Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án

LờI NóI ĐầU Từ năm 1986 Nhà Nước ta đã có những chủ trương chính sách phát triển nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung bao cấp ( chỉ có kinh tế nhà nước, không có kinh tế tư nhân) sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (Kinh tế nhà nưóc, kinh tế tư nhân, hộ gia đình, hợp tác xã ...) với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế này ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, mục đích tìm kiếm lợi nhuận chẳng những là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế. Cùn

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g với sự phát triển kinh tế và dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh dẫn đến các tranh chấp kinh tế phong phú hơn, đa dạng hơn về loại hình, phức tạp hơn về tính chất cũng như quy mô. Trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam của chúng ta phải đảm bảo nguyên pháp chế xã hội chủ nghĩa chính vì vậy việc áp dụng hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp cho phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể kinh doanh thông qua đó góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước. Qua tìm hiểu và nghiên cứu em đã chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án” đã nói lên được cách thức của những cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án kinh tế để cho người đọc khi tham gia vào giải quyết vụ án kinh tế có thể hiểu rõ hơn về thủ tục giải quyết. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các bạn sinh viên trong bộ môn luật kinh doanh đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này một cách tốt nhất. Do trình độ kiến thức đang còn hạn chế rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn. CHƯƠNG I- Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án ở Việt nam I - Tranh chấp kinh tế 1. Những vấn đề chung về giải quyết tranh chấp Tranh chấp kinh tế là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như vậy, tranh chấp kinh tế có thể phát sinh trong cả quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Tuy nhiên, dù tồn tại dưới hình thức nào và có thể bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nhưng đặc trưng chung của tranh chấp kinh tế là luôn gắn với hoạt động kinh doanh và chủ thể tham gia chủ yếu là các cá nhân doanh nghiệp. Về bản chất, mỗi tranh chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung ở nước ta trước đây, các tranh chấp kinh tế chủ yếu tồn tại dưới dạng tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế thị trường, sự đa dạng về đối tượng, chủ thể và phương thức kinh doanh cũng như sự xuất hiện các loại thị trường đã làm phát sinh nhiều dạng tranh chấp kinh tế mới. Chẳng hạn, khi các công ty ra đời thì đồng thời cũng xuất hiện các khả năng phát sinh tranh chấp giữa các công ty với thành viên, giữa các thành viên với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể; cùng với quá trình cổ phần hoá, sự xuất hiện của thị trường tài chính mà đặc trưng nhất là thị trường chứng khoán dẫn đến các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Tương tự như vậy, chỉ trong điều kiện có cạnh tranh thì những loại tranh chấp kinh tế về quảng cáo, phá sản... mới chính thức được đề cập đến. Tranh chấp kinh tế là điều khó tránh khỏi. Thực tiễn những năm đầu của việc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta cho thấy, số lượng tranh chấp gia tăng và ngày càng phức tạp hơn các tranh chấp kinh tế trong thời kỳ quản lý kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Khi có các tranh chấp kinh tế xảy ra thì điều đó có nghiã là lợi ích kinh tế của một bên nào đó bị vi phạm. Sự mâu thuẫn về lợi ích này sẽ ảnh hưởng ít nhiều về tiến trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, khi các tranh chấp kinh tế được giải quyết nhanh chóng thì không những quyền, lợi ích các bên bị vi phạm được bảo vệ, được phục hồi mà còn tạo điều kiện cho bên bị vi phạm tiếp tục duy trì ổn định, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Giải quyết tốt các tranh chấp kinh tế còn là động lực để thúc đẩy kinh tế của đất nước phát triển. Tranh chấp trong kinh doanh thường có giá trị lớn, hiệu quả của nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới quá trình kinh doanh của các nhà doanh nhiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trên thực tế, nhiều tranh chấp có giá trị lớn không được giải quyết kịp thời đã kéo theo những hậu quả xấu như đình đốn sản xuất, thậm chí doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản làm mất sự cân bằng và ổn định của nền kinh tế. Do đó, việc đổi mới cơ quan giải quyết tranh chấp kinh tế cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới vừa là một đòi hỏi bức xúc của quan hệ kinh tế thị trường vừa là một yêu cầu đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với nội dung khái niệm tranh chấp kinh tế như trên, có thể nhận thấy các tranh chấp kinh tế hiện nay là rất đa dạng và phức tạp, các chủ thể của nền kinh tế được mở rộng hơn trước và phạm vi hoạt động cũng đa dạng hơn trước. Vì vậy, pháp luật áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp kinh tế phải linh hoạt và mềm dẻo hơn, các cơ quan tài phán vừa phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình, vừa phải thay đổi phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế mở như hiện này của nước ta. 2 - Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án trong nền kinh tế thị trường. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định: “ Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác ”. Chính sách đổi mới kinh tế của Đảng đã được khẳng định và thể chế hoá trong các văn bản pháp luật quan trọng của Nhà nước ta. Cơ chế kinh tế thị trường đã được hiến pháp 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ghi nhận thành một nguyên tắc hiến định: “ Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15) và “ Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật” (Điều 26). Trên cơ sở các định hướng và nguyên tắc cơ bản đó, công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước ta đã và đang tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Đất nước đang bước dần ra khỏi tình trạng khủng khoảng kinh tế - xã hội và đạt được những thành tựu quan trọng tạo tiền đề tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về căn bản, nền kinh tế nước ta được chuyển từ nền kinh tế sản xuất mang tính chất xã hội trực tiếp với hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể sang nền sản xuất hàng hoá với nhiều thành phần sở hữu, quan hệ thị trường là cơ sở vận động của nền kinh tế mới. Tính chất của nền sản xuất mới tất yếu dẫn đến sự phát sinh các quan hệ của nền kinh tế thị trường, mà từng phạm trù của nền kinh tế này gắn liền với những quan hệ pháp lý, định chế pháp lý khác nhau (ví dụ như hợp đồng, tiền lương, tín dụng...). Các quan hệ kinh tế sẽ đa dạng, sự mâu thuẫn về lợi ích liên quan đến nhiều chủ thể và sự liên đới về các trái vụ phát sinh trong các hoạt động kinh doanh càng phức tạp. Về mặt không gian, các quan hệ đó vượt ra ngoài ranh giới quốc gia. Do đó, phải hội nhập với các định chế quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Cùng với sự phát triển kinh tế thì các thành phần kinh tế, các quan hệ kinh tế cũng ngày càng phát triển đa dạng và phức tạp hơn. Nhiều loại hình doanh nghiệp: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cá nhân tham gia vào các quan hệ kinh tế tạo nên một đời sống kinh tế hết sức khẩn trương và sôi động. Sự đa dạng của các chủ thể kinh tế và các quan hệ kinh tế mới đã làm cho các tranh chấp kinh tế trở nên phúc tạp, quyết liệt hơn cả về nội dung và tính chất. Nếu như các tranh chấp kinh tế trước đây chỉ đơn thuần là tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa xí nghiệp quốc doanh, các đơn vị kinh tế của Nhà nước nhằm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh, kế hoạch của nhà nước giao. Thì nay các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường phát triển ngày một đa dạng hơn đã làm phát sinh nhiều tranh chấp kinh tế mới giữa các chủ thể kinh doanh với nhau như giữa các loại hình doanh nghiệp: Công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và các cá nhân có đăng ký kinh doanh. Nội dung của tranh chấp kinh tế không chỉ giới hạn ở hợp đồng kinh tế mà liên quan đến tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau, tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu, quảng cáo … Vì vậy, các chủ thể kinh doanh đòi hỏi Nhà nước phải thông qua hệ thống pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khi họ kinh doanh đúng pháp luật. Do tính chất phức tạp của các tranh chấp trong giai đoạn hiện nay thì việc phải có một cơ quan mang tính chất quyền lực Nhà nước để giải quyết các tranh chấp kinh tế là một yêu cầu bức thiết của đời sống kinh tế - xã hay nước ta. Thời kỳ kinh tế tập trung bao cấp, các tranh chấp kinh tế phát sinh đều được giải quyết thông qua trọng tài kinh tế Nhà nước - cơ quan trực thuộc Chính phủ. Chuyển sang nền kinh tế thị trường xuất hiện hàng loạt tranh chấp kinh tế mới: Tranh chấp giữa công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu … Nhưng những tranh chấp kinh tế này lại vượt quá khả năng, thẩm quyền giải quyết của trọng tài kinh tế Nhà Nước. Vì vậy, Toà án kinh tế ra đời thay cho trọng tài kinh tế là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách quan của đất nước. Nhằm hội nhập vào đời sống kinh tế của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, Đảng và Nhà Nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở. Theo đó, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được củng cố và mở rộng, đã thu hút được số lượng lớn về vốn, công nghệ … của các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời thông qua đó, chúng ta nắm bắt được các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là khi mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta phải xem xét và chấp nhận những tập quán thương mại Quốc tế và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp Quốc tế về lĩnh vực kinh doanh và thương mại. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng đã tác động tích cực vào nền kinh tế nước ta làm cho các hoạt động kinh doanh trở nên sôi động và đa dạng hơn. Đương nhiên không thể tránh khỏi các tranh chấp kinh tế phát sinh trong lĩnh vực này. Việc giải quyết tranh chấp kinh tế trong kinh doanh có nhân tố nước ngoài là một việc khó và phức tạp. Các chủ đầu tư nước ngoài vào Việt nam cũng như các nhà kinh doanh và đầu tư trong nước đều quan tấm đến sự bảo đẩm về mặt pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của mình và pháp luật phải bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng cho họ khi xảy ra tranh chấp kinh tế. Chính vì vậy, khi tiến hành đầu tư vào Việt Nam, ngoài các yếu tố đảm bảo về mặt pháp lý cho hoạt động và hiệu quả kinh doanh thì các chủ đầu tư cũng đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, giải quyết tranh chấp phải nhanh chóng, thuận lợi và hiệu quả mới bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của họ. Chính vì các yêu cầu nêu trên, việc thiết lập một hình thức tài phán mới, độc lập với cơ quan Nhà nước khác có khả năng giải quyết nhanh chóng các tranh chấp kinh tế, cũng như các phán quyết của hình thức tài phán này có tính quyền uy và khả năng thực thi cao, thì không thể có một cơ quan nào khác ngoài Toà án. Vì vậy, ngày 29/ 12/ 1993 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá 9 kỳ họp thứ 4) đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tổ chức Toà án nhân dân. Luật này được Chủ tịch nước công bố ngày 10/ 01/ 1994 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 07/ 1994. Trong đó có các điều liên quan đến việc thành lập Toà kinh tế - Toà chuyên trách thuộc hệ thống Toà án nhân dân, quy định thẩm quyền của Toà kinh tế trong việc giải quyết các vụ án kinh tế và giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Tham khảo kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Pháp, Đức … đều có hình thức tài phán kinh tế bằng Toà án và qua sự tồn tại, hoạt động của hình thức tài phán này cho thấy tính tích cực cũng như tính hiệu quả của nó trên thực tiễn. II. Chức năng và nhiệm vụ của Toà án kinh tế 1. Chức năng của Toà án kinh tế Chức năng của Toà án kinh tế là một mặt hoạt động chủ yếu của Toà án kinh tế được pháp luật ghi nhận, nó xác định bản chất của Toà án kinh tế là một trong những cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Toà án kinh tế có những chức năng cơ bản sau: Một là : Chức năng xét xử các vụ án kinh tế Là một bộ phận của Toà án nhân dân, Toà án kinh tế có chức năng xét xử - Một chức năng cơ bản của Toà án nhân dân nói chung. Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Toà án nhân dân Tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà khác do luật định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”. Bằng quy định này, Hiến pháp năm 1992 khẳng định rằng ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam việc thực hiện chức năng xét xử do Toà án nhân dân đảm nhiệm. Ngoài Toà án nhân dân ra không một cơ quan quyền lực nào có thể thực hiện chức năng xét xử. Toà án thực hiện chức năng xét xử nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định tại điều 127 Hiến pháp năm 1992 về chức năng của Toà án đã được cụ thể hoá bằng luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân, được Quốc hội thông qua ngày 28/ 12/1993. Toà án kinh tế thực hiện chức năng xét xử các vụ án kinh tế. Khi thực hiện chức năng này, Toà án kinh tế phải căn cứ vào các quy định của pháp Luật, cả pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng. Toà án kinh tế thực hiện chức năng xét xử các vụ án kinh tế của mình bằng việc ra bản án, quyết định. Các bản án, quyết định của Toà án kinh tế đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng. Hai là: Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp Toà kinh tế ngoài chức năng xét xử như các toà khác trong Toà án nhân dân, Toà kinh tế còn có chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Theo luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Toà án tối cao còn có chức năng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tuyên bố phá sản doanh nghiệp là một hoạt động thuần tuý tư pháp, là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Thực hiện chức năng này Toà án kinh tế bảo vệ lợi ích của cả chủ nợ lẫn lợi ích của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản và lợi ích của xã hội. 2. Nhiệm vụ của Toà án kinh tế “Trong phạm vi chức năng của mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 1, Luật tổ chức Toà án nhân dân). Như vậy có thể nói rằng, pháp luật đã quy định một cách cụ thể và rõ ràng nhiệm vụ chính của Toà án nhân dân nói chung và Toà kinh tế nói riêng trong khi thực hiện chức năng của mình. Là một trong những cơ quan tố tụng, Toà án phải đảm bảo cho mọi hoạt động tố tụng của mình được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Các cá nhân, tổ chức theo quy định của thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu toà án kinh tế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế, toà án phải tiến hành các biện pháp để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhằm thoả mãn được lợi ích của các bên có tranh chấp. Mặt khác, bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục các doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống các vi phạm pháp luật. III. Những nguyên tắc cơ bản trong việc gải quyết các tranh chấp kinh tế tại Toà án nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật và yêu cầu lợi ích kinh tế của chính các nhà doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấp kinh tế trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi hiện nay đòi hỏi phải đáp ứng được các yêu cầu sau: - Nhanh chóng và đúng đắn, hạn chế đến mức tối đa sự gián đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh Đảm bảo dân chủ, công khai, quyền tự định đoạt của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Đảm bảo yếu tố bí mật trong kinh doanh. Đảm bảo uy tín cho các bên trong thương trường. - Đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tranh chấp. Để tạo điều kiện cho Toà án kinh tế tiến hành tố tụng một cách nhanh chóng đồng thời đảm bảo cho các đương sự có điều kiện thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, trên cơ sở đó ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, những biểu hiện tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án thì hoạt động của Toà án kinh tế phải dựa trên các nguyên tắc của tố tụng kinh tế. Lý luận Mác - Lê Nin về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng nguyên tắc của pháp luật xã hội chủ nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo bao trùm lên toàn bộ các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật và hệ thống các ngành luật cụ thể. Theo đó nguyên tắc của thủ tục tố tụng kinh tế là nhưng tư tưởng pháp lý chỉ đạo chi phối toàn bộ hệ thống chế định pháp luật trong pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, làm kim chỉ nam định hướng xuyên suốt cho toàn bộ quá trình hoạt động giải quyết tranh chấp của toà án kinh tế. Tất cả các hành vi được tiến hành trong quá trình tố tụng như khởi kiện, ra quyết định, bản án … đều phải thực hiện trên cơ sở quán triệt các nguyên tắc đã đề ra. Bất cứ một hành vi nào vi phạm các nguyên tắc của thủ tục tố tụng kinh tế đều được coi là bất hợp pháp và phải bị loại bỏ. Khi đi vào nghiên cứu các nguyên tắc có thể thấy rõ hoạt động của tố tụng kinh tế cũng như các hoạt động tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế Toà kinh tế phải tuân theo các nguyên tắc chung về tố tụng được quy định trong hiến pháp và luật tổ chức Toà án nhân dân như: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Toà án xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, Toà án đảm bảo cho đương sự được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà… Đây là các nguyên tắc chung về tố tụng nhưng trong tố tụng kinh tế cũng có các nguyên tắc đặc thù riêng. Vì vậy giới hạn trong nội dung của phần này chúng tôi chỉ trình bày một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng kinh tế. 1 - Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự Đây là nguyên tắc cơ bản của tố tụng kinh tế. Nguyên tắc này phát sinh từ nguyên tắc bảo đảm quyền tự do kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động kinh doanh đúng pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp, Toà án chỉ tham gia giải quyết nếu đương sự có đơn yêu cầu. Việc yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp là quyền của các chủ thể kinh doanh. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội không có quyền khởi kiện, khởi tố các tranh chấp kinh tế. Quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện ở những nội dung sau: - Quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện - Quyền xác định phạm vi yêu cầu - Quyền được thay đổi, bổ sung nội dung yêu cầu - Quyền đề xuất bổ sung chứng cứ - Quyền rút đơn kiện trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng Trong toàn bộ các quyền kể trên thì quyền khởi kiện hoặc không khởi kiện là quan trọng nhất. Bởi vì kinh doanh là một công việc có tính chất riêng tư, các tranh chấp phát sinh trong kinh doanh phải do chính các nhà doanh nghiệp tự quyết định. Trong nền kinh tế thị trường các bên tham gia vào quan hệ kinh tế với mục đích làm sao kiếm được lợi nhuận cao nhất trên cơ sở phát huy mối quan hệ kinh doanh tốt đối với các bạn hàng, mở rộng thị trường và tạo uy tín lớn… Do đó, khi tranh chấp kinh doanh xảy ra việc đưa ra Toà án giải quyết phải được các bên cân nhắc kỹ lưỡng, đây là biện pháp cuối cùng khi các bên tranh chấp không tìm được cách giải quyết nào tốt hơn. 2 - Nguyên tắc các đương sự bình đẳng trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 (Điều 22, điều 52). Quyền bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên tham gia vào quan hệ kinh doanh mà cả khi họ tham gia vào quan hệ tố tụng. Toà án sẽ tiếp tục tiến hành xét xử các tranh chấp kinh tế không phân biệt các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty, hợp tác xã hay người kinh doanh… Mặt khác, khi tham gia vào quan hệ tố tụng các đương sự đều được hưởng các quyền cũng như phải thực hiện nghĩa vụ như nhau theo quy định của pháp luật. Theo nguyên tắc này không một cá nhân, một cơ sở sản xuất kinh doanh nào có đặc quyền đặc lợi trước Toà án. Họ đều ở vị trí bình đẳng về tố tụng và đều phải tuân theo pháp luật. Nếu có hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng kinh tế đảm bảo cho việc xét xử được công bằng, đúng pháp luật. Nguyên tắc này khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng và mọi thành phần kinh tế nói chung mạnh dạn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế nó có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở nước ta. 3 - Nguyên tắc Toà án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ. Đây là nguyên tắc mang tính đặc thù của tố tụng kinh tế, theo nguyên tắc này các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án không tự điều tra, thu thập chứng cứ như trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Trong tố tụng dân sự, nhiều trường hợp đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần… tức là nhưng người này bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi. Nếu có phát sinh tranh chấp và được giải quyết bởi Toà án thì trong nhiều trường hợp các đương sự này không thể tự chứng minh cho các yêu cầu của mình nền Toà án phải tiến hành điều tra, thu thập thêm chứng cứ. Còn trong kinh doanh, các nhà kinh doanh phải có đủ một số điều kiện mà pháp luật quy định cho họ như: Phải từ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi đầy đủ, có trình độ chuyên môn phù hợp với ngành nghề kinh doanh … Vì thế khi xảy ra tranh chấp các nhà kinh doanh đều có đủ khả năng để tự thu thập tài liệu chứng cứ chứng minh nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, trong vụ án kinh tế yêu cầu Toà án giải quyết là hoàn toàn do đương sự tự định đoạt một cách chủ động, không có trường hợp nào Viện kiểm sát hoặc tổ chức xã hội can thiệp vào việc đưa ra yêu cầu đồng thời làm thay đổi việc cung cấp chứng cứ chứng minh. Việc nâng cao trách nhiệm tự chứng minh của các đương sự là đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án kinh tế được nhanh chóng, chính xác và khách quan. Toà án chỉ giải quyết trên cơ sở chứng cứ mà đương sự cung cấp. Toà án không tiến hành xét hỏi mà nghe các bên trình bày và xác minh chứng cứ. Các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà họ cho là cần thiết để chứng minh và bảo vệ quyền lợi của mình. Trong trường hợp đương sự cung cấp chứng cứ chưa đầy đủ hoặc chứng cứ đó chưa chính xác thì Toà án sẽ yêu cầu đương sự cung cấp thêm chứng cứ hoặc xác minh sự chính xác của chứng cứ. 4 - Nguyên tắc Toà án chỉ thụ lý đơn kiện khi các bên đã tiến hành thương lượng hoà giải. Nguyên tắc hoà giải phải gắn liền với nguyên tắc tự định đoạt của đương sự. Các chủ thể kinh doanh khi tham gia vào các quan hệ kinh tế là dựa trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện. Do đó khi phát sinh tranh chấp các bên phải chủ động tiến hành thương lượng, hoà giải với nhau để cùng một biện pháp giải quyết. Chi khi nào có văn bản chứng tỏ việc thương lượng, hoà giải không thành hoặc không thể tiến hành vì sự thiếu thiện chí của một bên lúc đó Toà án mới thụ lý hồ sơ và giải quyết. Hoà giải là việc các bên tự thương lượng giải quyết tranh chấp với nhau mà không cần có phán quyết của Toà án. Nguyên tắc này xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án kinh tế. Khi các đương sự đã yêu cầu Toà án can thiệp hoặc trong quá trình xét xử Toà án cũng luôn tìm các biện pháp để các bên có thể hoà giải với nhau nhằm giải quyết nhanh chóng, dứt điểm vụ án, làm giảm đi những mầu thuẫn căng thẳng, giảm phí tổn, thời gian trong quá trình tranh tụng, tiết kiệm tiền của cho các bên tranh chấp. 5 - Nguyên tắc Toà án giải quyết vụ án kinh tế nhanh chóng, kịp thời. Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường rất năng động, linh hoạt thời gian đối với các nhà kinh doanh có ý nghĩa sống còn. Do đó, khi có tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, các nhà kinh doanh cần ở các cơ quan giải quyết tranh chấp không những giải quyết đúng pháp luật, thấu tình đạt lý mà còn phải nhanh chóng kịp thời và dứt điểm tránh dây dưa kéo dài gây lãng phí thời gian và tiền của. Bởi vậy, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được quy định đơn giản hơn pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự cũng chính là nhằm mục đích giải quyết nhanh chóng các vụ án kinh tế. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án không cần qua giai đoạn điều tra thu thập, xác minh chứng cứ, hạn chế thấp nhất việc quay vòng vụ án để xét xử nhiều lần. Như vậy, với những quy định như trên thì nguyên tắc Toà án xét xứ nhanh chóng, dứt điểm các vụ án kinh tế là một nguyên tắc tiến bộ. Nếu được Toà án quán triệt sâu sắc trong hoạt động xét xử thì nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền lợi của các nhà kinh doanh, hạn chế những hậu quả không đáng có xảy ra cho họ. 6 - Nguyên tắc Toà án xét xử công khai. Nguyên tắc Toà án tiến hành xét xử công khai là một nguyên tắc Hiến định của Toà án. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân giám sát được công việc xét xử của Toà án. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân giám sát được công việc xét xử của Toà án, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình xét xử đồng thời đề cao trách nhiệm của người làm công tác xét xử. Qua việc xét xử côn khai này, Toà án có thể tuyên truyền giải thích pháp luật. Tại phiên toà các chứng cứ, tài liệu, mọi vật chứng của vụ án đều phải được đọc, xem xét công khai. Nếu người tham gia tố tụng vắng mặt phiên toà vẫn được tiến hành thì phải đọc lời khai của họ trong hồ sơ vụ án… Tuy nhiên khi xét xử các vụ án kinh tế, pháp luật cho phép Toà án được quyền xét xử kín trong trường hợp cần giữ bí mật Nhà nước, hoặc giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Đây là một nguyên tắc có thể hiện tính mềm dẻo, linh động của tố tụng kinh tế phù hợp với nhu cầu, tâm lý của các bên đương sự. Bởi trong nền kinh tế thị trường mục đích hàng đầu của các nhà kinh doanh là lợi nhuận thì bí mật trong kinh doanh (bí mật nghề nghiệp, phát minh, sáng chế, giải pháp kỹ thuật…) là những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhiều khi giá trị tranh chấp trong kinh doanh không thể so sánh được với giá trị của bí mật kinh doanh và hệ quả tất yếu là nhiều doanh nghiệp không thể bảo vệ được quyền lợi của mình thông qua Toà án và họ sẽ tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế khác. Như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước bằng pháp luật. ở đây Toà án là người có thẩm quyền trong việc quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai hay xét xử kín. IV. Thẩm quyền của Toà án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế. Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân đân được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 28/ 12/ 1993, Toà kinh tế là một Toà chuyên trách nằm trong hệ thống Toà án nhân dân được tổ chức ở cấp Toà án nhân dân tỉnh và Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền gải quyết các tranh chấp kinh tế và bắt đầu hoạt động từ ngày 01/ 07/ 1994 Nếu căn cứ theo vụ việc thì theo quy định tại điều 12 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/ 03/ 1994 thì Toà kinh tế có thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế sau đây: Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Các tranh chấp giữa Công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động và giải thể công ty. Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Nếu căn cứ theo cấp xét xử (thẩm quyền theo cấp) thì theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung của Luật tổ chức Toà án nhân dân và pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế, thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế của các Toà án được quy định như sau: - Toà án nhân cấp huyện, quận,thị xã thành phố thuộc tỉnh. Toà án cấp huyện nơi không có Toà kinh tế với tính cách là một Toà chuyên trách có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp về hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng và không có nhân tố nước ngoài. - Toà án nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét xử theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp kinh tế nói tại Điều 12 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp tháng 12/ 1993. Trong trường hợp cần thiết Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện. Cũng theo sự phân cấp, Toà án cấp tỉnh phúc thẩm những vụ án kinh tế mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của Toà án cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Đối với những bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị thì uỷ ban thẩm phán của Toà án cấp tỉnh xem xét và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao. + Toà phúc thẩm tiến hành phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm của Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và giải quyết các khiếu nại đối với các quyết định của Toà án nhân dân tỉnh liên quan đến việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật trên cơ sở thẩm quyền theo cấp và theo vụ việc đã được quy định. + Toà kinh tế thuộc Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Điều đáng phân biệt là Toà án nhân dân tối cao không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm như Toà dân sự và Toà hình sự thuộc Toà án nhân dân tối cao. + Uỷ ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét theo trình tự giám đ._.ốc thẩm và tái thẩm những vụ án mà bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới. Ngoài ra phạm vi thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế còn có thể dựa trên sự lựa chọn của nguyên đơn. Cụ thể nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết vụ án trong các trường hợp sau: Nếu không biết rõ trụ sở hoặc nơi cư trú của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản, nơi có trụ sở hoặc nơi cư trú cuối cùng của bị đơn gải quyết vụ án. Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết vụ án. Nếu vụ án phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi thực hiện hợp đồng giải quyết vụ án. Nếu các bị đơn có trụ sở hoặc nơi cư trú khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi doanh nghiệp có trụ sở hoặc nơi cư trú của một trong các bị đơn gải quyết vụ án. Nếu vụ án liên quan đến bất động sản ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yếu cầu Toà án ở một trong các nơi đó giải quyết vụ án. V. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế tại Toà án nhân dân Đây là các giai đoạn trong hoạt động tố tụng của Toà án để gải quyết các vụ án kinh tế. Giới hạn trong phần viết này, chúng tôi chỉ nêu những nội dung được coi là cơ bản dựa trên cơ sở pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 16/ 03/ 1994 và có hiệu lực từ ngày 01/ 07/ 1994. 1 - Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh tế Quyền khởi kiện vụ án kinh tế Theo quy định của Điều I pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế: “Các cá nhân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án kinh tế để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” Khi quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh bị tranh chấp hoặc bị xâm phạm, người kinh doanh (cá nhân, pháp nhân) có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó theo một thủ tục do pháp luật quy định. Quyền đó được gọi là quyền khởi kiện vụ án kinh tế. Quyền khởi kiện vụ án kinh tế là quyền tố tụng đầu tiên của cá nhân hoặc pháp nhân khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng kinh tế Các cơ quan Nhà nước (như Viện kiểm sát) không có quyền này. Có thể nói chủ thể thực hiện quyền khởi kiện trong tố tụng kinh tế hẹp hơn chủ thể thực hiện quyền này trong tố tụng dân sự. Thời hạn khởi kiện vụ án kinh tế là 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định tại Điều 31 - khoản 2 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì nội dung của đơn kiện gồm: - Ngày, tháng, năm viết đơn - Toà án được yêu cầu giải quyết vụ án - Tên nguyên đơn, bị đơn - Tóm tắt nội dung tranh chấp, trị giá tranh chấp - Quá trình thương lượng của các bên - Yêu cầu đề nghị Toà án xem xét giải quyết. Đơn kiện phải có chữ ký của nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn. Kèm theo đơn kiện phải có các tài liệu chứng minh cho các yêu cầu của nguyên đơn. Thụ lý vụ án kinh tế Thụ lý vụ án kinh tế là việc Toà kinh tế Toà án nhân dân chấp nhận đơn của người khởi kiện và ghi vào sổ thụ lý của Toà án. Thụ lý vụ án có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó đặt ra cho Toà án trách nhiệm giải quyết vụ án. Điều 33 - Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: “Nếu Toà án xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của minh thi thông báo ngay cho nguyên đơn biết. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và Toà án vào sổ thụ lý vụ án vào ngày nguyên đơn xuất trình chứng từ về việc nộp tiền tạm ứng án phí”. Toà án sẽ thụ lý vụ án với điều kiện như sau: - Người khởi kiện có quyền khởi kiện - Sự việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án - Đơn kiện được gửi đúng thời hiệu khởi kiện - Nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí - Sự việc chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác. - Sự việc không được các bên thoả thuận trước là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài. 2 - Chuẩn bị xét xử Sau khi thụ lý vụ án , Toà kinh tế phải tiến hành chuẩn bị xét xử. Chuẩn bị xét xử là một bước quan trọng trong quá trình tố tụng vì nó quyết định đến chất lượng xét xử tại phiên toà sau này. Thời hạn chuẩn bị xét xử là 40 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Đối với các vụ án phức tạp, thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 60 ngày (Điều 34 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế). Trong công tác chuẩn bị xét xử, Toà kinh tế phải tiến hành các công việc sau: Thứ nhất: Toà án phải thông báo cho bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết nội dung đơn kiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án. Những người được thông báo có nghĩa vụ phải gửi cho Toà án ý kiện của mình bằng văn bản về đơn kiện và các tài liệu khác có liên quan đến việc gải quyết vụ án cho Toà án trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Thứ hai: Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Trong tố tụng kinh tế mặc dù nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự , Toà án không có nghĩa vụ điều tra. Nhưng để việc giải quyết vụ án được nhanh chóng khách quan, đúng pháp luật thì Toà án có thể thực hiện quyền xác minh và thu thập chứng cứ. Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/03/ 1994 quy định: “Trong gai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu xét thấy cần thiết Toà án có thể tiến hành hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án”. Thứ ba: Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Việc hoà giải vụ án tranh chấp kinh tế có thể tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế. Hoà giải là một thủ tục bắt buộc đối với Toà án. Toà án tiến hành hoà giải đối với tất cả các vụ án kinh tế. Để tiến hành hoà giải, Toà án triệu tập tất cả nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến Toà án, những người này phải có mặt khi hoà giải. Nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì Toà án lập biên bản hoà giải thành và trên cơ sở đó ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự. Quyết định này có hiệu lực ngay sau khi tuyên và việc giải quyết vụ án kinh tế được kết thúc tại đây. Trong trường hợp các bên không thể thoả thuận được với nhau thì Toà án lập biên bản hoà giải không thành và quyết định đưa vụ án ra xét xử . 3 - Phiên toà sơ thẩm Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó không quá 20 ngày. Phiên toà sơ thẩm được tiến hành dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và một hội thẩm. Như vậy, trong hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và một hội thẩm. Như vậy trong Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án kinh tế, số lượng thành viên là thẩm phán chiếm đa số. Điều này hoàn toàn khác với Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ dân (Hội đồng xét xử vụ án dân sự có một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân) - Khoản 2, Điều 17 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, khoản 1 Điều 16 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Phiên toà được tiến hành dưới sự có mặt của các đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định và kiểm sát viên (nếu Viện kiểm sát có yêu cầu tham gia phiên toà). Phiên toà bị hoãn nếu: - Đương sự vắng mặt mà cần được lấy lời khai hoặc xác minh lại lời khai tại phiên toà. - Thành viên Hội đồng xét xử, kiểm sát viên, thư ký phiên toà, người giám định, người phiên dịch bị thay đổi mà không có người thay thế. Trong trường hợp đương sự yêu cầu xét xử vắng mặt họ hoặc đương sự không phải là nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì việc xét xử vẫn được tiến hành. Thủ tục tiến hành phiên toà sơ thẩm được pháp luật quy định cụ thể như sau: + Thủ tục bắt đầu phiên toà + Thẩm vấn tại phiên toà + Tranh luận tại phiên toà + Thủ tục nghị án + Thủ tục tuyên án + Hoàn chỉnh biên bản phiên toà + Cấp trích lục bản sao bản án hoặc quyết định của Toà án 4 - Thủ tục phúc thẩm Thủ tục phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án, quyết định của Toà án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành phúc thẩm các bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Toà án cấp dưới nhằm mục đích sửa chữa những sai lầm của Toà án trong các bản án, quyết định đó. Thủ tục phúc thẩm đảm bảo về mặt tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Thủ tục phúc thẩm còn tạo khả năng thuận lợi cho Toà án cấp trên kiểm tra chất lượng xét xử của Toà án cấp dưới cho phù hợp với pháp luật về thực tiễn khách quan. Chủ thể và khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị - Chủ thể của quyền kháng cáo và kháng nghị là đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Toà án, còn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc cấp trên có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm. Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo và gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo. Viện kiểm sát kháng nghị bằng một quyết định. Đơn kháng cáo và nội dung kháng nghị phải nêu rõ lý do kháng cáo, kháng nghị; phần quyết định của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; yêu cầu của người kháng cáo, kháng nghị. - Khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị là bản án và quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên không phải tất cả các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đều là khách thể của kháng cáo, kháng nghị mà có những quyết định không thể bị kháng cáo, kháng nghị (chẳng hạn quyết định đình chỉ vụ án vì lý do người khởi kiện rút đơn) Trình tự thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị - Thời hạn thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị Theo quy định tại Điều 61 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế: + Thời hạn kháng cáo là 10 ngày kể từ ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định. Trường hợp đương sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bản sao bản án, quyết định được giao cho họ hoặc được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi họ có trụ sở hoặc cư trú. + Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên là 20 ngày kể từ ngày Toà tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu Kiểm sát cấp trên là 20 ngày kể từ ngày Toà tuyên án hoặc ra quyết định. Nếu kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản sai bản án, quyết định. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định như vậy là đủ để đảm bảo thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị. Quá thời hạn quy định mà không có kháng cáo, kháng nghị thì mặc nhiên bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật và phải đưa ra thi hành. Hậu quả pháp lý của kháng cáo, kháng nghị Phần bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì chưa có hiệu lực pháp luật, phần bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật (Điều 64 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế). Thủ tục kháng cáo, kháng nghị Đơn kháng cáo, bản kháng nghị được gửi đến Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người kháng cáo xuất trình chứng từ về việc nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, hoặc kể từ ngày nhận được kháng nghị Toà án cấp sơ thẩm gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án cho Toà án phúc thẩm. Phiên toà phúc thẩm Trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi đến, Toà án cấp phúc thẩm phải mở phiên toà xét xử. Thời hạn này có thể gia hạn thêm nếu vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Hội đồng xét xử gồm ba thẩm phán. Trước khi mở phiên toà, Toà án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của đương sự hoặc chủ động ra quyết định khẩn cấp tạm thời nếu xét thấy cần thiết. Toà án cũng có thể tiến hành các biện pháp để xác minh, thu thập chứng cứ… bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan. Phiên toà phúc thẩm được tiến hành với sự có mặt của các thành phần sau: Đương sự kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. - Kiểm sát viên trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc Viện kiểm sát xét thấy cần thiết tham gia phiên toà phúc thẩm hoặc khi có yêu cầu của Toà án. Nếu đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, kiểm sát viên vắng mặt không có lý do chính đáng thì phiên toà phúc thẩm vẫn tiến hành. Về mặt thủ tục phiên toà phúc thẩm được tiến hành giống như phiên toà sơ thẩm. Chỉ khác là khi xem xét kháng cáo, kháng nghị một thành viên của Hội đồng xét xử trình bày nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Kết thúc phiên toà, Toà án có thể ra một trong các quyết định sau: - Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm. - Sửa đổi một phần hay toàn bộ quyết định của bản án, quyết định sơ thẩm. - Huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển vụ án cho cấp sơ thẩm xét xử lại. - Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án có căn cứ tạm đình chỉ, đình chỉ theo quy định của pháp luật. Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên bố. Bản sao bản án, quyết định phúc thẩm phải được gửi cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết định. 5 - Thủ tục xem xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định hai hình thức xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Tuy cùng xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền nhưng giám đốc thẩm và tái thẩm là hai giai đoạn độc lập của tố tụng kinh tế. a. Thủ tục giám đốc thẩm Giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng kinh tế. Trong đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền. Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 47 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, những người sau đây có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm: - Chánh án Toà án nhân dân tối cao, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân địa phương. - Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm át nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện. Khách thể của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu thấy có vi phạm luật. Bao gồm: - Những bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm - Những bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, quyết định công nhận sự thảo thuận của các đương sự. - Những bản án, quyết định của Toà án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa vào những căn cứ sau: - Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng như Toà án đã xét xử vụ án sai thẩm quyền, thành phần của Hội đồng xét xử không hợp pháp. - Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án. - Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng luật. Phiên toà giám đốc thẩm Theo điều 78 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh giám đốc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp huyện bị kháng nghị. Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà thuộc Toà án nhân dân tối cao bị kháng cáo, kháng nghị. Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà án các cấp như sau: Hội đồng xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm của Toà kinh tế - Toà án nhân dân tối cao gồm ba thẩm phán. Uỷ ban thẩm phán và hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao khi xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải có ít nmhaast 2/3 số thành viên tham gia. Quyết định của uỷ ban thẩm phán và hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quyết định theo đa số. Quyết định của uỷ ban thẩm phán cấp tỉnh phải được nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Theo điều 79 Pháp lệnh thủ tục gải quyết các vụ án kinh tế, phiên toà giám đốc thẩm không phải triệu tập đương sự, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị trừ trường hợp Toà xét thấy cần phải nghe ý kiến của họ trước khi quyết định. - Phiên toà giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn 1 thang kể từ ngày Toà án nhận được hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có quyền ra một trong các quyết định sau đây: - Bác kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. - Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị. - Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng. b - Thủ tục tái thẩm Thủ tục tái thẩm cũng là một gai đoạn tố tụng kinh tế đặc biệt, trong đó Toà án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp dưới nếu phát hiện được những tình tiết mới quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án, trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền. - Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: + Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp. + Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện. Các căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: - Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án. - Bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết đã bị huỷ bỏ. - Thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên và thư ký Toà án cố tình làm sai lệch hồ sơ của vụ án. - Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng. Thẩm quyền tái thẩm, Hội đồng xét xử tái thẩm, phiên toà tái thẩm được pháp luật quy định giống như ở thủ tục giám đốc thẩm. CHƯƠNG II - Tình hình giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án nhân dân I. Tình hình giải quyết các vụ án tranh chấp kinh tế vào các năm 1994 - 1999 Trong các năm 1994 - 1999 các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 575 vụ. Đã giải quyết trong hạn luật định 316 vụ đạt tỷ lệ 54,9% số vụ thụ lý. Trong số đó đã xét xử 315/316 vụ và đã xử y án sơ thẩm 110 vụ (34,8%), sửa bản án sơ thẩm 10 vụ (32,1%), huỷ bản án sơ thẩm 75 vụ (24,1%), đình chỉ việc giải quyết đối với 29 vụ. Cùng thời gian trên, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 16 vụ, đã xét xử 12 vụ, đạt tỷ lệ 75%. Trong số đó sửa bản án 2 vụ, huỷ bản án 6 vụ (50%), y án phúc thẩm 4 vụ. Cùng thời gian trên, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhândân tối cao đã thụ lý 16 vụ, đã xét xử 12 vụ, đạt tỷ lệ 75%. Trong số đó sửa bản án 2 vụ, huỷ bản án 6 vụ (50%), y án phúc thẩm 4 vụ. Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý 30 vụ, đã xét xử 29 vụ, đạt tỷ lệ 97%. Trong đó huỷ án 15 vụ, sửa bản án 6 vụ, y án phúc thẩm 8 vụ. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã xét xử 4 vụ. Nếu tính tất cả các vụ án được giải quyết theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án các cấp là 4.887 vụ (sơ thẩm: 4.217 vụ; phúc thẩm: 597 vụ; giám đốc thẩm, tái thẩm: 83 vụ) thì số vụ án bị kháng cáo, kháng nghị chiếm tỷ lệ 14%. II. Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng toà án nhân dân đầu 2000 Trong năm 2000, các Toà án nhân dân địa phương đã thụ lý 859 vụ, số vụ án cũ còn lại là 101 vụ, tổng số vụ phải giải quyết trong năm là 960 vụ, đã giải quyết 859 vụ, đạt tỷ lệ là 89,4%. So với năm 1999, số vụ án mới thụ lý giảm 368 vụ. Trong số các vụ án mới thụ lý trong năm, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có 257 vụ, chiếm 29,9% tổng số vụ án thụ lý mới của cả nước. Các Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng mỗi Toà thụ lý mới : Hà Nội 73 vụ, Hải phòng 36 vụ, Đà Nẵng 22 vụ. Các Toà án nhân dân các tỉnh khác thụ lý mới từ 1 vụ đến 6 vụ. Một số Toà án nhân dân không thụ lý vụ án kinh tế nào như Toà án các tỉnh: Quảng Trị, sơn La. Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Cạn, Hà Nam, Hà Tĩnh. Các Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục phúc thẩm không nhiều, cả năm 2000 chỉ có 5 vụ. Các Toà án nhân dân cấp huyện trong cả nước chỉ thụ lý 74 vụ. Nguyên nhân chính dẫn tới việc các Toà án nhân dân ít hoặc không thụ lý giải quyết các vụ án kinh tế là do thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế của Toà án cấp huyện chỉ giới hạn giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng. Đây là những hợp đồng nhỏ, rất ít gặp trong quan hệ kinh tế và nếu có phát sinh, các đương sự có thể thoả thuận, dàn xếp với nhau về các vấn đề tranh chấp. Mặt khác, các doanh nghiệp rất ngại kiện tụng tại Toà án vì lý do mặc cảm và sợ mất uy tín trên thương trường. Các vụ án kinh tế hiện nay chủ yếu vẫn do Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết từ trình tự sơ thẩm. Trong năm 2000, các Toà án phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao đã thụ lý mới 124 vụ, số vụ án cũ còn lại là 64 vụ. Tổng số vụ án giải quyết là 188 vụ, đã giải quyết 124 vụ, đạt tỷ lệ 65,9%. trong số các vụ án xét xử thì y án sơ thẩm 65 vụ bằng 52,4%, sửa bản án sơ thẩm 24 vụ bằng 19,3%, tạm đình chỉ việc giải quyết đối với 5 vụ bằng 4,08% hoà giải thành 1 vụ và cho rút kháng cáo, kháng nghị 7 vụ. Toà án kinh tế giải quyết 9 vụ, trong đó số thụ lý mới là 7 vụ và số vụ án cũ là 2 vụ. Trong số đó có 4 vụ do Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị, đã xét xử 7 vụ và đã huỷ án cả 7 vụ, trong đó huỷ án để giao cho Toà án các cấp sơ thẩm xét xử lại là 6 vụ, huỷ và đình chỉ giải quyết 1 vụ. Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải xét xử 20 vụ, trong đó có 14 vụ án mới thụ lý và 6 vụ án cũ còn lại. Trong số này có 4 vụ do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị. Đã xét xử 14 vụ, trong đó bác kháng nghị và giữ nguyên bản án phẩm thẩm 2 vụ, huỷ bản án phúc thẩm 8 vụ, đình chỉ giải quyết án 1 vụ, sửa bản án phúc thẩm 3 vụ. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã xét xử 1 vụ và giữ nguyên quyết dịnh giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Như vậy về cơ bản các vụ án kinh tế phải giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã được giải quyết. So với năm 1999 năm 2000 các Toà án đã có nhiều cố gắng để khắc phục những thiếu sót đã được rút kinh nghiệm trong báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1999. Chất lượng xét xử của các Toà án có tiến bộ hơn trước, việc giải quyết vụ án kinh tế đã nhanh hơn trước. Tuy nhiên trong công tác xét xử các vụ án kinh tế cũng vẫn còn có những thiếu sót, nhược điểm chính sau đây. Chưa nắm vững và nhận thức đầy đủ pháp luật kinh tế và các văn bản hướng dẫn thực hiện của Toà án nhân dân tối cao cũng như hướng dẫn thông tư liên ngành, thiếu sự so sánh, đối chiếu tổng hợp giữa các tài liệu, chứng cứ nên không phát hiện được mâu thuẫn, do đó không đưa ra những quyết định đúng. Ví dụ: Như vụ kiện nguyên đơn là Công ty Vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc và bị đơn là Công ty xây dựng số 34 Thanh Xuân - Hà Nội. Ngày 05/9/1998 ông Nguyễn Việt Trung là đội trưởng xây dựng số 2 Công ty xây dựng số 34 và cửa hàng kim khí theo uỷ quyền của Công ty vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc đã ký hợp đồng số 19 mua bán sắt thép. Hợp đồng có xác nhận của Công ty xây dựng số 34 không thanh toán được tiền hàng. Ngày 12/8/1999, cửa hàng kim khí phát đơn khởi kiện Công ty xây dựng số 34. Ngày 29/02/2000 Toà án cấp sơ thẩm đã ra quyết định công nhận sự thoả thuận. Ông Trung sẽ thanh toán số tiền nợ gốc là 198 triệu đồng, trả trực tiếp hoặc thông qua công ty xây dựng số 34. Sau đó, ông Trung khiếu nại không đồng ý trả nợ. Ngày 11/9/2000, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định kháng nghị số 03 đề nghị Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao xử lý huỷ quyết định công nhận sự thoả thuận của Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án vì: Khi thụ lý, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định đúng bị đơn là Công ty xây dựng số 34. Tại buổi hoà giải không thành ngày 16/11/1999, Toà án cũng đã triệu tập ông Nguyễn Xuân Bắc là giám đốc công ty xây dựng số 34. Ngày 23/12/1999, Toà án lập biên bản làm việc (không phải là biên bản hoà giải) giữa ông Thắng phó giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc và ông Nguyễn Việt trung - đội trưởng đội 2 (không có uỷ quyền của giám đốc). Việc các bên thoả thuận và Toà án công nhận ông Trung là người trả nợ là không đúng. Mặt khác cửa hàng kim khí đứng đơn khởi kiện không có uỷ quyền của Công ty vật tư tổng hợp Vĩnh Phúc cũng không đúng, lẽ ra Toà án phải trả đơn nhưng Toà án thụ lý. Trong hồ sơ cũng chưa thể hiện rõ địa vị pháp lý của Công ty xây dựng số 34. Như vậy về mặt tố tụng, quyết định công nhận sự thoả thuận của Toà án cấp sơ thẩm có nhiều sai sót. Ngày 20/110/200O, Toà án nhân dân tối cao đã chấp nhận kháng nghị của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, xử huỷ quyết định công nhận sự thoả thuận nêu trên của Toà án cấp sơ thẩm. - Xác định sai thẩm quyền và nhầm lẫn giữa quan hệ tranh chấp kinh tế và quan hệ tranh chấp tài sản. Ví dụ: Vụ kiện giữa nguyên đơn là ông Đặng Xuân Đăng và bị đơn là Công ty TNHH Việt Quang do 6 thành viên sáng lập, trong đó có ông Nguyễn Quang Minh. Ông Minh là thành viên của Công ty Việt quang có cổ phần là 60 triệu đồng. Ông Minh nhượng lại cổ phần này cho ông Đăng không phải là thành viên của Công ty TNHH Việt Quang. Việc chuyển nhượng này chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận nên ông Đăng không phải là thành viên của Công ty Việt Quang. Ngày 25/11/1999, ông Đăng khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Tân Phú đòi công ty Việt Quang số tiền là 50 triệu đồng. Tại bản án số 01/KTST ngày 12/5/1999, Toà án nhân dân huyện Tân Phú đã xử buộc công ty Việt Quang phải trả nợ cho ông Đăng 50 triệu đồng. Công ty Việt Quang kháng cáo. Tại bản án số 01/KTPT ngày 08/10/1999 Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xử y án sơ thẩm về nội dung, chỉ sửa về án phí. Ngày 13/03/2000, tại quyết định số 01 Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản ản phúc thẩm nói trên, đề nghị Toà án kinh tế Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nói trên để giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai giải quyết lại vụ án. Theo khoản 1 điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì tranh chấp giữa thành viên công ty không thuộc thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, tuy ông Minh có nhượng lại cổ phần cho ông Đăng nhưng việc chuyển nhượng này không đúng quy định của pháp luật bởi sự thay đổi này phải được Sở kế hoạch đầu tư ghi vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vì vậy ông Đăng chưa có tư cách là thành viên để khởi kiện công ty. Ông Đăng đưa tiền cho ông Minh Thì ông Đăng có quyền khởi kiện dân sự đòi ông Minh hoàn trả lại số tiền và đây là 1 vụ kiện phải được giải quyết bằng tố tụng dân sự. Ngày 05/5/2000 Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao khi xét xử giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Phó Chánh Toà án nhân dân tối cao. III. Một số vấn đề về hoạt động Toà án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế 1 - Kết quả hoạt động của các Toà kinh tế trong 7 năm qua cho thấy việc thành lập Toà kinh tế, một cơ quan tài phán tư pháp mới trong nền kinh tế thị trường là một công việc mới mẻ, còn gặp không ít khó khăn về cơ sở vật chất, về bộ máy tổ chức đội ngũ thẩm phán kinh tế cũng như những văn bản pháp luật về nội dung và tố tụng kinh tế. Tuy nhiên các Toà án đã hoạt động đạt được những kết quả nhất định, khẳng định chủ trương đúng đắn của việc thành lập Toà kinh tế ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách của các cơ quan tài phán, cải cách tư pháp và cải cách bộ máy Nhà nước. Đa số các vụ tranh chấp kinh tế thuộc chức năng và thẩm quyền của Toà kinh tế đã được thụ lý và giải quyết nhanh chóng, đúng luật định, đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp. Các quyết định của bản án đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ và khôi phục quyền lợi về kinh tế cho bên bị vi phạm. Do dó, bước đầu hoạt động của Toà kinh tế đã tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp vào tính công lý và công bằng xã hội. yêu cầu chính đáng của các nhà doanh nghiệp là mọi tranh chấp kinh tế sẽ được Toà kinh tế giải quyết nhân danh nhà nước và quyết định của Toà án được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, Toà kinh tế thực sự trở thành biểu tượng của công lý, một chỗ dựa về mặt pháp lý cho các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện hoạt động kinh tế thị trường. Điều đó khác với việc giải quyết tranh chấp kinh tế bằng các cơ quan trọng tài kinh tế nhà nước trước đây như việc giải quyết thiếu triệt để, chủ yếu là những khuyến nghị, thậm chí khi có các quyết định của trọng tài nhưng không được thực thi trong cuộc sống. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhiều tranh chấp kinh tế mới nảy sinh không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài kinh tế nhà nước trước đây. Do đó chúng không được hoặc có giải quyết nhưng cũng không được triệt để và không đúng với yêu cầu công việc, đúng với các phương thức giải quyết như các tranh chấp trong quá trình thành lập, hoạt động giải thể doanh nghiệp đó là Toà kinh tế và điều này đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường. Đây là một quá trình tư pháp hoá việc giải quyết các tranh chấp và vi phạm pháp luật trong x._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT395.doc
Tài liệu liên quan