đất canh tác không tăng thậm chí có xu hướng giảm xuống vì nhiều lý do: đô thị hóa, đất ở,... tăng, mặt khác với khả năng ứng dụng máy móc, tiến bộ khoa học công nghệ,... làm cho năng suất lao động tăng nhanh, giải phóng một lượng lao động lớn ra khỏi ngành nông nghiệp. Nếu không tạo đủ công ăn, việc làm cho người nông dân, đặc biệt trong lúc nông nhàn với thu nhập được người nông dân chấp nhận, sẽ dẫn đến hiện tượng nông dân đổ xô ra các thành phố và các khu công nghiệp tìm kiếm việc làm gây nhiều vấn đề phức tạp cho việc quản lý lao động, quản lý xã hội, tình trạng xóm liều, phố liều, tệ nạn xã hội gia tăng.
1.1.3. Đô thị hóa
1.1.3.1. Đô thị
Đô thị là khái niệm đã được xuất hiện từ khá lâu và được quan tâm nghiên cứu trong vài chục năm trở lại đây.
Thuật ngữ "đô thị" bắt nguồn từ tiếng la tinh: Urbanus - thuộc về đô thị, Urban - thành thị, đô thị, châu thị,... "Đô thị là một khái niệm cơ bản và được sử dụng khá thống nhất ở các quốc gia, nhằm chỉ những nơi có dân cư đông đúc, sinh sống bằng các nghề phi nông nghiệp".
Theo G.S.Harold Chestnut trường đại học kỹ thuật Presden (Hoa Kỳ): "Đô thị là các điểm dân cư ở đó biểu hiện một quá trình kinh tế - xã hội - kỹ thuật gắn bó mật thiết với nhau. Các hoạt động của đô thị được phản ánh thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh, sinh sống, đi lại, vui chơi giải trí,... của dân cư, chúng tồn tại và phát triển theo các quy luật của xã hội".
Theo G.S Đàm Trung Phường:
Đô thị là một đơn vị kinh tế - xã hội phản ánh sự vận động của bản thân lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó làm cho cấu trúc của đô thị thường xuyên có sự chuyển hóa; sự chuyển hóa này vừa mang tính sinh học vừa mang tính cơ học. Đô thị là một cơ thể sống luôn vận động, phát triển trên cơ sở đan kết tổng hòa cân bằng động của nhiều ngành trong một đơn vị lãnh thổ và sự tác động tương hỗ của các hệ thống nội lực, ngoại lực theo nhiều chiều khác nhau [29].
Ở Việt Nam, theo quan niệm của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện rõ trong Quyết định số 132 HĐBT ngày 5-5-1990 của Hội đồng Bộ trưởng: Đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản sau đây:
1. Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của vùng lãnh thổ nhất định.
2. Có quy mô dân số nhỏ nhất là 4.000 người, quy mô dân số tối thiểu trong nội thị không nhỏ hơn 2.000 người/ km2 (vùng núi có thể thấp hơn).
3. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động; là nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hóa phát triển.
4. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô thị.
5. Mật độ dân cư được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc điểm từng vùng.
"Điểm dân cư" được hiểu: là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong huyện.
- Trung tâm tổng hợp: những đô thị là trung tâm tổng hợp, khi chúng có vai trò và chức năng nhiều mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,...
- Trung tâm chuyên ngành: Những đô thị là trung tâm chuyên ngành, khi chúng có vai trò và chức năng chủ yếu về mặt nào đó như: công nghiệp, cảng, du lịch - nghỉ dưỡng, đầu mối giao thông,...
- Một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng, tỉnh có thể là trung tâm chuyên ngành của một vùng liên tỉnh hoặc toàn quốc. Do đó, việc xác định một trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành còn phải căn cứ vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định.
- Lãnh thổ đô thị gồm: nội thành, hoặc nội thị và ngoại ô. Các đơn vị hành chính của nội thị gồm: quận và phường, còn các đơn vị hành chính của ngoại ô gồm huyện và xã [10].
Như vậy, đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập [11].
Đô thị được chia thành 5 loại:
1. Đô thị loại 1: Là đô thị rất lớn, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, khoa học kỹ thuật, du lịch - dịch vụ giao thông công nghiệp, giao dịch quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả nước - dân số từ 1 triệu trở lên, có tỉ suất hàng hóa cao, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số lao động. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng đồng bộ. Mật độ dân cư bình quân 15.000 người/km2 trở lên.
2. Đô thị loại 2: Là đô thị lớn, trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội, sản xuất công nghiệp, du lịch - dịch vụ, giao thông, giao dịch quốc tế, có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một vùng lãnh thổ. Dân số từ 35 vạn đến dưới 1 triệu. Sản xuất hàng hóa phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 90% trở lên trong tổng số lao động - cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công cộng được xây dựng nhiều mặt tiến tới đồng bộ - Mật độ dân cư bình quân 12.000 người/km2 trở lên.
3. Đô thị loại 3: Là đô thị trung bình lớn, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội là nơi sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tập trung, du lịch - dịch vụ, có vai trò thúc đẩy phát triển của một tỉnh, hoặc từng lĩnh vực đối với vùng lãnh thổ. Dân số từ 10 vạn đến dưới 35 vạn (vùng núi có thể thấp hơn - nhưng không quá 70% theo quy định) - sản xuất hàng hóa tương đối phát triển, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 80% trở lên trong tổng số lao động. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và mạng lưới công trình công cộng được xây dựng từng mặt. Mật độ dân cư bình quân 10.000 người/km2 (vùng núi có thể thấp hơn).
4. Đô thị loại 4: là đô thị trung bình nhỏ, trung tâm tổng hợp chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một tỉnh hay một vùng trong tỉnh. Dân cư từ 3 vạn đến dưới 10 vạn (vùng núi có thể thấp hơn). Là nơi có sản xuất hàng hóa, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp từ 70% trở lên trong tổng số lao động. Đã và đang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng từng phần. Mật độ dân cư 8.000 người/ km2 trở lên (vùng núi có thể thấp hơn).
5. Đô thị loại 5: Là đô thị nhỏ, trung tâm tổng hợp kinh tế - xã hội, hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp,... có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một huyện hay một vùng trong tỉnh hoặc một vùng trong huyện. Dân số từ 4.000 đến 3 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn). Tỉ lệ lao động phi nông nghiệp từ 60% trở lên trong tổng số lao động. Bước đầu xây dựng một số công trình công cộng và hạ tầng kỹ thuật. Mật độ dân cư bình quân 6.000 người/km2 (vùng núi có thể thấp hơn). Đối với các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tập trung nằm trong quy hoạch, khi cần thiết sẽ xếp vào khu vực đô thị để quản lý.
Điểm đáng lưu ý là: với các đô thị ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, các tiêu chuẩn quy định cho từng đô thị có thể thấp hơn, nhưng phải đảm bảo mức tối thiểu không dưới 70% so với chỉ tiêu chung. Với các đô thị có chức năng nghỉ mát, du lịch, điều dưỡng, nghiên cứu khoa học, đào tạo thì tiêu chuẩn quy mô dân số thường trú có thể thấp hơn, nhưng phải đạt tối thiểu 70% so với quy định chung [29, tr. 15].
Đô thị loại 1, 2 chủ yếu do trung ương quản lý; loại 3, 4 do tỉnh quản lý; loại 5 do huyện quản lý.
1.1.3.2. Đô thị hóa
Theo E.B.Alaev (Liên Xô cũ) Đô thị hóa là một quá trình kinh tế - xã hội được gia tăng mạnh mẽ trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, biểu hiện của nó là sự tăng nhanh về số lượng và quy mô của các điểm dân cư đô thị, sự tập trung hóa về dân cư trong các thành phố và đặc biệt là trong các thành phố lớn, sự phổ biến lối sống đô thị trong toàn bộ mạng lưới dân cư. Đô thị hóa là sự phản ánh những chuyển biến sâu sắc trong cấu trúc kinh tế và trong các hoạt động của đời sống xã hội.
Theo các chuyên gia thuộc trung tâm định cư của Liên hợp quốc (Habitat), đô thị hóa là quá trình mà nhờ nó, dân số của các quốc gia, chuyển dịch từ các nghề nghiệp nông thôn sang các nghề nghiệp đô thị, và vì thế mà diễn ra sự chuyển dịch từ các điểm dân cư nông thôn sang các điểm dân cư đô thị ở các quy mô khác nhau. Đô thị hóa không đơn thuần là vấn đề dân số học, nó là vấn đề bao trùm về sự phân bố; đô thị hóa có thể được hiểu như là sự biểu hiện của các mô hình phát triển các điểm dân cư.
Theo giáo sư Đàm Trung Phường, đô thị hóa là quá trình chuyển dịch lao động từ hoạt động sơ khai nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên sẵn có như các hoạt động của ngành nông, lâm, ngư nghiệp, khai thác phân tán trên các địa bàn rộng sang những hoạt động tập trung hơn như các hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại dịch vụ,... cũng có thể nói là chuyển từ hoạt động nông nghiệp phân tán, sang các hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên một địa bàn thích hợp được gọi là đô thị.
Như vậy, đô thị hóa với các khái niệm đa dạng tùy theo góc độ nghiên cứu của các tổ chức và các nhà khoa học, tuy nhiên, đều có những nét chung cơ bản phản ánh đặc trưng của đô thị hóa là: quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời sống. Quá trình đô thị hóa là quá trình công nghiệp hóa đất nước, đồng thời cũng là quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc... biến nông thôn thành thành thị, hay nói cách khác đô thị hóa là quá trình biến các làng quê với hoạt động nông nghiệp là chủ yếu thành các đô thị (thành phố, thị xã, thị trấn) với các hoạt động phi nông nghiệp là chủ yếu (từ 60% - 90% tùy theo các cấp độ đô thị) xóa bỏ dần thói quen của những người nông dân, xây dựng phong cách, thói quen, và tư duy, lối sống của người dân trong các đô thị.
Quá trình đô thị hóa được diễn ra theo hướng:
1- Xây dựng mới ngay từ đầu: khu công nghiệp, khu chế xuất, khu du lịch vui chơi giải trí...
2- Mở rộng, nâng cấp và cải tạo các thành phố, tụ điểm dân cư thành các đô thị mới: sát nhập một số đơn vị hành chính lân cận để mở rộng quy mô của thành phố, thị xã, thị trấn.
3- Đô thị hỗn hợp: nghĩa là đô thị mới được xây dựng bên cạnh đô thị cũ.
4- Liên kết các đô thị lại với nhau tạo nên một trung tâm mới - vùng đô thị với quy mô lớn: hình thành tổ hợp khu công nghiệp, hình thành các thành phố trung tâm và các thành phố vệ tinh. Để đánh giá tình hình đô thị ở một nước người ta dùng hai chỉ tiêu:
* Mức độ đô thị hóa, được tính bằng tỷ lệ phần trăm dân số đô thị so với tổng số toàn quốc hay vùng
Mức độ đô thị hóa
=
Số dân đô thị
(%)
Tổng số dân
* Tốc độ đô thị hóa
Tốc độ đô thị hóa
=
Số dân đô thị cuối kỳ - Số dân đô thị đầu kỳ
(%/năm)
Số dân đô thị đầu kỳ x N
Trong đó N là số năm giữa hai kỳ thống kê.
Lịch sử đã chứng minh: [38, tr. 26-33]
- Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến việc hình thành các trung tâm kinh tế, thương mại giao dịch lớn, tập trung.
- Sự phát triển mạnh mẽ của phân công lao động xã hội hình thành các ngành mới đặc biệt là các ngành phi nông nghiệp, sự lớn mạnh của các ngành dịch vụ đã đóng góp phần hết sức to lớn vào phát triển kinh tế đất nước - được coi như ngành công nghiệp không có ống khói.
- Trong thời đại khoa học công nghệ, CNH, HĐH, hội nhập với nền kinh tế thế giới, tất yếu sẽ hình thành các thành phố, các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật, du lịch vui chơi giải trí,...
- Phát triển đô thị đem lại nhiều ưu việt: đô thị hóa là hiện thân của nền sản xuất lớn, văn minh hiện đại là nơi tập trung mọi yếu tố vật chất và tinh thần cho sản xuất của xã hội. Do vậy, đây cũng là nơi sản xuất đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Đô thị (đặc biệt là các đô thị lớn) tạo nhiều khả năng cho người lao động lựa chọn ngành nghề, trường học, nơi làm việc,... Đồng thời đô thị cũng là nơi phát triển nhu cầu mới và tạo điều kiện tốt nhất để thỏa mãn những nhu cầu ấy, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi thành viên. Có thể nói: phát triển đô thị là tạo động lực cho nền kinh tế nói chung và với nông nghiệp nói riêng phát triển. Mặc dù phát triển đô thị cũng có những mặt trái: ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, tai nạn ô tô, bệnh tật,... nhưng những ưu việt của phát triển đô thị là rất lớn không thể phủ nhận.
Thực hiện quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chính là từng bước đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn xây dựng nền văn minh công nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn.
V.I. Lênin đã luôn nhấn mạnh vai trò chủ đạo của thành phố đối với nông thôn, vai trò tiến bộ của các thành phố lớn đối với sự phát triển của xã hội,... thành phố tất yếu dấn dắt nông thôn. Nông thôn tất yếu đi theo thành phố [24, tr. 5]. Lênin cho rằng: "dân cư nông thôn chuyển vào thành phố" là một hiện tượng tiến bộ [22, tr. 576 -578] "... thành phố là trung tâm sinh hoạt kinh tế, chính trị của sự tiến bộ" [23, tr. 341].
Thực tiễn đã và đang tiếp tục chỉ rõ, phát triển đô thị đang là xu thế của thời đại và do đó không có ngoại lệ đối với Việt Nam.
1.1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
Quá trình đô thị hóa, làm thay đổi mọi mặt của đời sống, xã hội của khu vực nông thôn đặc biệt là cơ cấu lao động và việc làm của lao động nông nghiệp. Việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
1.1.4.1. Giảm diện tích đất canh tác
Đô thị hóa làm giảm diện tích đất canh tác, đất canh tác bình quân trên một người lao động trong nông nghiệp giảm, làm cho lao động nông nghiệp thiếu việc làm gia tăng.
Quá trình đô thị hóa là quá trình gia tăng và lớn lên của hệ thống đô thị, quá trình biến từng vùng nông thôn thành đô thị là nguyên nhân cơ bản làm giảm đất canh tác trong nông nghiệp.
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, các cơ sở hạ tầng ngày càng được phát triển: đường giao thông, bến cảng, trung tâm thương mại,... Cũng góp phần làm giảm đất canh tác trong nông nghiệp, nông dân mất dần ruộng đất. với các nước đang phát triển, công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp còn chậm chạp và khá lạc hậu, phương thức canh tác theo lối truyền thống vẫn là chủ yếu, do vậy đất đai là yếu tố hết sức cơ bản và cần thiết đối với sản xuất nông nghiệp và khả năng tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp. Nhiều đất khả năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp lớn, ít đất khả năng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp sẽ giảm đi.
Đô thị hóa đã đẩy nhanh quá trình phân công lao động, tạo cơ sở hạ tầng thuận lợi cho sản xuất phát triển, tuy nhiên với các nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, tay nghề của người lao động thấp, không đủ khả năng khai thác những thuận lợi của quá trình đô thị hóa tạo ra, để giải quyết công ăn việc làm cho mình. Do vậy, quá trình đô thị hóa càng diễn ra nhanh chóng nguy cơ thất nghiệp và thiếu việc làm trong nông nghiệp, nông thôn càng gia tăng.
Trong quy hoạch phát triển đô thị, vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp (đặc biệt là những người "mất" đất canh tác) là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách.
1.1.4.2. Cơ cấu lao động và trình độ của người lao động
Quá trình đô thị hóa là quá trình phát triển các thành phố, các trung tâm kinh tế, chính trị và xã hội; là quá trình CNH, HĐH đất nước. Biến nông thôn thành thành thị, phân công lao động được diễn ra nhanh, mạnh cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Việc làm ở các đô thị rất đa dạng và phong phú, bao gồm: lao động trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp (chiếm tỷ trọng 10-40% lao động trong tổng số); lao động trong các nhà máy công nghiệp hiện đại; lao động trong các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội; lao động trong các ngành dịch vụ,... Cơ cấu lao động và việc làm là đơn đặt hàng cho "cung" lao động.
Ngoài 10-40% lao động trong ngành nông nghiệp và một bộ phận không lớn trong một số ngành dịch vụ có trình độ văn hóa, khoa học công nghệ chưa cao, còn lại phần lớn lao động ở các đô thị là lao động được đào tạo, có trình độ văn hóa, khoa học công nghệ, trình độ quản lý, tri thức về nền kinh tế thị trường cao và rất cao.
Với các nước đang phát triển, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật,... của lao động nông nghiệp, nông thôn thường rất thấp, do vậy khi tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng và phát triển các đô thị, phát triển các ngành phi nông nghiệp gắn với nền kinh tế thị trường, cơ hội tìm kiếm công ăn việc làm của lao động nông nghiệp ở các đô thị là rất khó khăn. Ngay cả trong sản xuất nông nghiệp ngày nay - thời đại khoa học công nghệ - lao động nông nghiệp cũng đòi hỏi phải được đào tạo và đào tạo lại. Cùng với tiến trình đô thị hóa, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đặt ra những yêu cầu mới cho người lao động, đòi hỏi người lao động phải nâng cao năng lực, trình độ của mình. Nếu người lao động nông nghiệp nói riêng, người lao động trong các ngành nói chung không được đào tạo và đào tạo lại đáp ứng yêu cầu mới, thì tự họ sẽ mất công ăn việc làm, cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ rất khó khăn tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm là không thể tránh khỏi.
Thực trạng về lao động và việc làm ở các nước đang phát triển đã chứng minh: lao động có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn giỏi đang rất thiếu, trong khi lao động thủ công và lao động có tay nghề thấp lại thừa với số lượng lớn. Do vậy, muốn giải quyết được công ăn việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cần thiết phải quan tâm tới việc đào tạo, đào tạo lại đội ngũ người lao động nông nghiệp nói riêng, lao động xã hội nói chung theo cơ cấu lao động hợp lý phù hợp với từng giai đoạn đô thị hóa, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
1.1.4.3. Sự gia tăng mạnh mẽ dân số ở khu vực nông nghiệp, nông thôn
Xuấ._.t phát từ nhiều lý do: Trình độ nhận thức, quan niệm sống,... mà dẫn đến một thực tế là: tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông nghiệp, nông thôn thường cao hơn nhiều so với khu vực thành thị. Vì vậy diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp nay lại càng thấp hơn; thu nhập bình quân đầu người đã thấp, nay khó có thể được cải thiện, khả năng đào tạo và đào tạo lại cho người lao động nông nghiệp bị hạn chế; yêu cầu về lao động qua đào tạo, có chất lượng cao của xã hội ngày càng cao. Trong nông nghiệp, ngành trồng trọt vẫn là chủ yếu - tính thời vụ của lao động nông nghiệp cao, vì vậy, tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp của lao động nông nghiệp có xu hướng gia tăng. Đây là một thực tế cần sớm có biện pháp khắc phục.
1.1.4.4. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động: Vốn dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, đào tạo đội ngũ người lao động... Đặc biệt trong điều kiện ngày nay, để phát triển sản xuất đòi hỏi phải đổi mới nhanh chóng máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, hơn nữa hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao. Có vốn lớn, "trường vốn" đem lại lợi thế cho doanh nghiệp và người sản xuất, thực tế là: muốn phát triển một ngành nào đó đều cần phải có một lượng vốn đầu tư tương ứng cho một chỗ làm mới (ví dụ: để có một chỗ làm mới trong nông nghiệp cần một lượng vốn từ 10-15 triệu đồng còn trong lĩnh vực công nghiệp cần khoảng 50 triệu đồng cho một chỗ làm mới,...)
Các nước đang phát triển phần lớn là các nước có xuất phát điểm thấp (nghèo, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật,... thấp) đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Quá trình đô thị hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động có việc làm nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, song tình trạng đói, nghèo, thiếu vốn đầu tư đã làm hạn chế việc mở rộng cơ sở sản xuất hoặc phát triển các ngành nghề mới, thu hút lao động nông nghiệp bị giải phóng ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp (mất đất, không có đất để canh tác do đô thị hóa...) hoặc một bộ phận lao động nông nghiệp thiếu việc làm lúc thời vụ nông nhàn. Do đó, nếu đứng trên góc độ nông nghiệp để tự giải quyết việc làm cho mình là rất khó khăn, để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa cần phải có sự quan tâm giúp đỡ của nhà nước cũng như các cấp, các ngành liên quan.
1.1.4.5. Vai trò của nhà nước
Với xuất phát điểm thấp, bản thân nông nghiệp và những người lao động nông nghiệp không đủ khả năng để tự giải quyết công ăn việc làm cho chính mình trong quá trình đô thị hóa, để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động nông nghiệp cần thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước trên nhiều mặt. Vai trò của nhà nước ảnh hưởng tới việc làm của người lao động nông nghiệp thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển đất nước, quy hoạch phát triển đô thị.
Qua quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch phát triển các vùng mà các ngành, các vùng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, vùng mình, xây dựng đội ngũ người lao động cho phù hợp.
Nếu quy hoạch đô thị gắn với quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn với chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nông thôn các ngành sẽ hỗ trợ nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển, tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Ngoài ra, thông qua các chính sách, các chương trình, các dự án của mình nhà nước đã tác động tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, hướng dẫn, khuyến khích người lao động phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tạo vốn cho đầu tư phát triển ngành nghề: qua đền bù đất, qua vay ưu đãi, qua luật đầu tư, qua việc tạo lập môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý ổn định, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước...
1.2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
Quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Theo tính toán của Liên hợp quốc đến giữa năm 1990 dân số đô thị thế giới đã đạt đến mức 43% tức 2,3 tỉ người. Tỉ lệ này đã tăng nhanh gấp 2,5 lần dân số nông thôn. Vào năm 2005 sẽ có trên 50% dân số thế giới sống ở đô thị, và khoảng 60% vào năm 2025.
Ở các nước đang phát triển năm 1970, dân số đô thị chiếm 25%; năm 1990 lên tới 34%; năm 2015: 50% và lên 57% vào năm 2025. Như vậy, tốc độ tăng dân số đô thị ở các nước đang phát triển khá cao bình quân/ năm là: 3,8%, trong khi dân số nông thôn chỉ tăng 1,2% / năm.
Sự phát triển mạnh mẽ của đô thị hóa, đã đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết: phát triển kinh tế đô thị, giải quyết việc làm cho người lao động, môi trường,... thực tiễn phát triển đô thị của các quốc gia trên thế giới nhất là các quốc gia trong khu vực đã có nhiều bài học kinh nghiệm được rút ra trong việc giải quyết các vấn đề trên, đặc biệt những kinh nghiệm quý báu trong giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, lao động nông nghiệp nói riêng. Đây thực sự là những bài học hữu ích đối với vấn đề đô thị hóa và giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nông nghiệp nói riêng ở Việt Nam và các nước đang phát triển. Để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, các quốc gia đang phát triển tập trung vào các vấn đề sau:
1.2.1. Làm tốt công tác quy hoạch đô thị, gắn quy hoạch phát triển đô thị với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quy hoạch đô thị luôn là vấn đề được các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm. Vấn đề quy hoạch không gian, quy hoạch phát triển đô thị phát triển kinh tế đô thị, xác định rõ các trọng tâm phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, môi trường,... là nội dung được tập trung giải quyết ngay từ khâu quy hoạch.
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, quy hoạch không gian liên quan tới sự phát triển trong toàn bộ lãnh thổ liên bang, các bang và các vùng. Với mục tiêu: đảm bảo sự thống nhất về điều kiện sống trong cả nước, tránh sự giãn cách quá xa giữa các bang, vùng miền. Quy hoạch không gian là công việc được nhà nước trực tiếp tiến hành vì nó mang tính liên ngành, liên địa phương. Nhà nước ban hành "khung" bao gồm các quy định về nội dung và thủ tục; các bang sẽ tự chịu trách nhiệm cụ thể hóa "khung" ở bang mình để thực hiện phát triển kinh tế ở bang mình thành phố hay thị trấn của mình. Quy hoạch phát triển các ngành do Bộ trưởng chủ quản chịu trách nhiệm thi hành.
Các vấn đề Quy hoạch sử dụng mặt bằng, quy hoạch các cụm dân cư, các địa bàn trung tâm, các trọng tâm phát triển giải quyết tốt công ăn việc làm cho những người lao động được gắn chặt chẽ với nhau. Các công việc này được các cơ quan chức năng xây dựng, người dân được quyền xem đồ án dự thảo, được quyền góp ý về đồ án quy hoạch và phát triển đô thị; Hội đồng địa phương thông qua. Có thể nói: mục tiêu của quy hoạch ở đây là để phát triển, trước tiên là phát triển kinh tế, nhằm xóa bỏ sự cách biệt giàu nghèo giữa các bang, vùng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Với mục tiêu phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động ở các đô thị, chính quyền liên bang, các bang đã thực hiện một loạt đồng bộ các giải pháp: từ giúp đỡ hình thành các doanh nghiệp mới, chuẩn bị mặt bằng, cơ sở hạ tầng khuyến khích và đổi mới công nghệ, đổi mới việc thực hiện các chính sách tài chính ưu đãi: miễn giảm thuế, tín dụng, ưu đãi,... Thành phố Nordhorn và Lingen là những thành phố đi đầu trong các lĩnh vực này.
Công tác quy hoạch và phát triển đô thị được thực hiện tốt đặc biệt là các quy hoạch "có tầm nhìn xa" đã là căn cứ (cơ sở) cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành đúng hướng, giúp cho các nhà đầu tư có hướng đầu tư, mở rộng sản xuất, đồng thời cũng có thể ngăn chặn được một số dự án dạng "ăn xổi" dẫn đến hiệu quả kinh tế xã hội không cao, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của các đô thị. Tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Tuy nhiên, bài học không thành công từ sự quy hoạch phát triển kinh tế của Philippin theo hướng: phát triển nhanh, mạnh CNH, HĐH các ngành thay thế hàng nhập khẩu các ngành có năng suất cao,... nước này hy vọng sẽ sớm biến từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm cao (tỷ lệ thất nghiệp khoảng 10%, tỷ lệ thiếu việc làm là 35%) thành một nước công nghiệp, thu hút và tạo nhiều việc làm cho người lao động. Nhưng thực tế đã không như mong muốn. Kết quả là nông dân lũ lượt đổ xô ra các đô thị, khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm, sản xuất nông nghiệp đình đốn, sa sút, trì trệ giá cả nông sản phẩm tăng vọt, giá cả nguyên liệu cho công nghiệp chế biến tăng,... chi phí tăng, mục tiêu thu hút tạo việc làm cho người lao động cũng không giải quyết được. Đây cũng là bài học bổ ích cho hướng quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho chúng ta cũng như các nước đang phát triển đi lên từ nền văn minh nông nghiệp.
1.2.2. Thu hút đầu tư nước ngoài, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước
Phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp tạo nhiều việc làm cho người lao động. Tạo việc làm cho người lao động luôn là chính sách ưu tiên số một và là chiến lược hàng đầu trong các kế hoạch 5 năm của các quốc gia (Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan,...) trong quá trình đô thị hóa.
Các quốc gia đang phát triển (đặc biệt là các nước trong khu vực) phần lớn đều là những nước nghèo, có tài nguyên, có nguồn nhân lực dồi dào (trình độ thấp), muốn phát triển đô thị, CNH, HĐH đất nước rất cần phải có vốn. Vốn cho đô thị hóa, CNH, HĐH có được từ hai nguồn: trước tiên phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước thông qua việc kêu gọi dân chúng phát huy tinh thần tiết kiệm, "tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để tăng tiêu dùng trong tương lai". Giảm tỉ lệ cất trữ, tăng vốn cho đầu tư sản xuất, phát triển ngành nghề. Thứ hai là: kêu gọi đầu tư nước ngoài (vốn, công nghệ, chất xám,...) thông qua việc thực hiện chính sách ưu đãi cho người đầu tư: miễn, giảm thuế, chính sách tự do luân chuyển tư bản, đơn giản hóa, gọn nhẹ trong việc cấp phép, thủ tục hành chính,...
Nhờ thành công từ chính sách này đã giúp cho Hàn Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Xingapo,... vượt qua được khó khăn, thực hiện thành công CNH, HĐH nền kinh tế và trở thành các con "rồng" châu Á.
Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ chính phủ các nước này lại có chính sách tập trung vào một số đối tượng.
Trước năm 1990, Hàn Quốc mục tiêu phát triển mạnh các ngành cần nhiều lao động, lao động không có kỹ năng hoặc kỹ năng thấp. Sau năm 1990 trở đi Hàn Quốc đẩy mạnh CNH, HĐH, đầu tư đổi mới công nghệ, biến đổi cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng suất lao động. Chương trình này của Hàn Quốc được Chính phủ đặt trong mối quan hệ đồng bộ với các biện pháp khác: Thực hiện chương trình trợ cấp thất nghiệp, mở rộng các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng cho người lao động, áp dụng các chương trình bảo đảm việc làm, tăng hiệu quả của hoạt động thị trường lao động.
Để tạo nhiều việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hóa, các nước trong khu vực thường tập trung phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp: khai thác mỏ, phát triển mạnh công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo, phát triển mạnh các ngành thuộc khu vực kinh tế phi chính thức (khu vực kinh tế bao gồm các hoạt động sản xuất quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ), các hoạt động không đăng ký hoặc trốn tránh pháp luật, các hoạt động chưa được pháp luật quy định, do đó không chịu sự kiểm soát và điều tiết của nhà nước. Ở thành phố ngành nghề đa dạng, đặc biệt trong lĩnh vực ăn uống, dịch vụ, và các ngành nghề truyền thống. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng xuất khẩu. Sử dụng công nghệ thu hút nhiều lao động [41].
Ở Hàn Quốc 96,9% người lao động có việc làm, tỉ lệ thất nghiệp thiếu việc làm thấp: 3-4%. Thái Lan là một quốc gia đang phát triển, có tốc độ tăng trưởng khá cao 5-6% bình quân năm và cũng là một quốc gia có thành tích cao trong khu vực về việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động (tỉ lệ thất nghiệp rất thấp 1-2% bình quân/ năm, tỷ lệ người thiếu việc làm cũng rất thấp, chỉ khoảng 4%, trong khi ở các nước đang phát triển tỷ lệ này thường chiếm tới hơn 25%) [41, tr. 41]. Thành tích đó có được từ các chính sách gắn kết giữa đô thị hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế, với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành nghề. Trong đó các biện pháp tăng trưởng nhanh xuất khẩu hàng công nghiệp, hàng tiểu thủ công nghiệp, tạo thị trường xuất khẩu quốc tế nhằm nhanh chóng phát triển nền kinh tế, tạo nhiều việc làm, thu hút người lao động. Lựa chọn và áp dụng công nghệ phù hợp với điều kiện một nước kinh tế đang phát triển có nguồn lao động dồi dào đó là công nghệ sử dụng nhiều lao động: công nghệ hàng dệt may,... Phát triển khu vực kinh tế phi chính thức ở thành phố là các biện pháp cơ bản, quan trọng nhằm tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động Thái Lan mà Chính phủ quan tâm.
Bănglađet là quốc gia hơn một nửa thu nhập quốc dân do nông nghiệp tạo ra, công nghiệp non trẻ chỉ chiếm 10% thu nhập quốc dân [41, tr. 16]; tốc độ tăng trưởng kinh tế 4-5% năm; tốc độ tăng dân số cao, quy mô dân số lớn (đứng thứ 9 trên thế giới). Có thể nói Bănglađét là một quốc gia nông nghiệp đang trong quá trình phát triển, xuất phát điểm thấp. Với quá trình đô thị hóa, phát triển nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, Chính phủ đã xem xét trên cả hai phía"cầu" và "cung" lao động, nhà nước tích cực trợ giúp cho chương trình lao động và việc làm. Cụ thể chiến lược tạo việc làm như sau:
1- Tạo việc làm trong nông nghiệp: nhận thức rõ lực lượng lao động chủ yếu trong nông nghiệp nông thôn, do vậy để tạo việc làm cho người lao động trong nông nghiệp Chính phủ bắt đầu từ giới thiệu và hướng dẫn áp dụng các công nghệ mới trong khâu giống cây, con phục vụ sản xuất; trong sử dụng phân hóa học, kết hợp với việc xây dựng các công trình tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp đặc biệt là gieo trồng lúa. Thực chất là tích cực áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, thực hiện thâm canh hóa sản xuất nông nghiệp nhằm đem lại năng suất cao chất lượng tốt, giá thành hạ phục vụ cho nâng cao đời sống của dân cư, có hàng cho xuất khẩu. Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân nhằm đảm bảo cung cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp kịp thời. Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi nhằm trợ giúp cho các trang trại có quy mô vừa và nhỏ phát triển. Với sự trợ giúp của các tổ chức Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ đã và đang có vai trò tích cực tạo việc làm cho người lao động.
2- Tạo việc làm trong công nghiệp: mặc dù ở Bănglađet, công nghiệp còn non trẻ nhưng Chính phủ đã tập trung sức phát triển các ngành phù hợp với lợi thế của đất nước, tạo nhiều việc làm cho người lao động như: điện máy, cao su, dầu khí, dệt, nghề in,... đặc biệt phát triển mạnh công nghiệp dệt may với quy mô nhỏ. Chính sách công nghiệp mới được ban hành vào năm 1982 chuyển hướng phát triển công nghiệp sang khu vực tư nhân. Chính phủ cho phép thành lập các trung tâm nguồn việc làm (Employment Resource Center), cung cấp các thông tin tín dụng, thị trường, công nghệ mới,và đào tạo người lao động theo nhóm mục tiêu.
3- Tạo việc làm thông qua phát triển các công việc công cộng đặc biệt là thông qua các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu vực nông thôn, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật tạo đà cho phát triển sản xuất, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhằm tạo nhiều việc làm mới cho người lao động.
4- Tạo việc làm thông qua các chương trình "việc làm" của các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước giúp đỡ.
Các tổ chức Chính phủ và phi chính phủ trong và ngoài nước luôn có các hoạt động hỗ trợ, tạo việc làm cho người lao động thông qua các hoạt động trợ giúp như: vốn đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động, cung cấp thông tin,... do vậy bản thân người lao động phải tích cực tìm hiểu, tham gia để được trợ giúp, nhằm tạo việc làm mới cho chính mình.
1.2.3. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ người lao động theo yêu cầu mới của sự phát triển các ngành
Đô thị hóa là xu thế của thời đại, đô thị hóa luôn gắn với quá trình CNH, HĐH, thực chất là cuộc đại cách mạng trong các quốc gia nông nghiệp, phá vỡ lực lượng sản xuất cũ, quan hệ sản xuất cũ; đặt ra các yêu cầu mới cho sự phát triển. Các ngành nghề mới ra đời, ngay cả bản thân ngành nông nghiệp cũng không thể như cũ được, đặc biệt trong thời đại ngày nay, thời đại của khoa học công nghệ, thời đại của liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế,... Nhận thức được điều này, Chính phủ các nước (đặc biệt là các nước đang phát triển) rất chú trọng tới việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ người lao động.
- Ở Hàn Quốc từ sau năm 1990 quá trình đô thị hóa CNH, HĐH diễn ra mạnh mẽ, các chủ doanh nghiệp thực hiện quá trình đổi mới cơ cấu ngành, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, Chính phủ mở rộng các chương trình đào tạo, đào tạo lại kỹ năng của người lao động [41, tr. 44].
- Ở Philippin: khác với Thái Lan và Hàn Quốc, Philippin có tỉ lệ tăng dân số hàng năm khá cao do sự thống soái của phe phái nhà thờ. Tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm hàng năm rất cao. Sự tụt hậu của nền kinh tế do những sai lầm trong quản lý, tham nhũng, bất ổn định về chính trị đã ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế, gia tăng việc làm, nâng cao mức sống người lao động. Định hướng phát triển nguồn nhân lực của Philippin là Chính phủ rất quan tâm tới hệ thống thông tin nguồn nhân lực như sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục mức sinh, sử dụng nguồn nhân lực và tạo việc làm cho người lao động.
Chiến lược quan trọng được áp dụng ở Philippin vào cuối những năm 1980-1990 là: khuyến khích tự tạo việc làm thông qua các chương trình giáo dục và đào tạo định hướng phát triển nông thôn, nông nghiệp; giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và các kỹ năng, cung cấp những hiểu biết về kinh doanh và quản lý trong giáo dục cao đẳng và giáo dục phổ thông trung học. Nhờ vậy đã giúp cho một số lớn người lao động từ làm thuê vươn lên thành chủ doanh nghiệp, thu hút được nhiều lao động, tạo nhiều chỗ làm mới, góp phần làm giảm sức ép về lao động và việc làm cho xã hội.
- Ở Bănglađet: để tạo việc làm cho người lao động trong điều kiện mới, Chính phủ đã thực hiện chương trình nâng cao chất lượng đội ngũ người lao động, bắt đầu từ việc giới thiệu, hướng dẫn áp dụng các công nghệ mới trong gây giống phục vụ trồng trọt, phân hóa học, xây dựng các công trình tưới tiêu phục vụ sản xuất đặc biệt là gieo trồng lúa.
Chính phủ cho phép thành lập các trung tâm nguồn việc làm, cung cấp các thông tin về tín dụng, thị trường, kiến thức cần thiết về công nghệ mới. Bên cạnh việc thực thi chính sách mở rộng giáo dục, đào tạo kỹ năng cho người lao động,... khuyến khích người lao động tự tạo việc làm tăng thu nhập, tăng cường sức khỏe.
1.2.4. Giảm tỷ lệ phát triển dân số nông nghiệp, nông thôn
Chính sách dân số luôn được các Chính phủ ở các nước trong khu vực quan tâm. Các nước trong khu vực phần lớn đều có xuất phát điểm là những nước nông nghiệp, vốn dĩ là những nước nghèo, trình độ người lao động thấp, sản xuất kém phát triển, tốc độ tăng dân số cao, sức ép về lao động và việc làm rất lớn. Vấn đề việc làm - thu nhập - ổn định và nâng cao đời sống người lao động luôn là bài toán khó đối với các nhà quản lý và Chính phủ các nước. Đã có một thời gian khá dài lao động dồi dào là một lợi thế của các nước đang phát triển nhưng ngày nay lợi thế này đang ngày càng bị mất dần đi bởi xu thế phát triển của nhân loại. Khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão, sự phát triển của nền kinh tế tri thức, kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi đội ngũ người lao động phải có trình độ chuyên môn cao, sức khỏe tốt có ý thức tác phong công nghiệp hóa. Cơ hội tìm kiếm việc làm của người lao động có tay nghề thấp và những người lao động thủ công trong điều kiện ngày nay là rất khó khăn, do vậy, sức ép về lao động và việc làm ngày càng căng thẳng hơn.
Để giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, bên cạnh các biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ người lao động,... chính sách giảm tỷ lệ phát triển dân số, đặc biệt dân số nông nghiệp,nông thôn được coi là một giải pháp quan trọng trước mắt, đồng thời đây cũng là chính sách cơ bản, lâu dài. Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia, Philippin... là các quốc gia đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực này. Ở Hàn Quốc trước năm 1985 tốc độ tăng dân số đạt ở mức 2,7% bình quân năm và đến năm 2003 xuống còn 0,7%/năm [41, tr. 43]; Thái Lan trước năm 1985, tốc độ tăng dân số đạt: 2-3%/ năm nhưng đến năm 2003 cũng giảm xuống còn 0,7%/năm,... [43]. Đây quả thực là một cuộc cách mạng về lĩnh vực dân số. Nhờ chính sách kiên định về dân số, kế hoạch hóa gia đình nên vấn đề việc làm, thất nghiệp, thiếu việc làm luôn được Chính phủ kiểm soát, chủ động giải quyết.
1.2.5. Thực hiện chính sách xuất khẩu lao động
Các nước đang phát triển phần lớn là những quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào (chủ yếu là lao động có trình độ thấp, nền kinh tế chưa phát triển, khả năng thu hút người lao động (tạo việc làm mới) chưa cao, ở nhiều nước sức ép về lao động và việc làm lớn. Để giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời làm giảm áp lực với xã hội, nhiều quốc gia đã chọn con đường xuất khẩu lao động ra nước ngoài làm biện pháp quan trọng, là chiến lược cơ bản, lâu dài. Biện pháp này đã đem lại nhiều tác dụng cho cả nhà nước, người lao động và xã hội: nhà nước có nguồn thu, người lao động có việc làm, có thu nhập, giảm sức ép về việc làm cho xã hội,...
Lao động được đưa sang các nước có nhiều việc làm, thiếu lao động: châu Âu, Hàn Quốc, Đài Loan,...
Tuy nhiên, trong điều kiện ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,... yêu cầu người lao động tham gia thị trường xuất khẩu lao động phải được đào tạo, thích nghi với điều kiện mới của lao động ở các nước nhận lao động.
1.2.6. Sự hỗ trợ tích cực của nhà nước
Tại các quốc gia đang phát triển vai trò của nhà nước hết sức to lớn trong việc tạo việc làm cho người lao động. Ở hầu hết các nước, vai trò của nhà nước về vấn đề này được thể hiện ngay từ khâu đầu tiên: quy hoạch đô thị, quy hoạch phát triển nền kinh tế, phát triển các ngành nghề đến việc trực tiếp hoặc gián tiếp xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ cho đội ngũ người lao động.
Nhà nước ban hành các chính sách khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát huy năng lực sáng tạo của người lao động, bảo vệ lợi ích của người lao động trong nước cũng như lao động làm việc ở nước ngoài,... Thực thi chính sách dân số, giảm tỷ lệ tăng dân số. Trợ cấp thất nghiệp cho người lao động thất nghiệp chưa có việc làm, bảo hộ cho sản xuất và người lao động trong nước.
Đây là những bài học quý giá cho quá trình đô thị hóa, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cho Việt Nam và những nước đi sau.
Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA
2.1.1. Thực trạng quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
2.1.1.1. Đô thị hóa ở Việt Nam trước năm 1986
Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống đô thị ở Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với vị trí địa lý khá độc đáo, nằm gần Trung tâm khu vực Đông nam Á, gồm hai khu vực sớm phát triển của thế giới là Đông Á và Nam Á, từ xa xưa Việt Nam đã được coi như là một trung tâm quan trọng, một địa bàn tiềm năng để phát triển kinh tế. Đó là các điều kiện thuận lợi để ra đời các tụ điểm kinh tế hoặc các cảng thị trên khắp các vùng trên cả nước. Các đô thị ở Việt Nam ra đời từ rất sớm.
- Trong thời kỳ Bắc thuộc (từ thế kỷ II đến thế kỷ X), các nhà nước phong kiến thống trị đã rất chú trọng tới việc xây thành, đắp lũy; đặc biệt là việc xây dựng các "lỵ sở" hay các căn cứ quân sự - hành chính. Tại các khu vực lãnh thổ này các hoạt động tiểu thủ công nghiệp cùng với các hoạt động thương mại dịch vụ có điều kiện phát triển mạnh, đây chính là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của hàng loạt các đô thị cổ ở Việt Nam: Nổi bật trong số đó là Luy Lân (Thuận Thành - Bắc Ninh), Tống Bình (Hà Nội), một số cảng thị được phát triển gắn liền với các hoạt động buôn bán với nước ngoài như: Lạch Trường (Thanh Hóa), Óc Eo (An Giang) Hội An (Quảng Nam).
- Trong thời kỳ phong kiến, sau khi đã giành được quyền tự chủ, bên cạnh việc củng cố chính quyền và xây dựng quân đội các triều đại phong kiến ở Việt Nam rất chú trọng tới việc thiết lập các hệ thống phong kiến ở Việt Nam rất chú trọng tới việc thiết lập các hệ thống phòng thủ, đặc biệt là xây dựng hệ thống đồn trú ở các khu vực trọng yếu, đây là cơ sở ban đầu cho sự xuất hiện hàng loạt các đô thị "đồn trú" "hành chính" và các đô thị "thương mại - trạm dịch". Điển hình là: Vĩnh Bình (Lạng Sơn), Vân Đồn (Quảng Ninh) vào thế kỷ XI - XIV Cảng thị Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam), Sài Gòn - Gia Định vào thế kỷ XVII - XVIII; Hải Phòng, Đà Nẵng vào thế kỷ XIX.
Hình thành và phát triển các đô thị trung tâm, các cố đô được chuyển dịch qua nhiều nơi: từ Cổ Loa đến Hoa Lư (Ninh Bình) đời nhà Đinh và Tiền Lê; Thăng Long đời nhà Lý, Thiên Trường (Hà Nam) đời nhà Trần, Tây Đô (Thanh Hóa) đời nhà Hồ, Phú Xuân - Huế (đời nhà Nguyễn) rồi trở lại Thăng Long - Đông Đô - Kẻ Chợ (Đời Hậu Lê).
- Trong thời kỳ Pháp thuộc. Ngay từ những ngày đầu xâm lược nước ta để thực hiện mục đích chiếm đóng lâu dài, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách "chia để trị". Với việc phân chia các vùng lãnh thổ thành các tỉnh, huyện với quy mô nhỏ, đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng nhanh, về số lượng các đô thị trong kỳ này, một mạng lưới đô thị hành chính cùng với hệ thống các điểm dịch đồn trú được hình thành trên khắp các vùng lãnh thổ trong cả nước. Các ngành công nghiệp: khai khoáng, khai thác và chế biến nông lâm sản, công nghiệp dệt, may,... được chú trọng phát triển. Do nền kinh tế kém phát triển, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế đô thị hết sức nghèo nàn, lạc hậu, các đô thị thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu vì vậy quá trình đô thị hóa diễn ra hết sức chậm chạp, mãi tới giữa thế kỷ XX tỷ lệ dân cư đô thị mới chỉ chiếm 4-7% dân số. Phần lớn các đô thị Việt Nam đều có quy mô nhỏ, chỉ có một số đô thị có quy mô trung bình: Hà Nội, Sài Gòn - Gia Định, Hải Phòng.
Trong giai đoạn này có sự tách biệt rõ nét giữa các đô thị với các vùng nông thôn xung quanh. Một hệ thống luật lệ về quản lý đô thị của Pháp được áp đặt, lối sống đô thị theo kiểu phương Tây được du nhập, sự khác biệt giữa mức sống của dân đô thị với các vùng nông thôn khá lớn.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: đất nước bị chia cắt làm hai miền.
Ở miền Nam, cùng với, việc gia tăng các hoạt động quân sự Mỹ đã đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đặc biệt là kinh tế tại các đô thị. Quá trình đô thị hóa được đẩy mạnh, đặc biệt là sự hình thành và phát triển của hệ thống các đô thị quân sự: Cam Ranh, Trà Nóc, Đắc Tô, Xuân Lộc, Chu Lai, Vị Thanh, Phù Cát, Phú Bài, A Lưới, Thượng Đức,...dân cư và lao động ở các vùng nông thôn đổ dồn về các đô thị [24, tr. 57] tỷ lệ dân cư đô thị tăng lên nhanh chóng: năm 1950: 10%, 1965: 30% năm 1975: đã chiếm tới 45% dân số miền Nam. Một đặc điểm khá quan trọng, nổi bật trong quá trình đô thị hóa là: đô thị hóa không gắn liền với quá trình công nghiệp hóa các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất không được chú trọng phát triển.
Ở miền Bắc, Sau khi hòa bình lập lại (1954), hệ thống các đô thị vốn đã lạc hậu, nhỏ bé, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề sớm được khôi phục và phát triển. Quá trình đô thị hóa được đẩy mạnh, trên cơ sở tốc độ phát triển của nền kinh tế khá cao, đặc biệt là sự phát triển của ngành công nghiệp - hình thành một hệ thống các đô thị công nghiệp: Thái Nguyên, Việt Trì, Sông Công, Lâm Thao, Uông Bí - Phả Lại, Tĩnh Túc, Cam Đường, Thác Bà,...
- Sau năm 1975 đến 1985, cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành, hòa bình được lập lại, cả nước cùng đi lên CNXH, đây là những thuận lợi cơ bản để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Song do những hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng những hạn chế của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ, quan liêu bao cấp, tốc độ phát triển của nền kinh tế, tốc độ đô thị hóa trong thời kỳ này diễn ra hết sức chậm chạp, kém hiệu quả.
2.1.1.2. Đô thị hóa ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Công cuộc đổi mới một cách toàn diện nền kinh tế đã được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Chính phủ. Công cuộc đổi mới đã mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế. Tuy nhiên những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nền kinh tế gặp không ít khó khăn, hàng loạt các ngành kinh tế vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ, thậm chí tình trạng lạm phát còn ở mức cao (vào các năm 1985-1988, tốc độ tăng giá đã đạt tới mức kỷ lục, năm 1986 giá tăng gấp 8,8 lần, năm 1988 giá tăng gấp 127 lần so với năm 1985) [29, tr. 59].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã khẳng định quyết tâm và tính đúng đắn của công cuộc đổi mới, những thiếu sót phát sinh từ công cuộc đổi mới dần dần được khắc phục, nền kinh tế dần dần đi vào ổn định và bắt đầu phát triển với tốc độ tăng trưởng cao. Thời kỳ 1986-1990 tốc độ tăng trưởng: bình quân 3,9% năm; thời kỳ 1991-1995: bình quân đạt 8,2%/ năm, thời kỳ 1996-2000: bình quân đạt 6,7%/năm, thời kỳ 2001-2004 bình quân đạt gần 7%/ năm. Đặc biệt là tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp rất cao 13%/ năm. Các ngành dịch vụ phát triển và ngày càng đa dạng, đặc biệt là sự phát triển rất nhanh của các ngành giao thông vận tải, du lịch, tài chính ngân hàng,... đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống của dân cư. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng được phát triển mạnh mẽ trên một số lĩnh vực: sản xuất lương thực,... từ một quốc gia thường xuyên phải nhập lương thực thì nay đã trở thành một cường quốc xuất khẩu lương thực (hàng năm xuất khẩu từ 2,5 - 4 triệu tấn gạo, đứng thứ 2 thế giới). Ngày nay cả nước đang bước vào giai đoạ._.ọng vẫn là nông dân nghèo, trình độ khoa học công nghệ thấp, kết cấu hạ tầng yếu kém, phân công lao động trong nông nghiệp, nông thôn chưa phát triển... Vì vậy, để đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước, các cấp, các ngành về mọi mặt: về vốn (cho vay ưu đãi), mở các lớp đào tạo công nghệ mới miễn phí hoặc đóng góp một phần học phí, khen thưởng động viên kịp thời hoặc có chính sách hỗ trợ trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với các cá nhân, doanh nghiệp hoặc các cơ sở tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ.
+ Cần đầu tư đồng bộ cho việc ứng dụng khoa học công nghệ để khoa học công nghệ hoạt động có hiệu quả, cần thiết phải đầu tư đồng bộ trong tất cả các khâu: trước tiên là con người - máy móc muốn hoạt động tốt, có hiệu quả đòi hỏi người sử dụng nó phải nắm vững qui trình sử dụng, nếu không máy móc sẽ không hoạt động được, hoặc hoạt động không có hiệu quả; thứ hai là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với yêu cầu hoạt động của công nghệ. Không có kết cấu hạ tầng thích hợp công nghệ cũng không thể hoạt động và hoạt động có hiệu quả được.
+ Tăng cường hoạt động liên kết giữa doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, người lao động với các cơ quan nghiên cứu và hoạt động khoa học công nghệ. Nhằm gắn chặt khoa học công nghệ với sản xuất, sản xuất với khoa học công nghệ, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, khoa học công nghệ phát triển.
3.3.5. Thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng. Xây dựng khu tái định cư, hỗ trợ phát triển sản xuất, ổn dịnh đời sống cho người dân bị mất đất do đô thị hóa
Từ thực tế của công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư cho những người bị thu hồi đất do đô thị hóa nảy sinh nhiều điều bất cập:
+ Người dân chưa nắm được quy hoạch phát triển đô thị, tiến độ mở rộng đô thị, điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho người lao động, nhiều người không dám đầu tư phát triển sản xuất vì sợ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, nhưng nhiều người không sợ họ vẫn cứ đầu tư mở rộng, phát triển sản xuất, đô thị hóa liền tới, họ chưa thu hồi đủ vốn đã phải từ bỏ ra đi, gây thiệt hại rất lớn cho người sản xuất.
+ Giá cả đền bù không thỏa đáng: giá cả đền bù đều nằm trong khung chuẩn của nhà nước quy định nhưng nhìn chung, mức giá đền bù còn thấp hơn nhiều so với giá thực tế của người dân bỏ ra xây dựng - gây thiệt hại cho người dân. Mặt khác, trong công tác đền bù, có nhiều trường hợp những người có điều kiện như nhau lại được đền bù với giá khác nhau, làm nảy sinh mâu thuẫn, có nơi dân không chịu nhận tiền đền bù, không chịu giao đất, làm ảnh hưởng đến tiến độ chung.
+ Các khu tái định cư thực hiện với tiến độ chậm, chất lượng kém, thất thoát vốn lớn và thiếu đồng bộ. Từ đó, làm cho nhiều người dân rất lo ngại họ không muốn đến khu tái định cư, tiến bộ bàn giao đất bị ảnh hưởng.
+ Giao tiền xong là xong. Công tác đền bù sau khi đã làm các thủ tục: đo đạc, áp khung giá, tính tổng số tiền đền bù giao tiền cho dân xong, coi như xong chờ cho dân dọn đi thu hồi đất cho đô thị hóa. Còn người dân sau khi nắm được một cục tiền, họ làm gì, tiêu xài ra sao không một tổ chức, cơ quan nào quan tâm. Thực tế họ sử dụng khoản tiền này như thế nào đã được nêu trong phần 2.2 ở trên. Cần cho họ cái "cần câu" chứ không nên cho họ "con cá".
Để khắc phục những mặt khiếm khuyết trên, thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng tốt các khu tái định cư, hỗ trợ sản xuất, ổn dịnh đời sống cho người dân bị mất đất do đô thị hóa, nhà nước, các cấp, các ngành liên quan cần làm tốt các vấn đề sau:
+ Cho phép người dân tham gia xây dựng quy hoạch phát triển đô thị. Khi có quy hoạch chính thức cần phổ biến rộng rãi đến dân để họ nắm được quy hoạch, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
+ Nhà nước cần xem xét giá cả đền bù cho người dân sao cho thỏa đáng, tránh thiệt thòi cho dân. Trong công tác đền bù hết sức cố gắng đảm bảo tính công bằng giữa những người dân với nhau.
+ Xúc tiến xây dựng các khu tái định cư theo đúng tiến độ, đồng bộ đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, chất lượng của công trình, chất lượng cho người dân định cư đến sinh sống.
+ Hướng dẫn người dân sử dụng số tiền đền bù hợp lý, tạo điều kiện hỗ trợ những người dân bị mất đất ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất.
3.3.6. Làm tốt công tác xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động phải được coi là một chương trình lớn quốc gia giải quyết việc làm cho người lao động. Một việc đem lại nhiều lợi ích: lợi ích quốc gia, lợi tích cho người lao động.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay thị trường lao động thế giới có nhiều biến đổi: lao động phải được qua đào tạo, đạt trình độ chuyên môn nhất định (tùy theo yêu cầu của từng loại công việc), nhu cầu lao động thủ công có xu hướng ngày càng giảm. Có nhiều quốc gia tham gia xuất khẩu lao động và ở nhiều nước họ cũng coi xuất khẩu lao động là chiến lược quan trọng, và họ có công nghệ, có quy trình xuất khẩu lao động một cách nghiêm túc.
Do vậy, trong xuất khẩu lao động hiện nay tính cạnh tranh ngày càng gay gắt, muốn xuất khẩu lao động được cần phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường và phải là người chiến thằng trong cạnh tranh.
Muốn vậy, chúng ta cần phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trong công tác xuất khẩu lao động. Trước tiên, cần phải nghiên cứu nắm vững nhu cầu của thị trường (thấy được yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng lao động, thời gian cung cấp, các thỏa thuận kèm theo,...) mặt khác cũng cần nắm vững các đối thủ cạnh tranh (khả năng, tiềm lực, các biện pháp xâm nhập thị trường,...). Qua đó dự đoán thị phần của chúng ta ở các thị trường, đồng thời xây dựng được chương trình chiến lược cạnh tranh, quảng bá lao động Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thứ hai, lựa chọn người lao động thích hợp với từng thị trường. Không thể làm tùy tiện như trước đây.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đào tạo người lao động dành cho xuất khẩu. Trong vấn đề này, cần xuất phát từ nhu cầu của từng thị trường, của từng loại công việc mà đào tạo người lao động cho phù hợp. Bên cạnh đào tạo chuyên môn, nâng cao tay nghề, còn phải đào tạo nâng cao ý thức tác phong của người lao động trong thời đại CNH, HĐH, đào tạo kiến thức xã hội cộng đồng cho người lao động (ngôn ngữ, phong tục, tập quán cổ truyền của dân tộc chủ nhà). Qua đó nâng cao uy tín, thương hiệu của lao động Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tư, đa dạng hóa và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động. Cần phải mở rộng thị trường mới bên cạnh các thị trường truyền thống (mở rộng thị trường sang các nước Trung Đông, Nhật, châu Âu...).
Tăng tỷ trọng lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài trong các ngành, cac lĩnh vực công nghệ cao.
3.3.7. Nâng cao hiệu quả tác động của nhà nước góp phần tạo nhiều việc làm cho người lao động
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, mang đậm màu sắc một nước nông nghiệp, có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, có lượng lao động đông đảo, xuất phát điểm thấp (nghèo, trình độ văn hóa, khoa học kĩ thuật,... thấp) sản xuất nông nghiệp đa phần vẫn dựa trên kĩ thuật thủ công lạc hậu, năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm yếu. Khả năng thu hút lao động (khả năng tạo việc làm) của nền kinh tế thấp, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất trong nước với các ngành sản xuất nước ngoài, sản phẩm trong nước với sản phẩm nhập ngoại ngày càng khốc liệt, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, bảo trợ tích cực có hiệu quả của nhà nước, nếu không các ngành sản xuất của Việt Nam khó có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện mới hiện nay.
Để sản xuất nông nghiệp nói riêng, các ngành sản xuất trong khu vực nông thôn cũng như trong toàn xã hội phát triển được trong điều kiện ngày nay đòi hỏi nhà nước cần quan tâm và nâng cao hiệu quả tác động của mình vào một số lĩnh vực cơ bản sau:
+ Nhà nước cần hoàn thiện Luật đầu tư (cả Luật đầu tư trong nước lẫn Luật đầu tư nước ngoài), có những chính sách ưu đãi thỏa đáng kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.
+ Nhà nước cần tăng chi ngân sách cho xây dựng kết cấu hạ tầng, làm vai trò "vốn mồi" tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các doanh nghiệp và người sản xuất đến đầu tư, phát triển sản xuất.
+ Xây dựng hành lang pháp lý môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người sản xuất tích cực phát triển sản xuất, mở rộng sản xuất.
+ Nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ cho sản xuất của nhà nước.
· Nhà nước cho người sản xuất vay vốn với lãi suất ưu đãi (hiện tại vẫn áp dụng, tùy theo tiến độ hội nhập WTO mà hình thức này dần dần sẽ mất đi vì không còn phù hợp).
· Đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động
· Thực hiện chính sách bảo hộ, bảo trợ cho sản xuất (hiện tại vẫn áp dụng, tùy theo tiến độ hội nhập WTO mà hình thức này dần dần sẽ mất đi vì không còn phù hợp).
· Miễn giảm thuế đối với sản xuất nông nghiệp, hoặc với những ngành nghề mới, ngành nghề truyền thống.
· Nhà nước tăng chi cho các chương trình quốc gia, chương trình xóa đói giảm nghèo và việc làm, chương trình 5 triệu ha rừng, chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt là khó khăn.
+ Xây dựng các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm miễn phí cho người lao động.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu về giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, luận văn đã đề cập đến những nội dung chủ yếu sau:
1. Khái quát hóa những vấn đề lý luận cơ bản về lao động và việc làm của lao động nông nghiệp.
2. Khái quát hóa các vấn đề lí luận cơ bản về đô thị hóa, thấy được đô thị hóa là xu hướng phát triển tất yếu hiện nay ở tất cả các nước. Đô thị hóa đã đem lại bước phát triển mới cho nến kinh tế quốc gia, song nó cũng có ảnh hưởng to lớn đến tất cả các ngành, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, nông thôn, nảy sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
3. Luận văn đã tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa. Quá trình đô thị hóa đã có những tác động to lớn tới nông nghiệp, nông thôn tới làm việc, đời sống xã hội của người lao động nông nghiệp. Luận văn nghiên cứu, phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố tới việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa để làm cơ sở cho việc phân tích đánh giá thực trạng về đô thị hóa, việc làm của lao động nông nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp khai thác tác động tích cực của các nhân tố cũng như các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực của các nhân tố nhằm tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
4. Đánh giá được thực trạng quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay khẳng định quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay diễn ra một cách nhanh chóng, có ảnh hưởng to lớn tới phát triển kinh tế nói chung, tới việc làm của lao động nông nghiệp nói riêng. Quá trình đô thị hóa mở ra nhiều cơ hội phát triển các ngành, tạo nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp, song cũng đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết để ổn định cuộc sống cho người lao động nông nghiệp nói chung, người lao động nông nghiệp bị mất đất do đô thị hóa nói riêng.
5. Đánh giá được thực trạng về lao động, việc làm của lao động nông nghiệp nói chung, cũng như việc làm của lao động nông nghiệp trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay ở nước ta. Qua đó khẳng định: ở nước ta, lao động nông nghiệp có số lượng đông đảo, chiếm tỉ lệ cao trong lao động xã hội (gần 70%).Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm với số lượng lớn, có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong điều kiện đô thị hóa, người lao động nông nghiệp mất đất trong khi khả năng thu hút lao động vào đô thị và các ngành nghề mới thấp, làm gia tăng tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn - Đây là vấn đề bức xúc cần sớm được giải quyết.
6. Trên cơ sở phân tích thực trạng về đô thị hóa, lao động việc làm của lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa; nghiên cứu quan điểm, định hướng phát triển đô thị hóa và giải quyết việc làm tới 2010, luận văn đã tập trung đề xuất các giải pháp nhằm gắn kết giữa đô thị hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, tạo nhiều việc làm cho lao động nông nghiệp, đồng thời khẳng định vai trò của nhà nước, của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các bộ ngành liên quan có vai trò to lớn trong việc tạo việc làm cho lao động nông nghiệp ở nước ta hiện nay.
Đô thị hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn là xu thế của thời đại, tạo ra những thay đổi căn bản trong sản xuất, đời sống xã hội của những người nông dân, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, cũng như cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, đưa đất nước tiến lên. Tuy nhiên, ở nước ta, một quốc gia đang phát triển, sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành có vị trí to lớn, lao động nông nghiệp đông đảo, đô thị hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn đang gây ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Luận văn đã góp thêm tiếng nói để cùng với nhà nước, các cấp, các nghành liên quan khắc phục các khó khăn do đô thị hóa gây nên với việc làm của người lao động nông nghiệp, tạo nhiều việc làm, ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp, góp phần thực hiện thành công quá trình đô thị hóa, đô thị hóa nông nghiệp, nông thôn, quá trình CNH, HĐH đất nước nói chung, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Thế Bá (Chủ biên) (2004), Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, Trường Đại học Kiến trúc, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Văn Bính (Chủ biên) (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Bính, Chu Tiến Quang (đồng Chủ biên) (1999), Phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2000), "Chính sách và các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam thập niên đầu thế kỷ 21", Kỷ yếu hội thảo khoa học: Kinh tế các trường đại học, Sầm Sơn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2005), Kinh tế Việt Nam năm 2004: Tiếp tục quá trình đổi mới - thành tựu và vấn đề, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Hệ thống văn bản pháp luật thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Bộ Xây dựng (1994), Xã hội học trong quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị, Chương trình KC.11. Đề tài: KC-11-12, Hà Nội.
Bộ Xây dựng (1999), Quy hoạch xây dựng các đô thị Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Bộ Xây dựng và Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (1990), Thông tư số 31/TTLB-TCCBCP, ngày 20-11 về quy hoạch đô thị, Hà Nội.
Bộ Xây dựng và Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (2002), Thông tư số 02/2002-TTLB-TCCBCP ngày 17/2 về quy hoạch đô thị, Hà Nội.
Nguyễn Tiến Dỵ (Chủ biên) (1997), Quy hoạch các đô thị Việt Nam và những dự án phát triển đến sau năm 2000, Nxb Thống kê - Tạp chí Kinh tế và dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đinh Văn Hải (2004), Giải pháp tài chính để phát triển kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.
Trần Thị Bích Hằng (2000), Vấn đề dân số - lao động - việc làm đồng bằng sông Hồng, Luận án tiến sĩ Địa lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Hệ thống văn bản pháp quy về kiến trúc quy hoạch phát triển đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng (1998), Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Trần Ngọc Hiên - Trần Văn Chử (đồng Chủ biên) (1998), Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Hiền, Trịnh Hữu Đản (Chủ biên) (1998), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VIII) và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiệp hội đô thị Việt Nam (5-2005), Đô thị Việt Nam, Hà Nội.
Đặng Thái Hoàng (Chủ biên) (2004), Hợp tuyển thiết kế đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Nguyễn Đình Hương (Chủ biên) (2000), Đô thị hóa và quản lý đô thị ở Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I .Lênin (1981), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Trần Thị Lộc (1996), Tạo việc làm tại khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở đô thị, Luận án phó tiến sĩ Khoa học kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Một số chính sách quốc gia về việc làm và xóa đói giảm nghèo (2002), Nxb Lao động, Hà Nội.
Ngô Anh Ngà (2004), "Nông dân các vùng quy hoạch đô thị và khu công nghiệp làm gì khi hết đất canh tác", Nông thôn mới, 127(2), tr. 13.
Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (Chủ biên) (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Văn Nhật (2003), Quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của nó tới môi trường nước và không khí ở thành phố Việt Trì, Luận án tiến sĩ Địa lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Những vấn đề quy hoạch đô thị và dân cư (1984), Người dịch Đào Trọng Năng và Nguyễn Thục Ý, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ (đồng Chủ biên) (1999), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đàm Quang Phường (1995), Đô thị Việt Nam, chương trình KC.11, Bộ Xây dựng, Hà Nội.
Chu Tiến Quang (Chủ biên) (2005), Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Số liệu thống kê - lao động - việc làm ở Việt Nam 2004 (2005), Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương, Báo cáo thực hiện đề tài: Nghiên cứu thực trạng và các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động sau khi bàn giao đất cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các khu đô thị mới trên địa bàn tỉnh Hải Dương,
Trần Cao Sơn (1995), Dân số và tiến trình đô thị hóa động thái phát triển và triển vọng, Luận án phó tiến sĩ Kinh tế, Trung tâm Nghiên cứu dân số và phát triển - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Hà Nội.
Tập đơn đề nghị giải quyết các vướng mắc trong giải phóng mặt bằng ở Hà Nam (2004), Hà Nam.
Trương Quang Thao (1998), Đô thị hôm qua - hôm nay và ngày mai, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Đặng Xuân Thao (2000), Mối quan hệ giữa dân số và việc làm ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ xã hội học, Viện Xã hội học - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thơm (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Trần Thị Thu (2002), Tạo việc làm cho lao động nữ Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Phạm Khánh Toàn (2002), Vấn đề sử dụng đất trong quy hoạch và phát triển các khu dân cư ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa, Luận án tiến sĩ Kiến trúc, Trường Đại học Kiến trúc, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2001), Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991 - 2000, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám thống kê 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2004), Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm 2001 - 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2002), Phương án hỗ trợ giải phóng mặt bằng của tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
Ủy ban nhân dân Hà Nam (2003), Phương án hỗ trợ giải phóng mặt bằng của tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
Ủy ban nhân dân Hà Nam (2004), Phương án hỗ trợ giải phóng mặt bằng của tỉnh Hà Nam, Hà Nam.
Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương (2005), Báo cáo nghiên cứu tổng kết chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2005 và phương hướng thực hiện 2006 - 2010, Hải Dương.
Văn bản pháp quy mới về đầu tư xây dựng nhà ở, đất ở, đất đai xây dựng kiến trúc quy hoạch phát triển đô thị - quản lý doanh nghiệp và kinh tế tài chính xây dựng (1999), Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Viện Chiến lược (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
Vốn đầu tư phát triển theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Phụ lục 2:
Vốn đầu tư phát triển theo giá so sánh 1994 phân theo ngành kinh tế
Phụ lục 3:
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài cấp phép 1988 - 2003
Phụ lục 4:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 1988 - 2003. Phân theo địa phương
Phụ lục 5:
Đầu tư nước ngoài được cấp phép 1988 - 2003 phân theo địa phương
Phụ lục 6:
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép 1988 - 2003. Phân theo ngành kinh tế
Phụ lục 7:
Số người trong độ tuổi lao động thất nghiệp trong 7 ngày qua
Phụ lục 8:
Dân số từ 15 tuổi trở lên tự làm (việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng qua) chia theo thành thị, nông thôn, vùng và ngành sản xuất kinh doanh chính
Phụ lục 9:
Dân số 15 tuổi trở lên làm công (việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng qua) chia theo thành thị, nông thôn, vùng và ngành sản xuất kinh doanh
Phụ lục 10:
Trình độ văn hóa của người lao động
Phụ lục 11:
Trình độ chuyên môn của lực lượng lao động
Phụ lục 12:
Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng GDP
Phụ lục 13:
Sản phẩm công nghiệp phục vụ nông nghiệp
Phụ lục 14:
Doanh nghiệp chế biến nông sản
Phụ lục 15:
Một số sản phẩm chủ yếu của ngnàh công nghiệp chế biến từ nông sản
Phụ lục 1
Vốn đầu tư phát triển theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: %
Tổng số
Khu vực kinh tế nhà nước
Khu vực ngoài Quốc doanh
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Cơ cấu
Tốc độ tăng
Cơ cấu
Tốc độ tăng
Cơ cấu
Tốc độ tăng
Cơ cấu
Tốc độ tăng
1995
100
100
42,0
100
27,6
100
30,4
100
1996
100
120,63
49,1
140,74
24,9
109,0
26,0
103,18
1997
100
124,00
49,4
124,89
22,6
110,39
28,0
133,48
1998
100
108,08
55,5
121,40
23,7
113,47
20,8
80,19
1999
100
11,97
58,7
118,59
24,0
113,47
17,3
93,29
2000
100
110,78
57,5
108,59
23,8
109,68
18,7
119,83
2001
100
125,53
58,1
113,70
23,5
111,33
18,4
110,44
2002
100
118,06
55,0
111,78
27,0
135,32
18,0
115,81
2003
100
113,75
56,0
115,77
26,5
111,54
17,5
109,08
Nguồn: Niên giám thống kê 2004.
Phụ lục 2
Vốn đầu tư phát triển theo giá so sánh 1994 phân theo ngành kinh tế
Đơn vị: %
Tổng số
Khu vực kinh tế nhà nước
Khu vực ngoài quốc doanh
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Cơ cấu
Tốc độ tăng
Cơ cấu
Tốc độ tăng
Cơ cấu
Tốc độ tăng
Cơ cấu
Tốc độ tăng
2000
100
100
14,40
100
36,78
100
48,82
100
2001
100
112,21
9,87
76,91
39,94
121,83
50,19
115,37
2002
100
115,67
9,03
105,87
40,54
117,43
50,43
209,64
2003
100
110,45
9,01
110,17
40,51
110,37
50,48
105,49
Nguồn: Niên giám thống kê 2004.
Phụ lục 3
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài cấp phép 1988-2003
Số dự án
Tổng vốn đăng ký Triệu USD
Trong đó: Vốn pháp định Triệu USD
Tổng số
5441 + 679
47.860,8
22.291,0
1988 - 1990
214
1582,3
1007,4
1988
37
321,8
288,4
1989
68
525,5
311,5
1990
108
735,0
407,5
1991 - 1995
1.379
16485,0
8606,1
1991
151
1275,0
663,6
1992
197
2027,0
1418,0
1993
274
2589,0
1468,0
1994
367
3746,0
1899,0
1995
408
6848,0
3.157,0
1996 - 2000
1.730
21597,2
9.978,7
1996
387
8979,0
3.280,0
1997
358
4.894,2
2.404,4
1998
285
4.138,0
1.976,0
1999
311
1568,0
693,3
2000
389
2.018,0
1.625,0
2001 - 2004
2.100
8.196,6
2.698,8
2001
550
2.592,0
1.044,1
2002
802
1.621,0
721,4
2003
748
1.899,6
933,3
2004
679
2.084
Phụ lục 4
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép 1988-2003. Phân theo địa phương
Số dự án
Tổng vốn đăng ký
Triệu USD
Trong đó: Vốn pháp định
Thanh Hóa
17
0,32
435,2
147,2
Nghệ An
16
0,29
283,1
148,6
Hà Tĩnh
10
0,19
53,2
17,5
Quảng Bình
6
0,11
34,7
12,0
Quảng Trị
6
0,11
17,9
9,1
Thừa thiên- Huế
24
0,44
129,6
84,9
Duyên Hải NTB
261
4,84%
3.139,7
7,30%
1.661,1
8,285%
Đà Nẵng
84
1,56
842,7
356,6
Quảng Nam
36
0,67
405,5
204,2
Quảng Ngãi
12
0,22
1.339,6
820,5
Bình Định
17
0,32
52,9
25,0
Phú Yên
28
0,52
129,4
48,1
Khánh Hòa
84
1,56
369,6
206,7
Tây Nguyên
85
1,58
945,0
2,19%
168,8
Kon Tum
1
0,02
4,4
2,2
Gia Lai
5
0,09
31,1
21,5
Đắc Lắc
7
0,13
24,8
11,6
Lâm Đồng
72
1,33
884,7
1133,5
Đông Nam Bộ
3.371
62,49
23.522,4
54,74%
10.851,1
54,08%
Tp. Hồ Chí Minh
1.715
31,79
11.483,3
26,72%
5.721,7
28,51%
Ninh Thuận
7
0,13
31,7
12,6
Bình Phước
10
0,19
25,6
17,1
Tây Ninh
72
1,33
274,6
193,3
Bình Dương
804
14,91
2.852,2
1.245,8
Đồng Nai
582
10,78
5.277,4
2.160,3
Bình Thuận
37
0,68
116,0
51,3
Bà Rịa-Vũng Tàu
144
2,66
3.462,1
1.449,0
ĐBS Cửu Long
242
4,48
1.234,1
0,28%
624,1
3,11
Long An
96
1,78
466,3
231,8
Đồng Tháp
12
0,22
17,0
8,0
An Giang
12
0,22
18,9
10,0
Tiền Giang
16
0,29
101,6
58,1
Vĩnh Long
8
0,15
25,3
12,1
Bến Tre
9
0,17
34,0
14,1
Kiên Giang
18
0,33
286,2
149,9
Cần Thơ
46
0,85
211,0
94,8
Trà Vinh
8
0,15
37,9
16,1
Sóc Trăng
2
0,04
1,9
1,6
Bạc Liêu
8
0,15
18,8
14,9
Cà Mau
7
0,13
14,9
12,7
* Không kể các dự án dầu khí ngoài khơi.
Phụ lục 5
Đầu tư nước ngoài được cấp phép 1988 - 2003 phân theo địa phương
Số dự án
Tổng vốn đăng ký
Triệu USD
Trong đó: Vốn pháp định
Cả nước
5.394
100
42,974,9
100
20.065,7
100
ĐB. sông Hồng
1.100
20,39%
11.673,4
27,16%
5.595,8
27,89%
Hà Nội
630
11,68
7.912,3
18,41
3.913,8
19,51%
Hải Phòng
185
3,43
1.677,3
756.1
Vĩnh Phúc
63
1,17
449,3
201,7
Hà Tây
51
0,95
505,8
216,0
Bắc Ninh
19
0,35
174,4
75,5
Hải Dương
69
1,28
596,7
250,5
Hưng Yên
39
0,72
142,8
77,4
Hà Nam
6
0,11
10,0
5,3
Nam Định
17
0,32
91,3
47,4
Thái Bình
13
0,24
28,2
10,8
Ninh Bình
8
0,15
85,3
41,3
Đông Bắc
236
4,38
1411,4
3,28%
641,1
0,32%
Hà Giang
3
0,06
6,4
3,1
Cao Bằng
3
0,38
9,0
5,7
Lào Cai
21
0,17
48,7
25,9
Bắc Cạn
9
0,17
17,2
12,1
Lạng Sơn
28
0,52
34,7
21,9
Tuyên Quang
1
0,02
1,0
0,5
Yên Bái
8
0,15
17,9
12,5
Thái Nguyên
19
0,35
73,8
35,2
Phú Thọ
31
0,57
188,9
105,5
Bắc Giang
16
0,29
15,7
11,1
Quảng Ninh
97
1,79
998,1
407,6
Tây Bắc
20
0,37
95,5
0.22%
104,4
0,52%
Lai Châu
3
0,06
15,7
5,9
Sơn La
5
0,09
27,0
9,6
Hòa Bình
12
0,22
32,8
13,4
Bắc Trung Bộ
79
1,46
953,4
2,22%
419,3
2,09%
Phụ lục 6
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép 1988 - 2003 Phân theo ngành kinh tế
Số dự án
Tổng vốn đăng ký Triệu USD
Trong đó: Vốn pháp định Triệu USD
Tổng số:
5.441
45776,8
22291,0
Nông nghiệp và lâm nghiệp
467
2419,9
1.093,5
Thủy sản
136
416,1
219,2
Công nghiệp khai thác mỏ
89
3.055
2.424,8
Công nghiệp chế biến sản xuất, phân phối điện nước
3.423
19.516,2
8.903,6
Khí đốt
20
1.688,3
546,5
Xây dựng
93
4.616,8
1.413,0
Thương nghiệp, sửa chữa ô tô, xe máy...
51
260,5
119,1
- Khách sạn - Nhà hàng
209
3.935,2
1.175,9
- Vận tải, kho bãi, thông tin - liên lạc
173
3.544,7
2.854,6
- Tài chính - Tín dụng
43
529,6
520,2
- KD Tài sản và tư vấn
579
4.636,8
1.760,7
- Giáo dục, đào tạo
49
87,4
46,5
- Y tế và cứu trợ xã hội
22
239,3
83,2
- Văn hóa và thể thao
79
823,8
525,8
- Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng.
8
7,2
4,4
Nguồn: Niên giám thống kê 2004.
Phụ lục 10
Trình độ văn hóa của người lao động
Đơn vị: %
Chưa biết chữ
Biết chữ
Chưa tốt nghiệp cấp 1
Đã tốt nghiệp cấp 1
Đã tốt nghiệp cấp 2
Đã tốt nghiệp cấp 3
1996
5,8
94,2
20,9
27,8
32,1
13,5
2000
3,58
96,42
16,1
30,02
32,7
17,58
2004
5,1
94,9
14,6
32,21
35,24
13,00
Nguồn: Bộ Lao động Thương binh xã hội. Kết quả điều tra Lao động việc làm năm 1996 - 2004.
Phụ lục 11
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động
Đơn vị: %
1996
1998
2000
2002
Có trình độ CMKT
12,31
13,31
15,53
15,8
+ Công nhân kỹ thuật
4,38
4,75
5,4
7,8
+ Sơ cấp
1,77
1,45
1,41
+ Trung cấp
3,84
4,01
4,83
3,8
+ Cao đẳng, đại học
2,3
3,10
3,89
4,2
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1997 - 2002.
Phụ lục 12
Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng GDP
Đơn vị: %
Các yếu tố
1993 - 1997
1998 - 2002
Tổng số
100
100
Vốn
69
57,5
Lao động
16
20
Năng suất các yếu tố tổng hợp
15
22,5
Nguồn: Bộ Kế hoạch đầu tư.
Phụ lục 13
Sản phẩm công nghiệp phục vụ nông nghiệp
Đơn vị tính
1995
2000
2001
2002
2003
Nông cụ cầm tay
Nghìn cái
16.516
15.918
16.854
20.639
22.604
Xe cải tiến
Cái
17.720
13.705
13.542
12.944
13.060
Máy bơm nước
Cái
547
3.496
4.238
3.578
3.510
Bơm thuốc trừ sâu
Nghìn cái
26
70,4
52,8
52,4
51,7
Máy tuốt lúa có động cơ
Cái
1.482
11.877
12.013
12.997
13.200
Máy tuốt lúa không có động cơ
Cái
34.916
7.061
8.917
12.094
13.852
Máy xay xát
Cái
2.043
12.484
18.298
13.433
13.150
Nguồn: Niên giám thống kê 2004.
Phụ lục 15
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp chế biến từ nông sản
Đơn vị tính
1995
2000
2001
2002
2003
Hoa quả hộp
tấn
12.784
11.438
14.731
28.275
31.770
Dầu thực vật
"
38.612
280.075
282.839
317.123
329.700
Sữa đặc có đường
triệu hộp
173,0
227,2
234,9
255,1
289,2
Gạo, ngô xay xát
nghìn tấn
15.582
22.225
23.930
26.950
30.924
Đường, mật
"
517,0
1.208,7
1.067,3
1.068,8
1.363,4
Đường luyện
"
93,0
790,3
739,1
790,0
835,0
Đậu phụ
"
24,0
80,3
86,2
94,8
98,0
Chè chế biến
tấn
24.239
70.129
82.136
99.716
104.550
Thuốc lá
triệu bao
2.147,0
2.835,8
3.075,2
3.375,2
3.728,9
Sợi
tấn
59.222
129.890
162.406
226.811
253.300
Vải lụa
triệu m2
263,0
355,4
410,1
469,6
487,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2004, Hà Nội, 2005.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTS0013.doc