Giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010

Tài liệu Giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010: môc lôc LỜI CẢM ƠN 1 BẢNG LIỆT KÊ CÁC TỪ VIẾT TẮT 2 BẢNG BIỂU 3 LỜI MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 6 I. QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO 6 1. Quan niệm chung 6 2. Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam 9 II. XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 10 1. Khái niệm 10 2. Vai trò của công tác xoá đói giảm nghèo 10 2.1. Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế 11 2.2. Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội 11 2.3. Xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề chính trị, an ni... Ebook Giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1760 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh, xã hội .12 2.4. Xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề văn hoá 12 III. C¸c chuÈn ®ãi nghÌo 12 1. ChuÈn ®ãi nghÌo quèc tÕ 13 2. ChuÈn ®ãi nghÌo cña ViÖt Nam 13 3. ChuÈn ®ãi nghÌo cña tØnh Hµ TÜnh 15 IV. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HỘ ĐÓI NGHÈO 15 IV.1. Nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo 15 Đói nghèo do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ 15 1.1. Gia đình đông con ít lao động 15 1.2. Thiếu vốn hoặc không có vốn để kinh doanh, chi tiêu không có kế hoạch 16 1.3. Do trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định. 16 1.4. Do bệnh tật sức khoẻ yếu kém và bất bình đẳng giới 16 1.5. Người nghèo không có khả năng tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyển lợi hợp pháp 17 1.6. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác 17 2. Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên 17 3. Các yếu tố xã hội tác động: 17 3.1. Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế 17 3.2. Sự tham gia của cộng đồng 18 IV.2. Đặc điểm của các hộ nghèo đói 18 V. Mét sè kinh nghiÖm xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo ë viÖt nam 19 Tình hình nghèo đói ở Việt Nam 19 2. Một số giải pháp chống đói nghèo ở nước ta 20 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÀ TĨNH 22 I. GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ TỈNH HÀ TĨNH 22 1. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên 22 1.1. Vị trí địa lý 22 1.2. Địa hình 22 1.3. Đất đai 22 1.4. KhÝ hËu 24 1.5. Tài nguyên nước 24 1.6. Tµi nguyªn biÓn 24 1.7. Khoáng sản 24 1.8. Tài nguyên rừng 25 1.9. Tài nguyên du lịch, tự nhiên và nhân văn 25 2. T×nh h×nh ph¸t triÓn kinh tÕ 26 2.1. Đặc điểm về kinh tế 26 2.2. Đánh giá hiện trạng phát triển các ngành, lĩnh vực 27 3. Tình hình phát triển xã hội 31 3.1 Tình hình dân số và lao động 31 3.2. Y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân và kế hoạch hoá gia đình 33 3.3. Giáo dục- đào tạo 33 3.4. Văn hoá - Thông tin, Thể dục - Thể thao 33 3.5. Công tác chính sách xã hội, việc làm và xoá đói giảm nghèo 34 II. NHỮNG CHÍNH SÁCH XĐGN CỦA NHÀ NƯỚC VÀ ĐỊA PHƯƠNG ÁP DỤNG TRONG THỜI GIAN QUA 34 1. Các chủ trương, chính sách về công tác XĐGN của Nhà nước 34 2. Các chính sách về công tác XĐGN của tỉnh, huyện. 38 3. Các chủ trương, chính sách khác có liên quan 40 II. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XĐGN Ở TỈNH HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN 2001- 2007 40 1. Thực trạng đói nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh 40 2. Một số kết quả đạt được về công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2001- 2007 42 2.1. Hỗ trợ các xã nghèo để xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng 43 2.2. Hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo 44 2.3. Hỗ trợ cho người nghèo về giáo dục 44 2.4. Hỗ trợ người nghèo về nhà ở 44 2.5. Nâng cao kiến thức cho người nghèo và cán bô làm công tác XĐGN 44 3. Đánh giá chung về kết quả XĐGN 45 3.1. Ưu điểm 45 3.2. Hạn chế 45 IV. THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG 47 1. Đói nghèo do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ 48 1.1. Gia đình đông con ít lao động 48 1.2. Thiếu vốn hoặc không có vốn để kinh doanh, chi tiêu không có kế hoạch 48 1.3. Thiếu hoặc không có kinh nghiệm làm ăn 49 1.4. Thiếu đất, thiếu việc làm và không có nghề phụ kèm theo 49 1.5. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp 49 1.6. Điều kiện sản xuất khó khăn, thiếu phương tiện sản xuất 50 1.7. Gặp tai nạn, bệnh tật, sức khoẻ yếu kém, đau ốm 50 1.8. Các tệ nan xã hội và các nguyên nhân khác 50 Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên 51 3. Các yếu tố xã hội tác động 52 3.1 Nguyên nhân do lịch sử 52 3.2 Sự tham gia của cộng đồng 52 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIỂN NGHỊ THỰC HIỆN VIỆC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÀ TĨNH ĐẾN NĂM 2010 55 I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TỈNH HÀ TĨNH ĐẾN NĂM 2010 55 1. Căn cứ 55 2. Phương hướng và mục tiêu của tỉnh về xoá đói giảm nghèo 56 2.1. Phương hướng 56 2.2. Mục tiêu về XĐGN 57 II. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 58 1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội với tốc độ cao, toàn diện và bền vững; lồng ghép các chương trình, tận dụng các nguồn lực để đầu tư cho mục tiêu phát triển cộng đồng và XĐGN. 58 2. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để xoá đói giảm nghèo 59 2.1. Nâng cao hiệu quả và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp 59 2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn 60 3. Phát triển công nghiệp tạo việc làm và nâng cao mức sống cho người nghèo 61 4. Phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận dịch vụ công 62 4.1. Về phát triển và sử dụng điện ở các xã nghèo 63 4.2. Về phát triển đường giao thông 63 4.3. Về phát triển thuỷ lợi nhỏ và cung cấp nước sạch cho các xã nghèo 65 4.4. Về phát triển mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống phát thanh 66 5. Phát triển các dịch vụ giáo dục, y tế và chương trình kế hoạch hoá cho người nghèo 66 5.1. Phát triển giáo dục, rút ngắn chênh lệch về thụ hưởng giáo dục đảm bảo công bằng và nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo. 66 5.2. Tăng cường các dịch vụ y tế và giảm chi phí y tế cho người nghèo 67 5.3. Thực hiện có kết quả chương trình kế hoạch hoá gia đình và giảm tốc độ tăng dân số 68 6. Phát triển mạng lưới ASXH giúp đỡ người nghèo 69 7. Thực hiên tốt việc xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo 69 III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 71 KẾT LUẬN 73 TÊNTÀILIỆUTHAMKHẢO 75 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của trường, khoa Khoa học quản lý Trường Đại học Kinh tế quốc dân- Hà Nội đã quan tâm dạy dỗ, truyền thụ cho em những kiến thức khoa học trong suốt 4 năm học vừa qua. Đặc biệt, em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Mai Văn Bưu đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài: “ Giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010” Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tĩnh, đặc biệt là Phòng Kế hoạch Phát triển Kinh tế ngành đã thường xuyên chỉ bảo em trong quá trình thực tập đồng thời giúp đỡ em hoàn thành báo cáo thực tập tốt nghiệp này. Mặc dù bản thân đã có sự cố gắng nỗ lực nhưng không tránh khỏi những thiếu sót rất mong sự góp ý và cảm thông của thầy, cô giáo và cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tĩnh để giúp em hoàn thiện hơn nữa. Kính chúc các thầy cô giáo Trường Đại học Kinh tế quốc dân và toàn thể cán bộ của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tỉnh sức khỏe dồi dào và luôn thành công trong công việc. Em xin cảm ơn! Hà Tĩnh, ngày 05 tháng 05 năm 2008 Sinh viên Nguyễn thị Thùy An BẢNG LIỆT KÊ CÁC TỪ VIẾT TẮT XĐGN Xóa đói giảm nghèo CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá KHCN Khoa học công nghệ QĐ- TTg Quyết định của thủ tướng chính phủ WB Ngân hàng thế giới GDP Tổng sản phẩm quốc nội USD Đô la Mỹ KCHT Kết cấu hạ tầng ASXH An sinh xã hội MTQG Mục tiêu quốc gia Sở LĐTB&XH Sở Lao động, thương binh và xã hội Ban MN&DD Ban Miền núi và di dân BHYT Bảo hiểm y tế UBND Uỷ ban nhân dân VSMTNT Vệ sinh môi trường nông thôn BCH Ban chấp hành CSHT Cơ sở hạ tầng HĐND Hội đồng nhân dân NSNN Ngân sách nhà nước KHHGĐ Kế hoạch hoá gia đình BẢNG BIỂU Biểu 1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói Biểu 2: Phân bổ hộ đói nghèo theo vùng năm 2005 (theo chuẩn mới cho giai đoạn 2006-2010) Biểu 3: Diện tích đất đai phân theo mục đích sử dụng Biểu 4: Một số chỉ tiêu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2001- 2007 Biểu 5: Cơ cấu các nhóm cây trồng Biểu 6: Tình hình phát triển chăn nuôi của tỉnh năm 2007 (Đv: nghìn con Biểu 7: Cơ cấu lao động năm 2007 Biểu 8: Dân số và nguồn lao động năm 2007 Biểu 9: Tình hình đói nghèo của tỉnh giai đoạn 2001- 2007 Biểu 10: Tình hình đói nghèo ở các huyện, thị xã năm 2005 và năm 2006 Biểu 11: Các mục tiêu chủ yếu của chương trình XĐGN giai đoạn 2006- 2010 LỜI MỞ ĐẦU “Nước nhà dành được độc lập, tự do mà dân vẫn còn đói nghèo, cực khổ thì độc lập, tự do phỏng có ích gì. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (Trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh) Do đó ngay từ ngày đầu của cách mạng, Người đã đặc biệt chăm lo đến cuộc sống của người dân. Người coi dốt cũng là giặc, thứ “giặc nội xâm” này cũng nguy hiểm không kém gì giặc ngoại xâm. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động cuộc thi đua ái quốc, kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất. Ngay từ ngày ấy, Người đã có tư tưởng sâu sắc về XĐGN, từng bước phấn đấu cho đất nước phú cường, nhà nhà hạnh phúc. Ngày nay, khi bước sang một thời đại mới CNH, HĐH nhưng chống đói nghèo vẫn luôn là đề tài nóng bỏng, là vấn đề mang tính toàn cầu và đang thu hút nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế. Đối với Việt Nam, đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất. Xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu một cách chính đáng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đó là một trong những vấn đề cơ bản của chính sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và người nghèo nói riêng, tạo cơ hội cho họ hoà nhập vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Hoà chung vào phong trào XĐGN của cả nước, với đặc điểm là một tỉnh nghèo, được sự quan tâm giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành Trung ương, các tổ chức Quốc tế. Đảng Bộ và nhân dân Hà Tĩnh sớm phát động việc thực hiện phong trào XĐGN, tập trung phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo ổn định chính trị, giữ vững an ninh, quốc phòng góp phần thực hiện tốt công tác XĐGN. Tuy nhiên sự phân hoá giàu nghèo, sự chênh lệch về mức sống của các tầng lớp dân cư diễn ra có ranh giới rõ rệt, là vấn đề xã hội đặc biệt quan tâm. Mỗi giai đoạn tuy có nội dung và giải pháp khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là nâng cao đời sống người dân, theo tâm niệm của Hồ Chí Minh:“Làm cho người nghèo thì đủ ăn; người đủ ăn thì khá, giàu; người khá, giàu thì giàu thêm”. Kế thừa và phát huy những thành tựu đạt được trong công cuộc XĐGN giai đoạn 2001-2005, đang ở giữa chặng đường giai đoạn 2006-2010, nhưng Đảng bộ và nhân dân Hà Tĩnh vẫn luôn coi XĐGN là nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Xuất phát từ những vấn đề trên, em xin chọn đề tài thực tập của mình là: “Giải pháp xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2010” Nhằm đánh giá đúng thực trạng đói nghèo, tìm ra nguyên nhân và biện pháp để XĐGN ở tỉnh Hà Tỉnh. Đề tài tập trung nghiên cứu các hộ đói nghèo qua điều tra ở địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn 2001- 2007, từ đó định hướng giải pháp XĐGN đến năm 2010. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình bày trong 3 chương Chương I: Cơ sở lý luận về xoá đói giảm nghèo Chương II: Thực trạng nghèo đói và công tác xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị thực hiện việc XĐGN ỏ Hà Tĩnh đến năm 2010. CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO I. QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ sản xuất vật chất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người khai thác thiên nhiên để tạo vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở và nhu cầu khác. Năng suất lao động càng cao thì của cải càng nhiều, nhu cầu sống được đáp ứng đầy đủ hơn. Trái lại năng suất lao động thấp của cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh nghèo đói. Trong xã hội có giai cấp, những người bị áp bức bóc lột phải chịu cuộc sống cùng cực, thêm vào đó thiên tai chiến tranh gây nên bao cảnh lầm than, tang tóc. Đói nghèo không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ nô lệ, chế độ phong kiến với trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển mà ngay cả trong thời đại CNH, HĐH ngày nay với cuộc cách mạng KHCN hiện đại lực lượng sản xuất cao chưa từng thấy, trong từng quốc gia kể cả quốc gia có trình độ phát triển nhất nghèo đói vẫn tồn tại. Bên canh sự giàu có phồn vinh của nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn, nhiều cá nhân thì đồng thời nhiều quốc gia, nhiều vùng, nhiều gia đình rơi vào cảnh nghèo khổ, khốn cùng. Trong xu thế toàn cầu hoá, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng thì vấn đề XĐGN càng trở thành nhiệm vụ và trung tâm của cả cộng đồng và mỗi quốc gia. Chính vì vậy phải có quan điểm và cách giải quyết phù hợp. Tuy nhiên mỗi quốc gia, mỗi khu vực nghèo đói phân chia ở mức độ khác nhau, do đó ta xem xét vấn đề nghèo đói dưới hai quan niệm sau: 1. Quan niệm chung: Trong đời sống thực tế cũng như trong nghiên cứu khoa học các vấn đề KTXH, chúng ta thấy khái niệm đói, nghèo hay nghèo khổ, giàu nghèo, phân hoá giàu nghèo. Ngay khái niệm đói nghèo nếu tách riêng để phân tích và nhận dạng cũng thấy giữa đói và nghèo, trong cặp đôi này vừa có quan hệ mật thiết với nhau, vừa có khác biệt về mức độ và cấp độ. Đã lâm vào tình trạng đói (mà ý nghĩa trực tiếp của nó là đói ăn, thiếu lương thực thực phẩm để duy trì sự tồn tại của sinh vật và con người) thì đương nhiên là nghèo. Đây vẫn thuần tuý là đói ăn, nằm trọn trong phạm trù kinh tế- vật chất. Nó khác với đói thông tin, đói hưởng thụ văn hoá thuộc phạm trù đời sống tinh thần. Quan niệm về nghèo thì có nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Tất nhiên dù ở dạng nào thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là tình trạng hiểu nhiên của nghèo. Sự nghèo và nghèo khổ kéo dài, nếu không ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của cảnh trì trệ, túng thiếu thì chỉ cần xảy ra những biến cố đột xuất của hoàn cảnh (thiên tai, đau ốm, bệnh tật, rủi ro…) là con người dễ dàng rơi vào cảnh đói (đói khổ, đói rách). Ở đây ta xem xét hiện tượng đói nghèo ở góc độ đời sống vật chất, góc độ kinh tế tức tính vật chất của nó. Cần thấy rằng, tuy đói nghèo và phân hoá giàu nghèo biểu đạt nội dung kinh tế, có nguồn gốc, căn nguyên kinh tế của nó, song với tư cách là một hiện tưọng tồn tại phổ biến ở tất cả quốc gia dân tộc trong tiến trình phát triển, đói nghèo và phân hoá giàu nghèo không bao giờ là hiện tượng kinh tế thuần tuý mà thực chất là hiện tượng kinh tế- xã hội. Nhưng nó có những nội dung vật chất, gốc rễ kinh tế bên trong và có quan hệ biện chứng với xã hội chính trị và văn hoá. Như vậy, đói nghèo và phân hoá giàu nghèo là những khái niệm kép vừa có mặt kinh tế vừa có mặt xã hội trong nội dung của nó, trong sự phát sinh diễn biến của nó. Nhân tố chính trị và văn hóa cũng có phần tác động, gây ảnh hưởng tới hiện trạng, xu hướng và cách thức giải quyết nó. Điều này đặc biệt rõ trong sự vận động của kinh tế thị trường, của bước chuyển đổi mô hình, cơ chế, chính sách quản lý, kể cả những biến đổi của cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội trong thời kỳ quá độ như ở nước ta. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, bởi vì đây là cơ sở của việc tìm kiếm đồng bộ các giải pháp, biện pháp xoá đói giảm nghèo ở nước ta, nhất là những vùng cư dân nông nghiệp- nông thôn. Thực tế cho thấy rõ, các chỉ số xác định đói- nghèo và giàu- nghèo luôn di động. Ở một thời điểm, với mỗi vùng, mỗi nước nào đó, thì chỉ số đo được đói, giàu, nghèo nhưng sang một thời điểm khác, so sánh một vùng khác, nước khác, cộng đồng khác thì chỉ số đo đó có thể mất ý nghĩa. Đây là điểm giải thích vì sao các nhà nghiên cứu lý luận về vấn đề đói nghèo và phân hoá giàu nghèo lại thường gắn nó với lý thuyết phát triển. Sau khi làm rõ những luận cứ chung như những tiền đề phương pháp luận, chúng ta tìm hiểu quan niệm cụ thể về đói nghèo, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nó. Vậy “đói nghèo” là gì? Tại hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc- Thái Lan tháng 9/1993 đã đưa ra định nghĩa nghèo đói như sau:“ Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoã mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế- xã hội và phong tục tập quán của các địa phương”. Như vậy, đói nghèo gồm các khía cạnh cơ bản sau: - Trước tiên và trước hết là sự khốn cùng về vật chất đo lường một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng. - Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế. - Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức khả năng một hộ gia đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập và về sức khoẻ. - Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo. Để phân biệt rõ hơn nữa quan niệm về đói nghèo, các nước đã phân làm hai loại: “Nghèo tuyệt đối” và “nghèo tương đối”. Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nghèo tương đối: là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương. Theo đó sự thiếu thốn “của cải” trong mối quan hệ với nhu cầu thiết yếu của con người được xem xét là nghèo khổ tuyệt đối. Còn khi xem xét thực trạng mức sống và vị trí (về kinh tế và xã hội) các nhóm hoặc các cá nhân khác ở phương diện mức độ tiêu thụ và thu nhập của họ (quan hệ so sánh bằng phương pháp phân tích so sánh) ta sẽ hình dung được nghèo khổ tương đối. Từ cách hiểu chung này cần thấy sự khác biệt về mức độ nghèo khổ có tính chất địa phương và khu vực (trong vùng trong một quốc gia, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa các quốc gia trong khu vực này với quốc gia thuộc khu vực khác…). Tóm lại, khi xem xét tình trạng hoặc mức độ đói nghèo chúng ta cần chú ý mấy điểm: Một là, xem xét hiện tượng đói nghèo trước hết phải xem xét ở lĩnh vực kinh tế, đặc biệt chú ý những biểu hiện về mức sống, thông qua các nhu cầu cơ bản, tối thiểu về đời sống vật chất. Hai là, xác định tiêu chí mức độ đói nghèo dựa vào thu nhập bình quân tính theo đầu người trong tháng hoặc năm theo hai khu vực nông thôn và đô thị. Nó liên hệ mật thiết tiêu chí về dinh dưỡng, năng lượng (calo) trên đầu người trong ngày. Ba là, quy ra hiện vật, vật phẩm tiêu dùng được tính bằng gạo theo đơn vị đầu người trong tháng hoặc quy thành giá trị, tính bằng tiền dùng làm thước đo. Bốn là, xem xét các khoản tiêu dùng từ thu nhập phản ánh mức độ thoả mãn các nhu cầu tối thiểu để xem xét đối tượng dân cư đói nghèo đã phải chi cho ăn uống như thế nào, chiếm tỷ lệ ra sao trong cơ cấu tiêu dùng của họ. Năm là, nhận dạng người nghèo, hộ nghèo và hiện trạng nghèo đói thông qua chỉ số giá trị (USD) và thu nhập bình quân đầu người trong năm. 2. Quan niệm đói nghèo ở Việt Nam: Do đặc thù của một nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, đồng thời qua nhiều cuộc điều tra, khảo sát, nghiên cứu của các Bộ, Ngành đã đi đến thống nhất cần tách riêng đói nghèo thành hai khái niệm riêng (Giáo trình kinh tế lao động): Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần của nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Nhu cầu thiết yếu gồm 3 yếu tố: ăn, mặc, ở. Nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm 5 yếu tố: văn hoá, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp. Nhu cầu tối thiểu, mức cụ thể của nhu cầu tối thiểu phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng, từng quốc gia theo từng thời kỳ. II. XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 1. Khái niệm Xoá đói giảm nghèo là làm cho một bộ phận dân cư có mức sống nghèo đói được nâng cao, từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, biểu hiện ở tỷ lệ và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói cách khác, xoá đói giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo đói lên một mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, xoá đói giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có nhiều điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của con người. Ở góc độ người nghèo, xoá đói giảm nghèo là quá trình tác động tạo điều kiện của cộng đồng xã hội, giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Ở góc độ vùng nghèo: xoá đói giảm nghèo là quá trình thúc đầy phát triển kinh tế, chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn. 2. Vai trò của công tác xoá đói giảm nghèo Đói nghèo là vấn đề mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm đến trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Chính vì vậy, XĐGN đóng một vai trò hết sức to lớn trong tất cả các mặt của đời sống xã hội, cụ thể như sau: 2.1. Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế Nghèo đói đi liền với lạc hậu, do đó xoá đói giảm nghèo là tiền đề cho sự phát triển kinh tế vì khi đói nghèo giảm sẽ giảm đi những áp lực từ bên trong tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư bên ngoài, làm năng lực kinh tế phát triển vững chắc. Ngược lại sự phát triển kinh tế là nhân tố đảm bảo cho sự thành công trong công tác XĐGN. 2.2. Xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển xã hội Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa quan trọng không những đối với sự phát triển kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Để làm nổi bật những cản trở của nghèo đói đối với sự phát triển xã hội các nhà kinh tế đưa ra lý thuyết về cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói: Biểu1: Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói Nghèo đói ` Gia tăng dân số Bệnh tật Suy dinh dưỡng Ô nhiễm môi trường Thất học Tệ nạn xã hội Như vậy, từ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói lại kéo theo cái vòng luẩn quẩn khác của sự phát triển của một quốc gia, của một vùng. Vì vậy muốn cho đất nước, vùng phát triển chúng ta phải phá vỡ các mắt xích cơ bản như hạn chế gia tăng dân số, nâng cao sức khoẻ và dinh dưỡng của người dân, hạn chế sự thất học, nâng cao trình độ dân trí. Để đảm bảo phá vỡ được cái vòng luẩn quẩn đó thì chúng ta phải tháo gỡ từng mắt xích cụ thể chứ không làm chung chung ồ ạt được. 2.3. Xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề chính trị, an ninh, xã hội. Hầu hết hộ dân nghèo thường sinh sống ở những địa bàn giáp ranh với nước bạn, vùng sâu, vùng xa. Việc bảo toàn lãnh thổ và độc lập về kinh tế, chính trị gặp nhiều khó khăn. Vì thế, nghèo đói ảnh hưởng đến các mặt chính trị, an ninh xã hội, làm nảy sinh những mặt hạn chế, những tư tưởng lạc hậu, cổ hũ, đi chệch đường lối của Đảng và Nhà nước ta từ đó phát sinh những tệ nạn xã hội như trộm, cắp, mại dâm, đạo đức bị suy đồi gây rối loạn xã hội. Do đói thực hiện tốt XĐGN giúp người dân an tâm trong sản xuất và đời sống, góp phần giữ vững được ổn định, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. 2.4. Xoá đói giảm nghèo đối với vấn đề văn hoá Việt Nam đang tập trung phát triển nền văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện mục tiêu phát triển văn hoá, cần xác định rằng: đói nghèo là một trong những nguy cơ tiềm ẩn kéo theo các vấn đề văn hoá xã hội và sự kìm hãm xã hội, nó ăn sâu vào tiềm thức của từng hộ gia đình, từng người trong cuộc sống sinh hoạt văn hoá. Ở một trình độ văn hoá thấp, đói nghèo luôn là nỗi ám ảnh tư tưởng con người sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội, làm thay đổi nhân cách con người đi vào lối sống buông thả, tự ti sùng bái những tư tưởng lạc hậu, mông lung dẫn đến đẩy lùi văn minh xã hội, phát triển văn hoá và nhân cách con người. Chính vì vậy, đầy nhanh công tác XĐGN là một yếu tố quan trọng nâng cao đời sống người dân, làm cho nền văn hoá phát triển cùng nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. III. CÁC CHUẨN ĐÓI NGHÈO: Các quốc gia khác nhau sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá mức độ giàu nghèo. Hiện nay, Việt Nam chưa có chuẩn đói nghèo thống nhất, trên thực tế vẫn sử dụng một trong hai chuẩn sau để đánh giá đói nghèo. 1. Chuẩn đói nghèo quốc tế: - Nghèo đói lương thực, thực phẩm: là những người có mức thu nhập không đảm bảo cho lượng dinh dưỡng tối thiểu (bù đắp 2100 Kcal/người/ngày). - Nghèo đói chung: Được xác định trên cơ sở ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm và coi đó là tương ứng với 70% nhu cầu cơ bản tối thiểu, 30% còn lại là nhu cầu cơ bản tối thiểu khác. Nghèo đói chung là những người không đảm bảo thu nhập để đáp ứng cả hai yêu cầu trên. Qua nguồn số liệu điều tra mức sống dân cư Việt Nam cho thấy: năm 1998 nghèo đói chung có mức chi tiêu là là 1,79 triệu triệu đồng/năm/người (cao hơn đói nghèo lương thực thực phẩm là 39%). Dựa trên các ngưỡng nghèo này, tỷ lệ đói nghèo chung năm 1998 là 37,4%; còn tỷ lệ đói nghèo lương thực tương ứng là 15%. 2. Chuẩn đói nghèo của Việt Nam: Chuẩn mực đói nghèo năm 1997-1998 được xác định: (Hệ thống văn bản về Bảo trợ xoá đói giảm nghèo) Hộ đói: là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13kg gạo/người/tháng, tương đương với 45000đ (áp dụng cho mọi vùng). Hộ nghèo: phân theo 3 vùng có mức thu nhập như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 15kg gạo, tương đương 55000đ. + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 20kg gạo, tương đương với 70000đ. + Vùng thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu ngưòi dưới 25 kg gạo, tương đương với 90000đ. Cách xác định chuẩn nghèo của Bộ LĐTBXH mang tính chất tương đối hơn và tiếp cận từ khía cạnh thu nhập, dựa chủ yếu vào khả năng của những số liệu có sẵn, cụ thể là khả năng tài chính hỗ trợ cho chương trình XĐGN, trên cơ sở đó xác định chuẩn nghèo là mức thu nhập tối thiểu của từng khu vực vào nhu cầu chi tiêu và tình trạng giá cả hàng hóa tiêu dùng ở các khu vực khác nhau. Trong giai đoạn 1996-2000, Bộ LĐTBXH đã đưa ra chuẩn nghèo cho từng khu vực như sau: - Nông thôn, miền núi, hải đảo là 55.000 đồng/người/tháng. - Nông thôn đồng bằng là 70.000 đồng/người/tháng. - Vùng thành thị 90.000 đồng/người/tháng. Chuẩn nghèo theo quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/9/2001 trong đó phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005” cụ thể như sau: - Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo là 80.000 đồng/người/tháng. - Vùng nông thôn đồng bằng là 100.000 đồng/người/tháng. - Vùng thành thị là 150.000 đồng/tháng. Đến hết giai đoạn 2001-2005, do mức sống của nhân dân ngày càng cao, cùng với chủ trương chung là từng bước tiếp cận các nước đang phát triển trong khu vực về XĐGN. Do vậy, ngày 8/7/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 170/2005/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010. Theo quy định mới: - Chuẩn nghèo dành cho khu vực nông thôn, áp dụng cho các hộ có mức thu nhập bình quân đầu người là 200.000 đồng/người/tháng. - Chuẩn nghèo dành cho khu vực thành thị, áp dụng cho các hộ có mức thu nhập bình quân đầu người là 260.000 đồng/người/tháng. Hội nhập quốc tế và khu vực đang đặt ra yêu cầu đối với Việt Nam là có một chuẩn nghèo “ngang bằng” với khu vực. Trong khi Ngân hàng Thế giới (WB) khuyến nghị áp dụng chuẩn nghèo 2 USD/người/ngày (sức mua tương đương) đối với các nước đang phát triển. Chuẩn nghèo của Trung Quốc, Philippine hiện nay là 2USD, còn ở Thai Lan, Malaysia là 3USD thì chuẩn nghèo ở Việt Nam tại thời điểm năm 2004 được quy đổi theo sức mua tương đương mới chỉ là 0.95USD ở khu vực miền núi, 1.2USD ở khu vực nông thôn đồng bằng và 1.7USD ở khu vực thành thị. Trong tương lai sẽ tiến đến sử dụng một chuẩn nghèo thống nhất để đánh giá tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam và có tính đến tiêu chí Quốc tế để so sánh. 3. Chuẩn đói nghèo của tỉnh Hà Tĩnh: Việc đánh giá đói nghèo ở Hà Tĩnh hiện nay sử dụng chuẩn nghèo của Bộ LĐTBXH áp dụng cho giai đoạn 2006- 2010. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế- xã hội và kết quả thực hiện công tác XĐGN ở Hà Tĩnh những năm qua: Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh ta còn thấp, thua so với mức thu nhập bỉnh quân đầu người của cả nước. Tỷ lệ đói nghèo Hà Tĩnh còn cao hơn mức bình quân đói nghèo cả nước, (Tỷ lệ hộ đói nghèo Hà Tĩnh năm 2007 là 28,91%, cả nước là 14,7%). Nguồn lực để hỗ trợ cho hoạt động XĐGN còn nhiều hạn chế. Từ những điều kiện trên, thời kỳ 2006- 2010 Hà Tĩnh chưa đủ điều kiện nâng chuẩn đói nghèo trên mức chung cả nước. Chính vì vậy, chuẩn đói nghèo của cả nước được Hà Tĩnh vận dụng để đánh giá thực trạng đói nghèo và để xây dựng chương trình, dự án XĐGN thời kỳ 2006- 2010. IV. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HỘ ĐÓI NGHÈO IV.1. Nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo: Đói nghèo do nhiều nguyên nhân gây nên, có cả chủ quan và khách quan. Để nhận biết một cách đầy đủ chúng ta có thể chia thành 3 nhóm nguyên nhân sau đây: Đói nghèo do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ: 1.1. Gia đình đông con ít lao động: Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ, đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo. Hộ nghèo không có điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khoẻ sinh sản, chưa có kế hoạch hoá gia đình. Quy mô gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao và điều này đồng nghĩa với việc rất thiếu nguồn lực lao động nên dẫn đến thiếu lao động. 1.2. Thiếu vốn hoặc không có vốn để kinh doanh, chi tiêu không có kế hoạch: Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực nên không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực, điều này cản trở họ thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng do không có tài sản thế chấp để vay. Mặt khác đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể hoặc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích. Nguồn thu nhập bếp bênh, tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với các biến cố xảy ra trong cuộc sống. 1.3. Do trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định. Người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt nên mức thu nhập chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, không có điều kiện nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát nghèo. Học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định về giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…Điều đó khô._.ng những ảnh hưởng đến thế hệ hiện tại mà còn ảnh hưởng thế hệ tương lai. 1.4. Do bệnh tật sức khoẻ yếu kém và bất bình đẳng giới: Vấn đề bệnh tật và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cho khám chữa bệnh đẩy họ đến chỗ vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Bất bình đẳng làm sâu sắc hơn tình trạng đói nghèo, phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với khoa học, kỹ thuật công nghệ mới, họ phải gánh nặng việc gia đình, thu nhập thấp hơn nam giới, tỷ lệ trẻ em tử vong do bà mẹ không hiểu sinh sản sức khỏe. 1.5. Người nghèo không có khả năng tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyển lợi hợp pháp: Người nghèo và đối tượng hoàn cảnh đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bổ không đều, phí dịch vụ còn cao. 1.6. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác: Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ có khó khả năng làm việc, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khoẻ…). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ. Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập của họ hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể gặp rủi ro hơn nữa. 2. Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên: - Đất đai dùng cho thâm canh cây lúa, diện tích bình quân đầu người thấp - Đất đai cằn cỗi, chưa chủ động hoàn toàn về nước - Thời tiết khí hậu khắc nghiệt gây khó khăn cho sản xuất. Bão lũ, hạn hán thường xuyên xảy ra. - Xa trung tâm kinh tế của tỉnh, giao thông đi lại khó khăn. 3. Các yếu tố xã hội tác động: 3.1. Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế: Xuất phát điểm về kinh tế thấp kết hợp với chiến tranh lâu dài, gian khổ, cơ sở vật chất bị tàn phá, nguồn lực bị giảm sút do mất mát trong chiến tranh. Đồng thời trải qua nhiều cuộc khủng hoảng dẫn đến kiệt quệ về kinh tế ảnh hưởng đến sự phát triển. 3.2. Sự tham gia của cộng đồng: Nhà nước: Thể chế chính sách còn những mặt bất cập chẳng hạn như: chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng (đường, điện, nước), chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tạo việc làm, hỗ trợ giáo dục, xoá đói giảm nghèo, chính sách trợ giúp cho gia đình chính sách còn thiếu… chưa khuyến khích cho người nghèo tham gia tích cực vào quá trình sản xuất và cải thiện cuộc sống. Các tổ chức chính trị -xã hội: Các tổ chức chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến công tác giảm nghèo. Các hiệp hội cùng các sở, ban ngành, các huyện thị với nhiều hình thức như Quỹ vì người nghèo, ủng hộ gia đình đặc biệt khó khăn, phong trào xoá nhà tranh tre dột nát… Tuy nhiên sự đóng góp hỗ trợ còn hạn chế chưa thể khắc phục được hiện tượng đói nghèo vẫn còn tiếp diễn. Các tổ chức quốc tế: Kinh tế đối ngoại chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Sự hợp tác, liên kết với các tổ chức còn ít. Vốn đầu tư vào các chương trình xoá đói giảm nghèo còn thấp, song quản lý chưa tốt nên hiệu quả chưa cao. IV.2. Đặc điểm của các hộ nghèo đói - Phần lớn ngưòi nghèo từ nông nghiệp, 77% số người nghèo là nông dân với trình độ học vấn thấp và ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ… - Đa số người nghèo tập trung ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa… có cơ sở hạ tầng yếu kém, tài nguyên thiên nhiên khắc nghiệt đồng thời tình trạng hộ nghèo có ít đất hoặc không có đất để canh tác do đó năng suất thấp. Cần phải tiến hành ngay cải cách nhằm tạo việc làm phi nông nghiệp hơn. - Các hộ có nhiều con hoặc ít lao động có tỷ lệ nghèo cao hơn và đặc biệt dễ bị tổn thương khi phải gánh chịu thêm chi phí về y tế và giáo dục. - Các hộ nghèo dễ bị tổn thương bởi những biến động bất thường xảy ra, các hộ nghèo có thể bị tách biệt về mặt địa lý hoặc về mặt xã hội. - Những người dân nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh. Người nghèo nhập cư thành thị không có hộ khẩu gặp khó khăn trong tiếp cận dịch vụ công cộng. V. MỘT SỐ KINH NGHIỆM XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM: Tình hình nghèo đói ở Việt Nam Sau hơn 20 năm đổi mới với cơ chế quản lý kinh tế theo hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển biến rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng GDP cao và tăng đều qua các năm, bình quân khoảng 8.5% nhờ đó đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên Việt Nam vẫn xếp trong nhóm 40 nước có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Trong 10 nước ASEAN, Việt Nam vẫn đứng thứ 7. Tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao, cụ thể từ đầu những năm 1990 tỷ lệ các hộ ở mức rất cao, bình quân khoảng 30-35%, năm 2000 còn 25%, năm 2005 là 26%, 2006 là 19%. Theo chuẩn giai đoạn 2006-2010, cuối năm 2005, cả nước có khoảng 4.6% triệu hộ nghèo, phân bổ hộ nghèo đói theo vùng như sau: Biểu 2: Phân bổ hộ đói nghèo theo vùng năm 2005 (theo chuẩn mới cho giai đoạn 2006-2010) TT Các vùng Tỷ lệ so với vùng (%) 1 Đông Bắc 36.1 2 Tây Bắc 62.3 3 Đồng bằng sông Hồng 19.8 4 Bắc Trung Bộ 39.7 5 Duyên Hải miền Trung 23.3 6 Tây Nguyên 52.2 7 Đông Nam Bộ 10.2 8 ĐB sông Cửu Long 20.8 Cả nước 26.7 Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và xã hội 2. Một số giải pháp chống đói nghèo ở nước ta Xuất phát từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, đời sống nhân nhân gặp vô cùng khó khăn. Sau khi hoà bình lập lại, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định nghèo đói cũng chính là loại giặc và cần có giải pháp ngăn chặn. Với chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, sự nỗ lực của dân, nước ta hiện nay đang dẫn đầu trên thế giới về XĐGN, là một trong những thành công đáng ghi nhận. Việt Nam đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt vượt mức kế hoạch và cao nhất trong 10 năm qua là 8.5%. Công tác XĐGN đạt kết quả nổi bật trong mấy năm gần đây, đặc biệt năm 2007 giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 14.7% so với ( năm 1995 là 29%, năm 2000 là 25%, năm 2005 là 22%). Để đạt được những thành tựu đó, đúc rút kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới đồng thời vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh đất nước trong từng thời kỳ, giải pháp do chính phủ tập trung vào những mảng chính sau đây: Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông để XĐGN trên diện rộng: - Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đảm bảo sản xuất phù hợp nhu cầu và khả năng tiêu thụ của thị trường. Mở rộng đào tạo nghề cho người dân nông thôn Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp điều kiện người nghèo. Phát triển công nghiệp tạo việc làm và nâng cao mức sống cho người nghèo: Phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh. - Khuyến khích người nghèo ở đô thị tự thoát nghèo với sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng dân cư Tăng cường hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm cho người nghèo. Xây dựng các tiêu chuẩn quy phạm thiết kế quy hoạch đô thị, ưu tiên dành quỹ đất cho người nghèo. Phát triển KCHT tạo cơ hội cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận các dịch vụ công: - Phát triển mạng lưới các công trình KCHT kinh tế - Nhà nước hỗ trợ vốn hoặc cho vay tín dụng với lãi suất thấp và ưu đãi. 4. Xây dựng nền giáo dục công bằng hơn, chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo: - Hoàn thiện thể chế chính sách tạo điều kiện công bằng và chất lượng trong giáo dục - Đầu tư hệ thống giáo dục cho xã nghèo, vùng nghèo - Miễn giảm hoặc hỗ trợ cho trẻ em nghèo trong lĩnh vực giáo dục. - Tăng nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo. 5.Phát triển mạng lưới ASXH cho người nghèo: - Chính sách trợ giúp cho gia đình có hoàn cảnh khó khăn - Phát triển trung tâm bảo trợ cho vùng nghèo, xây dựng hệ thống cứu trợ xã hội đột xuất. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH HÀ TĨNH I. GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ TỈNH HÀ TĨNH: 1. Đặc điểm tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên: 1.1. Vị trí địa lý: Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc miền trung (Khu IV cũ) được tách ra từ Tỉnh Nghệ Tĩnh ( từ năm 1991), nằm ở từ 17054’ độ vĩ Bắc đến 18050’ Bắc và 1050 đến 1080 kinh đông. Phía Bắc của tỉnh giáp Nghệ An, Phía Tây giáp Lào, phía Nam giáp Quảng Bình, còn phía Đông là bờ biển dài 137 km. Hà Tĩnh có vị trí khá thuận lợi và đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn với nước bạn Lào và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Hà Tĩnh có điều kiện trở thành cầu nối của hai miền Nam, Bắc và điểm đầu mối giao thông quan trọng trên trục hành lang Đông, Tây, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: đó là Quốc lộ 1A, đường sắt, đường Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc, Nam); Quốc lộ 8 và quốc lộ 12 (trục hành lang Đông - Tây). Tỉnh Hà Tĩnh có một thành phố Hà Tĩnh và một thị xã Hồng Lĩnh, 10 huyện: Hương Sơn, Đức Thọ, Hương Khê, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Vũ Quang, Lộc Hà. 1.2. Địa hình: Nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn, địa hình Hà Tĩnh hẹp và dốc, nghiêng từ tây sang đông, độ dốc trung bình 1 km giảm 12m. Địa hình đồi núi chiếm 80% diện tích tự nhiên, phân hoá phức tạp và bị chia cắt mạnh, giao thông đi lại khó khăn ảnh hưởng cuộc sống người dân nhiều vùng nhất là các xã đặc biệt khó khăn. Đất đai: Diện tích tự nhiên Ch­a tÝnh diÖn tÝch triÒu kiÖt của Hà Tĩnh là 6.018,97 km2, bằng 1,8% tổng diện tích cả nước. Diện tích đã đưa vào sử dụng 536.779,03 ha, bằng 89,18% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất bằng chưa sử dụng chủ yếu tập trung ở các dải cát ven biển từ Nghi Xuân đến Kỳ Anh và các vùng bãi ven sông thuộc các huyện Hương Sơn, Hương Khê, Đức Thọ đó là những nơi tập trung người dân nghèo nhiều nhất, còn lại phân bố rải rác ở các huyện. Đất chủ yếu là đất nông nghiệp, nhìn chung không được màu mỡ lắm thích hợp cho trồng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Biểu 3: Diện tích đất đai phân theo mục đích sử dụng TT Loại đất Diện tích (ha) Tỷ trọng (%) Tổng diện tích tự nhiên 601.896,64 100,00 1 Đất nông nghiệp 465.349,34 77,32 Đất sản xuất nông nghiệp 117.167,12 19,47 Đất lâm nghiệp 341.410,09 56,72 Đất nuôi trồng thủy sản 6150 10,21 Đất làm muối 444,87 0,07 Đất nông nghiệp khác 177,12 0,03 2 Đất phi nông nghiệp 71.429,83 11,87 Đất ở 7.526,64 1,25 Đất chuyên dùng 30.513,14 5,07 Đất tôn giáo tín ngưỡng 302,13 0,05 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 4.792,56 0,8 Đất sông suối và mặt nước 28.228,88 4,69 Đất phi nông nghiệp khác 66,58 0,01 3 Đất chưa sử dụng 65.117,61 10,82 Đất bằng chưa sử dụng 17.432,09 2,9 Đất đồi chưa sử dụng 44.959,63 7,47 Núi đá không có rừng cây 2.725,89 0,45 Nguồn: Kết quả kiểm kê đất đai tỉnh Hà Tĩnh năm 2005 và Sở Thuỷ sản 1.4. Khí hậu: Hà Tĩnh cũng như các tỉnh phía Bắc Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có 1 mùa đông giá lạnh của miền Bắc. Hàng năm, tỉnh có hai mùa rõ rệt: - Mùa mưa: có nhiều bão lụt kéo dài từ tháng 8 đến tháng 11, lượng mưa trung bình cao trên 2000 mm, do vậy lũ lụt thường xảy ra hàng năm vào tháng 8, tháng 9… - Mùa khô: kéo dài từ tháng 12 đến tháng 7. Đây là mùa gay gắt, có gió Tây Nam (thổi từ Lào) nóng, lượng bốc hơi lớn gây hạn hán nghiêm trọng. Do đó, việc xây dựng các công trình thuỷ lợi để giữ nước có một ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, làm tiền đề cho việc xoá hộ đói, giảm hộ nghèo. 1.5. Tài nguyên nước: Nhìn chung, với trữ lượng hàng trăm triệu m3 , hiện tại tài nguyên nước của tỉnh có khả năng cung cấp đủ cho các ngành kinh tế và nước sinh hoạt cho người dân trừ một số vùng bãi ngang ven biển, vùng đặc biệt khó khăn việc sử dụng nước sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn. Với sự phát triển nhanh của kinh tế, nhât là phát triển công nghiệp và mức độ đô thị hoá thì nhu cầu nước ngày càng nhiều do đó cần sử dụng hợp lý và tránh lãng phí. 1.6. Tài nguyên biển: Hà Tĩnh có 137 km bờ biển; trên 20 con sông lớn, nhỏ đổ ra biển, với 4 cửa sông lớn, tạo ra tiềm năng to lớn trong việc phát triển toàn diện kinh tế biển (giao thông vận tải biển, du lịch và nuôi trồng, đánh bắt hải sản, công nghiệp chế biến hải sản xuất khẩu. Nhưng theo đánh giá gần đây, do cường độ khai thác lớn, không đi đôi với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm mạnh. 1.7. Khoáng sản: Hà Tĩnh là tỉnh có nhiều loại khoáng sản có thể khai thác công nghiệp, nhưng hầu hết khoáng sản chưa có kế hoạch khai thác cụ thể, mà chỉ ở dạng thăm dò điều tra. Các nguồn tài nguyên khoáng sản chính gồm. Đó là: - Quặng sắt Thạch Khê thuộc Huyện Thạch Hà có trữ lượng 544 triệu tấn. - Mỏ thiếc Sơn Kim ở huyện Hương Sơn trữ lượng 80000 tấn. - Mỏ than Hương Khê và nhiều sa khoáng vàng ở Kỳ Anh, Hương Khê - OxitTitan ( trữ lượng từ 3 đến 5 triệu tấn) chạy dọc bờ biển tạo nguồn thu lớn cho tỉnh. Ngoài ra có mỏ cát lớn ở Thạch Vĩnh (Thạch Hà), nhiều mỏ có chứa đá quý, than bùn, Mangan. 1.8. Tài nguyên rừng: Hà Tĩnh có 302.763 ha đất có rừng, trong đó diện tích tự nhiên 217,480 ha, rừng trồng 85.283 ha; đất chưa sử dụng có khả năng lâm nghiệp 68,247 ha. Rừng tự nhiên hiện chủ yếu rừng trung bình và rừng nghèo, trữ lượng gỗ không lớn, rừng giàu chỉ chiếm 10%, rừng trung bình 40%, còn lại 50% là rừng nghèo kiệt được phân bổ ở vùng núi cao, xa các trục đường giao thông. Thực vật của rừng đa dạng và phong phú, có nhiều loại thực, động vật quý hiếm: có trên 86 họ và 500 loại cây dạng thân gỗ, trong đó có nhiều loại cây có như: lim, xanh, sến, táu, mật, đinh, gõ, pơmu và các loại thú hiếm như voi, hổ, báo, vượn đen, sao la… Ngoài ra Hà Tĩnh còn có rừng quốc gia Vũ Quang ( Hương Khê), đây là rừng nguyên sinh có nhiều động, thực vật quý hiếm có giá trị cao cho du lịch nghiên cứu khoa học. 1.9. Tài nguyên du lịch, tự nhiên và nhân văn: Từ góc độ tiềm năng, Hà Tĩnh tương đối giàu tài nguyên du lịch: có tiềm năng di sản văn hoá phong phú, đa dạng, có giá trị và mang bản sắc riêng, độc đáo. - Tài nguyên du lịch sinh thái: Hiện tại Hà Tĩnh có hai khu bảo tồn thiên nhiên: hồ Kẻ gỗ và vườn quốc gia Vũ Quang. Rừng Hương Sơn là một hệ thống động, thực vật lớn nhất trong tỉnh, là vùng tiểu khí hậu nằm ở vị trí liền kề với các khu vực được bảo tồn ở Nghệ An và biên giới Lào, vì vậy đây có thể trở thành khu vực bảo tồn lớn trong tương lai. - Tài nguyên du lịch tự nhiên: Cửa Sót - Nam Giới, Đèo Ngang, sinh thái Đèo Con, Hoành Sơn Quan, bãi tắm Xuân Thành, Thiên Cầm, Thạch Hải, Nước Sốt, bãi biển Kỳ Ninh, Núi Hồng Lĩnh..., có thể kết hợp với nhau thành các tuyến du lịch. - Tài nguyên du lịch nhân văn: Toàn tỉnh có hơn 400 di tích lịch sử, trong đó có 62 di tích quốc gia, 2 di tích danh thắng như Hồ và Chùa Thiên Tượng, chùa Hương Tích ; nhóm di tích tưởng niệm các danh nhân và nhân vật lịch sử chiếm số lượng lớn (36 di tích). Tiêu biểu trong nhóm này là các di tích tưởng niệm Nguyễn Du, Lê Hữu Trác, Nguyễn Công trứ, Nguyễn Biểu, ... Nhóm di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật chiếm 8 di tích, gồm Đình, Chùa, Đền, Miếu... Nhóm di tích cách mạng (14 di tích), tiêu biểu là Khu căn cứ địa Vũ Quang về cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Khu lưu niệm Bác Hồ về tham Hà Tĩnh ở phường Tân Giang - thị xã Hà Tĩnh, Khu lưu niệm Trần Phú và đặc biệt là di tích Ngã Ba Đồng Lộc. - Có nhiều lễ hội như hội chùa Hương Tích, Chiều Trưng, Hạ Thủy, hội đua thuyền ở Tiên Điền. Hà Tĩnh cũng là điểm du lịch quan trọng trên tuyến du lịch xuyên Việt có tính chất trung chuyển trên các tuyến Bắc - Nam, Tây - Đông. Nhờ đó tạo việc làm cho người lao động và đóng góp vào phát triển kinh tế và XĐGN của tỉnh. 2. Tình hình phát triển kinh tế 2.1. Đặc điểm về kinh tế: - Tốc độ tăng trưởng kinh tế ( GDP ): Trong những năm qua kinh tế Hà Tĩnh đạt được mức tăng trưởng khá cao. Tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm trên 8%, đặc biệt năm 2007 đạt khoảng 10,5%, GDP bình quân đầu người đạt 5,25 triệu đồng/năm, thu ngân sách trên địa bàn 1920 tỷ đồng trong đó thu nội địa đạt 630 tỷ đồng đây là điều kiện cơ bản để gia tăng quỹ vật chất cần thiết cho công tác XĐGN. - Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dich vụ, giảm dần nông lâm, tuy nhiên nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. - Các khu kinh tế trọng điểm: khu công nghi Vũng Áng , khu khai thác và luyện thép Thạch Khê, cửa khẩu quốc tế Cầu Treo gắn với khu kinh tế đường 8. Biểu 4: Một số chỉ tiêu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2001- 2007 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tốc độ tăng trưởng % 7.03 7.48 8.20 9.09 9.51 8.90 10.5 GDP bình quân đầu người (giá 2005) triệu đồng 2.871 3.156 3.575 3.950 4,605 5.016 5.25 Cơ cấu GDP 100 100 100 100 100 100 100 - Nông, lâm, ngư nghiệp % 49.89 49.1 48.21 45.90 43.13 40.20 37.90 - Công nghiệp, xây dựng % 14.05 15.46 16.98 20.26 22.45 23.96 26.23 - Dịch vụ % 36.06 35.44 34.81 33.84 34.42 35.84 35.87 Thu ngân sách trên địa bàn tỷ đồng 1,592 1,562 1,593 1,703 1,741 1,850 1,920 Nguồn: Cục Thống kê Hà Tĩnh 2.2. Đánh giá hiện trạng phát triển các ngành, lĩnh vực 2.2.3 Nông, lâm, ngư nghiệp: Trong những năm qua nông lâm, ngư nghiệp là ngành sản xuất chính, góp phần ổn định đời sống nhân dân trong tỉnh. Năm 2007, GDP nông, lâm ngư nghiêp là 2757 tỷ đồng, chiếm 37,9% tổng GDP cả tỉnh, gấp 1.52 lần năm 2001. 2.2.3.1. Nông nghiệp: a) Trồng trọt Sản xuất nông nghiêp là ngành nghề chính của cả vùng, lao động và thu nhập chủ yếu là nông nghiệp trong đó có thế mạnh về đất đai, chất đất thích nghi với cây lương thực, cây công nghiệp và cây ăn quả, tuy vậy năng suất thấp, khai thác sử dụng đất chưa hiệu quả. Đất nông nghiệp bình quân đầu người 0.36 ha/lao động. Diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn, chiếm 1/3 diện tích tự nhiên. Sản lượng cây lương thực tăng và tương đối ổn định. Năm 2007 đạt 40,1 vạn tấn, trong đó lúa là cây lương thực chính, chiếm tới 89.9% diện tích cây lương thực có hạt với 35120 tấn. Ngoài lúa một số cây lương thực cũng đưa vào sản xuất như ngô, khoai, lạc, sắn nhưng diện tích còn ít và năng suất chưa cao. Biểu 5: Cơ cấu các nhóm cây trồng Diện tích gieo trồng (ha) Cơ cấu (%) Tổng 192.498 100 Cây lương thực 109.616 57.2 Cây thực phẩm 23.450 12.0 Cây công nghiệp ngắn ngày 23.682 12.4 Cây ăn quả 7.127 3.7 Cây công nghiệp dài ngày 4954,3 2.5 Cây lâu năm khác 23.669 12.2 Nguồn: Số thống kê và kế hoạch 2006-2010 Cây công nghiệp dài ngày thích nghi vùng đất và khí hậu của vùng như chè công nghiệp, cao su. Hiện nay trên toàn tỉnh đã có quy hoạch và triển khai bước đầu đã trồng được một số diện tích đáng kể, năm 2007, diện tích cây cao su là 5210 ha, diện tích chè là 1570 ha nhưng tốc độ phát triển còn chậm, đầu ra của chè còn bấp bênh, nhu cầu đầu tư lớn song nguồn lực địa phương và người dân còn hạn chế. Cây công nghiệp hàng năm như lạc, mía, vừng, sắn cũng là thế mạnh của vùng. Thời gian qua đã đầu tư giống và mở rộng diện tích nên năng suất tăng đáng kể. Tuy vậy việc đưa giống mới, đầu tư phân bón và kỹ thuật còn hạn chế chưa khai thác thêm nên sản lượng và năng suất chưa tương xứng với tiềm năng của vùng. Cây ăn quả cũng là thế mạnh của vùng, thích hợp với một số cây đặc sản của địa phương như bưởi Phúc Trạch, cam, chanh, cam bù Hương Sơn, cam sành, quýt xốp, xoài, nhãn lồng… phát triển tốt, hiệu quả cao. b) Chăn nuôi: Chủ yếu là trâu, bò, lợn, ngoài ra có dê, hươu và đàn gia cầm. Tỷ trọng chăn nuôi đạt 36,6% trong giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, quy mô và chất lượng đàn gia súc, gia cầm tăng chậm, nhưng đóng góp của chăn nuôi và thu nhập của người dân tăng chậm. Biểu 6: Tình hình phát triển chăn nuôi của tỉnh năm 2007 (Đv: nghìn con) Năm 2007 Trâu 125 Bò 196 Lợn 463 2.2.3.2. Về lâm nghiệp: Hà Tĩnh là tỉnh có tiềm năng phát triển lâm nghiệp, trên cơ sở tái trồng rừng ở những nơi đã khai thác gỗ chỉ có trảng cỏ và cây bụi; chuyển đổi một số diện tích rừng phòng hộ không xung yếu sang trồng rừng sản xuất; khai thác có hiệu quả quỹ đất chưa sử dụng có khả năng lâm nghiệp góp phần đưa độ che phủ của rừng tăng nhanh từ 38% năm 2001 lên 44,5% năm 2007, tuy nhiên đóng góp của ngành vào tăng trưởng còn thấp. 2.2.3.3 Về thuỷ sản Trong những năm qua, giá trị sản xuất thuỷ sản tăng khá cao đạt 172,7%/năm. Năm 2007, tổng sản lượng thuỷ sản đạt 34.300 tấn, tăng 0,3% so với năm 2006; trong đó: nuôi trồng và đánh bắt nội địa đạt 12.000 tấn, khai thác hải sản 22.300 tấn. Như vậy, sản xuất nông nghiệp là nghề chính của các tỉnh, nhất là các xã đặc biệt khó khăn nhưng giá trị sản phẩm còn thấp. Chăn nuôi là thế mạnh của vùng (nhất là trâu bò) đã góp phần tăng thu nhập và có nơi trở thành hàng hoá. Nghề nuôi trồng thuỷ sản có phát triển nhưng chưa mạnh mẽ còn nghề rừng là thế mạnh của vùng nhưng chưa được khai thác có hiệu quả nên sản phẩm còn chiếm tỷ trọng thấp. 2.2.4. Công nghiệp Sản xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp từng bước phát triển, tuy nhiên quy mô và trình độ phát triển của công nghiệp Hà Tĩnh tương đối thấp. Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 1.390 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2006. Trong đó: Khu vực kinh tế Nhà nước tăng 40%, khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 7% và khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tăng 70% so với năm 2006. Giá trị tăng thêm đạt 746 tỷ đồng, tăng 16,5%. 2.2.5. Thương mại và dịch vụ Thương mại và du lịch đã có bước phát triển khá, nhịp độ tăng trưởng cao, có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hoạt động Thương mại - Du lịch đáp ứng nhu cầu về trao đổi hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất, đảm bảo thực hiện đúng chính sách của nhà nước và góp phần ổn định giá cả. Năm 2007, Tổng mức lưu chuyển hàng hoá đạt 4.850 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2006. Chương trình du lịch được quan tâm và triển khai có hiệu quả. Tổng lượng khách du lịch đạt trên 240.000 lượt người, tăng 20% so với năm 2006, trong đó khách nước ngoài tăng 11%; doanh thu ngành du lịch đạt 80 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2006. Cơ sở hạ tầng và chất lượng dịch vụ tại một số điểm du lịch Thiên Cầm, Xuân Thành, Ngã ba Đồng Lộc, Đèo Ngang, Chùa Hương Tích được cải thiện một bước, đây là Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 45 triệu USD, tăng 18,5% so năm 2006; Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như quặng kim loại, thuỷ sản, dăm gỗ, hàng nông sản… đạt thấp. Kim ngạch nhập khẩu đạt 8 triệu USD, tăng 60% so với năm 2006. 2.2.6. Tài chính ngân hàng Thu thuế và thu khác ngân sách nội địa năm 2007 đạt 607,2 tỷ đồng, bằng 107% dự toán HĐND tỉnh giao (kể cả tiền thu từ đất). Trong đó: thu từ cấp quyền sử dụng đất đạt 134%, thu quốc doanh đạt 72% và thu ngoài quốc doanh đạt 93% so với dự toán. Thu thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT và thuế TTĐB hàng nhập khẩu đạt 60 tỷ đồng, tăng 90,5% so với năm 2006. Chi ngân sách cơ bản đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi cho công tác phòng chống, khắc phục hậu quả các cơn bão số 2 và số 5, ổn định đời sống nhân dân các vùng bị thiệt hại do lũ lụt. Tổng chi ngân sách đạt 2.872,9 tỷ đồng, bằng 105% dự toán (số liệu 2007) Hoạt động Tín dụng - Ngân hàng cơ bản đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Tổng nguồn vốn huy động đạt 4.345 tỷ đồng, tăng 31,4% so với năm 2006, dư nợ tín dụng đạt 5.075 tỷ đồng Ngân hàng chính sách đi vào hoạt động ổn định, triển khai chương trình tín dụng cho các đối tượng chính sách và sinh viên. Việc áp dụng nhiều hình thức huy động tiết kiệm tiện lợi, hấp dẫn cùng các thang bậc lãi suất linh hoạt giúp ngân hàng và các quỹ tín dụng thu hút được nhiều tiền gửi của dân cư đồng thời đáp ứng nhu cầu vay vốn để kinh doanh, sản xuất của nhân dân, có ý nghĩa thiết thực đối với các hộ nghèo, vùng nghèo, xã nghèo. 3. Tình hình phát triển xã hội 3.1 Tình hình dân số và lao động Dân số Hà Tĩnh đến cuối năm 2007 là 1.289,1 nghìn người, trong độ tuổi lao động khoảng 678.244 người, chiếm 52,59% dân số. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 630.022 người, Biểu 7: Cơ cấu lao động năm 2007 Đơn vị Lao động Tổng số % 100,0 Nông, lâm nghiệp, thủy sản % 81,9 Công nghiệp, xây dựng % 6,2 Khu vực dịch vụ % 11,9 Biểu 8: Dân số và nguồn lao động năm 2007 Chỉ tiêu 2007 Tổng dân số (1000 người) 1289,1 - Dân số thành thị (1000 người) 142,5 % so với tổng số 11,0 - Dân số nông thôn (1000 người) 1147,05 - Dân số trong tuổi LĐ (1000 người) 678,244 % so với dân số 52,59 -Lao động có nhu cầu việc làm 647,6 % so tổng số 93 Nguồn lực lao động dồi dào, hiện tượng dư thừa lao động nông thôn gây sức ép rất lớn về nhiều mặt cho quá trình phát triển nền kinh tế nhất là xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm hiện nay. Do đó, để sử dụng tốt hơn nguồn lao động nông nghiệp trong nông thôn, trước mắt phải giải quyết vấn đề khó khăn phức tạp như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, phát triển ngành nghề, mời gọi các công ty, liên doanh trong nước và nước ngoài vào tỉnh để giải quyết lao động dư dôi trong nông thôn nhằm góp phần XĐGN một cách có hiệu quả nhất. 3.2. Y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân và kế hoạch hoá gia đình Mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe phát triển khá hoàn chỉnh, từ tỉnh xuống xã đáp ứng nhu cầu chữa trị bệnh thông thường cho nhân dân trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường, năm 2007 bình quân 6.75 bác sỹ/1vạn dân, có 37,5% số xã có bác sỹ, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 43,5% năm 2000, 26% năm 2005 xuống còn 24,7 năm 2007. Hàng năm tổ chức nhiều đợt khám bệnh miễn phí cho hàng vạn lượt người thuộc diện chính sách, hộ nghèo, vùng sâu vùng xa. Đồng thời công tác KHHGĐ được triển khai, thực hiện tốt tạo nhiều chuyển biến về nhận thức của người dân, đặc biệt là các hộ nghèo. Song, cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh đang xuống cấp và thiếu trong khi nhu cầu người dân ngày càng cao. 3.3. Giáo dục- đào tạo Giáo dục và đào tạo đã được quan tâm phát triển toàn diện ở tất cả các ngành, bậc học, là một trong 6 tỉnh dẫn đầu cả nước về chất lượng đại trà và mũi nhọn. Phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đúng tuổi tiếp tục được củng cố, trong đó 75% số xã, phường, thị trấn đạt kết quả vững chắc. Đặc biệt năm 2007, kỳ thi tốt nghiệp kết quả đạt 86,97%, 41 học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia, 7.029 em đậu vào các trường đại học, cao đẳng. Cơ sở trường lớp từng bước được kiên cố hoá và bước đầu được cải thiện. Tuy nhiên, giáo dục phát triển mạnh chủ yếu về quy mô, chuyển biến chất lượng chậm, chưa đồng đều giữa các bậc học, vùng, hiệu quả chưa cao; cơ sở vật chất nhìn chung còn yếu kém do đó trong thời gian tới cần đẩy mạnh hơn nữa về giáo dục- đào tạo. 3.3. Văn hoá - Thông tin, Thể dục - Thể thao: Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, làng văn hoá, cơ quan văn hoá tiếp tục triển khai sâu rộng. Đến nay có 270.000 gia đình văn hoá, đạt 100% kế hoạch; tăng thêm 100 công sở văn minh và 140 làng, khối phố văn hoá. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử, văn hoá được quan tâm và đầu tư; Quản lý nhà nước về hoạt động văn hoá được củng cố. Có 85% số hộ được xem truyền hình quốc gia và 95% số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam. Phong trào thể thao quần chúng tiếp tục phát triển, thu hút nhiều đối tượng tham gia; tổ chức thành công 12 giải thể thao cấp tỉnh với 2.200 VĐV tham gia. Thể thao thành tích cao giành thêm 118 huy chương các loại. Vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đời sống văn hoá còn kém, thiếu thông tin, hiểu biết pháp luật hạn chế, chính vì vậy công tác văn hoá, thông tin và thể dục thể thao cần tiếp tục đẩy mạnh trong các năm tới. 3.5. Công tác chính sách xã hội, việc làm và xoá đói giảm nghèo Có bước chuyển biến tiến bộ. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công, các thương binh, gia đình liệt sĩ, các đối tượng chính sách. Từ 2001-2007 xây dựng 25599 ngôi nhà cho hộ nghèo và gia đình chính sách. Đã quan tâm tạo việc làm tại chỗ trên địa bàn, đồng thời chú trọng xuất khẩu lao động. Từ năm 2001- 2007 đã giải quyết việc làm cho 201.080 người góp phần giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở đô thị từ 4,9% (năm 2001) xuống 3,15% (năm 2007); tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn từ 78% (năm 2001) lên 89,5% năm 2007. Chương trình xoá đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ, mua bảo hiểm y tế cho 424.534 người nghèo, trị giá 33 tỷ đồng, tổ chức khám chữa bệnh cho 28.600 lượt người thuộc đối tượng chính sách, hộ nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 32,06% (chỉ giảm 0,7% do ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 2 và số 5). II. NHỮNG CHÍNH SÁCH XĐGN CỦA NHÀ NƯỚC VÀ ĐỊA PHƯƠNG ÁP DỤNG TRONG THỜI GIAN QUA 1. Các chủ trương, chính sách về công tác XĐGN của Nhà nước Xoá đói giảm nghèo là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới để thực hiện tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững gắn với thực hiện công bằng xã hội. Cùng với đó, giải quyết vấn đề đói nghèo cũng thể hiện mạnh mẽ cam kết của Đảng, Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ. Chính vì vậy, xoá đói giảm nghèo luôn là trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, của mọi người dân và của chính người nghèo nhằm thực hiện mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Từ đại hội VII (năm 1991) Đảng ta đã đề ra chủ trương chính sách xoá đói giảm nghèo. Nghị quyết đại hội VII nêu rõ “ Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành công tác XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân ._.èo. Đồng thời thu hút và lồng ghép các nguồn đầu tư quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong công cuộc XĐGN. Muốn thực hiện giải pháp này phải tăng cường vai trò của chính quyền từ khâu xây dựng kế hoạch, xác định mục tiêu đến việc tổ chức thực hiện kế hoạch. Trong quá trình lồng ghép không làm lu mờ vai trò điều hành dự án của các cơ quan chủ quản, một mặt phải có sự tích cực, chủ động của cơ quan quản lý dự án phối hợp với nhau thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, mặt khác phải có sự can thiệp của chính quyền qua công cụ kế hoạch. 2. Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để xoá đói giảm nghèo Nền kinh tế Hà Tĩnh kém phát triển dựa chủ yếu vào vùng sản xuất nông nghiệp. Hơn 90% người nghèo sống ở khu vực nông thôn, thu nhập và đời sống họ gặp vô cùng khó khăn. Do đó, việc phát triển nông nghiệp và nông thôn là giải pháp quan trọng trong công tác XĐGN hiện nay, trước mắt cần tập trung vào những vấn đề sau: 2.1. Nâng cao hiệu quả và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp 2.1.1. Các giải pháp về đất đai và thuỷ lợi Đất đai và thuỷ lợi là hai yếu tố quan trọng hàng đầu với sản xuất nông nghiệp, nó quyết định đến năng suất, sản lượng sản xuất nông nghiệp. Vì vậy cần: - Giao quyền sử dụng đất cho các hộ nông dân dưới nhiều hình thức thích hợp để người dân yên tâm đầu tư vào sản xuất trên diện tích đất của mình. - Khuyến khích nông dân tự bỏ vốn và sức lao động để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hê thống kênh mương và giao thông nông thôn. - Đầu tư hỗ trợ xã nghèo, vùng nghèo xây dựng các công trình thuỷ lợi ở những nơi có điều kiện, nâng cấp các hồ đập đã bị xuống cấp và thực hiện chủ trương kiên cố hoá kênh mương. 2.1.2 Áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật Áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật như trang bị công nghê, vật tư và thiết bị tiên tiến trong nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu, thuỷ lợi..), cải tiến giống và phương thức canh tác từng bước đầu tư phát triển cơ giới hoá, điện khí hoá có ý nghĩa rất to lớn trong việc nâng cao sản lượng và năng suất nông nghiệp đặc biệt là công nghệ về giống, về chế biến và bảo quản sản phẩm sau thu hoạch, đồng thời cải tạo nông nghiệp tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp hiện đại. 2.1.3 Về công tác đào tạo nghề Hiện nay tỷ lệ có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp trong tổng nguồn lao động. Việc đào tạo lao động chuyên môn kỹ thuật cho người lao động còn hạn chế do các nguyên nhân: giáo dục xuống cấp, kinh tế nhiều vùng thấp kém không có điều kiện để theo học, nhà nước chưa có chính sách quan tâm đào tạo, phân phối sức lao động kỹ thuật cho nông thôn. Vì vậy, cần mở rộng đào tạo nghề, nâng cao trình độ về kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất cho người lao động và hộ đói nghèo. Đi đôi với đào tạo, hướng dẫn kiến thức, kinh nghiêm cần phải dạy văn hoá cho họ để họ có năng lực, trí tuệ, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả cao hơn, khơi dậy cho họ ý chí vươn lên của người nghèom, xã nghèo, chống tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cộng đồng. Mặt khác, nhà nước cũng cần đầu tư xây dựng KCHT trong ngành giáo dục đào tạo và hỗ trợ một phần kinh phí cho các cơ sở dạy nghề tại các địa phương giúp làm giảm gánh nặng kinh phí cho người nghèo đi học. 2.1.4. Thực hiện chính sách tín dụng Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo, người yếu thế, người bị rủi ro và ưu tiên cho phụ nữ có nhu cầu cần được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý, kịp thời và đúng thời vụ để phát triển sản xuất. Trước mắt áp dụng chính sách lãi suất thấp cho người nghèo. Về lâu dài sẽ chuyển sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng được đơn giản hoá thủ tục gắn với đào tạo hơn là áp dụng các chế độ ưu đãi về lãi suất, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn vay cho người nghèo, tạo việc làm mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cải thiện thu nhập. 2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đa dạng hoá thu nhập ở nông thôn Một nền kinh tế thuần nông không thể đem lại sự giàu có, ổn định và phồn vinh cho người dân. Do đó chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hóa là một biện pháp quan trọng để xoá đói giảm nghèo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn giảm tỷ lệ thuần nông, tăng việc làm phi nông nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tạo là một phương thức thích hợp và trên thực tế đã đem lại hiệu quả thiết thực ở nhiều nước đang phát triển. Nó không những làm tăng thu nhập cho nông dân mà không cần phải sử dụng đến các giải pháp di dân. Muốn vậy cần: - Một mặt, chúng ta giúp từng hộ, từng xã nghèo có kế hoạch sản xuất lương thực một cách phù hợp, mặt khác phát triển các loại cây trồng khác như cây ăn quả và cây công nghiệp phù hợp với khí hâu và đất đai. - Đặc biệt lưu ý đến phát triển mô hình VAC hoặc mô hình trang trại nhỏ, đây là hai mô hình khá phổ biến ở các khu vực nông thôn miền núi và trung du. - Cần phát triển mạnh mẽ ngành nghề phi nông nghiệp, đây là xu hướng cơ bản để phát triển nông thôn trong tương lai. Do đó cần phải khôi phục lại các làng nghề truyền thống nhằm phát huy các lợi thế về tay nghề của các nghệ nhân, nhãn hiệu truyền thống cũng như các thị trường tiêu thụ truyền thống; phát triển các ngành có khả năng tạo việc làm tại chỗ những lao động dư thừa ở nông thôn như ngành chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật và tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp; phát triển mạng lưới dịch vụ trong nông nghiệp từ dịch vụ tín dụng, bảo hiểm, cung cấp hàng tiêu dùng, vật tư, máy móc đến các dịch vụ mua bán, chế biến lương thực, thực phẩm…Do đó nhà nước cần có các chính sách và cơ chế khuyến khích các hoạt động này như về ưu đãi, tín dụng, giảm các loại thuế và những vướng mắc về thị trường. 3. Phát triển công nghiệp tạo việc làm và nâng cao mức sống cho người nghèo Phát triển các ngành công nghiệp trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh về tài nguyên, nguồn nguyên liệu và nguồn lao động để tạo việc làm cho cư dân đô thị tác động thúc đẩy kinh tế nông thôn sẽ đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người lao động, nhất là người nghèo ở thành thị và nông thôn. Cụ thể là: - Đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành công nghiệp gắn với nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh. Phấn đấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 33%/năm, giá trị gia tăng tăng trên 24%/năm, giá trị gia tăng khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 35% trong cơ cấu GDP. Tập trung mọi nguồn lực xây dựng Khu kinh tế Vũng áng, Khu công nghiệp Gia Lách, Khu công nghiệp Hạ Vàng ... và các cụm công nghiệp, làng nghề. Phát triển một số cơ sở sản xuất lớn có tính chất đòn bẩy, đặc biệt là tích cực chuẩn bị các điều kiện để sớm khai thác mỏ sắt Thạch Khê gắn với xây dựng khu liên hợp luyện thép, Trung tâm nhiệt điện... Đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành công nghiệp mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế và các sản phẩm có thì trường xuất khẩu như công nghiệp khai khoáng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp điện tử - công nghệ thông tin ... Tích cực đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất hiện có. Triển khai đầu tư một số dự án mới như Nhà máy chế biến Pigment, Xi măng, Sản phẩm nội thất Thạch Cao, sản xuất que hàn, nhà máy sản xuất phụ tùng ô tô, đá ốp lát, các nhà máy chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển đa dạng các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng. - Tăng cường hệ thống dịch vụ giới thiệu việc làm, tạo cho người nghèo cơ hội tìm việc làm phù hợp, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động. 4. Phát triển cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận dịch vụ công Việc thiếu cơ sở hạ tầng đặc biệt là ở các xã vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc, miền núi là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến đói nghèo. Do đó việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội là khâu quan trọng hỗ trợ cho các xã nghèo, người nghèo, vùng nghèo tạo điều kiện tiếp cận thị trường, phát triển, mở rộng sản xuất, dịch vụ theo hướng tiếp tục tập trung vào những lĩnh vực chủ yếu sau: 4.1. Về phát triển và sử dụng điện ở các xã nghèo Do các xã nghèo, xã vùng đặc biệt khó khăn không thể tự mình đưa mạng lưới điện về vùng, do đó nhà nước cần thiết phải hỗ trợ các mặt sau: - Nhà nước hỗ trợ xây dựng mạng lưới điện quốc gia đến tận thôn bản. - Nhà nước hỗ trợ vốn hoặc cấp tín dụng ưu đãi không lãi suất với cấp nước thuỷ lợi, sức gió…trong việc xây dựng các trạm điện vừa và nhỏ để cấp điện cho nhân dân các xã vùng sâu, vùng xa không có điều kiện nối lưới điện quốc gia hoặc việc kéo và sử dụng điện lưới quốc gia rất khó khăn, tốn kém. - Nhà nước hỗ trợ kinh phí nối điện cho các gia đình khó khăn từ nguồn chung vào đến tận nhà và lắp đường dây điện trong nhà, cung cấp cho các hộ dân tộc ít người đặc biệt khó khăn một chính sách giá thích hợp để khuyến khích họ dùng điện vào các hoạt động sản xuất kinh doanh phấn đấu đến năm 2010 các xã đặc biệt khó khăn có 80% số hộ sử dụng điện. - Hỗ trợ kinh phí cho hoạt động duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa lớn thường xuyên cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa cho người dân. - Đào tạo, tập huấn cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ quản lý, vận hành và duy tu, bảo dưỡng hệ thống phân phối điện, đặc biệt nên đào tạo, tập huấn cho chính đồng bào dân tộc ít người để họ tự quản lý và bảo dưỡng hệ thống phân phối điện trong làng, bản của họ. - Ưu tiên đồng bào các dân tộc tình nguyện làm việc tại các vùng dân tộc và các chính sách ưu đãi hợp lý, tiền lương đảm bảo. 4.2. Về phát triển đường giao thông Đặc điểm của các vùng, xã nghèo có hệ thống giao thông lạc hậu, kém phát triển gây nên những trở ngại cho người dân, chính vì vậy một khi đã giải quyết vân đề này sẽ là cơ hội của người người nghèo thoát khỏi đói nghèo: Kết hợp hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm để xây dựng mới, nâng cấp đường giao thông và thay thế cầu khỉ tạo thuận lợi cho người dân trong sản xuất và sinh hoạt. Tiếp tục chương trình đầu tư xây dựng đường giao thông cho các xã nghèo, vùng nghèo. Có chính sách ưu đãi để ưu tiên mở rộng mạng lưới giao thông nông thôn và nâng cấp các tuyến đường hiện có. Đảm bảo 100% xã có đường ô tô vào trung tâm xã, riêng đối với các xã miền núi trước mắt có đường đi cho xe cơ giới 2 bánh hoặc xe ngựa, sau đó mở rộng cho ô tô. Từng bước cứng hoá mặt đường, đảm bảo ô tô đi lại quanh năm. Nhà nước nên trợ giúp về phương tiện kỹ thuật và thuê lao động địa phương sẽ giải quyết được công ăn việc làm cho những người nghèo hoặc trợ quỹ dưới hình thức nhà nước cho không lương thực, dân đóng góp ngày công. Các nguồn vốn cần chuyển thẳng về cấp huyện để tránh vòng vèo và chi phí quản lý, các hiện tượng tiêu cực, thất thoát ở các cấp trên. Đồng thời dành quyền chủ động cho cấp huyện, có sự tham gia của cộng đồng vào kế hoạch ưu tiên. Như vậy sẽ sát hợp với yêu cầu của người dân hơn là sự vạch kế hoạch, chỉ định mục tiêu từ cấp tỉnh và cấp trung ương một cách áp đặt. Ngoài ra, vốn cho giao thông còn có thể huy động một phần tử các chương trình dự án trên địa bàn nếu thấy giao thông là rất cần và tạo điều kiện để góp phần tăng hiệu quả của chính các chương trình dự án đang và sẽ thực hiện. Hoặc góp phần tích cực xoá đói, giảm nghèo tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương. Thường xuyên tiến hành duy trì và bảo dưỡng đường miền núi. Do địa hình dốc, phức tạp, độ xói mòn lớn, mưa gió bất thường nên đường thường xuyên hư hỏng nặng sau mùa mưa. Về lâu dài cần có kế hoạch từng bước nâng cao đường giao thông theo hướng nhựa hoá tỉnh lộ, đá hoá huyện lộ,cơ giới hóa xa lộ và mở rộng đường liên thôn, liên bản để xe ngựa và xe máy có thể đi lại dễ dàng. Tạo cơ hội và những điều kiện về năng lực để các vùng nghèo, người nghèo chủ động quản lý có hiệu quả hệ thống giao thông nông thôn. Đường Hồ Chí Minh là con đường xuyên Việt lớn thứ hai sau quốc lộ số 1 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội và giảm nghèo các vùng lãnh thổ con đường đi qua. Vùng tác động trực tiếp của đường Hồ Chí Minh ở vùng Bắc Trung Bộ bao gồm 43 huyện với 847 xã. Đáng lưu ý là hầu hết đường Hồ Chí Minh đi qua đều là những huyện nghèo, phần lớn là những xã khó khăn và có khá nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Tuy nó có tác động tiêu cực là: nguy cơ khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; nguy cơ tác động xấu tới thiên nhiên như: Giảm diện tích xanh, nghèo nàn hệ thống thực vật, xói mòn, lũ lụt…nhưng nó có tác động tích cực là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, CNH- HĐH, nâng cao giá trị lịch sử và nhân văn, bảo tồn và khai thác cảnh quan môi trường, góp phần xoá đói giảm nghèo. Hướng phát triển là xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nông- lâm nghiệp kết hợp với hình thành các vùng chuyên canh tạo nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, phát triển giáo dục, y tế, đào tạo nguồn nhân lực. Hình thành được hệ thống các điểm kinh tế mới và các điểm dân cư. Đồng thời gắn với bảo vệ môi trường và hệ sinh thái rất đa dạng trong vùng. 4.3. Về phát triển thuỷ lợi nhỏ và cung cấp nước sạch cho các xã nghèo Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển thuỷ lợi nhỏ cho các xã nghèo, vùng nghèo, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn có 80% số hộ đủ nước sinh hoạt. Đối với chương trình 135, nhà đầu tư xây dựng công trình mới (nếu chưa có công trình) và sửa chữa, nâng cấp công trình hiện có. Đối với các xã gần công trình lớn, nhà đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương dẫn từ công trình chính, tạo nguồn nước và hỗ trợ vật tư để nhân dân tự xây dựng kênh mương dẫn nội đồng. Đối với các địa bàn vùng cao đặc biệt khó khăn không có ruộng nước, nếu có điều kiện Nhà nước hỗ trợ xây dựng ruộng bậc thang giúp người nghèo sản xuất lương thực nhằm xoá đói. 4.4. Về phát triển mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống phát thanh Đẩy nhanh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới thông tin của vùng theo hướng hiện đại. Chú trọng phát triển các dịch vụ thông tin hiện đại phục vụ các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch và các đô thị. Mở rộng và đa dạng hoá mạng lưới thông tin nông thôn, đảm bảo tất cả các thôn bản trong vùng đêuf được tiếp cận các phương tiện thông tin phổ cập. 5. Phát triển các dịch vụ giáo dục, y tế và chương trình kế hoạch hoá cho người nghèo Tăng trưởng kinh tế góp phần tạo nhiều cơ hội tăng thu nhập cho người nghèo. Tuy nhiên, trong đó một số người nghèo không tận dụng được cơ hội do mù chữ, thiếu kỹ năng, kém sức khoẻ và dinh dưỡng. Do vậy việc đảm bảo cho người nghèo trong việc tiếp cận được các dịch vụ xã hội đó là giáo dục, chăm sóc y tế và kế hoạch hoá gia đình có tầm quan trọng rất lớn giảm bớt những hậu quả của sự nghèo đói. Do đó cần phải: 5.1. Phát triển giáo dục, rút ngắn chênh lệch về thụ hưởng giáo dục đảm bảo công bằng và nâng cao chất lượng giáo dục cho người nghèo. - Đầu tư cải thiện và từng bước hiện đại hoá cơ sở giáo dục- đào tạo để nâng cao chất lượng. Chú trọng các vùng miền núi, vùng đồng bằng dân tộc để tăng cơ hội và rút ngắn khoảng cách chênh lệch về thụ hưởng dịch vụ giáo dục. Nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo của các trường dân tộc nội trú. Chú trọng hỗ trợ về đào tạo và chính sách đối với giáo viên để mở rộng mạng lưới nhà trẻ mẫu giáo. Có chính sách hỗ trợ về vật chất để thu hút trẻ em các dân tộc thiểu số đi học mẫu giáo trước khi vào lớp 1. - Xây dựng trung tâm dạy nghề kỹ thuật cao và đào tạo có trọng điểm một số nghề nhằm đáp ứng nhu cầu về lao động kỹ thuật đặc thù của vùng. - Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục ( vì tỷ lệ nhập học của vùng khá cao và mạng lưới cơ sở giáo dục trong vùng tương đối rộng khắp, thuận tiện), từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về thụ hưởng và chất lượng giáo dục của vùng so với các vùng phát triển. - Kiên cố hoá trường học: đến năm 2010 có hơn 90% trường lớp được kiên cố hoá, xóa lớp ca 3, khoảng 90% trẻ em trong độ tuổi đi học tiểu học, 77% trẻ em trong độ tuổi đi học trung học cơ sở. - Đảm bảo đủ giáo viên cho các cấp học về số lượng và cơ cấu, đồng thời nâng cấp chất lượng giáo viên (năm 2010 có 100% giáo viên đạt chuẩn). Có chính sách hợp lý khuyến khích giáo viên ( về tiền lương, nhà ở, chế độ luân chuyển rõ ràng, đào tạo và phân công theo hình thức cử tuyển, sử dụng hình thức tình nguyện viên đối với sinh viên sư phạm mới ra trường…) để đảm bảo đủ giáo viên cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. - Hỗ trợ trẻ em các hộ nghèo và trẻ em đồng bào các dân tộc thiểu số (miễn giảm học phí, cấp miễn phí sách giáo khoa và vở viết, thành lập các trường lớp bán trú nuôi dân và có sự hỗ trợ của nhà nước về ở và ăn tại trường…). Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường dân tộc nội trú. - Khuyến khích, hỗ trợ toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục để tăng cường nguồn tài chính cho giáo dục đào tạo. Một mặt tăng tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục mặt khác mở rộng quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục. Tạo môi trường pháp lý và có cơ chế khuyến khích (ưu đãi về sử dụng đất, thuế, lãi suất tín dụng…) để thành lập và mở rộng mạng lưới các trường bán công, tư thục. - Tiếp tục cử tuyển con em đồng bào dân tộc thiểu số vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. 5.2. Tăng cường các dịch vụ y tế và giảm chi phí y tế cho người nghèo - Triển khai đầy đủ các chương trình mục tiêu y tế quốc gia đến tận người dân, đảm bảo 100% người dân được hưởng lợi. Tổ chức các đợt khám chữa bệnh lưu động, miến phí, định kỳ xuống các thôn bản. Phát hiện sớm và phòng chống dịch bệnh có hiệu quả ngay từ tuyến cơ sở, khống chế và dập tắt, không để dịch lớn xẩy ra trên địa bàn. - Tập trung cải tạo và nâng cấp các cơ sở y tế tuyến xã, phòng khám đa khoa và bệnh viện tuyến huyện để tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế tại tuyến cơ sở và cung cấp dịch vụ y tế với chất lượng ngày càng cao cho mọi người dân. Đến năm 2010 đạt mục tiêu trạm y tế xã có bác sỹ và có trạm y tế được xây dụng kiên cố. - Đảm bảo đủ nguồn nhân lực y tế cho tuyến cơ sở cả về số lượng và cơ cấu chuyên môn, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ y tế để cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao cho người dân ngay ở tuyến cơ sở, rút ngắn chênh lệch, thực hiện công bằng về thụ hưởng dịch vụ y tế có chất lượng. - Cần phải thiết lập một cơ chế và xây dựng một hệ thống y tế trợ cấp cho người nghèo, hộ dân tộc ít người. Áp dụng các loại giá khác nhau cho việc sử dụng các dịch vụ y tế khám và chữa bệnh cho các nhóm người có mức thu nhập khác nhau, kể cả áp dụng các chính sách miễn phí cho những người đặc biệt khó khăn. - Đa dạng hoá các loại bảo hiểm y tế để mở rộng các đối tượng và số người tham gia BHYT - Đảm bảo thuốc thiết yếu thông thường đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn qua bảo hiểm y tế và cấp vốn kinh doanh thuốc cho các trạm y tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cộng đồng. 5.3. Thực hiện có kết quả chương trình kế hoạch hoá gia đình và giảm tốc độ tăng dân số Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo là do sinh đẻ quá nhiều gây nên những hậu quả nghiêm trọng như nạn thất nghiệp, tỷ lệ người phụ thuộc quá cao, suy giảm sức khoẻ bà mẹ trẻ em, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình đồng thời tạo gánh nặng cho xã hội. Chính vì vậy, chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình là một chương trình lồng ghép quan trọng nhằm xoá đói giảm nghèo. Muốn thực hiện được thì trước hết phải hỗ trợ cho dân số nông thôn có thể tiếp cận được phương tiện nghe, nhìn, sách báo... để họ hiểu được biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Cần hỗ trợ cho họ các loại thuốc và dụng cụ tránh thai không phải trả tiền. Cần có các chính sách về lợi ích vật chất để khuyến khích họ sinh đẻ có kế hoạch. 6. Phát triển mạng lưới ASXH giúp đỡ người nghèo Hà Tĩnh là tỉnh tập trung số lượng lớn đối tượng chính sách xã hội (người có công với nước, thương binh), tỷ lệ người tàn tật cao, nhóm người dễ bị tổn thương lớn và thiên nhiên khắc nghiệt nên việc mở rộng và tăng cường mạng lưới an sinh xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách trợ giúp của nhà nước đối với các nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không có cơ hội tự tạo việc làm hoặc đi làm thuê để họ có thu nhập đủ nuôi sống bản thân và tham gia vào các hoạt động cộng đồng. - Tăng cường mạng lưới ASXH thông qua phát triển và củng cố các quỹ của xã hội và đoàn thể. Trợ giúp nhân đạo thường xuyên đối với người nghèo, người không có sức lao động và không nơi nương tựa. Triển khai hoạt động của các quỹ này tại những cộng đồng làng xã, nơi tập trung nhiều người nghèo, trong đó chú trọng các hình thức trợ cấp bằng hiện vật (gao, thực phẩm, áo quần…) đối với các đối tượng rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. - Phát triển trung tâm bảo trợ xã hội ở những xã nghèo, xã gặp rủi ro thường xuyên để nuôi dưỡng các đối tượng mất khả năng cơ hội kiếm sống. Điều chỉnh lại cơ cấu phân bổ ngân sách để thực hiện chính sách xã hội theo hướng trao quyền chủ động cho các địa phương, đặc biệt là cấp xã huyện để phát triển cộng đồng ở làng xóm và cấp xã. - Xây dựng hệ thống cứu trợ xã hội đột xuất nhằm đảm bảo sự hoạt động hữu hiệu hơn hệ thống. Đối với người nghèo, người dễ bị tổn thương khi gặp rủi ro như thiên tai, tai nạn và các hoạt động xã hội không thuận lợi, cần có giải pháp giúp đỡ cứu trợ đột xuất, đồng thời phải giúp đỡ phòng chống có hiệu quả khi gặp thiên tai. Hỗ trợ một phần kinh phí để cải thiện tình trạng nhà ở tránh bão, tránh lụt. 7. Thực hiên tốt việc xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo Công tác XĐGN ở Hà Tĩnh không chỉ là trách nhiệm, sự quan tâm và giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, sự cố gắng của bản thân người nghèo, hộ nghèo mà còn đòi hỏi sự giúp đỡ của cộng đồng xã hội về vật chất và tinh thần. Thực hiện tốt tinh thần “ tương thân, tương ái”, “lá lành đùm lá rách” đó là động lực mạnh mẽ để xoá đói giảm nghèo. Chính vì vậy cần tập trung: - Tuyên truyền giáo dục cho người dân nhận thức được công tác XĐGN là mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân họ. Vì vậy nguồn lực thiết thực nhất là của bản thân mỗi gia đình, mỗi nhóm dân cư, mỗi bản làng, với phương châm các gia đình hỗ trợ nhau làm kinh tế bằng cách trao đổi kinh nghiệm làm ăn nhằm khắc phục tư tưởng tự ty, mặc cảm, không chịu học hỏi kinh nghiệm làm ăn chỉ dựa vào hỗ trợ của nhà nước. - Nâng cao năng lực cán bộ các cấp chính quyền và đoàn thể, đặc biệt là cán bộ thôn, xã, bản. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ cơ sở có khả năng tiếp thu và truyền đạt chủ trương chính sách của nhà nước. Muốn vậy, cần tập trung: + Tổ chức những điểm tập huấn với các hình thức tập huấn cho cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp tỉnh, huyện, xã về công nghiệp hóa, hiện đại hoá kinh tế thị trường, kinh tế đối ngoại, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế… + Tăng cường cán bộ cho cơ sở vùng sâu, vùng xa và vùng biển giới hải đảo. Cải tiến và ban hành các chính sách, chế độ khuyến khích cán bộ lên công tác ở vùng sâu, vùng xa, cán bộ người dân tộc. + Mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị tỉnh, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt, đương chức và kế cận ở cơ sở, cán bộ người dân tộc, củng cố các trường dân tộc nội trú của tỉnh, huyện, miền núi, trường dự bị đại học dân tộc, trường dân tộc vừa học vừa làm. + Tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo các cấp và đội ngũ công tác viên làm công tác XĐGN ở cơ sở. - Thực hiện quy chế dân chủ, công khai hoàn toàn bộ quỹ vốn vay và các nguồn hỗ trợ khác để nhân dân hiểu và tham gia vào công tác XĐGN. - Xã hội hoá việc huy động và sử dụng nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo và trợ cấp xã đối với người nghèo. Đặc biệt là thu hút vốn từ các bộ phận dân cư, của khu vực tư nhân, các hiệp hội ban ngành đoàn thể, các tổ chức trong và ngoài nước. Vai trò của các tổ chức đoàn thể trong công tác XĐGN là rất to lớn. Các tổ chức, đoàn thể đã giúp hội viên nghèo không chỉ vay vốn, lao động mà đặc biệt là kinh nghiệm làm ăn, nhờ có phong trào giúp đỡ nhau XĐGN của các tổ chức đoàn thể mà góp phần giảm tỷ lệ đói nghèo của tỉnh. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Quan điểm XĐGN một cách toàn diện là hệ thống tác động cộng hưởng đồng hướng đích bao gồm Nhà nước- doanh nghiệp- cộng đồng mà hành vi cuối cùng là bản thân người nghèo, hộ nghèo vươn lên hoà nhập cộng đồng cùng phát triển, đủ năng lực trí tuệ, nguồn lực và truyền thống độc lập tự chủ XĐGN trong hiện tại và làm giàu bền vững trong tương lai gần, xa. Để thực hiện tốt công tác XĐGN trong giai đoạn tới tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: - XĐGN cần có sự chỉ đạo tập trung, sự phối hợp chặt chẽ và phân công trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, ban ngành, đoàn thể các cấp và của toàn thể cộng đồng xã hội trong việc thực hiện, đánh giá, giám sát. Đặc biệt là trách nhiệm của chính bản thân người nghèo nên từ bỏ sự tự ti, mặc cảm, ỷ lại trông chờ vào cộng đồng để từ đó có ý chí quyết tâm phấn đấu thoát nghèo và hoà nhập xã hội. - Cũng cần lưu ý rằng, mọi hỗ trợ vật chất như tài chính, nhu yếu phẩm dù từ nguồn nào: Nhà nước, nhân dân, tập thể cơ quan, đơn vị, các tổ chức trong nước, quốc tế… và dưới hình thức nào cho vay hay không phải công khai, minh bạch và đưa đến tận tay các hộ nghèo, kiên quyết không để kẻ xấu lợi dụng trục lợi, tham nhũng. - Để thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác miền núi, dân tộc đề nghị tăng mức đầu tư từ 500 triệu đồng/xã/năm lên mức 1000triệu đồng/xã/năm để tập trung cho các mục tiêu: tiếp tục đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng và hỗ trợ nhân dân phát triển sản xuất nông- lâm ổn định, bền vững. - Các địa phương, đơn vị cần chủ động khắc phục những tồn tại yếu kém trong thực hiện các chương trình, dự án; bố trí kinh phí để thực hiện quản lý, duy tu bảo dưỡng các công trình đã được đầu tư sao cho hiệu quả. KẾT LUẬN Đói nghèo là hiện tượng kinh tế xã hội có tính chất phổ biến đối với mọi quốc gia, dân tộc. Đó là thách thức gay gắt đối với sự phát triển của thế giới hiện đại. Khắc phục hiện tượng này là mối lo toan thường xuyên của các quốc gia ở mọi khu vực, đòi hỏi nỗ lực chung giải quyết vấn đề có tính toàn cầu này. Đối với nước ta, XĐGN hướng tới xã hội phồn vinh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong xu thế hội nhập là vấn đề thời sự, bức xúc hiện nay. Đảng ta đặc biệt quan tâm tới XĐGN không chỉ cộng đồng dân cư nông thôn và còn đối với cả cộng đồng dân cư đô thị và mọi vùng miền trên cả nước nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, các cơ sở cách mạng, các đối tượng ưu tiên xã hội. Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác XĐGN, Đảng, chính quyền, nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã sớm phát động phong trào XĐGN. Trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND cùng phối hợp với các ngành, các cấp, các huyện thị với những chính sách thích hợp đối với người nghèo, xã nghèo. Qua nghiên cứu thực trạng nghèo đói ở địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, xác định nguyên nhân dẫn đến đói nghèo do hạn chế của chính người nghèo, do điều kiện tự nhiên và do xã hội tác động. Trên cơ sở chủ trương, chính sách đạt được trong những năm vừa qua, để giải quyết được vấn đề XĐGN đến năm 2010 cần áp dụng đồng bộ và hệ thống các giải pháp kinh tế gắn liền với giải pháp xã hội như: đẩy manh phát triển kinh tế- xã hội với tốc độ cao và bền vững kết hợp lồng ghép các chương trình, dự án; phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn để XĐGN; Phát triển công nghiệp tạo việc làm và nâng cao mức sống; Phát triển cơ sở hạ tầng cho xã nghèo, vùng nghèo, người nghèo tiếp cận dịch vụ công; Phát triển dịch vụ y tế, giáo dục, chương trình kế hoạch hoá cho người nghèo; phát triển mạng lưới ASXH và thực hiện tốt xã hội hoá công tác XĐGN. Qua đó ta thấy XĐGN là một vấn đề quan trọng không những được xã hội quan tâm mà còn là mục tiêu lớn của tỉnh, của quốc gia. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “ Hễ dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, hễ dân ốm đau là Đảng và Chính phủ có lỗi, hế dân không được học là Đảng và Chính phủ có lỗi” vẫn luôn có ý nghĩa sâu sắc trong mọi giai đoạn khi thực hiện nhiệm vụ XĐGN. TÊN TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006- 2010, 9- 2005. Công ty Aduki, Vấn đề nghèo ở Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, 1996. Diễn đàn kinh tế- tài chính Việt Pháp, Chính sách và chiến lược giảm bất bình đẳng và nghèo khổ. NXB. Chính trị quốc gia, 2003. Đoàn thị Thu Hà - Nguyễn thị Ngọc Huyền, Giáo trình Chính sách kinh tế- xã hội, NXB. Khoa học & kỹ thuật, 2006. Đoàn thị Thu Hà - Nguyễn thị Ngọc Huyền, Giáo trình Khoa học quản lý, NXB. Khoa học & kỹ thuật, 2002. Trần thị Thuý Sửu- Lê thị Anh Vân- Đỗ Hoàng Toàn, Giáo trình Tâm lý học quản lý kinh tế, NXB. Khoa học &kỹ thuật, 2003. Mai Quốc Chính, Giáo trình kinh tế lao động, NXB. Lao động- xã hội, 2000. Nguyễn thị Hằng, Vấn đề XĐGN ở nông thôn nước ta hiện nay, NXB. Chính trị quốc gia, 1997. Nguyễn mạnh Hùng, Chiến lược- kế hoạch- chương trình đầu tư phát triển KT-XH Việt Nam đến năm 2010, NXB.Thống Kê, 2004. Nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu Á và viện chiến lược phát triển, Định hướng giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội bền vững vùng biển Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ, 2004. Phạm Văn Vận- Vũ Cương, Giáo trình kinh tế công cộng, NXB. Thống kê, 2005. Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hà Tĩnh, Báo cáo rà soát chính sách dân tộc tại các địa phương, 2007. Tatyana p. Soubbotina, không chỉ là tăng trưởng kinh tế, NXB. Thông tin, 2005. Tạp chí Lao động xã hội, số 297, 10/2006, Hà Tĩnh tập trung xoá đói giảm nghèo, Đào Quang Diệm. UBND Tỉnh Hà Tĩnh, Báo cáo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến 2020, năm 2007. UBND tỉnh Hà Tĩnh, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển năm 2008. UBND tỉnh Hà Tĩnh, Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2006- 2010. Vũ thị ngọc Phụng, tăng trưởng kinh tế, cân bằng xã hội và vấn đề XĐGN ở VN, NXB. Chính trị quốc gia, 1999. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVI, NXB.Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2006 http: // kinh te 24.com. www.google.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12275.doc
Tài liệu liên quan