Giải pháp về tính cân đối giữa huy động & sử dụng nguồn vốn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU Khi Việt Nam chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cùng với sự ổn định và phát triển kinh tế, nhiều mô hình doanh nghiệp, nhiều loại hình kinh doanh trong đó có kinh doanh Ngân hàng, được tập trung đầu tư và phát triển. Ngành kinh doanh Ngân hàng là một trong những dịch vụ quan trọng hàng đầu và rất cần thiết trong cơ chế thị trường. Bên cạnh những đóng góp tích cực làm thay đổi đời sống kinh tế-xã hội cũng như trong công cuộc Hiệ

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp về tính cân đối giữa huy động & sử dụng nguồn vốn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đại hoá và Công nghiệp hoá đất nước, hoạt động Ngân hàng còn đòn bẩy kinh tế, là công cụ kiềm chế và đẩy lùi lạm phát nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, trong bối cảnh nền kinh tế-xã hội đang từng bước có những chuyển biến về cơ chế chính sách, cùng với sự phát triển và cạnh tranh của nhiều thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước, Ngân hàng là một bộ phận không thể thiếu giúp cho sự vận động hàng hoá, tiền tệ được nhanh chóng, thuận lợi hơn nhằm đạt hiệu quả đầu tư lớn nhất. Ngân hàng đã trở thành chiếc cầu nối, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế lớn mạnh không ngừng. Hệ thống NHTM được ví như huyết mạch của nền kinh tế. Để có một hệ thống tài chính Ngân hàng tốt Nhà nước đã đề ra chiến lược kinh tế:’’Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài chính, tiền tệ nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế xã hội ‘’. Trong cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, ngành nông nghiệp chiếm 80% với mạng lưới các Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn được phân bố rất rộng với nhiều chi nhánh ngân hàng trực thuộc khắp các tỉnh, thành phố vừa làm nhiệm vụ kinh doanh vừa làm chính sách. Trong những năm qua hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn không ngừng tạo dựng và duy trì niềm tin với khách hàng, nâng cao uy tín đã cùng với các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác đóng góp to lớn vào thực hiện thành công các mục tiêu của toàn ngành Ngân hàng. Chức năng nhiệm vụ to lớn trên của Ngân hàng đặt ra cho Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội nói riêng phải lành mạnh về tài chính, vững chắc về quản lý. Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là huy động và sử dụng nguồn , nên việc nghiên cứu tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn nhằm cân đối trong hoạt động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề đặt ra trong công tác quản lý của cán bộ lãnh đạo Ngân hàng. Với mục tiêu gắn liền với lý luận khoa học và thực tiễn, qua quá trình thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, dưới sự hướng dẫn của ban lãnh đạo, các cán bộ phòng tín dụng, các thầy cô giáo,em đã cân nhắc và chọn đề tài:’’Giải pháp về tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn nhằm đảm bảo hiệu quả kinh doanh tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội’’. Đề tài gồm 3 chương: CHƯƠNG I: Huy động vốn-sử dụng vốn. Nghiệp vụ chính yếu của một Ngân hàng thương mại. CHƯƠNG II: Thực trạng về cân đối giữa huy động và sử dụng nguồn vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội. CHƯƠNG III: Một số ý kiến về việc tăng cường khả năng cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội. CHƯƠNG I: HUY ĐỘNG VỐN-SỬ DỤNG VỐN NGHIỆP VỤ CHÍNH YẾU CỦA MỘT NGÂN HÀNG HƯƠNG MẠI I-NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ngân hàng và hoạt động Ngân hàng: Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp hình thành lâu đời nhất và là sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Trải qua quá trình phát triển của xã hội, ngành Ngân hàng không ngừng được hoàn thiện và phát triển thành một ngành có hoạt động vươn tới mọi ngõ ngách của nền kinh tế, vai trò của nó đối với nền kinh tế được ví như một mạch máu trong một cơ thể. Ở giai đoạn đầu hoạt động của mình, Ngân hàng mới chỉ thực hiện những nghiệp vụ đơn giản phục vụ nhu cầu xã hội, chủ yếu là các nhà buôn-là giữ hộ và thanh toán hộ. Đến nay hoạt động của Ngân hàng đã được phát triển mạnh với nhiều lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ và công nghệ ngày càng hiện đại thông qua sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Ngân hàng là một trung gian tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế, chuyên làm nhiệm vụ thu hút và chuyển giao vốn giữa người có vốn nhàn rỗi và người cần vốn để đầu tư. Trong nền kinh tế luôn xảy ra trạng thái mất cân bằng về vốn giữa các doanh nghiệp, dân cư.. Tại một thời điểm có người thừa vốn sẽ có nhu cầu cho vay lấy lãi, lại có những người thiếu vốn muốn có vốn để kinh doanh. Với tư cách là trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại (NHTM) đứng ra thu hút mọi khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho nền kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau, làm cho đồng tiền luôn ở trạng thái vận động mang lại lợi nhuận đồng thời góp phần điều hoà vốn cho toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động của Ngân hàng phản ánh rất chính xác sự vững mạnh, phồn thịnh hay yếu kém của nền kinh tế. Về mặt tổ chức, đến năm 1990 Việt Nam thành lập hệ thống Ngân hàng hai cấp: -Hệ thống Ngân hàng Nhà nước: bao gồm Ngân hàng Trung ương và các Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh, thành phố với các chức năng chủ yếu là quản lý, bảo đảm cho hoạt động của Ngân hàng chuyên doanh (NHTMi) được an toàn thông qua việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của hệ thống này. -Các NHTM đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền tệ bao gồm: các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng liên doanh với các chức năng chính là kinh doanh trên lĩnh vực tài chính, tiền tệ và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ NHTM hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của nhà nước thông qua các quy định, định chế hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn bản, chế độ của Ngân hàng Nhà nước. Theo pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ban hành ngày 23/05/90 thì NHTM được định nghĩa :’’Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán’’. Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản: -Nhận ký thác của doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế. -Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay hoặc chiết khấu. Như vậy các NHTM thực hiện một dịch vụ rất quan trọng đối với nền kinh tế bằng cách cung ứng những điều kiện thuận lợi cho việc gửi tiền. Người gửi tiền nhận được một khoản lãi, đồng thời được đảm bảo an toàn và khả năng thanh toán cao. 2. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại. 2.1. Chức năng trung gian tín dụng: Trong giai đoạn đầu, quan hệ tín dụng trên thị trường tài chính là quan hệ tín dụng trực tiếp giữa những người có tiền nhàn rỗi và những người cần vốn. Thực tế quan hệ tín dụng này đã gặp rất nhiều khó khăn cản trở như khó có điều kiện tiếp xúc, điều kiện phù hợp về khả năng cung ứng cùng nhu cầu của một khoản tín dụng cả về số lượng và thời gian, không gian, vấn đề tin cậy... dẫn đến chi phí phải bỏ ra của hai bên là rất lớn. Tình hình này tất yếu sẽ sản sinh ra một trung gian tài chính với khả năng thu hút mọi khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, hình thành quỹ tập trung thông qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiền gửi thanh toán, phát hành các giấy tờ có giá... Từ đó đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn của người đi vay. Nhờ chuyên môn hoá, các trung gian tài chính này có thể giảm được chi phí giao dịch, mức độ rủi ro... xuống mức thấp, góp phần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng hiệu quả của đồng vốn lưu thông trên thị trường. Điển hình của những trung gian tài chính đó là Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng thì Ngân hàng thương mại trở thành ‘’ Bà đỡ’’ cho các dự án kinh tế, tức là biến những ý tưởng kinh doanh thành các dự án có thực (được thực hiện). 2.2. Chức năng trung gian thanh toán. Khi hệ thống NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình thực hiện chức năng trung gian tín dụng, hệ thống NHTM đã thu hút đại bộ phận các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế mở tài khoản và sử dụng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng. Việc thanh toán chi trả tiền về hàng hoá, dịch vụ hay nhận các khoản tiền của doanh nghiệp, các cá nhân đều được chuyển giao cho Ngân hàng thực hiện. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, tiết kiệm chi phí giao dịch, tạo cơ sở cho Ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ cho vay, đồng thời kiểm soát được lượng tiền cần cung ứng trên thị thị trường. Qua thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, Ngân hàng đã trở thành người ‘’thủ quỹ ‘’ của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội. Các giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp, cá nhân thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng mà không cần trực tiếp thanh toán bằng tiền mặt nữa. Doanh nghiệp, cá nhân ra lệnh cho Ngân hàng thực hiện các khoản chi trả, đồng thời uỷ nhiệm cho Ngân hàng thu nhận các khoản tiền. 2.3. Chức năng tạo tiền. Tạo tiền là chức năng quan trọng của Ngân hàng thương mại, chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM trong mối quan hệ với Ngân hàng trung ương đặc biệt trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Việc cung tiền cần được đảm bảo bình thường cho lưu thông. Nếu cung tiền quá nhanh sẽ gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Mục đích của chính sách tiền tệ là thông qua các NHTM đưa ra khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định giá cả, thực hiện sự tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn việc làm. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các chính sách tiền tệ, được coi là một kênh dẫn vốn mà qua đó tăng-giảm lượng tiền lưu thông. Vai trò của Ngân hàng thương mại với nền kinh tế. Là một ngành kinh doanh đặc biệt, hoạt động của Ngân hàng thương mại có những đặc thù riêng gắn liền với loại hàng hoá đặc biệt đó là tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM rất đa dạng và phong phú, nó đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của nền kinh tế và được thể hiện ở các khía cạnh sau: 3.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Trong xã hội luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu vốn tạm thời. Những cá nhân, tổ chức có tiền nhàn rỗi tạm thời thì muốn bảo quản số tiền một cách an toàn và có hiệu quả nhất, trong khi đó có những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay được những khoản vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình như sản xuất và tái sản xuất. Từ các nhu cầu đó, NHTM đã đứng ra tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế, qua đó chuyển tiền thành Tư bản để đầu tư phát triển sản xuất và tăng cường hiệu quả hoạt động của tiền vốn. Như vậy NHTM trở thành một trung gian tài chính tốt nhất thực hiện chức năng cầu nối giữa cung và cầu vốn. Ngân hàng là một địa chỉ tốt nhất mà những người dư thừa về vốn có thể gửi tiền một cách an toàn và hiệu quả nhất, ngược lại cũng là nơi sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp. Nhờ có hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. 3.2. Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng với vai trò là chiếc cầu nối giữa cung và cầu về vốn trên thị trường tiền tệ đã góp phần đẩy nhanh hoạt động của nền kinh tế, đem lại thuận lợi cho hoạt động của các cá nhân và tổ chức. Những cá nhân và tổ chức đã giảm được các khoản chi phí trong việc tìm kiếm các nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, ngoài ra có thể vận dụng các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp cho khách hàng để đẩy nhanh hoạt động của mình. Vay vốn từ Ngân hàng của các doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải có phương án sản xuất tối ưu và có hiệu qủa kinh tế thì mới có thể trả lãi và vốn cho Ngân hàng. Việc lập phương án sản xuất tối ưu cho doanh nghiệp phải qua sự kiểm tra, thẩm định kỹ lưỡng của Ngân hàng nhằm hạn chế mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra làm phương hại đến cả phía doanh nghiệp và ngân hàng. Từ nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng cấp, doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. 3.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, NHTM hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia như ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô:’’Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường’’. 3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, việc hoà nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế trong khu vực và kinh tế toàn cầu là nhu cầu cần thiết và cấp bách. Với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cùng với chính sách mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế xã hội của các quốc gia trên thế giới thì hoạt động của các NHTM được mở rộng và thúc đẩy cho việc mở rộng hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nước. Với hoạt động kinh doanh rộng khắp của mình như: nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ Ngân hàng khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. Chính từ sự mở rộng các quan hệ quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh với các nước khác trên thế giới. Trên đây chúng ta đã có cái nhìn tổng quan về Ngân hàng và hoạt động của Ngân hàng. Để có thể hiểu sâu hơn nữa hoạt động của Ngân hàng, chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể các hoạt động của nó thông qua các phần tiếp theo sau. II. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM. Nguồn vốn - cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Cũng như mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế, Ngân hàng muốn hoạt động được trước hết cần có vốn. Hơn nữa Ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt đó là tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường thì Ngân hàng là “mạch máu” của nền kinh tế, đóng vai trò là cầu nối giữa nơi thừa vốn với nơi thiếu vốn. Ngân hàng huy động vốn rồi qua đó cung cấp các loại hình tín dụng cho nền kinh tế, bên cạnh đó Ngân hàng còn thực hiện nhiều loại dịch vụ kèm theo. Như vậy vốn là khâu mở đường, duy trì sự hoạt động của Ngân hàng, quyết định quy mô và tầm cỡ của Ngân hàng trên thị trường. Vốn lớn tạo sự tin tưởng cho khách hàng, tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng thị trường, đa dạng hoá các hoạt động của mình, tạo thế và lực cho Ngân hàng trên thương trường. Khai thác và sử dụng vốn một cách có hiệu quả sẽ giúp Ngân hàng tạo lập và nâng cao được uy tín, làm cho Ngân hàng luôn tồn tại và phát triển trong sự khắc nghiệt của kinh tế thị trường. Điều này được thể hiện ở các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ tài sản nợ của Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Đó là các nguồn chủ yếu sau: 1.1.1.Nguồn vốn tự có Vốn tự có của Ngân hàng là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của Ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của Ngân hàng, song là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một Ngân hàng. Vốn tự có được chia thành hai bộ phận: * Vốn điều lệ: Là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại, là một tiêu chuẩn để một Ngân hàng được thành lập và đi vào hoạt động. Về mặt quy mô thì vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định, tuy nhiên với mỗi loại hình hoạt động khác nhau của từng Ngân hàng thì vốn điều lệ cũng có nguồn hình thành khác nhau: -Ngân hàng thương mại quốc doanh có vốn điều lệ do Ngân sách Nhà nước cấp, Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này. -Ngân hàng thương mại tư nhân có vốn điều lệ do cá nhân tự bỏ ra. -Ngân hàng thương mại cổ phần có vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp ban đầu dưới hình thức mua cổ phiếu. * Vốn tích luỹ: Được hình thành trong quá trình hoạt động của Ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ. Hàng năm, Ngân hàng căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh của mình mà trích một phần lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn tự có của Ngân hàng. * Vốn tự có bổ xung: Vốn này được hình thành qua việc phát hành các loại chứng khoán dài hạn đặc biệt là các trái phiếu Ngân hàng có thời hạn 20 năm, 30 năm. Trái phiếu Ngân hàng giúp Ngân hàng chủ động vốn trong kinh doanh. Theo quy định của các nước thì vốn từ trái phiếu không được lớn hơn 50% vốn tự có cơ bản của Ngân hàng. 1.1.2.Nguồn vốn vay: * Vay của Ngân hàng Trung ương: Trong quan hệ với Ngân hàng Trung ương, các NHTM là khách hàng thường xuyên. Với tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, Ngân hàng Trung ương luôn đóng vai trò là “chủ nợ” và là “người cho vay cuối cùng” đối với các Ngân hàng thương mại. * Vay các tổ chức tín dụng khác: (chủ yếu là các NHTM): Là hoạt động mà NHTM thường phải thực hiện trong tình hình có sự khó khăn về nguồn vốn, hoặc để đầu tư hưởng chênh lệch lãi suất. Vốn điều chuyển trong thanh toán. Các NHTM có nhiều chi nhánh nằm trên địa bàn khác nhau nên luôn xuất hiện tình trạng thừa vốn hoặc thiếu vốn đối với các chi nhánh trong cùng hệ thống. Xuất hiện tình trạng này là do trên mỗi địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau do đó có tác động mạnh mẽ đến nguồn vốn và khả năng sử dụng vốn của từng chi nhánh. Để giải quyết tình trạng này mỗi hệ thống NHTM hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện điều chuyển nguồn vốn trong hệ thống. Nguồn vốn này khá quan trọng, nó giúp cho Ngân hàng có thể mở rộng được hoạt động trên thị trường và tăng lợi nhuận của Ngân hàng. Vốn huy động. Vốn huy động là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM. Một Ngân hàng thương mại có thể huy động được vốn trong nước và nước ngoài, hoặc huy động dưới các hình thức sau: Huy động tiền gửi qua hình thức: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và dân cư. Huy động qua thị trường: Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng. Sự cần thiết khách quan của công tác huy động vốn: Vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM , nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó, bất cứ một NHTM nào cũng hoạt động với mục đích chung là vì lợi nhuận và vì sự tăng trưởng không ngừng của nguồn vốn. Đây là yếu tố không thể thiếu để tiến hành và phát triển các hoạt động kinh doanh. Với nguồn vốn lớn và có sự hợp lý trong cơ cấu, Ngân hàng có thể cung cấp các loại hình tín dụng và dịch vụ Ngân hàng tốt nhất trong khả năng của mình cho khách hàng, nguồn vốn cũng là yếu tố thu hút vô hình ảnh hưởng tới tâm lý của khách hàng... Trong khi chức năng của Ngân hàng là “đi vay để cho vay” thì cùng với công tác sử dụng vốn, công tác huy động vốn để tạo nguồn cho Ngân hàng là nghiệp vụ quan trọng ảnh hưởng bao trùm lên toàn bộ hoạt động của Ngân hàng, nó duy trì và phát triển các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tạo sự tin tưởng và nâng cao uy tín với khách hàng. Ngày nay các NHTM không ngừng mở rộng các hình thức huy động vốn mới, đưa ra những chính sách cạnh tranh của riêng mình để có thể huy động tối đa nguồn vốn và chiếm tỷ trọng nhất định trên thương trường. Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc của một trung gian tài chính, đóng vai trò trung gian giữa người có vốn và người cần vốn. Quá trình huy động vốn của các NHTM được thực hiện dưới các hình thức sau: Tạo vốn qua huy động các khoản tiền gửi của khách hàng. 2.1.1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Tiền gửi tiết kiệm được coi là công cụ huy động vốn lưu truyền của các NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi Ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại sau: * Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào. Do thời hạn rút tiền không được ấn định trước nên khách hàng phải chấp nhận một tỷ lệ lãi suất thấp hơn so với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. * Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (tiền gửi định kỳ): Đây là loại tiền gửi mà khách hàng chỉ có thể rút tiền theo thời hạn được quy định theo sự thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng. Thời hạn này thường được thống nhất theo những quy định chung của các văn bản pháp quy về luật Ngân hàng. Ngoài ra còn có những quy định khác nhau về việc rút tiền, tính lãi trong trường hợp đặc biệt như khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn... Ngoài ra Ngân hàng còn thực hiện các hình thức huy động như : tiền gửi bảo đảm bằng vàng, tiền gửi có tính trượt giá, tiết kiệm xây dựng nhà ở. Tạo vốn qua huy động tiền gửi. Đây là những khoản tiền khách hàng đem ký gửi vào Ngân hàng. Việc thực hiện các khoản ký gửi được thực hiện theo thoả thuận giữa khách hàng với Ngân hàng. Xét theo tiêu thức thời gian thì Ngân hàng có thể chia thành hai loại tiền gửi chính là: * Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán). Là loại tiền gửi ký thác vào Ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ... Đây không phải là khoản tiền tiết kiệm mà là một bộ phận tiền đang chờ thanh toán, vì vậy khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Tuỳ từng quốc gia mà loại tiền gửi này không được tính lãi hoặc lãi suất rất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn có thể được giữ ở một trong hai tài khoản sau: Tài khoản tiền gửi (tài khoản séc): Tài khoản này chỉ được phép dư có, tức là khách hàng chỉ được phép rút tiền trong phạm vi tiền gửi của mình. Việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ 3 được thực hiện bằng séc hoặc chuyển khoản. Việc hưởng lãi với số tiền gửi này là thứ yếu và nó không đem lại lãi suất cụ thể. Tài khoản vãng lai: Là một tài khoản có thể dư nợ hoặc dư có dùng cho các tổ chức kinh tế, khách hàng có thể phát séc vượt quá số dư của mình đến một giới hạn nhất định. Trong giới hạn quá số sư, khách hàng phải chịu lãi suất và mức lãi suất này tuỳ thuộc vào quy định của Ngân hàng. * Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giưã khách hàng và Ngân hàng, theo nguyên tắc khách hàng ký thác chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định với thời hạn dài và có lãi suất cao. Tuy nhiên do phải cạnh tranh, các Ngân hàng thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước thời hạn với mức lãi suất thấp hơn. Thông thường các NHTM luôn tìm cách đa dạng hoá loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn khác nhau, với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.Như vậy, Ngân hàng luôn có được sự chủ động về thời hạn hoàn trả tiền ký gửi. Tạo vốn qua đi vay. Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà như là một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các Ngân hàng có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau: * Vay Ngân hàng Trung ương. Hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu thương phiếu hoặc trái phiếu kho bạc. Với vai trò là người cho vay cuối cùng, Ngân hàng Trung ương luôn cho các Ngân hàng thương mại vay với một mức giá nhất định; đó là lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu được Ngân hàng Trung ương sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tuỳ vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể được nâng cao hoặc hạ thấp. * Vay từ các tổ chức tín dụng khác. Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường tiền tệ hay thị trường liên Ngân hàng. Trong trường hợp Ngân hàng có khó khăn về vốn đối với khách hàng và tránh sự chú ý của Ngân hàng Trung ương. 2.3.Các hình thức huy động vốn khác. Bên cạnh những hình thức huy động vốn nói trên, Ngân hàng còn thực hiện việc huy động vốn thông qua việc phát hành các giấy tờ có giá khác như trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng, phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn... Hình thức tạo vốn này khá phổ biến, giúp cho các Ngân hàng thương mại chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư dài hạn, vốn này có tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất. III. HOẠT ĐỘNG SỬ DỤNG VỐN CỦA NHTM. Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm: Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng. Nghiệp vụ ngân quỹ (vốn đảm bảo thanh toán). 1.1.1. Dự trữ pháp định (Dự trữ bắt buộc). Theo quy định, các NHTM phải có nhiệm vụ dự trữ một tỷ lệ nhất định trên số vốn huy động được từ nền kinh tế. Mục đích để bảo hiểm cho các khoản tiền gửi hay bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và lợi ích cuả nền kinh tế. Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo luật Ngân hàng của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên tổng số huy động tiền gửi. 1.1.2. Tiền mặt tại quỹ: Tiền mặt tại quỹ là khối lượng tiền do Ngân hàng giữ trong các kho két Ngân hàng, một phần số tiền được coi là dự trữ pháp định. Các nhà quản lý Ngân hàng luôn cố gắng giảm thiểu lượng tiền mặt này vì lý do an toàn, giảm chi phí bảo vệ, bảo quản tiền mặt khỏi hư hỏng. Quan trọng hơn cả là vì lợi nhuận do khoản tiền giữ lại này không có khả năng sinh lời. 1.2.3. Tiền gửi ở các Ngân hàng khác. Để tạo thuận lợi trong thanh toán, các NHTM thường có khoản tiền gửi ở các NHTM khác. Đây là một phần của hệ thống được gọi là “ hoạt động Ngân hàng vãng lai”. Các khoản tiền gửi này chỉ tạo điều kiện thuận lợi trong thanh toán hoặc đổi lấy những dịch vụ như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ, mua giúp chứng khoán chứ không được hưởng lãi suất. Nghiệp vụ đầu tư. Đầu tư đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của Ngân hàng. Khi tập trung được một khối lượng vốn lớn trong tay, Ngân hàng có thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án, mua cổ phần của các doanh nghiệp... Với hoạt động này, Ngân hàng có thể kiểm soát, tham dự vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra Ngân hàng còn nắm giữ một số loại chứng khoán như: trái phiếu chính phủ, các thương phiếu... vì các mục đích thanh khoản, đa dạng hoá hoạt động và để nâng cao lợi nhuận. Nghiệp vụ tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất, mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho NHTM nhưng cũng là lĩnh vực nhiều rủi ro nhất. Căn cứ vào hình thức khác nhau có cách phân loại cho vay khác nhau. - Căn cứ vào thời hạn cho vay chia thành: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. - Căn cứ vào sự bảo đảm trong cho vay chia thành: Tín dụng có bảo đảm và tín dụng không bảo đảm (tín chấp). - Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh chia thành: Tín dụng với các doanh nghiệp công nghiệp, tín dụng doanh nghiệp thương mại, tín dụng doanh nghiệp dịch vụ. - Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng có tín dụng bằng tiền và tín dụng bằng tài sản. - Căn cứ vào phương pháp cho vay có tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. - Căn cứ vào phương pháp hoàn trả có tín dụng trả góp, tín dụng phi trả góp, tín dụng hoàn trả theo yêu cầu. Qua công tác phân loại tài sản có và tình hình hoạt động thực tiến của Ngân hàng ta có thể phân tích hoạt động đầu tư tín dụng ở NHTM theo tính thời hạn. Cơ cấu giữa nguồn huy động ngắn-trung và dài hạn là yếu tố quan trọng quyết định việc sử dụng nguồn cho hoạt động tín dụng. Một NHTM có nguồn ngắn hạn dồi dào sẽ có khả năng cho vay ngắn hạn cao, cũng như nếu có nguồn trung dài hạn tốt sẽ tạo điều kiện đáp ứng các nhu cầu về tín dụng trung dài hạn. Tín dụng ngắn hạn. Do đặc điểm, tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế luôn xảy ra hiện tượng có doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn nhưng lại có doanh nghiệp khác lại thừa vốn, nên việc cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp là nghiệp vụ thường xuyên của NHTM. Nhu cầu về loại tín dụng này thường không được báo trước nên nguồn vốn cho vay ngắn hạn được hình thành ở Ngân hàng chủ yếu là từ tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tín dụng trung –dài hạn. Nhu cầu về vốn trung-dài hạn thường nảy sinh khi các doanh nghiệp muốn đổi mới máy móc thiết bị hoặc đổi mới cả hệ thống quy trình công nghệ. Nhu cầu này không ngừng tăng lên không chỉ với các doanh nghiệp sản xuất mà cả với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. Đặc biệt với kinh tế nước ta khi thực hiện bước chuyển đổi kinh tế, quyết tâm thực hiện công cuộc CNH-HĐH mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, thì nhu cầu về vốn trung-dài hạn là hết sức cấp thiết, là người trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các hạn cơ hội kinh doanh. Trong đó vốn tín dụng của Ngân hàng là một nguồn hết sức quan trọng và có tính khả thi. Tài sản có khác. Tài sản “Có” khác của Ngân hàng gồm các vốn hiện vật như toà nhà Ngân hàng, các trang thiết bị ... phục vụ cho hoạt động của Ngân hàng. Công tác quản lý tài sản có và vấn đề thanh khoản đối với một Ngân hàng thương mại. Mục tiêu chính của công tác quản lý tài sản có là nghiên cứu sự chuyển đổi giữa tài sản có thành tiền mặt và khả năng sinh lời của tài sản có đó đem lại. Để tối đa hoá lợi nhuận của mình, Ngân hàng phải tìm kiếm những khách hàng vay trả lãi suất cao và khả năng kinh doanh tốt. Cán bộ tín dụng và các nhà quản lý Ngân hàng trực tiếp quyết định cho vay và chịu trách nhiệm đôí với khoản vay đó nên họ rất thận trọng. Ngoài ra, các Ngân hàng cố gắng mua những chứng khoán với lợi tức cao và rủi ro thấp. Trong việc quản lý những tài sản có, các Ngân hàng phải có nỗ lực giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hoá khoản mục đầu tư. Nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng là “không để trứng vào một giỏ”. Một NHTM có khả năng thanh khoản cao khi nó có đủ ngân quỹ và các tài sản có linh hoạt._. như tiền mặt, ngân phiếu, trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc... cũng như khả năng tăng nguồn vốn nhanh đáp ứng các nhu cầu tín dụng mang tính đột xuất. Nếu Ngân hàng làm tốt công tác quản lý tài sản có thì uy tín của Ngân hàng sẽ ngày càng được củng cố. Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu về công tác huy động vốn và sử dụng vốn ở Ngân hàng thương mại ta đã thấy được hoạt động cơ bản của Ngân hàng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đi vay để cho vay, ngày nay các NHTM đã không ngừng đổi mới các mặt hoạt động cả về lý luận lẫn nghiệp vụ. Vì mục đích cuối cùng là lợi nhuận và sự hùng mạnh của Ngân hàng, các nhà quản lý đã tìm những biện pháp hiệu quả nhất nhằm thu hút nguồn vốn, lấy đó làm cơ sở vật chất để tiến hành các nghiệp vụ đầu tư thích hợp. Phương châm của hoạt động quản lý tài sản có và tài sản nợ đều là đa dạng hoá, giảm thiểu rủi ro. Các nhà quản lý cần làm thế nào để tránh tình trạng khi thì ứ đọng vốn, khi thì lại thiếu vốn, điều hành một cách ăn khớp đạt hiệu quả tài sản có và tài sản nợ. IV. TÍNH CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG. Sự cần thiết phải đảm bảo cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. Các NHTM nói chung đều hoạt động kinh doanh vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và sự tăng trưởng không ngừng của nguồn vốn kinh doanh. Để đạt được những mục tiêu đó, đòi hỏi Ngân hàng phải tự vạch ra một chiến lược vốn đúng đắn, phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn trong từng thời kỳ. Một yếu tố quan trọng trong chiến lược vốn là phải đảm bảo sử dụng kết hợp hài hoà các nguồn vốn có được với việc sử dụng các nguồn vốn đó để mang lại hiệu quả cao nhất. Hoạt động này chính là hoạt động cân đối vốn, là công việc rất cần thiết đối với mọi Ngân hàng, là một biện pháp nghiệp vụ, là công cụ quản lý của các nhà lãnh đạo Ngân hàng. Qua bảng cân đối được hình thành dưới nhiều góc độ chi tiết hay tổng hợp mà các nhà lãnh đạo điêù hành Ngân hàng biết được đặc điểm riêng có của Ngân hàng mình so với các Ngân hàng khác, biết được tình hình, xu hướng cung cầu về vốn đối với bản thân mỗi Ngân hàng trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó có chiến lược, sách lược về vốn, về khách hàng... nhằm khai thác hết thế mạnh sẵn có của Ngân hàng, khắc phục dần các khó khăn, yếu tố còn bất hợp lý trong cân đối giữa nguồn huy động và công tác sử dụng nhằm đạt được hiệu qủa kinh doanh ngày càng cao. Nội dung công tác cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. . Khái quát về bảng cân đối vốn của Ngân hàng thương mại. Cân đối vốn được tiến hành định kỳ theo những khoảng thời gian ngắn hay dài là phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động, môi trường kinh doanh và cơ chế điều hành của Ngân hàng. Thông thường các Ngân hàng lập bảng cân đối theo tháng hoặc theo quý nhằm đánh giá tính hợp lý trong cân đối vốn của toàn hệ thống thời kỳ đó, từ đó có biện pháp chỉ đạo các chi nhánh. Tại các chi nhánh nhỏ trực thuộc thì cân đối vốn được thực hiện theo ngày làm việc vì các chi nhánh phải tiếp xúc, đối mặt với những nghiệp vụ kinh doanh và các yếu tố cạnh tranh hàng ngày. Bảng cân đối vốn được thực hiện dựa trên số liệu kế toán hàng ngày, từ đó lập các bảng tổng hợp, chi tiết về biến động của nguồn vốn huy động và sử dụng nguồn vốn, trong đó có tính tỷ trọng của từng thành phần trong cơ cấu ở cả nguồn và sử dụng nguồn. Căn cứ vào số liệu kế toán bảng cân đối được chia làm hai phần: Nguồn vốn và sử dụng vốn. 2.2. Nội dung của sự cân đối. Về nguyên tắc chung, từ yêu cầu sử dụng tài sản có để quyết định quy mô, cơ cấu tài sản nợ và định hướng phát triển của Ngân hàng,tuỳ theo đặc điểm, cơ chế hoạt động của mỗi Ngân hàng mà bảng cân đối thực hiện theo các chỉ tiêu khác nhau. Nhìn chung,cân đối vốn thường được thực hiện theo kỳ hạn, theo loại tiền (nội tệ và ngoại tệ), theo việc đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng. 2.2.1. Cân đối vốn theo kỳ hạn. Do mỗi loại nguồn vốn có đặc điểm riêng nên khi cho vay, đầu tư phải có sự tương ứng về kỳ hạn. Tức là nguồn vốn nào thì cho vay loại hình ấy. - Nguồn vốn ngắn hạn đáp ứng cho nhu cầu tín dụng ngắn hạn. - Nguồn vốn trung dài hạn đáp ứng cho nhu cầu tín dụng trung dài hạn. Thực hiện nguyên tắc này chính là để đảm bảo an toàn cũng như đảm bảo tiền lãi cho vay, đầu tư đủ bù đắp chi phí huy động và chi phí khác. Để phân tích tính cân đối vốn theo kỳ hạn, người ta lập ra các bảng cân đối qua các thời kỳ chung cho cả nội tệ và ngoại tệ như: -Bảng cân đối số dư nguồn vốn huy động ngắn hạn và số dư cho vay ngắn hạn. -Bảng cân đối số dư nguồn vốn huy động trung-dài hạn và số dư cho vay trung- dài hạn. Từ đó ta có thể tính được hệ số sử dụng nguồn vốn, tìm ra rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn đồng thời đưa ra các biện pháp điều chỉnh phù hợp. Tuy nhiên, tuỳ trường hợp cụ thể mà Ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung-dài hạn, hay sử dụng nguồn vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn. Song đó chỉ là giải pháp tạm thời để giải quyết sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. Về lâu dài, Ngân hàng vẫn phải đảm bảo sự cân đối về cơ cấu nguồn và sử dụng nguồn vốn nhằm đề phòng rủi ro có thể xảy ra. Cân đối theo loại tiền. Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng vừa huy động và cho vay cả bằng VND và ngoại tệ (chủ yếu là USD) để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc sử dụng và huy động vốn bằng ngoại tệ có liên quan đến rủi ro về tỷ giá cho nên tiến hành cân đối theo loại tiền nhằm giúp Ngân hàng loại bỏ được rủi ro này. Vì vậy, Ngân hàng cần phải căn cứ vào nhu cầu vay ngoại tệ của khách hàng, cũng như khả năng đảm bảo vốn thanh toán của Ngân hàng bằng ngoại tệ mà có quyết định về việc có nên tăng huy động vốn bằng ngoại tệ hay không ? 2.2.3. Đảm bảo khả năng thanh toán. Đảm bảo khả năng thanh toán cho Ngân hàng chính là việc các Ngân hàng phải giữ lại một phần dự trữ dưới hình thức các tài sản có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu dự trữ bắt buộc và thực hiện các cam kết tài chính như là Ngân hàng phải thoả mãn các nhu cầu của khách hàng và của Ngân hàng như: -Nhu cầu chi trả của Ngân hàng (hay còn gọi là luồng ra – cầu về thanh khoản) được đo bằng sự gia tăng của tiền gửi đến hạn phải trả, các hợp đồng đã ký phải thực hiện, lãi trả cho các khoản nợ, chi phí tác nghiệp khi sản xuất và bán các sản phẩm dịch vụ. - Nguồn để đáp ứng cho nhu cầu thanh khoản (còn gọi là luồng vào, cung về thanh khoản) bao gồm các khoản tiền gửi, tiền vay huy động được, tín dụng đến hạn hoàn trả, lãi tín dụng chứng khoán có thể bán, các khoản vay mượn có thể chiết khấu hoặc có thể bán, các khoản vay mượn có thể chiết khấu hoặc bán lại, thu nhập bán các dịch vụ. Nếu luồng vào nhỏ hơn luồng ra có nghĩa là Ngân hàng đang trong tình trạng thâm hụt thanh khoản, hay không đảm bảo được khả năng thanh toán. Nếu luồng vào lớn hơn luồng ra có nghĩa Ngân hàng đang ở trong tình trạng thặng dư thanh khoản. Tóm lại, các Ngân hàng luôn phải đối mặt và giải quyết một trong hai trạng thái thanh khoản thặng dư hay thâm hụt. Trong trường hợp thặng dư, có một sự đánh đổi giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lợi bởi Ngân hàng phải chi trả lãi cho các nguồn vốn vay mượn, chi phí giao dịch để tìm nguồn, chi phí cơ hội dưới hình thức lợi nhuận tương lai bị mất đi do phải bán các tài sản có sinh lời, do đó sẽ làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Vì thế, việc dự báo đúng về luồng ra và duy trì khe hở thanh khoản (bằng chênh lệch giữa luồng ra và luồng vào ) xấp xỉ bằng không là cach quản lý thanh khoản tích cực, có ý nghĩa với hoạt động kinh doanh của bất cứ Ngân hàng nào. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. Ngân hàng thương mại cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào đều hoạt động trong môi trường kinh doanh động, do đó các hoạt động kinh doanh nói chung và công tác cân đối vốn nói riêng đều chịu sự tác động (tích cực và tiêu cực) của các nhân tố bên trong lẫn bên ngoài của Ngân hàng. Trong hoạt động Ngân hàng, vấn đề bức xúc đặt ra là làm sao tăng cường việc tích tụ tập trung vốn nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn. Đảm bảo cân đối vốn để hoạt động Ngân hàng phát triển trong nền kinh tế. 3.1.Vấn đề huy động vốn. Hiện nay vốn huy động không phải là khan hiếm, điều quan trọng là phải tìm ra một cơ chế huy động thích hợp. Để đẩy mạnh quá trình huy động vốn trước hết Ngân hàng cần xác định rõ nhu cầu vốn, từ đó đưa ra các hình thức huy động và mức lãi suất thích hợp trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó qua hoạt động Marketing, Ngân hàng gián tiếp giới thiệu sự đa dạng của các dịch vụ, chất lượng dịch vụ mà Ngân hàng sẽ cung ứng để thu hút khách hàng, góp phần gia tăng nguồn vốn. 3.2.Sử dụng vốn. Trên cơ sở vốn huy động đạt được, Ngân hàng phải tiến hành sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, tối đa nhất. Tuỳ theo hình thức huy động của nguồn vốn Ngân hàng sẽ đưa ra chính sách cho vay thích hợp. Phải cân đối giữa huy động ngắn hạn và cho vay ngắn hạn, huy động dài hạn với cho vay trung dài hạn. Để hoạt động tín dụng có hiệu quả thì vấn đề tìm ra một dự án cho vay là rất quan trọng, một dự án khả thi không chỉ mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng mà còn đảm bảo an toàn vốn, tránh rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng. Ngược lại một dự án không khả thi sẽ khiến Ngân hàng có nguy cơ ứ đọng vốn, mất vốn, làm ảnh hưởng tới công tác cân đối vốn của Ngân hàng. 3.3.Vấn đề dư nợ quá hạn. Khi phân tích tính cân đối, nếu chỉ quan tâm đến dư nợ huy động, dư nợ cho vay thì có thể các chỉ tiêu đó đều đạt yêu cầu, song Ngân hàng vẫn phải đối mặt với rủi ro, điều này mâu thuẫn với mục tiêu của công tác cân đối (mục tiêu an toàn). Bởi vì, nếu Ngân hàng cho vay được nhiều và đảm bảo nguồn vốn ngắn hạn để cho vay ngắn hạn, nguồn vốn dài hạn để cho vay dài hạn nhưng có nhiều món vay lại không có khả năng thu hồi. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ Ngân hàng thua lỗ hoặc vỡ nợ. Vì thế, song song với công tác cân đối vốn thì việc tăng cường chất lượng tín dụng, đảm bảo dư nợ quá hạn ở mức hợp lý có thể chấp nhận được luôn là một yêu cầu cấp thiết với mọi Ngân hàng. 3.4.Lãi suất. Lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến tính cân đối vốn của Ngân hàng. Với chính sách lãi suất linh hoạt, chủ động sẽ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng đồng thời đảm bảo khả năng sinh lời cho Ngân hàng. Thông thường trong huy động vốn các Ngân hàng được tự do quy định lãi suất, Đối với cho vay, Ngân hàng quy định mức lãi suất trần, các Ngân hàng được phép tính lãi xê dịch trong khoảng mức lãi suất trần. 3.5.Khả năng quản trị điều hành của Ngân hàng . Đây là hoạt động chủ chốt của Ngân hàng, một nhà quản trị Ngân hàng phải có năng lực, trình độ để có thể định hướng kinh doanh đúng đắn, đảm bảo cho hoạt động Ngân hàng an toàn. Cụ thể là giúp Ngân hàng đề ra các kế hoạch về huy động vốn từ đó tiến hành khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực. Sao cho huy động vốn cung cấp đủ cho nhu cầu tín dụng cả về số lượng và thời hạn sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác cân đối vốn. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ CÂN ĐỐI GIỮA HUY ĐỘNG NGUỒN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI. I.VÀI NÉT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI (NHNO&PTNT Hà Nội). Sự hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội. Năm 1988, hệ thống Ngân hàng Việt Nam chuyển từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp. NHNo&PTNT Hà Nội ra đời sau khi nghị định 53/HĐBT ban hành 26/3/1988 có hiệu lực. Đây là một Ngân hàng thương mại quốc doanh; là Ngân hàng thành viên và hạch toán độc lập của NHNo&PTNT Việt Nam. Với tên gọi: NHNo&PTNT Hà Nội Tên giao dịch quốc tế: The Branch for Agriculture and Rual Development Bank of Hanoi city. Trụ sở đặt tại: Số 77 – Lạc Trung – Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội. Từ khi thành lập, NHNo&PTNT Hà Nội thực hiện nhiệm vụ là huy động vốn và cho vay các thành phần kinh tế sản xuất nông – lâm nghiệp, diêm nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm và tất cả các thành phần kinh tế khác trên điạ bàn nội thành và ngoại thành Hà Nội. NHNo&PTNT Hà Nội là một trong 1.254 chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam đóng vai trò tạo lập nguồn vốn, cung cấp các hình thức dịch vụ Ngân hàng, đáp ứng các nhu cầu tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn, góp phần thực hiện các mục tiêu, chương trình giải pháp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đề ra, định hướng phát triển kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam và công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Tháng 9 năm 1991, Quốc hội yêu cầu tách tỉnh, NHNo&PTNT Hà Nội được giao quản lý 5 huyện: Từ Liêm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Gia Lâm. Với chức năng quản lý này, vai trò phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng bị thu hẹp. Theo quyết định số 458/QĐ - NHNo ngày 1/9/1995 của tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam đổi mới và hoàn thiện mô hình tổ chức với hoạt động thí điểm quản lý theo mô hình hai cấp tại Thành phố HCM và Hà Nội thì NHNo&PTNT Hà Nội chỉ còn làm nhiệm vụ trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng trong nội thành Hà Nội, chịu sự chỉ đạo điều hành của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Từ khi thành lập (1988) đến nay, NHNo&PTNT Hà Nội hoạt động có xu hướng đi lên, kinh doanh có lãi và luôn đổi mới gắn với sự đổi mới của NHNo&PTNT Việt Nam. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, NHNo&PTNT Hà Nội hoạt động luôn bám sát định hướng của ngành, đồng thời thường xuyên chấn chỉnh cơ cấu bộ máy tổ chức phù hợp với mục tiêu kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy Ngân hàng đã tạo được lòng tin với khách hàng, kinh doanh có hiệu quả đặc biệt trong chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Năm 1999 Ngân hàng đã được nhà nước tặng thưởng huân chương lao động hạnh ba. Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng, NHNo&PTNT Hà Nội có những chức năng chính sau: - Nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. - Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng đồng Việt nam và ngoại tệ với mọi thành phần kinh tế. - Cho vay uỷ thác theo các chương trình đầu tư của chính phủ trong và ngoài nước. - Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước; mua bán ngoại tệ; tài trợ ngoại thương. - Thực hiện dịch vụ thanh toán chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính trong phạm vi toàn quốc và qua mạng Swift trên toàn thế giới. - Dịch vụ chi trả kiều hối, giao nhận tiền tận nơi cho đơn vị, thu ngân phiếu lấy tiền mặt và thực hiện các nghiệp vụ khác. Cơ chế hoạt động và bộ máy tổ chức. Trong những năm đầu khi mới thành lập, NHNo&PTNT Hà Nội có 12 chi nhánh huyện ngoại thành được Nhà nước bàn giao với cơ sở vật chất quá nghèo nàn, cũ kỹ, trụ sở làm việc không được thuận lợi, xa trung tâm thành phố gây ra nhiều khó khăn trong việc giao dịch với khách hàng. Mặt khác, cán bộ, công nhân viên với trên 1400 lao động lại được tập hợp từ nhiều ngân hàng khác tập trung về, trình độ cán bộ không đồng đều. Do đó ngay từ khi thành lập NHNo&PTNT Hà Nội gặp phải không ít những khó khăn cả về địa điểm lẫn con người. Từ năm 1995 tới nay, NHNo&PTNT Hà Nội chỉ còn làm nhiệm vụ trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng trong nội thành Hà Nội. Qua nhiều năm đổi mới, đến năm 2000 tổng số cán bộ công nhân viên của ngân hàng là 221 người. Ngân hàng đã thiết lập được mạng lưới đơn vị cơ sở trực thuộc các quận trong địa bàn thành phố và khu vực. Bao gồm các chi nhánh ngân hàng cấp ba như: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Cỗu Giấy, Thanh Xuân, Đống Đa, Tam Trinh. Các ngân hàng cấp III trên địa bàn Hà Nội hoạt động cũng giống như NHNo&PTNT Hà Nội bao gồm các hoạt động huy động vốn, cho vay và chuyển tiền nhanh. Tuy nhiên về tổ chức, quyền hạn của các chi nhánh này cũng thu hẹp hơn so với NHNo&PTNT Hà Nội. Tại trụ sở chính, nhân sự được bố trí theo cơ cấu tổ chức như sau: BAN GIÁM ĐỐC Phòng hành chính nhân sự Phòng ngân quỹ Phòng kiểm soát Phòng thanh toán quốc tế Phòng kế toán Phòng kinh doanh Phòng kế hoạch Mỗi phòng ban thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo sự theo sự phân công và chỉ đạo của Ban giám đốc. II. TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ NỘI. Trong những năm vừa qua, xuất phát từ những thuận lợi riêng, đó là nằm trên địa bàn thủ đô với mật độ dân số cao, là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá của cả nước nên công tác huy động vốn của NHNo Hà nội có nhiều thuận lợi. Hơn nữa nhờ có sự nỗ lực của toàn thể ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên Ngân hàng, nên NHNo Hà nội luôn là chi nhánh dẫn đầu trong hệ thống NHNo Việt Nam về công tác huy động vốn. Do đặc điểm là kênh huy động vốn lớn nhất trong hệ thống NHNo Việt nam với nguồn vốn huy động dồi dào vì vậy NHNo Hà nội luôn điều chuyển về trung tâm một lượng vốn lớn để điều hoà cho các chi nhánh khác trong hệ thống có mức huy động kém hơn. Đến cuối năm 2000, nguồn vốn của các Ngân hàng trực thuộc NHNo Hà nội đều tăng trưởng khá. Hầu hết các Ngân hàng đã nhận thức được kinh doanh Ngân hàng, bao gồm cả kinh doanh nguồn vốn và kinh doanh tín dụng. Các chi nhánh đã quan tâm tạo nguồn vốn kinh doanh với lãi suất hợp lý nên đã tìm và huy động một số doanh nghiệp, cơ quan, trường học về mở tài khoản và gửi tiền nên nguồn vốn tăng trưởng khá, tạo tiền đề thuận lợi cho kinh doanh. Trong đó nổi bật nhất là Ngân hàng Đống Đa tuy mới thành lập nhưng Ban Giám Đốc cùng với tập thể CBCNV Ngân hàng đã có những biện pháp tích cực để tạo nguồn vốn như thu hút nguồn vốn từ mọi thành phần kinh tế, mọi tổ chức, giao chỉ tiêu vận động khách hàng cho từng người nên đã có nguồn vốn lớn, đứng thứ 2 sau trung tâm. Sau Ngân hàng Đống Đa, các Ngân hàng có nguồn vốn tăng trưởng khá là Tây Hồ, Cầu Giấy, Hai Bà Trưng. Để hiểu rõ hơn về tình hình huy động vốn của NHNo Hà nội ta lần lượt xem xét bảng cơ cấu tổng nguồn vốn theo hình thức huy động và cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn huy động. Cơ cấu tổng nguồn vốn theo hình thức huy động. Bảng 1: Cơ cấu huy động theo loại tiền gửi Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.TG tiết kiệm 183.532 9,4 263.948 13 357.088 10,7 487.529 13,1 2.TG của TCKT 302.950 15,6 1.142.488 56,1 972.373 29,1 1.016.139 27,2 3.TG của TCTD 925.023 47,5 171.429 8,4 1.022.125 30,6 1.188.976 31,9 4. Kỳ phiếu 534.160 27,5 424.665 20,9 930.317 27,8 1.025.277 27,5 5.TG khác 176 0 33.091 1,6 62.131 1,8 12.066 0,3 Tổng nguồn 1.945.841 100 2.035.619 100 3.344.034 100 3.729.973 100 %tăng giảm 4,6 64,3 11,5 Biểu1. Biểu đồ tăng trưởng vốn huy động. Qua biểu đồ ta nhận thấy tốc độ tăng tổng nguồn vốn của NHNo Hà nội có sự thay đổi lớn qua các năm. Nếu như cuối năm1999 tổng nguồn vốn đạt 2.035.619 triệu đồng, tăng 4,6% so với năm 1998 thì đến 31/12/2000 nguồn vốn kinh doanh của NHNo Hà nội có sự tăng trưởng mạnh, tăng 64,3% so với năm 1999, về số tuyệt đối đạt đạt 3.344.034 triệu đồng. Trong quý I/2001 tổng nguồn vốn đã đạt 3.729.973 triệu đồng, tăng 11,5% so với năm 2000. Với nguồn vốn đạt được trong năm 2000 thì đây là một kết quả đáng mừng của NHNo Hà nội. Vì từ năm 2000 sự cạnh tranh trong thị trường tiền tệ, tín dụng trên địa bàn Thủ đô càng ngày càng trở nên quyết liệt hơn, sự cạnh tranh không chỉ xảy ra giữa các Ngân hàng ngoài hệ thống mà ngay cả các Ngân hàng trong cùng hệ thống NHNo Việt Nam với nhau tuy âm thầm nhưng cũng rất quyết liệt. Trên địa bàn Hà Nội có trên 70 Ngân hàng, chi nhánh, văn phòng đại diện của Ngân hàng trong nước và nước ngoài cùng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, riêng nội thành có tới trên 50 Ngân hàng và chi nhánh làm cho thị trường tiền tệ tín dụng vốn đã sôi động từ các năm trước thì từ năm 2000 lại càng trở nên phức tạp hơn nhiều, các Ngân hàng liên tục tăng lãi suất huy động vốn nhưng lại hạ lãi suất cho vay nhằm thu hút đến mức tối đa lượng khách hàng hiện có trên địa bàn Hà nội. Để đạt được kết quả huy động nguồn hết sức sáng sủa này chứng tỏ NHNo Hà nội rất có uy tín trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng đã luôn quán triệt và thực hiện linh hoạt các giải pháp huy động vốn của mình. Một mặt phát triển mối quan hệ với các khách hàng lớn trong nước như Quỹ hỗ trợ, kho bạc, các tổ chức tín dụng, Công ty Bia Hà nội... nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này. Mặt khác NHNo Hà nội tăng cường thực hiện tốt công tác thanh toán vốn qua mạng vi tính giữa các Ngân hàng trên địa bàn, các NHNo cùng hệ thống, tạo điều kiện cho việc luân chuyển vốn nhanh và an toàn. Bên cạnh đó Ngân hàng không ngừng hoàn thiện và mở rộng quan hệ đại lý thanh toán với trên 300 Ngân hàng và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, làm tốt công tác mở L/C và thực hiện thanh toán xuất nhập khẩu với khách hàng nước ngoài trong quan hệ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Từ năm 1999 khi NHNo&PTNT Việt nam cho phép mở dịch vụ đại lý thanh toán cho các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt nam thì đây là hoạt động góp phần tích cực trong việc khơi tăng nguồn vốn và thâm nhập sâu hơn vào thị trường của Ngân hàng. Từ kết quả huy động trên đã tạo điều kiện cho NHNo Hà nội chủ động về nguồn vốn, đáp ứng được nhu cầu tín dụng trên địa bàn. Hơn nữa, Ngân hàng còn góp thêm vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng của toàn ngành thông qua hoạt động điều chuyển vốn trong hệ thống. Trên đây là những nét khái quát về nguồn vốn huy động của NHNo Hà nội. Để có thể đánh giá chi tiết hơn nữa cho sự biến động này chúng ta sẽ lần lượt phân tích các loại nguồn theo kỳ hạn và theo nội-ngoại tệ. 1.1.Tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế thông thường là nguồn tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn. Tuy nhiên, tuỳ vào từng thời điểm khác nhau mà nguồn tiền gửi này có những biến động khác nhau. Từ bảng 2 ta thấy năm 1999 nguồn tiền gửi này chiếm ưu thế với tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn (56,1%). Đạt được kết quả này là do Ngân hàng có mối quan hệ với một số khách hàng lớn là các tổng công ty 90,91 mở tài khoản giao dịch tại NHNo Hà nội và các chi nhánh. Trong năm 2000 nguồn tiền gửi này đã giảm xuống cả về tỷ trọng lẫn số tuyệt đối so với năm 1999, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc hiệu quả huy động từ nguồn vốn này không tốt. Việc giảm nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế có nguyên nhân của nó và ta sẽ xem xét ở bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu nguồn tiền gửi của tổ chức kinh tế. Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.TG không KH 299.290 98,8 816.719 71,5 707.989 72,8 698.278 68,7 -Nội tệ 293.453 812.903 700.053 687.509 -Ngoại tệ 5.837 3.816 7.936 10.769 2.TG có KH<12T 3.660 1,2 297.194 26.0 258.276 26,6 300.252 29,5 -Nội tệ 3.660 297.194 236.323 300.252 -Ngoại tệ 0 0 21.953 0 3.TG có KH³12T 0 28.575 2,5 6.108 0,6 17.609 1,8 -Nội tệ 28.575 6.108 17.609 -Ngoại tệ 0 0 0 Tổng 302.950 100 1.142.488 100 972.373 100 1.016.139 100 % Tăng giảm 277 -14,9 4,5 Năm 1998 tiền gửi của tổ chức kinh tế thấp và chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, nguyên nhân là khách hàng chưa an tâm gửi tiền có kỳ hạn vào Ngân hàng do tình hình biến động kinh tế xã hội, trước sự ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á. Bên cạnh đó nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cho hoạt động cuối năm tăng lên đã dẫn đến nguồn tiền gửi này giảm sút. Bước sang năm 99, khi nền kinh tế ổn định, các doanh nghiệp đã trở lại hoạt động bình thường thì quy mô huy động vốn tiền gửi tổ chức kinh tế của Ngân hàng cũng dần ổn định và mở rộng phát triển. Đến cuối năm nguồn này tăng 277%, là nguồn tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn với số tuyệt đối tăng 839.538 triệu đồng so với năm 1998. Đạt được kết quả này là do khách hàng đã tin tưởng vào Ngân hàng, tin tưởng vào sự ổn định của nền kinh tế cũng như chính sách huy động vốn của Ngân hàng. Nguồn huy động tiền gửi các tổ chức kinh tế của NHNo Hà nội chủ yếu là nguồn tiền gửi không kỳ hạn, với bản chất là không ổn định nguồn tiền này rất khó cho Ngân hàng trong việc sử dụng để cho vay, thường Ngân hàng chỉ dùng một bộ phận tiền gửi này để cho vay ngắn hạn và mua các chứng khoán khả dụng để đảm bảo khả năng thanh khoản. Nguồn ngoại tệ của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng còn hạn chế do tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp như phương tiện dự trữ, nguồn ngoại tệ này tập trung vào nguồn tiền gửi không kỳ hạn nên có sự biến động lớn, khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào nên nó chưa đóng góp nhiều trong hoạt động cho vay ngoại tệ của Ngân hàng. Nhìn chung nguồn tiền gửi các tổ chức kinh tế sau thời kỳ suy giảm trong năm 2000 thì bước sang giai đoạn đầu của năm 2001 đã có sự phát triển. Nguyên nhân sự giảm sút là do tình trạng thiểu phát kéo dài trong năm 99. Các Ngân hàng bị ứ đọng vốn, mức độ cạnh tranh huy động vốn không diễn ra gay gắt, các Ngân hàng để quá trình chu chuyển vốn tự động từ khu vực có vốn nhàn rỗi tới Ngân hàng. Các chính sách khuyến mãi, lãi suất riêng biệt cho khách hàng là tổ chức kinh tế có số lượng vốn lớn không được sử dụng triệt để, ngược lại lãi suất huy động từ nguồn này còn giảm, kết quả là nguồn huy động này giảm 14,9% so với năm 99 với con số tuyệt đối là 170.115 triệu đồng. Một nguyên nhân nữa làm giảm nguồn vốn này là do NHNo Hà nội mở rộng các hình thức huy động vốn khác từ tiền gửi các tổ chức tín dụng và việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu của Ngân hàng. Đến quý I/2001 nguồn huy động tiền gửi các tổ chức kinh tế của Ngân hàng đã có những bước phát triển, về tỷ trọng tăng 4,5%, số tuyệt đối tăng 43.766 triệu đồng so với năm 2000. Điều này chứng tỏ Ngân hàng đã chú trọng hơn đến các biện pháp khơi tăng nguồn vốn từ tiền gửi các tổ chức kinh tế, tuy có hạn chế về tính ổn định nhưng tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong việc hạch toán kinh doanh nói chung vì nguồn vốn này có lãi suất thấp. Ngân hàng đã thiết lập quan hệ với những tổ chức kinh tế lớn như Tổng cục đầu tư, Công ty bảo hiểm xã hội Hà nội, Tổng công ty Bảo hiểm xã hội Việt nam... Bên cạnh đó Ngân hàng cũng không ngừng tìm kiếm khách hàng mới để mở rộng nguồn vốn và nâng cao uy tín của Ngân hàng. 1.2. Tiền gửi tiết kiệm dân cư. Hiện nay tiền gửi tiết kiệm được các Ngân hàng thương mại rất quan tâm vì nó tạo ra nguồn vốn ổn định đối với Ngân hàng do có thời hạn khá dài. Ở nước ta hình thức huy động này có tiềm năng rất lớn và ngày càng trở nên quen thuộc với quần chúng. Nói chung tiền gửi tiết kiệm của dân cư vào Ngân hàng có xu hướng tăng lên về quy mô bởi vì thu nhập của dân cư ngày càng cao, nhận thức cao hơn vì vậy tiết kiệm nhiều hơn, ít giữ tiền trong nhà mà gửi tiền vào Ngân hàng để hưởng lãi. Trong thời gian qua NHNo Hà nội đã có các biện pháp huy động tiền gửi tiết kiệm với các chính sách huy động và thời hạn huy động khác nhau. Nguồn tiền gửi tiết kiệm tăng lên và khá ổn định trong tổng nguồn nhưng tỷ trọng tăng trưởng còn thấp. Nếu như tỷ trọng nguồn này từ 9,4% năm 1998 tăng lên 13% năm 1999 (bảng 1) thì năm 2000 lại giảm xuống 10,7%. Để đánh giá một cách cụ thể hơn về tiền gửi tiết kiệm – một bộ phận có tiềm năng rất lớn trong dân cư, giúp Ngân hàng có những chính sách huy động có hiệu quả hơn, ta xem xét qua bảng cơ cấu tiền gửi sau: Bảng 3: Cơ cấu nguồn tiền gửi tiết kiệm Đơn vị: Triệu VND Thời gian Khoản mục 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/3/2001 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1.TG không KH 22.417 12,2 11.645 4,4 13.937 3,9 17.923 3,7 -Nội tệ 19.780 10.005 11.007 13.216 -Ngoại tệ 2.637 1.640 2.930 4.707 2.TG có KH<12T 137.351 74,8 191.783 72,7 179.917 50,4 223.049 45,8 -Nội tệ 104.621 163.897 125.893 150.312 -Ngoại tệ 32.731 27.886 54.024 72.737 3.TG có KH³12T 23.763 13 60.520 22,9 163.234 45,7 246.557 50,5 -Nội tệ 0 3.442 513 35.754 -Ngoại tệ 23.763. 57.078 162.721 210.803 Tổng 183.532 100 263.948 100 357.088 100 487.529 100 % Tăng giảm 43,8 35,3 29,9 Qua bảng ta thấy năm 1998 số tiền Ngân hàng huy động được mới là 183.532 triệu đồng (bảng 1) chiếm tỷ trọng khiêm tốn (9,4%) trong tổng nguồn thì đến năm 1999 nguồn tiền này đã tăng lên 263.948 triệu đồng, tăng 43,8% so với năm 1998, mặc dù về tỷ trọng trong tổng nguồn vẫn còn hạn chế. Đến năm 2000, tổng số nguồn tiền gửi tiết kiệm huy động được là 357.088 triệu đồng, tăng 35,3% so với năm99 và đang tiếp tục có chiều hướng tăng lên trong quý I/2001 (tăng 29,9%). Trong cơ cấu nguồn tiền gửi tiết kiệm ta thấy nguồn tiền gửi có kỳ hạn tăng nhanh và chiếm tỷ trọng rất lớn, khoảng 96,3% trong tổng nguồn tiền gửi này, trong đó phải kể đến sự biến chuyển nhanh chóng của tiền gửi có kỳ hạn ³12 tháng cả về nội tệ lẫn ngoại tệ. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tăng nhanh là do ảnh hưởng của tình hình biến động lãi suất. Nhà nước giảm tỷ lệ lãi suất xuống thấp nhằm khắc phục tình trạng thiểu phát, kích cầu tiêu dùng của dân cư, Với mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn giảm xuống là 0,15%/tháng cuối năm 99 đến thời gian nửa đầu năm 2000 khiến cho nguồn tiền gửi không kỳ hạn giảm mạnh. Tâm lý chung của dân chúng là đảm bảo an toàn tài sản và họ cũng rất quan tâm tới vấn đề lãi suất ảnh hưởng tới lãi thu được. Trong điều kiện đó, tiền gửi của dân chúng tập trung chủ yếu vào nguồn tiền gửi ³12 tháng, với lãi suất huy động VND từ 0,5 – 0,55%/tháng. Thời giam cuối năm 2000 lãi suất huy động VND kỳ hạn 12 tháng tăng lên từ 0,58 –0,7%/tháng là nguyên nhân dẫn tới sự tăng lên nhanh chóng của khoản tiền gửi có kỳ hạn. Ngoại tệ trong nguồn tiền gửi tiết kiệm qua các năm chiếm tỷ trọng lớn và tăng trưởng khá nhanh, đặc biệt là nguồn ngoại tệ có kỳ hạn ³12 tháng. Năm 98, nguồn ngoại tệ dài hạn mới đạt 23.763 triệu đồng thì năm 99 đã đạt 57.078 triệu đồng ( tăng hơn 2 lần) và tiếp tục tăng mạnh năm 2000 và quý I/2001. Nguồn tiền gửi nội tệ chiếm tỷ trọng nhỏ là do sự tăng lên của lãi suất huy động ngoại tệ trong khi lãi suất huy động tiết kiệm bằng VND lại không thay đổi, hơn nữa tỷ giá biến động theo chiều hướng tăng nên dân chúng ưa thích gửi ngoại tệ hơn là gửi nội tệ. 1.3.Tiền gửi của c._. tốc độ luân chuyển vốn và thực hiện tốt công tác thu nợ, tránh để tình trạng nợ quá hạn kéo dài. -Ngoài ra, Ngân hàng cũng cần chú trọng tới việc thực hiện chính sách khách hàng trên cơ sở đa dạng hoá khách hàng, củng cố khách hàng truyền thống, mở rộng có chọn lọc khách hàng mới, đổi mới phong cách phục vụ của cán bộ nhân viên Ngân hàng. -Ngân hàng cần thường xuyên nắm thông tin kịp thời về hình thức huy động, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng khác cũng như mức trần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước để đưa ra được các mức lãi suất linh hoạt, cạnh tranh. Các giải pháp này tuy không phải là những giải pháp trực tiếp song nó lại có tác động khá lớn đến khả năng huy động vốn của Ngân hàng. Vì thế, Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện. Hiện nay, ở Việt nam, nghiệp vụ thị trường mở đã hình thành và đi vào hoạt động. Việc xuất hiện thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tiến tới tự do hoá lãi suất ở nước ta, thúc đẩy huy động tốt hơn những nguồn vốn nhàn rỗi to lớn và đang tiềm ẩn trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn phát triển Ngân hàng cần cần nhanh chóng tham gia vào thị trường này. Đây là nơi để các NHTM tìm kiếm nguồn vốn bổ sung cho việc thiếu hụt tạm thời khả năng thanh khoản của mình. Khi Ngân hàng thiếu hụt tạm thời khả năng thanh toán, không có khả năng vay từ các NHTM khác, Ngân hàng có thể đem bán lại hoặc vay có thế chấp các giấy tờ có giá của mình cho Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng cũng có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu để thu hút những nguồn vốn khá lớn và ổn định lâu dài, với chi phí huy động thấp. Trường hợp có nguồn vốn dư thừa, Ngân hàng có thể giảm bớt nợ nần bằng cách mua lại trái phiếu chưa đến hạn trên thị trường mở. Nếu đây là vốn ngắn hạn, Ngân hàng có thể mua giấy tờ có giá do Ngân hàng Trung ương bán ra. Đó là một hành động đầu tư với một khoản lợi nhuận chắc chắn. 2.Ngân hàng cần xây dựng chiến lược sử dụng vốn hợp lý trên cơ sở đa dạng hóa loại hình đầu tư kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng cần tiếp tục phát huy theo hướng nâng cao mức tăng trưởng và chất lượng tín dụng. Đồng thời mở rộng sang các lĩnh vực kinh doanh khác nhằm phân tán rủi ro cũng như đảm bảo thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng. Muốn vậy, Ngân hàng cần phải giữ được vị trí độc lập của mình khi tiến hành cho vay, cần phân tích đầy đủ, chính xác về tính khả thi của dự án. Ngân hàng cũng cần chủ động tìm kiếm khách hàng, sẵn sàng đầu tư vốn và hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư phát triển có hiệu quả, cho vay bằng nguồn tự huy động của Ngân hàng. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực cho vay trung-dài hạn, mở rộng có chọn lọc đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, Ngân hàng cũng cần xây dựng các tiêu chuẩn định mức vốn vay cho các doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho vay an toàn, tiếp tục hoàn thiện quy chế tín dụng. Song song với việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng, Ngân hàng cần nhanh chóng triển khai các nghiệp vụ có khác. Ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thanh toán trong nước và quốc tế, bởi đây là hoạt động có ít rủi ro song mang lại thu nhập ngày càng lớn cho Ngân hàng, thông qua việc nâng cao chất lượng các hình thức thanh toán hiện có nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng, thuận tiện và an toàn. Ngoài ra, Ngân hàng cần tiếp tục nâng cao chất lượng các loại dịch vụ đã có như dịch vụ chuyển tiền mặt, dịch vụ bảo lãnh, mua bán ngoại tệ. Đồng thời mạnh dạn thực hiện các dịch vụ mới như dịch vụ cho thuê két, làm đại lý thanh toán... 3.Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và đẩy mạnh giải quyết những vấn đề còn tồn tại nhằm nâng cao tính cân đối giữa công tác huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn trong thời gian tới. Công tác cân đối vốn là một nghiệp vụ tổng hợp có liên quan đến cả hoạt động huy động nguồn và sử dụng vốn. Do đó, để có thể nâng cao tính cân đối ở Ngân hàng thì ngoài những giải pháp chung như đã trình bày ở trên, Ngân hàng nông nghiệp Hà nội cũng cần phải tiến hành các biện pháp cụ thể sau: Trước tiên, Ngân hàng cần giành sự đầu tư thích đáng vào việc nghiên cứu những thành công đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, để có những định hướng thích hợp cho giai đoạn sắp tới vừa mang tính kế thừa vừa có khả năng thích ứng trong điều kiện mới. Trong đó, tính cân đối tương đối vững chắc giữa hoạt động huy động nguồn và sử dụng vốn trong giai đoạn vừa qua là kết quả nổi bật nhất. Bên cạnh việc tích cực phát huy những kết quả đã đạt được, một vấn đề khác cũng hết sức quan trọng mà Ngân hàng cần quan tâm-đó là tìm ra những tồn tại và đưa ra các hướng giải quyết những vấn đề đó. Bởi vì nó sẽ góp phần điều chỉnh lại các hoạt động kinh doanh cho hợp lý hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Thứ nhất, đối với hạn chế là hoạt động cho vay dài hạn nội tệ chưa tương xứng với sự mở rộng nhanh chóng của vốn dài hạn, chênh lệch giữa dư nợ vốn dài hạn với dư nợ tín dụng dài hạn tạo ra tình trạng thặng dư khá lớn, do đó Ngân hàng cần đẩy mạnh hoạt động tín dụng trung dài hạn qua những giải pháp sau đây: -Mở rộng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trên cơ sở chọn lựa kỹ khách hàng, phân tích chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng. Trong đó chú trọng tìm kiếm những khách hàng là những doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả để cho vay đầu tư khép kín đồng bộ cả vốn trung-dài hạn và vốn ngắn hạn. Hoạt động tín dụng Ngân hàng cần phải hoàn thiện các thủ tục cho vay với khách hàng. Ngân hàng cần phải thống nhất mẫu biểu và thực hiện một cách nhanh chóng các thủ tục này, một số thủ tục chi nhánh có thể làm thay khách hàng vì Ngân hàng thực hiện sẽ nhanh hơn, đỡ tốn kém hơn. Ngân hàng cần dành thời gian vào công tác giám sát thực tế vì đây mới là hoạt động mang tính chất quyết định đến chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Ngân hàng cần có một thái độ phục vụ văn minh, kể cả những hành động nhỏ như : giải thích mềm mỏng, đơn giản, dễ hiểu giúp cho khách hàng hiểu rõ về các dịch vụ hiện tại chi nhánh đang cung ứng, về quyền lợi và trách nhiệm của khách hàng khi ký kết các hợp đồng tín dụng. Ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay thế chấp và cho vay cầm cố. Trong thời gian trước mắt, Ngân hàng chưa có điều kiện xây dựng nhà kho bảo quản tài sản cầm cố, Ngân hàng có thể khắc phục bằng cách ký hợp đồng với một số đơn vị nhận bảo quản, trông coi tài sản cầm cố có tín nhiệm. Ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay thế chấp và cho vay cầm cố. Trong thời gian trước mắt, Ngân hàng chưa có điều kiện xây dựng nhà kho bảo quản tài sản cầm cố, Ngân hàng có thể khắc phục bằng cách ký hợp đồng với một số đơn vị nhân bảo quản, trông coi tài sản cầm cố có tín nhiệm. -Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Trong những năm gần đây, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình. Với đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm quốc dân, kinh tế tư nhân đã khẳng định vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần thiết phải đầu tư cho doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đầu tư cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn vì : Những doanh nghiệp này thích nghi với cơ chế thị trường nhanh hơn những doanh nghiệp của Nhà nước với quy mô lớn. Nếu những quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước bị rằng buộc bởi các quyết định hành chính, nên thường chậm chạp . Trong khi quyết định của doanh nghiệp tư nhân diễn ra rất nhanh, nhạy hơn theo tín hiệu của thị trường. Đây là một yếu tố rất quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, những doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức mạo hiểm thấp hơn, tận dụng được nhiều lao động tốt hơn và tiết kiệm khâu trung gian trong quản lý nên giá thành sản phẩm hạ hơn và chất lượng cao hơn. Hiện nay, đối với NHNo Hà nội việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế. Trong khi nguồn vốn của Ngân hàng rất dồi dào, hệ số sử dụng nguồn vốn thấp thì phải chăng Ngân hàng đã quá thận trọng đối với thành phần kinh tế này, chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc thẩm định các dự án của các doanh nghiệp. Như vậy, trong thời gian tới Ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện quy trình cho vay ngoài quốc doanh. Ngân hàng cần thực hiện chính sách: “Dù doanh nghiệp Nhà nước, cổ phần hay tư nhân nếu làm ăn có chữ tín thì sẽ vay được vốn Ngân hàng”. Trên thương trường thất bại là bình thường, thành công mới là không bình thường . Chính vì vậy Ngân hàng nên nhìn nhận cho đúng sự thất bại của doanh nghiệp, tuỳ theo tổn thất và uy tín của doanh nghiệp mà Ngân hàng mạnh dạn cho vay. Coi thuận lợi và khó khăn của bạn hàng cũng là thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng, phải cùng bạn hàng bàn bạc tìm các biện pháp tích cực để cùng hỗ trợ nhau phát triển. Ngoài ra, Ngân hàng cần làm tốt chính sách khách hàng; phân loại, chọn lọc khách hàng. Áp dụng các chính sách ưu đãi như lãi suất, ưu tiên cho vay, ưu tiên trong cung cấp dịch vụ Ngân hàng... Đối với những doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm kinh doanh, Ngân hàng nên cử cán bộ Ngân hàng cùng tham gia để tư vấn, tìm giải pháp xây dựng dự án có tính khả thi cao để sẵn sàng tiếp nhận được vốn Ngân hàng. Ngân hàng cần tăng cường hợp tác với các nhà đầu tư ngay từ khi tìm tòi xây dựng dự án, nhằm đảm bảo cho vay nhanh, an toàn, hiệu quả. Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng cần chấp hành nghiêm chỉnh thể lệ tín dụng, tăng cường kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay để tránh tình trạng xuất hiện những món vay có rủi ro. Đối với các doanh nghiệp có nợ quá hạn cần phối hợp với doanh nghiệp tìm biện pháp tháo gỡ. Phải linh hoạt, mạnh dạn quyết đoán trong việc sử lý nghiệp vụ, không trông chờ vào cấp trên Thường xuyên cải tiến lề lối, đổi mới phong cách giao dịch, trang bị phương tiện thông tin nhanh nhạy để nắm chắc tình hình thị trường tiền tệ, thị trường giá cả, tiến hành xử lý kịp thời những tình huống đặt ra trong kinh doanh, không để lỡ thời cơ. Đi đôi với những giải pháp trên, Ngân hàng cần đẩy nhanh vòng quay của vốn ngắn hạn để phục vụ được nhiều khách hàng, đẩy mạnh công tác thu nợ để có nguồn cho vay tiếp. Như vậy, với việc thực hiện khẩn trương các giải pháp trên đây, đồng thời vẫn tiếp tục mở rộng công tác huy động vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, chắc chắn trong giai đoạn tới sẽ nâng cao hơn hiệu suất sử dụng vốn dài hạn nội tệ, đảm bảo vững chắc tính cân đối giữa huy động nguồn cho vay dài hạn nội tệ nâng cao năng lực của Ngân hàng. Thứ hai, như trong chương II đã phân tích, tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn ngoại tệ ngắn và trung-dài hạn từ năm 2000 trở lại đây đã có tình trạng thặng dư vốn, hoạt động cho vay cũng không sử dụng hết nguồn vốn huy động. Để khắc phục, Ngân hàng cần tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vì đây là các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng ngoại tệ thường xuyên, đồng thời từ đó có thể tranh thủ huy động nguồn ngoại tệ nhàn rỗi từ các tổ chức kinh tế này. Thứ ba, đối với công tác đảm bảo vốn thanh toán, trong thời gian tới Ngân hàng cần tập trung khai thác các nguồn tiền gửi có tính ổn định, lâu dài. Cụ thể là: -Với khách hàng truyền thống, cần tiến hành phân loại khách hàng để có chính sách khách hàng hấp dẫn: qua lãi suất, dịch vụ Ngân hàng kèm theo... Từ đó thu hút khách hàng tập trung tiền gửi hoạt động tại Ngân hàng. -Với khách hàng mới, chú trọng các khách hàng có nguồn tiền gửi ổn định, có tiềm năng gửi tiền trong tương lai cũng như nhu cầu của họ để có kế hoạch tiếp cận. -Với nguồn huy động từ dân cư, cần đẩy mạnh quảng cáo, thông tin trên truyền hình, báo chí để mọi người biết được những lợi ích cụ thể sẽ nhận được nếu gửi tiền tại Ngân hàng. Đồng thời tăng cường áp dụng công nghệ mới bảo đảm việc gửi tiền, rút tiền của khách hàng được nhanh chóng, an toàn và thuận tiện. Bên cạnh việc đưa ra nhiều hình thức huy động với lãi suất linh hoạt, Ngân hàng có thể thực hiện chiết khấu hay mua lại các chứng từ có giá đối với những người có nhu cầu rút trước hạn. Từ đó, dân chúng sẽ yên tâm gửi tiền lâu dài tại Ngân hàng. Ngân hàng cũng cần tiếp tục giữ mối quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng trong và ngoài hệ thống, bởi vì vốn vay các tổ chức tín dụng sẽ góp phần giải quyết các nhu cầu vốn cấp bách của Ngân hàng. 4.Về tình hình nợ quá hạn. Để đảm bảo được tính cân đối của mình, Ngân hàng cũng cần phải hết sức quan tâm đến tình hình nợ quá hạn. Nguyên nhân gây ra nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng có rất nhiều, rất đa dạng. Nhiệm vụ của Ngân hàng xác định rõ nguyên nhân là do chủ quan hay khách quan, nguyên nhân từ phía khách hàng hay do bản thân Ngân hàng để có biện pháp xử lý thích hợp. Trường hợp phát sinh nợ quá hạn Ngân hàng cần cố gắng xử lý dần nợ cũ, hạn chế nợ quá hạn mới để đảm bảo chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng. Đối với khách hàng vay vốn, Ngân hàng cần tuyên truyền phổ biến nghiệp vụ để họ thực hiện tốt các nguyên tắc, chế độ, sử dụng đồng vốn có hiệu qủa, đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng cần nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối chiếu tài khoản cho vay của khách hàng với Ngân hàng, nhất là các khoản tín dụng thông qua các tổ tín chấp vay vốn. Hạn chế đến mức tối đa nhất rủi ro trong kinh doanh tín dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo cân đối vốn. 5.Về chính sách lãi suất. Để tăng cường tính cân đối của Ngân hàng trong huy động và sử dụng nguồn vốn, chính sách lãi suất cần phải được Ngân hàng quan tâm đặc biệt. Sự chênh lệch về lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đã tạo nên nguồn thu nhập của Ngân hàng và nó cũng phản ánh trình độ phát triển của Ngân hàng. Nếu lãi suất huy động cao thì tất yếu lãi suất cho vay sẽ cao và ngược lại. Vì vậy, Ngân hàng phải áp dụng một cách linh hoạt các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi theo kịp sự biến động của thị trường để có thể huy động được nguồn vốn chi phí thấp nhất. Ngân hàng cần có cơ chế sử dụng lãi suất linh hoạt như “cầu nối” giữa sản phẩm Ngân hàng và khách hàng, lãi suất phải có khoảng cách phù hợp giữa giá mua vào và giá bán ra, tạo điều kiện cho khách hàng chấp nhận được. Việc vận dụng lãi suất linh hoạt, hấp dẫn, thực dương còn phải tính đến lạm phát và nhằm khuyến khích người gửi tiền vào Ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp vấn đề lãi suất bao giờ cũng là chủ đề được quan tâm. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, khi thu hút vốn của các Công ty Tư nhân, ngoài việc đưa ra mức lãi suất ưu đãi, Ngân hàng cần có thái độ sao cho các công ty này cảm thấy phấn khởi là không bị phân biệt đối xử giữa quốc doanh và cổ phần. Trong khi cơ chế lãi suất bao gồm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay vẫn đảm bảo lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Từ đó tạo và duy trì mối quan hệ gắn bó với các doanh nghiệp. Đối với các cá nhân khi gửi tiền dài hạn cũng cần có mức lãi suất hợp lý tuỳ theo thời gian gửi tiền. Có thể xây dựng theo hai cách: từ 2 đến 5 năm ấn định mức lãi suất 2 năm, 3 năm, 4 năm, 5 năm. Trên 5 năm ấn định mức lãi suất luỹ tiến thời gian hoặc cứ 5 năm 1 mức. Gửi tiền trong thời gian dài có thể có những ảnh hưởng của chính sách tiền tệ, lạm phát, thiểu phát... Ngân hàng cần xác định thời điểm trả lãi hàng năm theo những mức lãi suất cụ thể cho từng khoản vay với các kỳ hạn khác nhau, phù hợp với mặt bằng lãi suất thời kỳ đó để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền. Cuộc sống hàng ngày phát sinh nhiều vấn đề cần phải chi trả, trong khi các khoản tiền gửi của khách hàng đến cuối kỳ hạn mới được thanh toán. Ngân hàng có thể thực hiện trả lãi theo chu kỳ 3 tháng, 6 tháng trả lãi một lần. Biện pháp này đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người gửi đồng thời cũng khuyến khích được người gửi tiền với kỳ hạn dài hơn. Khi có nhu cầu cần huy động một lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các công trình trọng điểm. Ngân hàng có thẻ nâng mức lãi suất tiền gửi cao hơn lúc bình thường và trả lãi trước cho người gửi tiền. Khi người gửi tiền trung dài hạn có nhu cầu rút ra trước thời hạn, Ngân hàng có thể áp dụng mức trả lãi ở mức thấp hơn một mức của thời gian thực tế họ gửi. Ví dụ: Một người gửi tiền vào Ngân hàng với thời hạn 5 năm. Được 4 năm họ cần rút khoản tiền đó thì Ngân hàng trả lãi cho họ ở mức lãi suất tiền gửi 3 năm. Rõ ràng là khi nguồn huy động có lãi suất hợp lý mang tính cạnh tranh thì công tác sử dụng nguồn sẽ được thúc đẩy hơn. Từ đó dẫn đến tính cân đối sẽ có điều kiện cải thiện. Trong trường hợp nguồn huy động có số dư lớn, Ngân hàng có thể điều chỉnh hạ thấp lãi suất đầu ra để kích thích nhu cầu đầu tư của khách hàng. Hoặc trong điều kiện nhu cầu tín dụng của khách hàng với Ngân hàng lớn, để đảm bảo tính cân đối, Ngân hàng có thể đi vay của các tổ chức tín dụng khác với lãi suất cao hơn. Nhìn chung, để có thể tăng cường tính cân đối tại Ngân hàng từ hoạt động quản lý lãi suất thì NHNo Hà nội cần phải có những nỗ lực trong công tác nghiên cứu, thống kê tình hình lãi suất đối với các tài sản có và tài sản nợ của mình về; tình hình lãi suất trên thị trường, chủ trương đổi mới lãi suất của Thống đốc. Từ đó có thể đề ra mức lãi suất cho từng đối tượng một cách hợp lý. 6.Những vấn đề khác có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và công tác cân đối vốn nói riêng. 6.1.Về kỹ thuật nghiệp vụ của công tác cân đối . Từ khi đi vào hoạt động kinh doanh theo cơ chế của một NHTM, Ban lãnh đạo Ngân hàng đã rất chú trọng đến các công tác cân đối vốn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, nhờ đó NHNo Hà nội đã từng bước nâng cao tính tự chủ trong cả công tác huy động nguồn lẫn hoạt động cho vay. Phòng nguồn vốn kinh doanh phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi cán bộ, trên cơ sở đó đảm bảo nắm vững thông tin về mức dư nợ tài khoản tiền gửi tại NHTM. Tại NHNo Hà nội và các Ngân hàng cùng hệ thống tiến hành bám sát biến động dư nợ tài khoản tiền gửi khách hàng (đặc biệt là tiền gửi không kỳ hạn vì nó ảnh hưởng đến cho vay ngắn hạn). Từ đó giúp cho Ban lãnh đạo Ngân hàng nắm được mọi thông tin một cách kịp thời để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, cán bộ phòng nguồn vốn-kinh doanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong khi tiến hành thực hiện công tác cân đối vốn, bởi vì đây vẫn là một nghiệp vụ còn mới mẻ không chỉ đối với NHNo Hà nội mà còn với hầu hết các NHTM ở Việt nam. Vì thế, việc phân tích số liệu, việc đưa ra các chỉ tiêu đánh giá còn nhiều hạn chế, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Do đó, Ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu các kỹ thuật nghiệp vụ của công tác này ở các nước, kết hợp với kinh nghiệm đã có và điều kiện thực tế ở Việt nam để có thể đưa ra các căn cứ, phân tích, dự đoán một cách khoa học hơn và hoàn thiện hơn. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên chú trọng việc phân tích tổng hợp tình hình cân đối vốn trong thời kỳ, từ đó rút ra xu thế biến động chung, tìm ra được những nhân tố ảnh hưởng có tính chất chu kỳ hay chỉ là nhất thời. Qua đó, Ngân hàng có thể đưa ra được các giải pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả công tác cân đối vốn. Bên cạnh việc cần cử các cán bộ trẻ , có trình độ đi học tập để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, Ngân hàng cũng nên tuyển dụng một đội ngũ các chuyên gia kinh tế nhằm đưa ra các dự đoán về các chỉ số kinh tế, tỷ giá hối đoái và lãi suất. 6.2.Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công nghệ Ngân hàng Công nghệ luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu trong công tác thanh toán của Ngân hàng. Trong lĩnh vực thanh toán nếu tốc độ thanh toán nhanh sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ chu chuyển vốn, vật tư, hàng hoá, dịch vụ, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng một cách an toàn, thuận tiện và nhanh chóng. Vì thế, Ngân hàng cần đẩy nhanh việc nối mạng giữa Hội sở với các chi nhánh trực thuộc, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương thức khách hàng gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi. Ngân hàng cần nhanh chóng thiết lập hệ thống thanh toán tự động, chuẩn bị từng bước tham gia hoà nhập hệ thống truyền thông quốc tế để phục vụ thanh toán quốc tế nhanh chóng. 6.3.Ngân hàng cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ. Để tạo được niềm tin với khách hàng, Ngân hàng cần phải có chữ “tín”. Muốn vậy Ngân hàng cần giải quyết một số công việc sau: -Ngân hàng phối hợp với các Công ty bảo hiểm xúc tiến nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi nói riêng, bảo hiểm vốn của người đầu tư nói chung. Làm được việc này là tạo ra độ an toàn cao cho người gửi tiền. -Mở rộng mạng lưới Ngân hàng tới các trung tâm dân cư, trung tâm buôn bán, những vùng xa trụ sở của Ngân hàng. Ngoài việc nhận tiền gửi dưới mọi hình thức, sẽ kiêm luôn thanh toán và giấy nhận nợ và cho vay. -Ngân hàng cần tăng cường công tác Marketing tức là phải hướng tới nhu cầu của khách hàng, đưa việc cung ứng vốn phù hợp và có chất lượng cao, giá thành phải chăng, việc phân phối vốn thoả đáng. -Chính sách quảng cáo cũng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Thông qua quảng cáo người dân sẽ biết thông tin một cách chi tiết về Ngân hàng mà không cần phải đến trực tiếp. Thế nhưng, quảng cáo về Ngân hàng còn rất hiếm, chủ yếu trên các báo, tạp chí của ngành. Những người dân bình thường không phải ai cũng đọc do đó hiểu biết của họ đến ngành còn ít. Ngân hàng cần tiến hành việc quảng cáo một cách thường xuyên, liên tục trên một số phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo chí với khẩu hiệu “Mọi khách hàng đều là bạn đồng hành của Ngân hàng” và tập trung vào những vấn đề chính: lãi suất hấp dẫn, những tiện ích mà Ngân hàng mang lại, bí mật khách hàng, những lợi ích vật chất... 6.4.Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng. Để thắng thế trong cạnh tranh, Ngân hàng cần nắm bắt được nhu cầu thị trường thông qua hoạt động cung ứng các dịch vụ của mình. Dịch vụ tư vấn: Ngân hàng cần mở rộng tư vấn cho khách hàng về gửi tiền, tư vấn đầu tư, tư vấn trong việc mua bán tài sản của khách hàng... giúp khách hàng lựa chọ loại hình kinh doanh thích hợp. Dịch vụ bảo hiểm: Đây là một dịch vụ bảo hiểm nhằm bù đắp rủi ro mất giá đồng tiền của khách hàng được Ngân hàng thực hiện không vì mục đích thu lời, mà để tránh rủi ro mất giá đồng tiền cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng bán lẻ: Công nghệ thông tin phát triển không ngừng và mang lại rất nhiều tiện ích. Giúp Ngân hàng có thể tiếp cận và áp dụng các loại hình dịch vụ mới như: dịch vụ Ngân hàng qua điện thoại, dịch vụ trên mạng Internet...Qua hoạt động của các loại hình này Ngân hàng có thể mở rộng hoạt động kinh doanh của mình . Dịch vụ chuyển tiền nhanh: Đây là một dịch vụ đem lại thu nhập cho Ngân hàng đồng thời tăng thêm uy tín của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần chú trọng hơn đối với loại hình dịch vụ này thông qua việc chuyển tiền nhanh trong và ngoài nước. 6.5.Về công tác cán bộ: Ngân hàng cần đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của từng cán bộ. Trên cơ sở đó bố trí đúng người đúng việc, phát huy tối đa năng lực của từng cán bộ. Công tác quản trị điều hành cần được coi là khâu then chốt trong thành công của mọi hoạt động. Vì vậy, cần bảo đảm quản trị, điều hành năng động, nhanh nhạy, kiên quyết trên cơ sở bám sát chiến lược của ngành. KẾT LUẬN Việc đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội đòi hỏi phải có sự thực hiện nhiều biện pháp một cách đa dạng và đồng bộ. Các biện pháp đó được bắt đầu từ công tác nghiên cứu, khái quát hoá của người quản lý đến các nghiệp vụ cụ thể ở phòng tín dụng. Từ sự nỗ lực của mỗi nhân viên đến sự quản lý, điều hành, đổi mới cán bộ của cả một tập thể Ngân hàng... Là một sinh viên thực tập, thời gian qua em đã có điều kiện và thời gian tìm hiểu , chứng kiến sự đổi mới nhanh chóng trong cơ chế hoạt động của Ngân hàng. Mặc dù kiến thức bản thân còn hạn chế, các số liệu chỉ lấy theo số tuyệt đối quý và năm, nhưng em nhận thức rằng công tác phân tích, nghiên cứu tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng và cần thiết. Nếu thực hiện tốt công tác này, người quản lý sẽ có điều kiện nắm bắt được tình hình kinh doanh hiện tại, nắm bắt được xu hướng của chúng dễ dàng hơn trong việc ra quyết định. Từ đó hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng sẽ có điều kiện đẩy mạnh hơn. Trong quá trình thực tập, em cũng tự nhận thấy rằng bản thân còn có những nhược điểm , yếu kém không thể tránh khỏi trong cách suy nghĩ và trong phương pháp nghiên cứu, do vậy cách phân tích cũng như những đóng góp nêu trong đề tài sẽ tồn tại những điểm yếu và thiếu sót nhất định. Em mong rằng sẽ nhận được những ý kiến chỉ bảo, bổ sung quý báu của cán bộ hướng dẫn tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà nội. Lời nói đầu 1 chương i: Huy động vốn-sử dụng vốn Nghiệp vụ chính yếu của một ngân hàng hương mại 3 i-những nội dung cơ bản về ngân hàng và hoạt động ngân hàng 3 1. Ngân hàng và hoạt động Ngân hàng: 3 2. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng thương mại. 5 2.1. Chức năng trung gian tín dụng: 5 2.2. Chức năng trung gian thanh toán. 5 2.3. Chức năng tạo tiền. 6 3. Vai trò của Ngân hàng thương mại với nền kinh tế. 6 3.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. 6 3.2. Ngân hàng là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. 7 3.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 8 3.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. 8 ii. Hoạt động huy động vốn của nhtm. 9 1. Nguồn vốn - cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động kinh doanh 9 1.1.1. Nghiệp vụ tài sản nợ của Ngân hàng thương mại. 9 1.1.1.Nguồn vốn tự có 9 1.1.2.Nguồn vốn vay: 10 1.1.2. Vốn điều chuyển trong thanh toán. 11 1.1.3. Vốn huy động. 11 1.2. Sự cần thiết khách quan của công tác huy động vốn: 11 2. Công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại. 12 2.1. Tạo vốn qua huy động các khoản tiền gửi của khách hàng. 12 2.1.1. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. 12 2.1.2. Tạo vốn qua huy động tiền gửi. 13 2.2. Tạo vốn qua đi vay. 14 2.3.Các hình thức huy động vốn khác. 14 iii. hoạt động sử dụng vốn của nhtm. 15 1. Nghiệp vụ tài sản có của Ngân hàng. 15 1.1 Nghiệp vụ ngân quỹ (vốn đảm bảo thanh toán). 15 1.1.1. Dự trữ pháp định (Dự trữ bắt buộc). 15 1.1.2. Tiền mặt tại quỹ: 15 1.2.3. Tiền gửi ở các Ngân hàng khác. 15 1.2. Nghiệp vụ đầu tư. 15 1.3. Nghiệp vụ tín dụng. 16 1.3.1. Tín dụng ngắn hạn. 16 1.3.2. Tín dụng trung –dài hạn. 17 1.4. Tài sản có khác. 17 2. Công tác quản lý tài sản có và vấn đề thanh khoản đối với một Ngân hàng thương mại. 17 iv. Tính cân đối giữa huy động và sử dụng nguồn vốn với hoạt động cho vay của ngân hàng. 18 1. Sự cần thiết phải đảm bảo cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. 18 2. Nội dung công tác cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. 19 2.1 . Khái quát về bảng cân đối vốn của Ngân hàng thương mại. 19 2.2. Nội dung của sự cân đối. 19 2.2.1. Cân đối vốn theo kỳ hạn. 20 2.2.2. Cân đối theo loại tiền. 20 2.2.3. Đảm bảo khả năng thanh toán. 21 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn. 22 3.1.Vấn đề huy động vốn. 22 3.2.Sử dụng vốn. 22 3.3.Vấn đề dư nợ quá hạn. 23 3.4.Lãi suất. 23 3.5.Khả năng quản trị điều hành của Ngân hàng . 23 Chương ii 24 Thực trạng về cân đối giữa huy động nguồn và 24 sử dụng nguồn vốn tại ngân hàng nông nghiệp 24 và phát triển nông thôn hà nội. 24 i.Vài nét về ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hà nội (nhno&ptnt hà Nội). 24 1. Sự hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Hà Nội. 24 2. Cơ chế hoạt động và bộ máy tổ chức. 26 ii. tình hình huy động nguồn vốn tại ngân hàng 27 1. Cơ cấu tổng nguồn vốn theo hình thức huy động. 28 1.1.Tiền gửi của các tổ chức kinh tế. 31 1.2. Tiền gửi tiết kiệm dân cư. 33 1.3.Tiền gửi của các tổ chức tín dụng 35 1.4. Kỳ phiếu Ngân hàng. 37 1.5. Nguồn tiền gửi khác. 38 2. Cơ cấu tổng nguồn theo kỳ hạn huy động. 39 iii. tình hình sử dụng vốn tại nhno&ptnt hà nội. 43 iv. hiện trạng tính cân đối giữa huy động nguồn 51 và sử dụng nguồn vốn tại nhno&ptnh hà nội. 51 1. Cân đối theo kỳ hạn và theo nội-ngoại tệ. 51 1.1. Tính cân đối giữa huy động và cho vay ngắn hạn 51 1.2. Tính cân đối trong cho vay và huy động trung-dài hạn. 54 3.Các nhân tố ảnh hưởng tới tính cân đối. 56 3.1.Vấn đề nợ quá hạn và ảnh hưởng của nó tới tính cân đối. 56 3.2.Chính sách lãi suất và ảnh hưởng của nó tới tính cân đối. 58 chương iii 59 Một số ý kiến về việc tăng cường khả năng cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn tại 59 nhno&ptnt hà nội trong thời gian tới. 59 I. Những tồn tại trong công tác cân đối vốn giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn tại NHNo&PTNT Hà nội. 59 1. NHNo Hà nội chưa tận dụng hết khả năng huy động vốn. 59 2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng chưa tương xứng với sự mở rộng nhanh chóng của nguồn vốn huy động. 60 3. Ngân hàng chưa thực sự triển khai chính sách khách hàng, chính sách thông tin quảng cáo, tiếp thị một cách có hiệu quả. 60 4. NHNo Hà nội chưa có các nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng. 60 II. Một số kiến nghị về việc tăng cường tính cân đối giữa huy động nguồn và sử dụng nguồn. 61 A. Về phía Nhà nước và các cơ quan pháp luật. 61 B. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam. 62 C. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà nội. 64 1.Trên cơ sở yêu cầu sử dụng vốn, Ngân hàng xác định qui mô, cơ cấu nguồn vốn cho phù hợp, đảm bảo tính cân đối với hoạt động sử dụng vốn. 64 2.Ngân hàng cần xây dựng chiến lược sử dụng vốn hợp lý trên cơ sở đa dạng hóa loại hình đầu tư kinh doanh và dịch vụ Ngân hàng. 66 3.Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và đẩy mạnh giải quyết những vấn đề còn tồn tại nhằm nâng cao tính cân đối giữa công tác huy động nguồn và sử dụng nguồn vốn trong thời gian tới. 67 4.Về tình hình nợ quá hạn. 71 5.Về chính sách lãi suất. 72 6.Những vấn đề khác có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và công tác cân đối vốn nói riêng. 74 6.1.Về kỹ thuật nghiệp vụ của công tác cân đối . 74 6.2.Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công nghệ Ngân hàng 75 6.3.Ngân hàng cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ. 75 6.4.Mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng. 76 6.5.Về công tác cán bộ: 77 Kết luận 78 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0286.doc
Tài liệu liên quan