Lời mở đầu
Cùng với nhân loại, chúng ta đã đi qua những năm tháng cuối cùng của thế kỷ XX và bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ và có tính phổ biến trên phạm vi thế giới mà theo dự đoán sẽ có những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ. Bước vào thiên niên kỷ mới, cùng với sự đổi mới mạnh mẽ của nền kinh tế - xã hội, hệ thống giáo dục đặc biệt là giáo dục đại học Việt Nam đã và đang có những chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều mặt. Hội nhập kinh tế quốc t
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải quyết bài toán về quy mô & chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế tạo cho nền giáo dục đại học nhiều cơ hội mới nhưng bên cạnh đó là những thách thức to lớn. Những thách thức đó đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đổi mới để đưa nền giáo dục đại học trở thành nền giáo dục hiện đại, hội nhập khu vực và quốc tế.
Tính cấp thiết của đề tài.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo giữ vai trò trung tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Đó là nguồn lực có ý nghĩa quyết định mọi nguồn lực bởi nguồn lực đặc biệt này vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Tốc độ phát triển và đổi mới đất nước phụ thuộc rất nhiều vào số lượng, chất lượng và hiệu quả giáo dục của ngành giáo dục nước nhà. Nhiệm vụ quan trọng nhất của hệ thống giáo dục đại học là phải đào tạo được nguồn nhân lực trình độ cao và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tăng trưởng bền vững.
Trong thực tế, lời giải cho bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam chưa có đáp số rõ ràng. Chúng ta nên mở rộng quy mô hay tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Điều đó đã dẫn đến một số bất cập trong hoạch định chính sách, cản trở sự phát triển và hội nhập của nền giáo dục đại học nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ nhận thức đó, em đã lựa chọn đề tài: “Giải quyết bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam” làm đề tài cho đề án môn học của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích thực trạng quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam để chỉ ra những cơ hội cũng như những thách thức của nền giáo dục đại học nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển quy mô giáo dục đại học Việt Nam một cách hợp lý.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2015.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu là nghiên cứu quy mô sinh viên, cơ cấu các trường đại học trong cả nước từ năm 1990, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay trong mối quan hệ với bảo đảm chất lượng đào tạo.
Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tổng hợp, so sánh, các số liệu về quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam để phân tích và luận giải những vấn đề về lý luận và thực tiễn.
Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài được kết cấu làm ba chương:
Chương I: Lý luận về quy mô và chất lượng giáo dục đại học. Sự cần thiết phải giải quyết bài toán giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Chương II: Thực trạng về quy mô và chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
Chương III: Những định hướng và giải pháp nhằm giải quyết bài toán quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể nội dung của từng chương ở các phần tiếp theo
Chương I
Lý luận về quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Sự cần thiết phải giải quyết bài toán giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Một cách khái quát nhất có thể hiểu rằng giáo dục là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phẩm chất như: niềm tin, đạo đức, thái độ… ở con người để có thể phát triển nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội.
Theo khái niệm trên ta thấy, ở đâu có truyền đạt và lĩnh hội tri thức, sự tác động qua lại để hình thành phẩm chất con người thì ở đó có giáo dục.
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp hơn thì giáo dục là một quá trình được tổ chức có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người. Khái niệm này nhấn mạnh tới tính mục đích và tính kế hoạch của quá trình truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội. Vì vậy, khái niêm giáo dục ở đây thường gắn với nhà trường vì nhà trường là nơi tổ chức giáo dục một cách có hệ thống và có kế hoạch chặt chẽ nhất.
Quy mô và chất lượng giáo dục đại học
1. Giáo dục đại học và quy mô giáo dục đại học .
1.1 Giáo dục đại học .
Bước vào thế kỷ XXI, các quốc gia trên thế giới đều đẩy nhanh tiến trình cải cách giáo dục. Chưa bao giờ cải cách giáo dục lại trở thành một hiện tượng nổi bật và mang tính toàn cầu như bây giờ. Tại sao lại có hiện tượng này? Có một cách lập luận đã quen thuộc với mọi người để trả lời câu hỏi trên: Cạnh tranh quốc tế là cạnh tranh về khoa học - kỹ thuật, cạnh tranh về khoa học - kỹ thuật là cạnh tranh về nhân tài, cạnh tranh về nhân tài suy cho đến cùng là cạnh tranh về giáo dục. Không phải ngẫu nhiên, tình cờ mà tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều xếp giáo dục vào vị trí quốc sách hàng đầu. Rất nhiều chuyên gia đã nhận định rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của giáo dục.
Luật giáo dục (năm 1998) của Việt Nam quy định: “Giáo dục đại học Việt Nam đào tạo trình độ đại học và trình độ cao đẳng”[11].
Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện trong ba năm đối với người tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp người học có kiến thức chuyên môn và kỹ năng cơ bản về một ngành nghề và có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm tuỳ theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, từ một đến hai năm đối với những người tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp người học có kiến thức chuyên môn và kỹ năng cơ bản về một ngành nghề và có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành được đào tạo.
Trong hệ thống giáo dục - đào tạo , giáo dục đại học có vị trí quan trọng bậc nhất trong toàn bộ chiến lược “đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Quy mô giáo dục đại học và các chỉ tiêu đánh giá quy mô giáo dục đại học
1.2.1 Khái niệm về quy mô giáo dục đại học.
Theo quan điểm hệ thống, giáo dục đại học là một hệ thống con trong hệ thống kinh tế xã hội nhưng bản thân giáo dục đại học cũng là một hệ thống bao gồm nhiều phân hệ khác nhau như số lượng, chất lượng, mạng lưới phân bổ, sở hữu, ngành, nghề đào tạo…Như vậy, quy mô giáo dục là một bộ phận trong hệ thống giáo dục đại học. Khi nói đến quy mô giáo dục đại học của một quốc gia trong một thời kỳ, người ta nói đến số lượng sinh viên đang được đào tạo theo các phương thức đào tạo, loại hình đào tạo và theo các chuyên ngành đào tạo khác nhau. Thêm vào đó, khi nói đến quy mô giáo dục đại học người ta còn nghiên cứu số lượng các trường đại học và cao đẳng, cơ cấu và quy mô của các trường này.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, quy mô giáo dục đại học chỉ đề cập đến số lượng sinh viên, số lượng và cơ cấu các trường đại học và cao đẳng theo các bậc học mà thôi.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá quy mô giáo dục đại học.
ở mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi quốc gia khác nhau, người ta có thể dùng các chỉ tiêu khác nhau để phản ánh quy mô giáo dục đại học. Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đã lựa chọn hệ thống chỉ tiêu sau để đo lường quy mô giáo dục đại học.
Loại I: Các chỉ tiêu tuyệt đối.
Số lượng sinh viên: Số lượng sinh viên đang theo học ở các trường đại học - cao đẳng, các cơ sở giáo dục đại học, theo học theo các chương trình đào tạo từ xa.
Số lượng các trường: Chủ yếu nghiên cứu số lượng các trường đại học - cao đẳng trong cả nước.
Loại II: Các chỉ tiêu tương đối
Tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân
Tỷ lệ sinh viên trên dân số trong độ tuổi
Tỷ lệ sinh viên trên tổng lao động xã hội
Trong hệ thống chỉ tiêu trên thì các chỉ tiêu loại II có ý nghĩa đặc biệt trong việc so sánh quy mô sinh viên của một quốc gia trong các thời kỳ khác nhau và so sánh quy mô sinh viên của các quốc gia trên thế giới. Các chỉ tiêu về quy mô cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong chỉ số tổng hợp giáo dục đại học của một quốc gia.
2. Chất lượng giáo dục đại học và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng giáo dục đại học.
2.1 Khái niệm về chất lượng giáo dục đại học
Khi nói đến một nền giáo dục người ta thường đề cập đến 2 mặt: Mặt chất lượng và mặt quy mô đào tạo. Chúng ta đã xem xét thế nào là quy mô đào tạo, còn chất lượng giáo dục sẽ được hiểu như thế nào? Hiện nay có rất nhiều quan điểm về chất lượng giáo dục đại học. Theo quan niểm của Hội đồng giáo dục UNESCO Paris họp ngày 5-9/10/1998 đã xác định: “Chất lượng giáo dục là một khái niệm đa chiều, bao chùm mọi chức năng và sự vận động của nó bao gồm: Nội dung tri thức giáo dục, các chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học, đội ngũ giáo viên, sinh viên, cấu trúc hạ tầng và môi trường học thuật”[2]. Tuy nhiên, cũng có thể quan niệm rằng: Nên xem chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu. Sinh viên tốt nghiệp từ một trường đại học là có chất lượng nếu như những mục tiêu của nhà trường đặt ra đối với sinh viên đều đạt được. Rõ ràng mục tiêu đặt ra cho sinh viên sẽ khác nhau ở một trường đại học quốc gia và một trường đại học miền núi. Đối với một nền giáo dục đại chúng quan niệm về chất lượng cũng khác với một nền giáo dục tinh hoa, dành cho số ít.
2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng giáo dục đại học
Không phải dễ dàng chúng ta lượng hoá được chất lượng của một nền giáo dục. Chất lượng giáo dục - đào tạo được thể hiện rõ ràng nhất là việc sinh viên sau khi tốt nghiệp có đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao động trong nước và quốc tế không? Họ có là những con người năng động, sáng tạo, tự chủ, có đầu óc phê phán, có năng lực giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, có khả năng tự học,tự nghiên cứu suốt đời...? Tuy nhiên thông qua một số chỉ tiêu sau đây sẽ phần nào đánh giá được chất lượng giáo dục của một quốc gia.
Chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo theo giáo viên.
Chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo theo chương trình đào tạo.
Chỉ số đánh giá năng lực đào tạo của nhà trường.
Các nhân tố tác động đến quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Hệ thống giáo dục đại học là một phân hệ trong hệ thống kinh tế - xã hội nên quy mô và chất lượng giáo dục đại học chịu sự tác động của các nhân tố sau:
1. Tốc độ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và cơ cấu kinh tế của quốc gia
Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao này là một trong những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến quy mô và chất lượng giáo dục đại học. Tốc độ phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và cơ cấu kinh tế của một quốc gia lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhu cầu nguồn lực này. Như vậy, có thể thấy đây là nhân tố tác động trực tiếp đến hai mặt của hệ thống giáo dục đại học.
Khi nền kinh tế - xã hội phát triển nhanh, tạo ra một khoảng nhu cầu to lớn nguồn nhân lực có trình độ cao. Điều đó thúc đẩy giáo dục không chỉ tăng về số lượng mà còn phải đảm bảo chất lượng để đáp ứng yêu cầu đó. Đồng thời khi một quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cũng đồng nghĩa với việc là họ sẽ có thêm các nguồn lực để tạo cơ sở kinh tế, vật chất tiềm năng cho việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Với tốc độ phát triển khoa học - công nghệ nhanh chóng như hiện nay và ngày càng nhanh hơn nữa trong tương lai đã làm cho rất nhiều ngành mới xuất hiện nhưng bên cạnh đó một số ngành không còn phù hợp nữa cũng không có chỗ để tồn tại. Điều đó phần nào tạo ra một sự chuyển dịch trong cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, qua đó mà ảnh hưởng đến ngành nghề đào tạo của nền giáo dục. Chúng ta cần ưu tiên phát triển các trường đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nhu cầu cấp thiết của các ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia như công nghệ thông tin, điện, điện tử, quản lý, kinh tế tài chính, sư phạm… đồng thời cũng cần xoá bỏ những ngành không còn thích hợp trong điều kiện mới nữa.
Một vấn đề hết sức phải lưu tâm là trong giáo dục đào tạo luôn luôn có một độ trễ nhất định do thời gian đào tạo quy định. Vì vậy, khi lập kế hoạch đào tạo, cần phải tính đến yếu tố này và có biện pháp khắc phục độ trễ. Nếu bỏ qua yếu tố này có thể dẫn đến tình trạng thất nghiệp, gây nhiễu cho kỳ sau hoặc có thể không đáp ứng nhu cầu, sẽ bỏ qua có hội tìm việc làm, làm giảm hiệu quả công tác giáo dục.
Quy mô dân số và tốc độ tăng dân số của một quốc gia
Quy mô giáo dục đại học của một quốc gia chịu nhiều sự chi phối khác nhau của các yếu tố dân số như quy mô dân số của quốc gia đó, những biến động về dân số (đặc biệt là những tốc độ phát triển dân số). Một nước có quy mô dân số lớn, thông thường số lượng sinh viên cũng lớn hơn rất nhiều một nước có quy mô dân số nhỏ. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này khi so sánh quy mô dân số và quy mô sinh viên của Trung Quốc (một nước có trên 1 tỷ dân) và Singarpo (một nước chỉ có vài triệu dân). Do đó mà người ta thường không dùng chỉ tiêu tuyệt đối (số lượng sinh viên, số lượng trường…) để đánh giá vào chỉ số tổng hợp của nền giáo dục.
Với một nước có tốc độ tăng dân số nhanh, hàng năm sẽ có thêm nhiều học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, và đương nhiên sẽ có thêm rất nhiều người có nguyện vọng được học đại học hoặc cao đẳng. Nếu như quy mô của các trường vẫn không được mở rộng, không có thêm các loại hình đào tạo, thì đương nhiên chúng ta sẽ dần không đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân. Và hơn nữa các chỉ tiêu tương đối của chúng ta về phản ánh quy mô cũng giảm một cách tương đối. Tuy nhiên cũng có một câu hỏi lớn đặt ra là, chúng ta sẽ mở rộng quy mô như thế nào trong mối quan hệ tương quan với tốc độ tăng dân số để đảm bảo các nguồn lực cho giáo dục đại học? Hơn nữa, sự phân bố dân cư và tình trạng kinh tế - xã hội của dân cư cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quy m ô và chất lượng giáo dục đại học.
3. Cơ chế quản lý giáo dục đại học tác động đến quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Thực tế cho thấy rằng, việc phát triển quy mô giáo dục đại học phự thuộc rất nhiều vào cơ chế quản lý, chính sách của Nhà nước. Quy mô đào tạo sẽ được mở rộng một cách nhanh chóng nếu Nhà nước có các chính sách cho phép nhiều thành phần kinh tế có thể tham gia vào lĩnh vực này và ban hành các văn bản với nội dung khuyến khích đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Tuy nhiên nếu như Nhà nước không có được sự quản lý hiệu quả thì dẫn đến tình trạng không đảm bảo về chất lượng giáo dục. Ngược lại, nếu như Nhà nước thấy rằng xã hội chưa có nhu cầu tăng thêm nguồn nhân lực trình độ và giành nguồn lực đầu tư cho các lĩnh vực khác. Khi đó, quy mô sẽ tạm thời được giữ nguyên, thậm chí là còn giảm nhưng Nhà nước cũng sẽ có những chính sách để nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, trong mỗi điều kiện nhất định, mỗi quốc gia cần có cơ chế quản lý thích hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của mình.
4. Các điều kiện sẵn có phục vụ cho giáo dục đại học
Các điều kiện sẵn có phục vụ cho giáo dục đại học bao gồm đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, tài chính cho giáo dục đại học. Những nhân tố này là cơ sở xác định quy mô đào tạo trong tương lai. Nó vừa phản ánh khả năng phát triển vừa là kết quả chiến lược của đầu tư cho phát triển giáo dục đại học. Mục tiêu của chúng ta là phải xây dựng được quy mô hợp lý, một quy mô có thể kiểm soát được chất lượng nhưng không để lãng phí các nguồn lực. Do đó chúng ta phải sử dụng các nguồn lực trên một cách hiệu quả nhất. Hay nói một cách khác, các điều kiện sẵn có và mức độ đáp ứng của chúng đến đâu thì chúng ta nên mở rộng quy mô đến đó để đảm bảo chất lượng.
III. Sự cần thiết phải giải quyềt bài toán giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế chung, một tất yếu khách quan. Việt Nam cũng đang đứng trước bối cảnh hội nhập và liên kết, dù có muốn hay không muốn chúng ta cũng phải hoà vào dòng chảy chung của thế giới. Để có thể đứng vững và khẳng định được mình chúng ta cần phải chuẩn bị nhiều yếu tố nhưng trong đó thì yếu tố con người là yếu tố có tính chất quyết định nhất. Chúng ta cần những con người có năng lực thực sự, sáng tạo, tự chủ, có nănglực tự học, tự nghiên cứu suốt đời, có khả năng tạo nghiệp. Những con người này sẽ là những chủ thể đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng thực trạng giáo dục đại học nước ta không phải không có những bất cập và ít nhiều ảnh hưởng đến việc phát triển nền giáo dục nước nhà. Như vậy, do những yếu tố chủ quan cũng như những yếu tố khách quan đòi hỏi sự cần thiết phải giải quyết bài toán về quy mô và chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá chúng ta cần có nguồn nhân lực trình độ cao, một nguồn nhân lực hướng vào nền kinh tế tri thức. Đó cũng là mục tiêu của chất lượng giáo dục đại học là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân lực tinh hoa. Đồng thời cũng cần phải tiến hành mở rộng quy mô giáo dục đại học. Mở rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu về nguồn lực đồng thời nó góp phần nâng cao dân trí. Do vậy, nếu chúng ta có thể huy động các nguồn lực thì không nên hạn chế việc tăng quy mô bằng các rằng buộc quá chặt chẽ và cứng nhắc.
Xuất phát từ yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế chung của thời đại, nó được thể hiện rõ nét thông qua những hiện tượng quy tụ các quá trình xuyên quốc gia, làm cho kinh tế,tư tưởng, văn hoá của các quốc gia thâm nhập lẫn nhau. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra cơ hội cho nước này thì đồng nghĩa với việc một quốc gia khác đang có những thách thức. Xét trên một khía cạnh nào đó, nếu như chất lượng giáo dục của Việt Nam ngày càng tốt hơn, bằng cấp của chúng ta được thế giới thừa nhận thì chúng ta sẽ thu hút không chỉ sinh viên trong nước mà còn thu hút được sinh viên ở các quốc gia khác đến theo học. Nếu nền giáo dục đại học trong nước vẫn chưa có giải pháp cụ thể để nâng cao hơn nữa chất lượng đại học thì ngay cả học sinh trong nước sẽ có xu hướng ra nước ngoài học tập nhiều bởi nguồn tài chính của họ có thể chấp nhận được mức học phí đó và họ mong muốn có một trình độ thực sự, có bằng cấp được các nước trên thế giới công nhận để có cơ hội có việc làm tốt hơn.
3. Do thực trạng còn nhiều bất cập của nền giáo dục nước ta
Trong những năm gần đây, nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học Việt Nam nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng đang có những vấn đề đang đặt ra: Cả quy mô và chất lượng giáo dục đại học đều chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của xã hội, chưa đáp ứng được như cầu phát triển nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam còn thiếu kinh phí cho giáo dục đại học, cơ sở vật chất còn hạn chế, còn tồn tại những bất cập trong hoạch định chính sách… Những điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giáo dục nước ta.
“Nhân tài là nguyên khí của quốc gia”, là nguồn lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của đất nước. Nếu như Việt Nam để xảy ra tình trạng thiếu nhân tài thì đó sẽ là nguy cơ lớn, thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
III. Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết bài toán quy mô và chất lượng giáo dục đại học
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trong những năm gần đây, giáo dục đại học ở Trưng Quốc phát triển nhanh chóng (chỉ tính 3 năm 1999 - 2001 tăng 90% về quy mô sinh viên)[2]. Nhà nước bằng nhiều chủ trương, bằng nhiều cách, bằng nhiều hình thức để phát triển mạnh giáo dục đại học, theo kịp sự phát triển của nền kinh tế và đáp ứng được nhu cầu học của các con em trong gia đình.
Cải cách cơ chế quản lý giáo dục đại học
Nhà nước chuyển giao phần lớn các trường đại học từ Trung Ương về cho các tỉnh, các thành phố quản lý. Trước đây, Bộ Giáo dục quản lý trực tiếp một số trường đại học; các bộ, các ngành khác của Trung Ương quản lý khoảng 350 trường đại học; 31 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương và khu tự trị quản lý khoảng 800 trường đại học. Thực hiện cải cách hành chính, một số bộ, ngành trung ương chuyển thành các tổng công ty hoặc sát nhập vào nhau. Các trường do các bộ, ngành này quản lý trước đây sẽ được chuyển giao về cho Bộ Giáo dục quản lý, một số còn lại và một số trường không trọng điểm do Bộ Giáo dục trực tiếp quản lý nay cũng được chuyển giao về cho các điạ phương quản lý. Hiện nay, toàn Trung Quốc chỉ còn khoảng 10, ngành trung ương quản lý khoảng gần 100 trường đại học, các trường còn lại đều được giao về cho các tỉnh, thành phố và các khu tự trị quản lý, kể cả một số thành phố thuộc tỉnh. Cách làm này đã tiếp thêm sức sống cho các trường đại học vì làm cho các trường có thêm sức ép nhưng lại có được nguồn kinh phí hỗ trợ từ địa phương.
1.2 Cải cách thể chế xây dựng các trường, phát triển mạnh các trường ngoài công lập.
Hơn 20 năm qua hệ thống giáo dục ngoài công lập của Trung Quốc phát triển nhanh. Đến cuối năm 2000, ở Trung Quốc đã có khoảng 54 300 trường ngoài công lập các cấp, các loại hình thu hút khoảng 7 triệu học sinh, sinh viên theo học. Đội ngũ giáo viên cơ hữu của các trường ngoài công lập khoảng 500 000 người. Trường ngoài công lập có ở các lĩnh vực giáo dục mầm non, người lớn, giáo dục đại học và giáo dục cơ sở. Nguồn vốn để xây dựng các trường ngoài công lập rất đa dạng: Có thể do các xí nghiệp, cũng có thể chỉ do các cá nhân xây dựng. Chính phủ chủ trương khuyến khích, giúp đỡ các trường ngoài công lập, hình thành cục diện các trường công lập, ngoài công lập phát triển trong hệ thống giáo dục quốc dân của Trung Quốc. Hiện Trung Quốc đang xúc tiến xây dựng Luật giáo dục ngoài công lập (bên cạnh đã có Luật giáo dục và Luật giáo dục cao đẳng). Riêng về các trường đại học và cao đẳng đến nay, Trung Quốc có khoảng1 280 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập (nhiều hơn số trường công lập). Quy mô của các trường này không lớn lắm( trường nhỏ nhất khoảng 200 sinh viên, trường lớn nhất có khoảng 14 000 sinh viên, thông thường có khoảng từ 1000 đến 3000 sinh viên). Các loại trường đại học và cao đẳng được chia ra làm 3 loại:
Loại được Nhà nước thừa nhận do bằng của trường cấp (chỉ có 77 trường, trong đó chỉ có 1 trường cấp bằng đại học, còn lại là cấp bằng cao đẳng)
Khoảng 300 trường, nếu muốn được Nhà nước cấp bằng, sinh viên phải qua kỳ thi quốc gia (10 môn). Nếu đạt thì được cấp bằng.
Hơn 800 trường còn lại, sinh viên vào học không phải qua thi quốc gia, có thể tự học ở nhà, qua mạng thông tin…Sinh viên muốn có bằng phải qua một kỳ thi do Nhà nước tổ chức, nếu đạt thì được Nhà nước cấp bằng. Nhìn chung chất lượng và quy mô của các trường ngoài công lập không bằng các trường công lập, nhưng nội dung giáo dục tiếp cận được với thị trường, đáp ứng được nhu cầu học tập của xã hội nên được xã hội hoan nghênh[2,tr283].
1.3 Cải cách thể chế đầu tư, thực hiện việc xã hội hoá khâu sinh hoạt trong các trường đại học
Trước đây các trường đại học của Trung Quốc như mộ xã hội thu nhỏ, có nhà ăn, ký túc xá, cả công an và bưu điện… Ngày nay, trường đại học chỉ đảm nhận chủ yếu khâu đào tạo và nghiên cứu khoa học, tách khâu sinh hoạt đưa vào xã hội: Giao cho các công tykinh doanh nhà đất, các điạ phương xây dựng các ký túc xá, cho sinh viên thuê để ở, nhà ăn trong nhà trường được đấu thầu để giảm giá thành và tách đội ngũ phục vụ nhà ăn khỏi đội ngũ biên chế hành chính của nhà trường. Sinh viên vào ở các ký túc xá do các công ty kinh doanh xây dựng nhà ở phải trả tiền nhưng với giá rẻ, các công ty này phối hợp với các nhà trường và địa phương quản lý sinh viên.
Cải cách chế độ thi tuyển sinh vào đại học
Trước đây tổ chức thi đại học một lần trong năm (vào các ngày 7, 8, 9 tháng 7 hàng năm), thi 5 - 6 môn thống nhất trong cả nước. Nay tổ chức thi hai lần trong một năm (vào mùa xuân và tháng 6 hàng năm), thi theo công thức 3 + X (3 môn thi bắt buộc: văn học, toán học và ngoại ngữ; còn X là tuỳ các môn theo ngành học lựa chọn, do các trường, các địa phương tự quyết định).
2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một quốc gia đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
Để thực hiện việc mở rộng quy mô một cách có hiệu quả, Hàn Quốc đã thực hiện chính sách đa dạng hoá và chuyên môn hoá các trường đại học. Nhà nước giao quyền tự chủ cho các trường để họ có thể linh hoạt trong soạn thảo chương trình đào tạo của mình cho phù hợp với những yêu cầu mới. Ngoài ra, Nhà nước còn cho phép tự chủ chỉ tiêu tuyển sinh và môi trường nghiên cứu trong các trường đại học. Thêm vào đó là các trường hoàn toàn có thể thiết kế quy trình tuyển sinh của mình cho phù hợp với điều kiện của từng trường. Chính phủ có thế trợ cấp cho các trường thông qua các khoản trợ cấp cho các giáo sư - những người có vai trò đặc biệt trong thúc đẩy các hoạt động. Các trường được quyền tự chủ và linh hoạt trong vấn đề về quản lý tài chính, kế toán nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tài chính, kế toán đã ban hành.
Với hàng loạt các chính sách giáo dục đại học như trên đã giúp cho Hàn Quốc thu hút ngày càng nhiều không chỉ sinh viên trong nước mà còn có rất nhiều sinh viên ngoại quốc theo học tại đây. Một trong những chỉ tiêu mà nhiều nước mong đạt được là tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân của Hàn Quốc ngay từ những năm 1994 là 4 930, xếp thứ 2 thế giới, chỉ sau Mỹ.
Không phải ngẫu nhiên người ta nói rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Chúng ta đã tìm hiểu, nghiên cứu các quốc gia có những giải pháp gì để phát triển nền giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong các điều kiện của Việt Nam thì nên chọn hướng đi nào cho phù hợp thì vẫn còn là một bài toán chưa có đáp số rõ ràng. Nên mở rộng quy mô, hay nên tập trung vào nâng cao chất lượng đào tạo, hay là phải tiến hành đồng thời cả hai…Nhưng trước hết chúng ta hãy nhìn vào thực trạng của nền giáo dục đại học Việt Nam để có những đáng giá về ưu điểm, cũng như những tồn tại, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại đó để làm cơ sở đề xuất cho các giải pháp ở phần tiếp theo.
Chương II
Thực trạng về quy mô và chất lượng giáo dục đại học
ở Việt Nam hiện nay
I. Khái quát về sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam
Trong những năm qua nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã có những bước phát triển to lớn, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới. Đến năm 2002, nước ta đã đào tạo được một lực lượng cán bộ có chuyên môn kỹ thuật gần 5 triệu người chiếm 13,5% tổng lao động xã hội đang làm việc trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân[11, tr17]. Nền giáo dục có nhiều chuyển biến, bước đầu tháo gỡ những khó khăn, khủng hoảng của những năm 1980. Mạng lưới hệ thống giáo dục được sắp xếp lại, tạo ra nhiều hình thức đào tạo thích hợp. Hệ thống các trường đại học và cao đẳng được tổ chức lại tại các trung tâm lớn của cả nước, của các vùng, các điạ phương. Tổng số trường đại học và cao đẳng trong cả nước hiện nay là 236 trường[6], quy mô sinh viên năm học 2004 – 2005 là 1 319 754tăng lên gấp 9,13 lần so với năm học 1990 - 1991. Quá trình phát triển đó đã phần nào đáp ứng được nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các chủ trương của Nhà nước như đa dạng hoá các loại hình đào tạo, xã hội hóa giáo dục đã giúp cho hệ thống giáo dục gắn liền hơn với sự phát triển của kinh tế - xã hội, các chương trình, nội dung và phương pháp đào tao phát huy tính năng động, sáng tạo và rèn luyện phẩm chất trong sinh viên, hướng tới mục tiêu đào tạo được những sinh viên có năng lực làm việc, có năng lực sống, ý chí và phương pháp sống, biết vượt lên phía trước bằng chính sức lao động của mình.
Giáo dục đại học Việt Nam đã hình thành rõ nét trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có những tồn tại trong hệ thống giáo dục đại học. [11, tr 18] Mạng lưới các trườngđại học và cao đẳngvà hệ thống các viện nghiên cứu khoa học tham gia đào tạo còn phân tán rời rạc do đó chưa tạo nên sức mạnh chung cho cả hệ thống. Việt Nam chưa có một trường đại học nào ngang tầm với các trường đại học danh tiếng trên thế giới. Hầu hết tất cả các trường tập trung ở các thành phố lớn làm cho một bộ phận sinh viên ở các vùng nông thôn hay các sinh viên ở miền ngược gặp nhiều khó khăn trong chi phí học tập và sau khi tốt nghiệp họ lại không muốn quay trở lại quê hương công tác khiến cho việc sử dụng nguồn nhân lực sau đào tạo không được hiệu quả, có nơi thì thiếu nguồn lực trình độ cao, có nơi thì sinh viên ra trường thất nghiệp rất nhiều. Hơn nữa, hiện nay quy mô của nhiều trường đại học còn tương đối nhỏ dẫn đến chi phí đào tạo trên một sinh viên còn tương đối cao. Nhiều trường còn đào tạo chuyên ngành hẹp, phương thức hoạt động chưa theo kịp với sự phát triển của kinh tế - xã hội, cũng như yêu cầu đổi mới trong giáo dục và đào tạo.
Năm học 1990 - 1991 có tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân là 22 người, đến năm 2004 - 2005, tỷ lệ này đã là 132 (tăng gấp 6 lần). Sinh viên của chúng ta ra trường đã đáp ứng được yêu cầu công việc và ngày càng có nhiều kỹ năng hơn. Đây là một bước nhảy vọt trong nền giáo dục nước nhà nhưng nếu so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới thì thấy rằng chúng ta còn phải nỗ lực hơn rất nhiều. Việc tăng quy mô và chất lượng giáo dục đại học để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hoá và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là mục tiêu chiến lược đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam, đây cũng là cơ sở tốt cho sự phát triển hệ thống giáo dục đại học trong bối cảnh nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế.
II. Thực trạng phát triển quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay
Để có cái nhìn tổng quan về thực trạng quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, chúng ta sẽ sử dụng hệ thống chỉ tiêu phản ánh quy mô và chất lượng giáo dục đại học để đánh giá thực trạng phát triển của giáo dục đại học, chỉ ra những ưu điểm cũng như những hạn chế trong mối quan hệ tương quan giữa quy mô và chất lượng giáo dục đại học hiện nay. Và để có thể có những đề xuất hữu hiệu thì việcchúng ta cũng ._.tìm những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Số lượng sinh viên được đào tạo
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước nhà bị khủng hoảng, đời sống của nhân dân vô cùng khó khăn. Số lượng học sinh ở các bậc học trung học phổ thông và trung học cơ sở đều có xu hướng giảm. Rất nhiều kế hoạch của hệ thống giáo dục đều không đạt được. Trong bối cảnh đó, mặc dù quy mô của giáo dục đại học không bị giảm sút một cách nghiêm trọng như các bậc học khác nhưng cũng không thể mở rộng quy mô và quy mô đào tạo của các trường còn rất khiêm tốn. Tuy nhiên, nhờ có các chính sách kịp thời của Nhà nước làm cho bức tranh giáo dục đại học lại khởi sắc ở giai đoạn từ năm 1990 trở lại đây.
Từ những năm 1990, nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, đời sống của nhân dân được nâng cao một bước thì yêu cầu về chấn hưng giáo dục nước nhà là một tất yếu của sự phát triển. Nhà nước có những cải cách lớn và đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo, trong đó các tư tưởng và định hướng lớn về phát triển giáo dục – đào tạo đã được nêu rõ ở nghị quyết Trung Ương lần thứ hai khoá VIII năm 1996 phù hợp với nền kinh tế đang chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó mà vấn đề quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng được xúc tiến thực hiện tích cực, kế hoạch hoá bắt đầu đã được thiết kế theo hướng linh hoạt, không còn cứng nhắc như trước nữa. Chính vì vậy, tình trạng yếu kém trong nền giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng ngày càng được khắc phục, rất nhiều mặt đã có những chuyển biến tích cực, tạo được xu thế phát triển đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Bảng 2.1: Số lượng sinh viên thời kỳ 1990 – 2005
Năm học
Tổng số sinh viên
(người)
Tốc độ phát triển hàng năm
(%)
1990 – 1991
144 500
-
1999 – 2000
893 745
11, 86
2000 – 2001
918 228
2, 74
2001 – 2002
917 420
0, 99
2002 – 2003
1 020 668
11, 26
2003 – 2004
1 032 441
1, 15
2004 – 2005
1 319 758
27, 83
Nguồn: [7], [11, tr20], [15]
Qua bảng trên ta thấy rằng; Năm học 1990 - 1991, tổng sinh viên trong cả nước là 144 500 sinh viên thì đến năm học 2004 - 2005, tổng số sinh viên là 1 319 758, tăng 9, 13.lần, nghĩa là trung bình mỗi năm tăng 15,88%. Tuy nhiên tốc độ tăng của các năm cũng có sự khác biệt. Trong những năm học từ 1990 đến 1999, tốc độ tăng là 18, 65%/năm, nhưng tốc độ tăng của những năm học từ năm 2000 đến 2005 là 7,52%/năm. Một trong những lý do có thể giải thích hiện tượng trên là trong những năm đầu của thập kỷ 90, trước sức ép của việc giảm quy mô giáo dục đại học, Nhà nước đã có nhiều chính sách, nhiều biện pháp để mở rộng quy mô của hệ thống này, như cho phép thành lập nhiều các trường đại học mở, các trường dân lập. Nhưng đến những năm gần đây, ngoài việc mở rộng quy mô, Nhà nước còn chú trọng đến chất lượng đào tạo, việc giải quyết bài toán giữa số lượng và chất lượng giáo dục ngày càng trở nên cấp thiết.
Về phương thức, loại hình đào tạo cũng không ngừng được mở rộng. Ngoài các hình thức đào tạo truyền thống, hiện nay giáo dục đại học còn mở rộng ra cho nhiều đối tượng với nhiều hình thức đào tạo khác nhau, bên cạnh các trường đại học, cao đẳng công lậo đào tạo sinh viên chính quy còn có các trường dân lập, các đại học mở và hiện nay còn có các hình thức đào tạo văn bằng hai, đào tạo từ xa…Sự đa dạng của các phương thức đào tạo đã thu hút được số lượng lớn người lao động và thanh niên thuộc các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào hoạt động giáo dục đại học.
Bảng 2.2: Cơ cấu sinh viên thời kỳ 1990 – 2004
Năm học
Tổng số sinh viên (Người)
Trong đó
Dài hạn tập trung
Tại chức và các hệ khác
1990 – 1991
144 500
94 448
50 047
1999 – 2000
893 745
509 638
384 117
2000 – 2001
918 228
552 462
428 766
2001 – 2002
917 419
579 198
394 921
2002 – 2003
1 020 667
604 397
419 270
2003 – 2004
1 032 440
653 719
379 721
Nguồn: [7], [11, tr20], [15]
Dựa vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng, sinh viên hệ tại chức và các hệ khác có xu hướng tăng nhanh hơn sinh viên dài hạn tập trung, điều đó cũng là phù hợp với chính sách đa dạng hoá giáo dục đại học của chúng ta. Tuy nhiên, hiện nay ở các trường đại học và cao đẳng số lượng sinh viên theo học hệ công lập còn cao hơn rất nhiều so với hệ ngoài công lập. Chúng ta có thể hình dung rõ nét hơn khi quan sát hình vẽ sau.
Hình 2.1: Quy mô sinh viên các năm học 2001 – 2004
Nguồn: [7], [11, tr21], [15]
Chúng ta khẳng định rằng, hiện đang tồn tại một hiện tượng thực tế quy mô giáo dục đại học ngày càng được mở rộng ở cả hai loại hình đào tạo trong khi các nguồn lực của Nhà nước vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu của việc mở rộng quy mô này. Chính vì vậy mà xã hội hóa giáo dục đại học được xem như một giải pháp chiến lược trong bài toán đầu tư, nhưng trên thực tế ngay cả người đi học cũng chưa thể có đủ bù đắp cho những chi phí của hoạt động đào tạo. Trong hoàn cảnh như thế, mỗi trường sẽ tìm lấy một con đường đi riêng, phù hợp với điều kiện của trường mình ở những khía cạnh khác nhau, ở những nội dung khác nhau. Trong đề tài này chỉ xin được nghiên cứu số lượng các trường và cơ cấu các trường đại học và cao đẳng đã và đang đáp ứng như thế nào nhu cầu nguồn nhân lực trình độ cao và nhu cầu học tập ngày càng tăng của các tầng lớp nhân dân.
Số lượng các trường đại học và cao đẳng
Tính đến tháng 5 năm 2005, cả nước có 236 trường đại học và cao đẳng. So với năm học 1998 – 1999, số lượng trường đại học và cao đẳng trong đã tăng lên 38,7% (năm học 1998 – 1999 có 170 trường).
Bảng 2.3: Số lượng các trường đại học và cao đẳng
Đơn vị tính: Trường
Năm học
Tổng số trường
Cao đẳng
Đại học
Số lượng
(Trường)
TĐPT
(%)
Số lượng
(Trường)
TĐPT
(%)
Số lượng
(Trường)
TĐPT
(%)
2000 - 2001
178
-
104
-
74
-
2001 - 2002
191
7,31
114
9,61
77
4,06
2002 - 2003
202
5,77
121
6,13
81
5,18
2003 - 2004
214
5,95
127
4,94
87
7,41
Nguồn:[11,tr22], [15]
Trong những năm qua, cùng với xu hướng chung của nền giáo dục nước nhà là tăng nhanh các cơ sở giáo dục, số lượng các trường đại học và cao đẳng cũng tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là số lượng các trường cao đẳng. Số lượng các trường này tăng nhanh là do việc nâng cấp các trường trung học sư phạm ở các tỉnh thành các trường cao đẳng sư phạm để mỗi một tỉnh có một trường sư phạm bảo đảm nhu cầu giáo viên cho các địa phương. Ngoài ra, Nhà nước còn chủ trương thành lập các trường cao đẳng cộng đồng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho địa phương và sử dụng ngân sách của địa phương.
2. So sánh sự phát triển quy mô giáo dục đại học ở nước ta trong thời gian qua với yêu cầu đào tạo đại học trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Để so sánh sự phát triển quy mô giáo dục đại học ở nước ta trong thời gian qua với yêu cầu đào tạo đại học trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta sẽ căn cứ vào các chỉ tiêu tương đối phản ánh quy mô.
Các chiến lược gia về giáo dục trên thế giới thường dựa vào tỷ lệ sinh viên so với số thanh niên ở độ tuổi đại học của một nước (còn gọi là tỷ số độ tuổi) để xác định quy mô giáo dục của quốc gia đó. Nền giáo dục đại học được xem là dành cho số ít khi tỷ lệ này nhỏ hơn 15%, được xem là đại chúng hoá khi tỷ số đó đạt trong khoảng từ 15 đến 50% và nền giáo dục được gọi là phổ cập hoá khi tỷ lệ này đạt trên 50%[11,tr24]. Tỷ số độ tuổi của Canada và Mỹ là trên 80%; ở Hàn Quốc là 70%, ở khối các nước OECD là trên 50%. Hơn nữa theo quan niệm hiện nay, giáo dục đại học dành cho số ít chỉ thích hợp với nền kinh tế nông nghiệp, giáo dục đại chúng hoá hướng đến nền kinh tế công nghiệp. Tỷ số độ tuổi của Việt Nam đến năm 2004 là 8%, còn cách khá xa so với nền giáo dục đại chúng và chúng ta cũng đang hướng đến một nền kinh tế công nghiệp, sau đó là nền kinh tế tri thức nên không phải lo lắng về việc mở rộng quy mô sinh.
Trong những năm qua, có rất nhiều người cho rằng, chúng ta đã thừa lao động được đào tạo ở bậc đại học. Nhưng những số liệu dưới đây lại cho chúng ta một nhận định khác.
Hình 2.2: Tỷ lệ sinh viên trên tổng số lao động
Nguồn: [11,tr25], [15]
Nhìn vào hình vẽ trên chúng ta thấy rằng tỷ lệ sinh viên/tổng lao động xã hội của Việt Nam trong những năm qua còn rất thấp. Trong khi tốc độ phát triển kinh tế của đất nước ra đang tăng. Có nhiều ngành nghề mới được tạo ra và trong mỗi ngành nghề cũng đòi hỏi trình độ lao động ngày càng cao. Tỷ lệ sinh viên/tổng lao động xã hội quá thấp (0,025%) sẽ làm cho đội ngũ lao động trình độ cao khi tham gia vào các hoạt động kinh tế cũng thấp tương ứng như vậy. Điều này gây lên khó khăn không nhỏ cho Việt Nam trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Giáo dục đại học không chỉ đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của đất nước mà còn phải đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Mỗi mùa tuyển sinh, sức ép về chỉ tiêu lại đặt lên vai các trường cũng như các sinh viên. Nhu cầu học tập của nhân dân là rất lớn, nhưng trong điều kiện hiện tại, nguồn lực của chúng ta có hạn nên khả năng đáp ứng còn hạn chế và áp lực là điều không thể tránh khỏi. Mỗi năm Việt Nam đã tăng quy mô khoảng từ 5 đến 6% nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu học tập đó. Bằng chứng là chỉ có khoảng 20% trong số hàng triệu các thí sinh dự thi trúng tuyển và được theo học ở các trường mà mình đã lựa chọn, số còn lại có thể chấp nhận học nghề nhưng hiện nay cũng không ít gia đình cho con em của mình đi du học vì ở đó không cần phải thi cử quá khó khăn phức tạp, nhà trường sẵn sàng tiếp nhận sinh viên nếu như họ chứng minh được tài chính.
Bảng 2.4: Tỉ lệ sinh viên trên một vạn dân
Nước
Việt Nam
Trung Quốc
Hàn Quốc
Thái Lan
Malasia
Số sinh viên/ 1 vạn dân
123
(2003)
378
(1994)
4930
(1994)
2167
(1994)
885
(1993)
Nguồn: [2], [11,tr28]
So sánh với các nước và trong khu vực thấy rằng tỷ lệ sinh viên/ một vạn dân của Việt Nam còn thấp. Mà chỉ tiêu này phần nào phản ánh chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia, nó liên quan chặt chẽ tới tăng trưởng kinh tế nên việc tiếp tục phát triển quy mô các trường đại học vẫn rất cần thiết.
3. Thực trạng chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
Trên thực tế chúng ta đang đứng trước một mâu thuẫn: một mặt cần hội nhập với khu vực và trên thế giới, nghĩa là cần chất lượng ở mức độ cao, mặt khác khó có thể đưa ra một yêu cầu cao cho nền giáo dục Việt Nam trong bối cảnh kinh tế - xã hội như hiện nay. Cuối cùng cần phải nhìn nhận đúng thực chất của chất lượng giáo dục đại học để có biện pháp khắc phục những điều chưa tốt, phấn đấu tiến tới ngang bằng các nước tiên tiến nhưng không tách khỏi thực tế Việt Nam.
3.1 Chỉ số đánh giá chất lượng đào tạo theo chương trình đào tạo.
Có thể nói rằng chương trình đào tạo là một yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng đào tạo. Tuy nhiên hiện nay chương trình đào tạo của Việt Nam cũng đang có nhiều bất cập và việc sửa đổi đã và đang được tiến hành nhưng chưa thực sự có hiệu quả. Chẳng hạn giảng dạy các môn khoa học xã hội trong các trường công nghệ. Việc giảng dạy các môn triết học, kinh tế chính trị v.v…trong các trường đại học công nghệ là cần thiết nhưng không thể với số lượng giờ quá nhiều trong tương quan với các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật vì mục tiêu chính của các trường này là dạy công nghiệ. Khi họp Hội đồng tư vấn về sửa đổi chương trình cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, hầu hết các uỷ viên Hội đồng đều có ý kiến là giảm bớt số giờ các môn khoa học xã hội nhưng cuối cùng là kết quả không thay đổi. Tương tự như vậy đối với các môn khoa học cơ bản. ý kiến chung là cần tăng cường khoa học cơ bản nhưng cuối cùng lại giảm số giờ với lý do đơn giản nhưng không khoa học là tổng số giờ của hai năm học cơ sở là không đổi, việc tăng giờ của các môn khoa học xã hội phải dẫn đến việc giảm giờ của các môn khoa học cơ bản.
Trong những năm qua chúng ta đã có nhiều cải cách trong chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, xét trên một khía cạnh nào đó thì chúng ta chưa có cái nhìn đúng mức đối với chương trình học, đó là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều người đặt dấu hỏi về chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
3.2 Chất lượng đào tạo theo giáo viên.
Cùng với chương trình học, vấn đề giáo viên là vấn đề hết sức quan trọng. Thầy giáo là người thực hiện chuyển tải nội dung chương trình học tới sinh viên. Tuy nhiên với quy mô như hiện nay, đội ngũ giáo viên của chúng ta còn thiếu về số lượng và chất lượng cũng còn nhiều vấn đề tranh luận. Đội ngũ các giảng viên có kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy tốt thì không có thời gian cập nhật kiến thức. Quản lý công việc giảng dạy đối với giáo viên còn lỏng lẻo. ở đâu đó vẫn còn hiện tượng giáo viên bỏ giờ, bỏ lớp. Điều đó không thể không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
3.3 Chất lượng đào tạo đánh giá theo sinh viên
Chưa có việc điều tra đầy đủ về sinh viên để có cơ sở đánh giá chất lượng đào tạo. Hiện nay chất lượng sinh viên chỉ được đánh giá thông qua nhận xét của các thầy cô giáo. Tuy các nhận xét định tính nhưng nó thể hiện những điều rất quan trọng về chất lượng sinh viên: trình độ đầu vào của một số trường còn thấp, lười học, quay cóp khi thi, kiểm tra; việc quy chế cho phép một sinh viên thi lại quá nhiều lần đối với một môn học v.v…
Tuy chất lượng đào tạo đại học còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: điều kiện học tập của sinh viên, tài liệu, các thiết bị thực hành, nơi thực tập… phụ thuộc vào phương pháp giảng dạy của giáo viên và phương pháp học tập của sinh viên nhưng các yếu tố về chương trình đào tạo, về giáo viên và sinh viên vẫn là nhữn yếu tố quan trọng nhất và đây là những vấn đề cần được giải quyết trước.
4. Những giải pháp Việt Nam đã áp dụng để phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học trong thời gian qua.
Tại Hội nghị các trường đại học và cao đẳng tháng 8/1993, Bộ Giáo dục và Đào tạo có các chủ trương về mở rộng quy mô đào tạo: “Thực hiện đồng bộ các biện pháp để tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục đại học, đồng thời đảm bảo chất lượng đào tạo”. Để có thể thực hiện đồng bộ các biện pháp, Bộ đã thống nhất lại khái niệm: "Trong hệ thống đại học có hai loại hình cơ bản là loại hình tập trung (hệ chính quy dài hạn tập trung truyền thống) và loại hình không tập trung (gồm tại chức, đại học mở, từ xa, bán thời gian, tự học thi lấy chứng chỉ tích luỹ rồi lấy bằng...) và có hai trình độ chuẩn là đại học và cao đẳng.
Các biện pháp đồng bộ để phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng đào tạo bao gồm các vấn đề sau [11,tr30]:
Mở rộng quy mô đào tạo đại học gắn liền với tăng số lượng các cơ sở đào tạo cao đẳng thực hành. Theo phân loại của UNESCO và Ngân hàng thế giới, các trường trung học chuyên nghiệp của Việt Nam tuyển học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học vào học, về hình thức, chúng được xếp trong khu vực cao đẳng. Tuy nhiên, về mục tiêu và nội dung chương trình đào tạo thì chúng còn ở dưới mức độ đó. Hiện nay ở nước ta rất thiếu các cơ sở đào tạo nhân lực có trình độ cao đẳng thực sự và điều này tạo ra mất cân đối nghiêm trọng giữa các thành phần cán bộ có trình độ sau trung học (cán bộ có trình độ đại học nhiều hơn cán bộ có trình độ cao đẳng, trong khi ở các nước, tỷ lệ này thường là 1/1). Nhằm khắc phục sự mất cân đối đó, cần xác định mục tiêu và nội dung, chương trình đào tạo kỹ thuật viên bậc cao và nhanh chóng chuyển những trường THCN mạnh lên bậc cao đẳng.
Các trường (bao gồm đại học cơ bản, đại học chuyên ngành, cao đẳng cơ bản, cao đẳng chuyên ngành và trung học chuyên nghiệp) liên kết với nhau thành từng cụm theo khu vực. Chỉ tiêu tuyển sinh tối đa vào mỗi trường đại học sẽ được xác định riêng rẽ cho từng giai đoạn. Vì công suất đào tạo ở mỗi trường không giống nhau ở hai giai đoạn, nên để đảm bảo không có tình trạng thải loại sinh viên một cách ồ ạt sau giai đoạn I. Chỉ tiêu tuyển sinh tối đa cần được xác lập theo khă năng đào tạo chung của từng cụm trường liên kết.
Chế độ học bổng, học phí cần được xây dựng lại để phù hợp với những quyết định mới của chính phủ về chủ trương mở rộng quy mô đào tạo đại học. Cùng với việc thực hiện chế độ học phí, học bổng mới, Bộ sẽ bàn với các ngành nghiên cứu thực hiện chế độ "Tín dụng trường học" giúp đỡ các sinh viên nghèo, các sinh viên gặp khó khăn có điều kiện học tập.
Bộ đã trình chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã cho phép thành lập đại học mở bán công thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở Viện đào tạo mở rộng II thành phố Hồ Chí Minh; Bộ đã trình Chính phủ và Thủ tướng cho phép thành lập Viện đại học Mở Hà Nội.
Phát triển hệ thống đại học dân lập, tư thục. Nghị quyết Trung ương 4 về giáo dục đã công nhận sự tồn tại của các loại trường đại học dân lập và tư thục, và quy chế về đại học tư thục đã được Nhà nước ban hành, với ý định hệ thống này sẽ bổ sung cho hệ thống đại học công lập nhằm thoả mãn yêu cầu quá lớn của nhân dân về chỗ học. Điều đang quan tâm là ở nhiều nước, chi phí đơn vị ở các trường đại học công lập thường bằng 30 đến 50% chi phí đơn vị ở các trường đại học không công lập. Bộ sẽ cho phép mở trường và không bóp nghẹt những sáng kiến riêng, mặt khác vẫn có thể kiểm soát chặt chẽ về mặt chất lượng đầu vào và hoạt động tài chính của những trường đó.
III. Đánh giá thực trạng quy mô và chất lượng giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian qua
1. Những ưu điểm trong phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
Trong thời gian qua quy mô giáo dục đại học Việt Nam tăng lên nhanh chóng, với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 15,58%. Số lượng sinh viên, số lượng các trường đại học và cao đẳng trong cả nước tăng nhanh kéo theo sự tăng lên về các chỉ tiêu tương đối như tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân, tỷ lệ sinh viên trên tổng số lao động xã hội, tỷ lệ sinh viên trên số dân trong độ tuổi. Những con ố này phần nào đã đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô giáo dục đại học trong thời gian qua.
Việc mở rộng quy mô giáo dục đại học trong mối quan hệ với đảm bảo chất lượng đào tạo trong những năm qua đã góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực trình độ cao cho hầu hết các ngành, các lĩnh vực của cả nước, cung cấp nguồn nhân lực có kỹ năng, có trình độ và tạo được cơ hội học tập đại học cho đông đảo tầng lớp nhân dân.
Các chỉ số về chất lượng và số lượng giáo dục ngày càng tăng đã làm cho chỉ số giáo dục đại học tổng hợp của nước ta ngày càng xích lại gần hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Những tồn tại trong phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian qua.
Mặc dù, hàng năm quy mô đại học trong cả nước tăng khoảng5 đến 7% nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được yêu cầu học tập của nhân dân. Hàng năm , còn có một số lượng lớn học sinh quyết định theo học đại học tại các trường đại học ở nước ngoài. Tất nhiên, có rất nhiều lý do để họ đưa ra quyết định của mình, nhưng xét trên tẫm vĩ mô, liệu có phải giáo dục đại học của chúng ta về quy mô cũng như chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Mục tiêu của giáo dục đại học là “đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” nhưng nhìn nhận một cách khách quan thì chúng ta chưa đạt được mục tiêu đó.
Để mở rộng quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, Nhà nước đã tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường đại học nhưng hiện tại vẫn còn đang có những bất cập trong việc phân loại trường và phân bố các trường trên các vùng lãnh thổ trong cả nước. Những vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu để đưa ra phương án tối ưu nhất.
Nguyên nhân của những tồn tại
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại của nền giáo dục đại học nước nhà, có những nguyên nhân chính và những nguyên nhân phụ, có những nguyên nhân từ phía Nhà nước, cũng có những nguyên nhân từ phía Nhà trường, thậm chí còn có các nguyên nhân từ phía học sinh. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể hơn từng nhóm nguyên nhân cơ bản.
3.1 Các nguyên nhân từ phía Nhà nước
3.1.1 Cơ chế quản lý giáo dục đại học chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng đào tạo.
Cơ chế quản lý đại học trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với những yêu cầu mới. Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã bắt đầu khởi động theo hướng tự chủ hơn, linh hoạt hơn để đón nhận những cơ hội cũng như những thách thức mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó cơ chế quản lý giáo dục vẫn còn những vấn đề tồn tại như Nhà nước chưa thực sự trao quyền tự chủ cho các trường. Bộ Giáo dục và đào tạo còn can thiệp sâu vào các hoạt động tác nghiệp của Nhà trường như công tác tuyển sinh, chương trình đào tạo. Nhà nước cũng chưa đưa ra được mức thù lao thoả đáng cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên.
Nhà nước đã có các chính sách về đa dạng hoá giáo dục đại học nhưng chưa tạo ra được sự bình đẳng giữa các trường, đặc biệt là giữa các trường công lập và các trường ngoài công lập.
3.1.2 Công tác dự báo quy mô giáo dục đại học chưa tốt.
Phát triển quy mô đến mức độ nào thì hợp lý, vẫn đảm phát triển quy mô đến mức độ nào thì hợp lý, vẫn đảm bảo chất lượng đào tạo mà không lãng phí các nguồn lực. Để làm được điều đó cần phải dự báo được quy mô sinh viên trong một thời gian tương đối dài, từ đó tìm ra các mục tiêu và cách thức thực hiện có hiệu quả. Nhưng trong thời gian qua, việc dự báo quy mô giáo dục đại học trên quy mô cả nước chưa được thực hiện có chất tốt. Điều đó làm cho việc hoạch định chính sách của Nhà nước đôi chỗ còn lúng túng. Đây cùng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến giáo dục đại học Việt Nam.
3.1.3 Tỷ trọng chi Ngân sách Nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học.
Tỷ trọng chi Ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học trong những năm qua được thể hiện rõ nét thông qua hình sau: (đơn vị: tỷ đồng)
[
HinđhHìHIHiHình 2.3: Chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học
Nguồn: [15]
Qua hình vẽ trên ta thấy rằng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời gian qua đã tăng tương đối nhanh về cả số tuyệt đối và số tương đối. Nhà nước đã quan tâm đúng mức đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Tuy nhiên nếu như so sánh với tốc độ tăng quy mô và các yêu cầu về đảm bảo chất lượng đào tạo thì ngân sách Nhà nước hàng năm mới chỉ đáp ứng được khoảng hơn 60% yêu cầu chi cần thiết.
Theo kết quả nghiên cứu phối hợp giữa Ngân hàng thế giới, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính, tổng cục thống kê, Bộ giáo dục và đào tạo, thực tế chi phí chó một sinh viên/ năm của năm học 2004 như sau:
Số tiền chi thực tế cho một sinh viên : 4 205 000đ
Ngân sách Nhà nước chi : 2 691 200đ chiếm 64%
Dân đóng góp : 1 513 000đ chiếm 36%
Qua những số liệu trên thấy rằng mặc dù ngân sách Nhà nước chi thực tế cho giáo dục đại học có tăng lên đáng kể nhưng số tiền chi thực tế cho một sinh viên ở Việt Nam hiện còn rất thấp. Nếu như đem so sánh với các nước khác thì con số này còn khiêm tốn hơn nữa. Điều đó một lần nữa khẳng định rằng, các nguồn lực của chúng ta còn hạn chế. Nhà nước chăm lo đến sự nghiệp giáo dục nhưng với điều kiện như hiện nay thì cần phải huy động các nguồn khác ngoài ngân sách Nhà nước, đặc biệt là các nguồn từ cộng đồng xã hội.
3.1.4 Hợp tác quốc tế chưa được mở rộng tương xứng với yêu cầu hội nhập giáo dục đại học
Việt Nam đã cho phép thành lập các trường đại học có vốn nước ngoài trên cơ sở chính sách xã hội hoá giáo dục đào tạo, đã thực hiện nhiều chương trình liên kết đào tạo với nhiều nước nhưng chúng ta chưa quảng bá được nền giáo dục đại học của nước ra trên thế giới.
Việc sử dụng các nguồn viện trợ thông qua các chương trình hợp tác song phương và đa phương, với các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi Chính phủ có lúc, có nơi còn sử dụng chưa đúng mục đích, gây lãng phí, làm giảm nguồn lực cho việc phát triển giáo dục đại học. Hơn nữa, hợp tác quốc tế không đồng đều giữa các bậc học và các vùng trong cả nước. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm quan hệ quốc tế tuy đã được quan tâm nhưng còn vẫn còn nhiều bất cập trong vấn đề năng lực công tác.
3.2 Nguyên nhân từ phía Nhà trường
3.2.1 Cơ sở vật chất của nhiều trường đại học chưa đáp ứng được yêu cầu của quy mô và đảm bảo chất lượng đào tạo.
Hiện nay, ngay cả các trường được đánh giá là vào loại hiện đại nhất Việt Nam cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của các nước trong khu vực và trên thế giới. ở hầu hết các trường đại học và cao đẳng trên cả nước, quy mô trung bình một lớp học khoảng từ 50 đến 55 sinh viên. ở đây gần như là không có các phòng học nhỏ (trừ một số trường đào tạo chuyên ngành ngoại ngữ và chuyên ngành nghệ thuật). Do vậy mà hệ thống các phòng học cũng được xây dựng theo quy mô trên. Đại đa số các trường chưa có hệ thống trang thiết bị học tập hiện đại như máy tính, đèn chiếu, màn ảnh cố định…Hệ thống tra cứu thông tin trên thư viện và trên Internet còn rất hạn chế. Chính vì vậy mà cũng khó có thể áp dụng phương pháp dạy mới, học mới trong các trường đại học.
Thêm vào đó các điều kiện vật chất đảm bảo sinh hoạt hàng ngày như nhà ăn, ký túc xá, các khu sinh hoạt tập thể còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của sinh viên. Đây không phải là những nhân tố quyết định nhất nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của mỗi sinh viên.
3.2.2 Đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu về quy mô và chất lượng giáo dục đại học
Trong những năm qua đội ngũ giáo viên các trường đại học và cao đẳng trong cả nước đã góp phần to lớn vào sự nghiệp “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đặc biệt, đội ngũ giảng viên trẻ ngày càng trưởng thành về chuyên môn cũng bản lĩnh chính trị vững vàng, lối sống phù hợp.
Bảng 2.5: Số lượng giáo viên đại học giai đoạn 2000 - 2004
Đơn vị tính: Người
Năm
Tổng
Đại học
Cao đẳng
Công lập
Ngoài công lập
Công lập
Ngoài công lập
2000 - 2001
32 204
20 324
4 037
7364
479
2001 - 2002
35 938
21 617
3 928
9 802
591
2002 - 2003
38 609
22694
4 698
10 653
562
2003 - 2004
39 984
24 094
4 341
10 822
731
Nguồn: [11, tr35]
Theo tính toán, tốc độ tăng trung bình hàng năm số lượng giáo viên là 5,7% và một điều dễ dàng nhận thấy khi quan sát bảng số liệu trên là số lượng giáo viên làm việc trong các trường công lập nhiều hơn ở các trường ngoài công lập rất nhiều nhưng ở các trường ngoài công lập lại có xu hướng tăng nhanh hơn.
Hiện nay, số lượng giảng viên có trình độ chuyên môn cao (nhất là các cán bộ giảng dạy có trình độ thạc sỹ) và có học hàm ngày càng tăng nhanh, nhưng với một cơ cấu không đồng bộ giữa các trường đại học và cao đẳng. Nhận định này sẽ được thể hiện rõ hơn trong bảng số liệu dưới đây.
Bảng 2.6 : Bảng số lượng giảng viên phân theo trình độ chuyên môn và học hàm
Đơn vị tính: Người
ơ
Năm học
Đại học
Cao đẳng
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Giáo sư
Phó giáo sư
Tiến sĩ
Thạc sĩ
Giáo sư
Phó giáo sư
2001- 2002
4 813
7 584
303
1 160
158
1960
3
11
2002- 2003
5 287
8 327
1 310
319
190
2274
20
5
2003- 2004
5 180
9 211
1 384
298
183
2509
23
4
Nguồn: [15]
Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ giáo viên vẫn còn thiếu hụt lớn về số lượng. Trung bình trên cả nước tỷ lệ giáo viên/sinh viên là 1/27, ở một số trường tỷ lệ này là 1/100. Đây là một điểm đáng lo ngại cho nền giáo dục đại học nước ta. Nhiều giảng viên, nhất là các giảng viên có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cao, cần giảng dạy cho đối tượng sinh viên, cao học, nghiên cứu sinh, các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các đối tượng ở các cơ sở giáo dục khác. Vì thế họ không có thời gian bồi dưỡng nâng cao trình cao và năng lực mọi mặt. Tri thức của giảng viên không được bổ sung, nâng cao, phát triển, đương nhiên sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy và giáo dục của giảng viên cũng như chất lượng học tập các môn học của sinh viên.
3.2.3 Quy trình, nội dung phương pháp đào tạo đại học còn mang nặng nét truyền thống
Phần lớn các chương trình đào tạo ở các trường đại học và cao đẳng đều chậm được đổi mới. Trong khi thực tiễn cuộc sống thay đổi hàng ngày mà nhiều chương trình còn được giữ nguyên nội dung cách đây hàng 5, 10 năm. Chương trình đào tạo cho sinh viên còn nhiều lý thuyết, chưa đảm bảo nguyên tắc học đi đôi với hành. Sinh viên tốt nghiệp ra làm việc hầu như đều thiếu các kỹ năng làm việc độc lập, thiếu kinh nghiệm và thiếu kiến thức. Tuy vấn đề này phụ thuộc vào cả ý kiến chủ quan của cá nhân mỗi sinh viên nhưng chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy cũng ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng sinh viên khi ra trường.
3.2.4 Việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước của nhiều trường đại học và cao đẳng chưa thực sự có hiệu quả để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo.
Thực tế cho thấy nhu cầu tài chính cho giáo dục đại học không thể đảm bảo được từ nguồn ngân sách Nhà nước mà phải huy động từ các nguồn khác nhau trong xã hội theo xu hướng xã hội hoá hoạt động giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, việc khai thác các nguồn ngoài ngân sách nhà nước còn rất hạn chế. Nguồn thu từ các hoạt động của Nhà trường từ đào tạo, nghiên cứu khoa học chưa thực sự gắn với xã hội và sản xuất, đồng thời việc phát triển các doanh nghiệp trong các Nhà trường chưa được đẩy mạnh trong khi việc tham gia vào sản xuất của cải vật chất và vai trò của Nhà trường là trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, trong những năm tới sẽ làm tăng thêm các nguồn thu cho các trường, đặc biệt là các trường đào tạo kĩ thuật.
Trên đây là những nguyên nhân chính dẫn đến những tồn tại trong việc phát triển giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian qua. Cần có những biện pháp gì để tháo gỡ những nguyên nhân trên? Chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này trong chương tiếp theo.
Chương III
Những định hướng và giải pháp nhằm
mở rộng quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học
Việt Nam đến năm 2015
I. Các quan điểm và định hướng phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đến năm 2015
1. Các quan điểm về phát triển quy mô và đảm bảo chất lượng giáo dục đại học.
Một trong những quan điểm về phát triển quy mô giáo dục đại học là phải tăng số lượng sinh viên, số lượng các trường học bằng cách đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Ngoài hệ thống các trường đại học công lập truyền thống có thể mở rộng hệ thống._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0203.doc