TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH
&
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP BÁCH KHOA
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. NGUYỄN THỊ THU THẢO
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN TUẤN ANH
Lớp : NGÂN HÀNG 46Q
HÀ NỘI - 2008
LỜI CẢM ƠN
Để đề tài được hoàn thành như trên em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm ,giúp đỡ của các thầy cô và bạn bè.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự độn
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Bách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g viên chỉ bảo của các thầy cô giáo và các cô chú, anh chị đang công tác tại chi nhánh NHNNo & PTNT Bách Khoa.
Em xin đặc biệt cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo đã giúp đỡ em thực hiền đề tài này.
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề phát triển kinh tế là vấn đề mang tính chất toàn cầu mà mọi quốc gia đều đặt lên làm mục tiêu hàng đầu, đi đôi với nó là xu hướng quốc tế hoá các hoạt động kinh tế. Là nguyờn nhõn khiến các quốc gia phải thực hiện chính sách hoà nhập vào kinh tế nói chung, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh Đảng ta chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đó là tiền đề khách quan kích thích các tiềm năng trong nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển từng bước tham gia vào phân công lao động quốc tế cũng như tạo dựng tiền đề cho hoạt động tài chính tiền tệ, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại gồm nhiều loại hình khác nhau như huy động vốn, cho vay, làm các dịch vụ cho khách hàng. Với tư cách là trung gian thanh toán nên hoạt động thanh toán là hoạt động cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Hơn nữa thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán chi trả hàng hoá, dịch vụ của dân cư đã tồn tại từ thời bao cấp. Mỗi năm phải tốn nhiều tỷ đồng cho chi phí, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm... chưa kể thời gian thanh toán rất chậm. Đây là một lãng phí lớn trong khi hiện nay ta đang cần vốn để đầu tư và phát triển. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã khắc phục được tình trạng đó. Nó không chỉ tiết kiệm cho nền kinh tế xã hội mà còn là công cụ thiết thực để điều tiết và thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá và tăng vòng quay của vốn. Bên cạnh đó thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho Ngân hàng Thương mại có thêm nguồn vốn trong thanh toán. Đối với ngân hàng nhà nước thanh toán không dùng tiền mặt làm giảm lượng tiền trong lưu thông là điều kiện quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia chống lạm phát.
Sự tồn tại và phát triển của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, vì nó đáp ứng được các nhu cầu thanh toán thường xuyên và rất lớn của nền kinh tế. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt còn có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
Từ thực trạng trên và trước yêu cầu đổi mới cấp bách của hệ thống ngân hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế, tiến tới hoà nhập vào hệ thống ngân hàng thế giới thì việc hoàn thiện và phát triển hệ thống thanh toán ở các Ngân hàng Thương mại Việt Nam là rất cần thiết,em đã lựa chọn nghiên cứu khoá luận với đề tài: “Giải pháp về phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh NHNNo Bách Khoa”. Kết cấu của khoá luận như sau:
Chương I: Những lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt trong kinh tế.
Chương II: Thực trạng về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh NHNNo & PTNT Bách Khoa..
Chương III: Giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh NHNNo & PTNT Bách Khoa.
Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các cô chú trong ngân hàng để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
KTTT
: Kinh tế thị trường
TTKDTM
: Thanh toán không dùng tiền mặt
NH
: Ngân hàng
NHNN
: Ngân hàng Nhà Nước
NHTM
: Ngân hàng thương mại
NHNN & PTNT
: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
TTBT
: Thanh toán bù trừ
UNC
: Uỷ nhiệm chi
UNT
: Uỷ nhiệm thu
TTD
: Thư tín dụng
TTLCNNH
: Thanh toán liên chi nhánh ngân hàng
TTĐT
: Thanh toán điện tử
TTĐTLNH
: Thanh toán điện tử liên ngân hàng
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Sự cận thiết và vai trò của Thanh Toán Không Dùng Tiền Mặt trong kinh tế thị trường.
1.1.1. Sự cần thiết của phương thức TTKDTM trong nền kinh tế thị trường:
Cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng và những ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin, tự động hóa…, có rất nhiều hình thức TTKDTM tiện lợi, an toàn đã, đang được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Phương tiện thanh toán tiền mặt là không thể thiếu, song ngày nay, thanh toán bằng tiền mặt không còn là phương tiện thanh toán tối ưu trong các giao dịch thương mại, dịch vụ nữa, đặc biệt là giao dịch có giá trị và khối lượng lớn.
Ngày nay các hoạt động giao dịch thương mại, dịch vụ, hàng hóa diễn ra mọi lúc, mọi nơi, vượt qua cả giới hạn về khoảng cách. Xét trên nhiều góc độ, khi hoạt động thanh toán trong xã hội còn thực hiện phổ biến bằng tiền mặt, nhất là trong thanh toán các khoản có giá trị lớn có thể dẫn đến một số bất lợi và rủi ro như: Chi phí của xã hội để tổ chức hoạt động thanh toán (như chi phí của Chính phủ cho việc in tiền; chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm, đếm tiền của hệ thống ngân hàng, của các chủ thể tham gia giao dịch thanh toán) là rất tốn kém; Việc thực hiện giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với khối lượng lớn dễ bị các đối tượng phạm pháp lợi dụng để gian lận, trốn thuế, trì hoãn hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng hoặc các chủ nợ; Vấn đề an ninh trong thanh toán, bảo quản, vận chuyển tiền mặt luôn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm; Sử dụng nhiều tiền mặt trong giao dịch thanh toán của xã hội sẽ là môi trường thuận lợi cho tội phạm lưu hành tiền giả, đe dọa trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân và tình hình an ninh quốc gia.
Các bất lợi và rủi ro trên là vấn đề xảy ra với bất kỳ quốc gia nào, song với các nước mà thanh toán bằng tiền mặt còn ở mức phổ biến trong xã hội, tình hình sẽ càng phức tạp và khó kiểm soát hơn.
Mặt khỏc,sau nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, với sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, hoạt động của nền kinh tế đã trở nên sôi động hơn với nhiều loại hình kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Bên cạnh đó, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đã khẳng định: “Hệ thống ngân hàng cần phải vươn lên làm tốt chức năng trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán của các thành phần kinh tế, huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam”.
Ngân hàng- một ngành có vai trò hết sức quan trọng của toàn bộ nền kinh tế, phải đi trước các ngành kinh tế khác trong công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 của Đảng ta đã khẳng định rõ: “Phải cải tổ hệ thống ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành trung tâm tiền tệ - tín dụng - thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị trường vốn và tiền tệ”.
Do đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt đó ra đời. Sản xuất hàng hoá phát triển qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao. Tuy nhiên ở giai đoạn nào tiền tệ vẫn luôn luôn đóng vai trò là một công cụ có tầm quan trọng lợi hại đặc biệt và có độ nhạy rất cao. Việc sử dụng công cụ tiền tệ như thế nào sẽ gây tác động dây chuyền như là một tác nhân kinh tế đối với từng mắt xích hoặc có khi đối với các quá trình kinh tế. Trong các học thuyết kinh tế, người ta đã xác định ngân hàng có vai trò là trung tâm thanh toán của hệ thống ngân hàng ngày càng rõ nét và to lớn. Tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ và do đó phát sinh quan hệ thanh toán.
Thêm vào đó, tập trung thanh toán vào ngân hàng là một vấn đề thiết yếu đối với mỗi doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trong điều kiện nền kinh tế phát triển. Ngân hàng là nơi tập trung một khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, số tồn khoản này dành cho các tổ chức kinh tế trong nước để tiến hành mở rộng công việc làm ăn, kinh doanh buôn bán. Trong nền kinh tế hiện đại, ngân hàng kiểm soát và điều động một cách hợp lý khối lượng tiền tệ, chịu ảnh hưởng của mọi chính sách phát triển kinh tế quốc gia. Tập trung công tác thanh toán vào ngân hàng có một ý nghĩa to lớn không chỉ đối với xã hội, chính phủ mà còn với cả các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư.
Trên diện rộng, Ngân hàng phản ánh kinh tế của một nước. Nhìn vào những hoạt động và trình độ công nghệ của các nghiệp vụ trong ngân hàng là ta có thể đánh giá được trình độ phát triển kinh tế của nước đó. Hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ sẽ tạo ra động lực cho mọi ngành kinh tế khác trong nước phát triển và ngược lại.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa thanh toán bằng tiền mặt ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm bởi các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng, phức tạp, thanh toán không ngừng tăng lên về khối lượng và chất lượng. Như vậy, chính sự phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời của một phương thức thanh toán mới ưu việt hơn: “Thanh toán không dùng tiền mặt”
Như vậy, hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ra đời đã khắc phục những hạn chế của thanh toán dùng tiền mặt, đồng thời thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền linh tế.Thanh toán không dùng tiền mặt là một nấc thang phát triển tất yếu của nghiệp vụ thanh toán trong nền kinh tế thị trường và chính nó đã tong bước đáp ứng được yêu cầu cảu nền kinh tế hiện đại.Vậy ta hiểu TTKDTM là gì ?
“ TTKDTM phải được hiểu là tiền mặt vẫn phải nằm trong ngân hàng nhưng tổng phương diện thanh toán không thay đổi.”
Rõ hơn thì “ TTKDTM là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân hàng “.
1.1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong kinh tế thị trường:
Công tác thanh toán là một trong những chức năng trung tâm của ngân hàng. Theo đà phát triển chung của xã hội và hệ thống ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt ngày trở nên quan trọng bởi những vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế thị trường
* Thứ nhất, nó mang lại lợi ích cho những người sử dụng, cụ thể là:
Thuận tiện: bởi vì các cá nhân và các tổ chức doanh nghiệp có thể sử dụng séc hoặc thẻ thanh toán khi họ mua hàng từ món hàng nhỏ nhất cho tới những món hàng có giá trị lớn mà không cần lúc nào cũng phải mang lượng tiền mặt lớn theo người. Bên cạnh đó, việc mang tiền mặt có thể gây nhiều bất tiện, không an toàn bằng séc và có thể rơi vào tình huống “không mang tiền” hoặc “không mang đủ tiền” khi đột xuất có việc cần chi tiêu.
An toàn: Khi phải vận chuyển một lượng tiền lớn thanh toán ở nơi xa, thì rất nhiều rủi ro có thể gặp phải như bị cướp, hoặc các mất mát khác do thiên tai, tai nạn, v.v... ; Vì thế, hiện nay, các ngân hàng luôn sử dụng những xe chuyển tiền đặc biệt và được bảo vệ kĩ càng để vận chuyển tiền. Nhưng các doanh nghiệp và cá nhân thì không phải ai cũng có thể sử dụng những biện pháp bảo vệ an toàn tốn kém đó; khi ấy, các phương thức chuyển tiền hoặc thanh toán qua ngân hàng sẽ tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp.
Khả năng quản lí tài chính, Trên thực tế, khi mở một tài khoản và sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, chủ tài khoản có thể yêu cầu được bảng kê về thu nhập và chi tiêu của họ theo định kì hoặc theo yêu cầu, điều này đặc biệt hữu ích với cá nhân và đặc biệt với doanh nghiệp trong quản lí luồng tài chính vào ra của họ.
* Thứ hai, đối với nền kinh tế, nó giúp tăng tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu chuyển hàng hoá tiền tệ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trôi nổi trên thị trường, tiết kiệm được chi phí xã hội gắn liền với việc in tiền, huỷ tiền, hư hỏng, bảo quản, kiểm đếm...
Khối lượng tiền cần thiết để thanh toán trong lưu thông có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu thanh toán không dùng tiền mặt tăng sẽ làm giảm khối lượng tiền mặt cần thiết. Vì vậy khối lượng tiền mặt trong lưu thông giảm xuống, sẽ giảm được chi phí lưu thông mà chủ yếu là chi phí phát hành, bảo quản, kiểm đếm, cất giữ v.v... Giảm được chi phí này sẽ tạo điều kiện tốt để điều hoà lưu thông tiền tệ vì quá trình thanh toán này chịu giám sát trực tiếp hoặc gián tiếp của ngân hàng nhà nước. Vì vậy mà chúng ta kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ.
Thêm vào đó, thanh toán không dùng tiền mặt phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế, bất kỳ một chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá nào đều bắt đầu bằng khâu thanh toán. Do vậy, phải tổ chức thanh toán nhanh gọn, chính xác vừa đảm bảo an toàn về vốn vừa rút ngắn được chu kỳ sản xuất, tăng tốc độ luân chuyển vốn. Đứng ở tầm vĩ mô, khâu thanh toán ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn, đến kết quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Nếu như thanh toán được tiến hành trôi chảy sẽ giúp cho lưu thông hàng hoá thông suốt, các hoạt động của nền kinh tế sẽ tiến hành thuận lợi.
Để có thể tiến hành thanh toán qua ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác, các tổ chức, cá nhân phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán thông qua việc gửi một khoản tiền nhất định vào ngân hàng. Tính chất của tài khoản này là dư có, đó là nguồn vốn huy động tạm thời tồn đọng trên các tài khoản tiền gửi thanh toán nhưng chưa sử dụng đến. Xuất phát từ tính chất không liên tục của việc nộp tiền bán hàng hoá, dịch vụ vào tài khoản và việc chi trả từ tài khoản, do không phải lúc nào các lệnh chi trả cũng được tiến hành cùng một lúc với giá trị như nhau, nên trên tài khoản luôn lưu ký một số dư nhất định. Đây là nguồn vốn tín dụng khá lớn và có chi phí thấp (vì trả lãi thấp), mà ngân hàng được phép sử dụng để mở rộng đầu tư và tín dụng cho nền kinh tế, (sau khi duy trì một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chi trả cho chủ tài khoản trong mọi trường hợp).
Bên cạnh đó, TTKDTM giúp NH và các tổ chức tín dụng tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào nền kinh tế để mở rộng việc cấp tín dụng ngân hàng.
Trong vai trò thứ hai, ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn từ tài khoản tiền gửi thanh toán để cho vay, mở rộng việc cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Chỉ tiêu kế hoạch tín dụng tổng hợp là một trong những chỉ tiêu kế hoạch quan trọng của nền kinh tế, mà kế hoạch tín dụng muốn thực hiện được tốt thì phải đẩy mạnh công tác thanh toán qua ngân hàng. Việc thanh toán này diễn ra càng nhanh chóng thì sẽ giải phóng nhanh vốn trong khâu thanh toán, kết quả là tạo ra nguồn vốn nhàn rỗi lớn thì đẩy mạnh hoạt động cho vay của ngân hàng và cuối cùng là tạo điều kiện để kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Xu hướng trong thời gian tới khối lượng thanh toán sẽ tiếp tục tăng nhanh, do vậy nguồn vốn tiền gửi thanh toán sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong toàn bộ cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng.
Với ngân hàng thanh toán qua ngân hàng đã và đang trở thành công cụ cạnh tranh có hiệu quả của các ngân hàng nhằm thu hút khách hàng. Điều này thể hiện trên hai khía cạnh sau:
+ Về dịch vụ ngân hàng:
Như chúng ta đã biết, mục đích của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không chỉ đề hưởng lãi mà còn để mua các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ dần sẽ trở thành mục đích chính của khách hàng. Vì vậy sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng được đo bằng số lượng và chất lượng các dịch vụ ngân hàng trong đó có dịch vụ thanh toán.
+ Về chi phí ngân hàng:
Đối với các tài khoản tiền gửi thanh toán, lãi suất ngân hàng phải trả cho số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán là rất thấp, thậm chí một số nước trên thế giới người gửi tiền không được hưởng lãi trên số dư tài khoản tiền gửi thanh toán. Vì vậy ngân hàng có thể lợi dụng việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt như một giải pháp hữu hiệu để thay đổi cơ cấu nguồn vốn theo xu hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có chi phí thấp, giảm tỷ trọng nguồn vốn có chi phí cao theo những biến động thực tế.
Thêm vào đó, từ việc quản lý biến động về số dư trên tài khoản tiền gửi ngân hàng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng để ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tư vấn, đầu tư có hiệu quả và quản lý mức độ rủi ro tín dụng đối với các tổ chức doanh nghiệp này
* Thứ ba, nó có vai trò quản lí vĩ mô của nhà nước. Việc TTKDTM qua ngân hàng đòi hỏi hoạt động thanh toán của khách hàng phải qua ngân hàng hoặc phải mở tài khoản tại ngân hàng. Vì vậy, thông qua hoạt động TTKDTM nhà nước có thể kiểm soát được lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường để có biện pháp quản lý lạm phát, quản lý sự biến động của thị trường, thiết lập các chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia. Bên cạnh đó việc thanh toán qua ngân hàng sẽ kiểm soát được tình trạng thu chi của các doanh nghiệp hạn chế tình trạng tham ô, chi tiêu mờ ám, chốn thuế, rửa tiền….
Tóm lại, TTKDTM trong nền kinh tế thị trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các chủ thể thanh toán, các trung gian thanh toán, các đối tượng cơ quan quản lý nhà nước. Đứng trên góc độ ngành nó phản ánh khá trung thực bộ mặt hay trang thiết bị cơ sở vật chất của ngành. Ở tầm vĩ mô TTKDTM phản ánh trình độ phát triển kinh tế và dân trí của một nước. Bên cạnh đó, việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào công tác TTKDTM làm cho hệ thống ngân hàng ngày càng trở nên hiện đại góp phần ổn định và phát triển hệ thống tài chính quốc gia, đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế.
1.2. Các hình thức TTKDTM tại chi nhánh NHNNo & PTNT Bách Khoa:
Hiện nay tại các ngân hàng có các thể thức thanh toán, cụ thể như sau:
1.2.1. Thể thức thanh toán séc:
Séc là gì? Sec là tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản (người phát hành séc) được lập trên mẫu in sẵn đặc biệt do Ngân hàng Nhà nước qui định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc hoặc người cầm cố séc.
Theo quy định thời hạn hiệu lực qui định của séc là 15 ngày theo lịch kể từ ngày kí phát hành séc đến ngày nộp vào NH. Việc qui định thời hạn hiệu lực của séc là nhằm đảm bảo an toàn trong quá trình thanh toán và để các đơn vị thanh toán (ngân hàng) có thể kiểm soát chặt chẽ. Séc sử dụng trong thanh toán là mẫu séc do NH in theo mẫu chung, và chỉ có một mẫu séc duy nhất dùng để thực hiện : lĩnh tiền mặt, thanh toán chuyển khoản, bảo chi cho mọi thành phần kinh tế có mở tài khoản tại ngân hàng.
Việt Nam hiện nay chỉ sử dụng séc kí danh, và được phép chuyển nhượng hai lần trong thời hạn hiệu lực và phạm vi thanh toán của tờ séc. Séc về bản chất là giấy tờ có giá vì thế phải được qui định chặt chẽ, kể cả séc trắng, tránh bị lợi dụng gây rủi ro cho khách hàng và NH. Hiện nay NH chỉ bán séc cho chủ tài khoản tối đa mỗi lần 10 tờ.
Theo qui định thì séc có thể chia thành các loại là séc lĩnh tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức. Mỗi loại có qui định về phạm vi thanh toán khác nhau để đảm bảo an toàn. Hiện nay, tại các NH chủ yếu sử dụng là séc chuyển khoản và séc bảo chi.
1.2.1.1 Séc lĩnh tiền mặt:
Là tờ séc thông thường, nếu chính chủ tài khoản là người lĩnh tiền thì ghi tên mình vào dòng “yêu cầu trả cho” ở mặt trước tờ séc, nếu người khác lĩnh (theo uỷ quyền hoặc trả cho người thụ hưởng) thì phải ghi vào mặt sau của tờ séc phần “phần qui định dùng cho lĩnh tiền mặt”.
Để đảm bảo an toàn séc lĩnh tiền mặt chỉ được lĩnh tại Ngân hàng nơi người phát hành séc mở tài khoản tiền gửi.
Séc chuyển khoản:
Là séc do chủ tài khoản phát hành để chuyển cho người được thụ hưởng vào tài khoản tiền gửi của họ tại ngân hàng. Séc chuyển khoản được lập như tờ séc thông thường có hai đường gạch chéo song song ở góc bên trái hoặc có chữ “chuyển khoản” thể hiện là chỉ được trả vào tài khoản (không được lĩnh tiền mặt). Do an toàn hơn nên séc chuyển khoản có phạm vi thanh toán rộng hơn, có thể dùng để thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố có tham gia thanh toán bù trừ.
Đặc điểm của séc chuyển khoản là khả năng thanh toán phụ thuộc vào số dư trên tài khoản tiền gửi của người phát hành; vì thế trong thương mại séc chuyển khoản thường chỉ được sử dụng khi bên bán tín nhiệm bên mua về thanh toán.
Đối với các ngân hàng nguyên tắc hạch toán séc chuyển khoản là ghi Nợ tài khoản tiền gửi người phát hành séc trước, ghi Có tài khoản người thụ hưởng sau.
Kế toán thanh toán bằng séc chuyển khoản:
Trường hợp thanh toán giữa các khách hàng mở TK cùng một Ngân hàng:
Khi nhận được séc và bảng kê nộp séc hợp lệ hợp pháp của người thụ hưởng nộp vào Ngân hàng, kế toán hạch toán:
Nợ TKTG người phát hành séc
Có TKTG người thụ hưởng séc
Thanh toán khác Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn:
Tại NH của người phát hành séc:
Nợ TKTG người phát hành séc
Có TK thanh toán bù trừ
Tại NH nhận séc:
Nợ TK thanh toán bù trừ
Có TKTG người thụ hưởng séc
Séc bảo chi:
Séc bảo chi là một loại Séc chuyển khoản nhưng được ngân hàng đảm bảo chi trả cho từng tờ Séc trên cơ sở tiền mà người phát hành. Séc đã lưu ký, vì vậy người chịu trách nhiệm thanh toán tờ Séc là ngân hàng bảo chi Séc.
Để phát hành séc bảo chi người phát hành séc phải lưu kí trước số tiền ghi trên tờ séc vào một tài khoản riêng và nộp vào ngân hàng xin bảo chi, ngân hàng tiến hành đóng dấu kí tên xác nhận bảo chi.
Do ngân hàng đã lưu kí số tiền thanh toán cho tờ séc trên tài khoản séc bảo chi nên tờ séc bảo chi được đảm bảo thanh toán một cách chắc chắn. Vì vậy về nguyên tắc hạch toán, séc bảo chi được hạch toán Có tài khoản người thụ hưởng trước, ghi Nợ tài khoản bảo chi tại ngân hàng phát hành sau. Vì được “bảo chi” nên séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn, ngoài phạm vi thanh toán như séc chuyển khoản (trên một địa bàn) thì còn có thể thanh toán sang ngân hàng cùng hệ thống ở tỉnh, thành phố khác.
Kế toán thanh toán bằng séc bảo chi:
- Khi tiến hành bảo chi séc, NH hạch toán
Nợ TKTG người phát hành
Có TK tiền kí gửi đảm bảo thanh toán séc
Nếu người thụ hưởng nộp séc vào NH phục vụ mình:
NH của người thụ hưởng kiểm tra, nếu từ séc hợp lệ hợp phát ghi Có và báo Có cho người thụ hưởng, và làm thủ tục thanh toán về NH của người phát hành séc. Hạch toán:
Nợ TK Chuyển tiền đi
Có TKTG người thụ hưởng
NH bảo chi séc nhận báo nợ séc bảo chi, hạch toán:
Nợ TK tiền kí gửi đảm bảo thanh toán séc
Có TK chuyển tiền đến
Hoặc Có TK Thanh toán bù trừ
Nếu người thụ hưởng nộp séc vào NH của người phát hành
NH của người phát hành hạch toán:
Nợ TK tiền kí gửi đảm bảo thanh toán séc
Có TK chuyển tiền điện tử đi (nếu cùng hệ thống)
Hoặc Có TK TTBT (nếu khác hệ thống)
NH của người thụ hưởng nhận được báo Có séc bảo chi thì hạch toán và gửi cho người thụ hưởng:
Nợ TK chuyển tiền đến
Hoặc Nợ TK TTBT
Có TKTG người thụ hưởng
Nếu người phát hành séc và người thụ hưởng đều ở cùng một Ngân hàng:
Khi người thụ hưởng nộp séc vào NH, sau khi kiểm tra hợp lệ hợp pháp, hạch toán:
Nợ TK tiền kí gửi đảm bảo thanh toán séc
Có TKTG đơn vị thụ hưởng
1.2.1.3. Séc định mức :
Đây là loại hình có tính an toàn cao nhưng séc bảo chi lại phức tạp khi phát hành, mỗi lần phát hành séc phải đến ngân hàng bảo chi; vì thế séc định mức đã được sử dụng để dung hoà nhược điểm này. Séc định mức về bản chất cũng là séc được ngân hàng bảo chi trong giới hạn định mức từng tờ hoặc cả quyển séc. Tuy nhiên hình thức này lại có nhược điểm là không an toàn, dễ bị giả mạo.
1.2.2. Thể thức thanh toán Uỷ nhiệm chi- chuyển tiền:
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản (người chi trả) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích một số tiền nhất định trên tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng.
Uỷ nhiệm chi có tính an toàn có thể nói là cao nhất vì nó là lệnh của chủ tài khoản chi tiền trên tài khoản của họ, chỉ khi trên tài khoản có đủ số dư thì mới có thể chi tiền, khả năng giả mạo cũng thấp. Vì thế phạm vi thanh toán của uỷ nhiệm chi là mọi trường hợp thanh toán cùng lãnh thổ Việt Nam.
Đặc điểm của uỷ nhiệm chi là quá trình thanh toán lệ thuộc người mua, người mua là người chủ động thanh toán vì thế thường chỉ áp dụng khi người bán và người mua thực sự tín nhiệm nhau trong quan hệ thanh toán.
Tuy nhiên, uỷ nhiệm chi rất đơn giản và thuận tiện trong phát hành và sử dụng, nó không lệ thuộc hợp đồng kinh tế và có thể dùng để thanh toán phi công nợ; người mua có thể viết uỷ nhiệm chi để trả tiền hàng trước cho người bán theo thoả thuận của hai bên. Do những ưu điểm này mà uỷ nhiệm chi là thể thức thanh toán không dùng tiền mặt có tỷ trọng thanh toán cao nhất tại Việt Nam hiện nay.
Kế toán thanh toán bằng uỷ nhiệm chi:
Trường hợp thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng Ngân hàng:
Khi khách hàng nộp uỷ nhiệm chi, NH kiểm soát hợp lệ hợp pháp và hạch toán:
Nợ TK người phát hành
Có TK người thụ hưởng
Trường hợp thanh toán khác ngân hàng
Nếu thanh toán khác NH cùng hệ thống thì chuyển tiền điện tử.
Nếu thanh toán khác hệ thống cùng địa bàn thì chuyển qua thanh toán bù trừ
Nếu thanh toán khác hệ thống, khác địa bàn thì chuyển tiền điện tử sau đó bù trừ tại NHĐT&PT nơi có NH của người thụ hưởng đóng trụ sở.
Tại NH phục vụ người phát hành (người trả tiền) hạch toán:
Nợ TK người phát hành
Có TK chuyển tiền đi (trường hợp cùng hệ thống)
Hoặc Có TK TTBT (trường hợp khác hệ thống)
Tại NH phục vụ người thụ hưởng khi nhận được chuyển tiền của NH phục vụ người phát hành, ghi
Nợ TK chuyển tiền đến
Hoặc Nợ TK TTBT
Có TK người thụ hưởng
Séc chuyển tiền: là một hình thức đặc biệt áp dụng uỷ nhiệm chi. Khách hàng muốn chuyển tiền theo hình thức này phải lập uỷ nhiệm chi nộp vào ngân hàng yêu cầu trích tài khoản tiền gửi hay tiền vay chuyển vào tài khoản tiền gửi séc chuyển tiền. Sau khi xem xét đủ các điều kiện ngân hàng làm thủ tục phát hành séc chuyển tiền, ghi đầy đủ nội dung, kí hiệu mật, yêu cầu người chuyển tiền kí vào mặt sau tờ séc trước khi giao nhận. Với hình thức này khách hàng tham gia trực tiếp vào việc luân chuyển chứng từ giữa hai ngân hàng.Phạm vi thanh toán của séc chuyển tiền là giữa các ngân hàng cùng hệ thống, thời hạn hiệu lực của séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành séc.
Trước đây, séc chuyển tiền là hình thức thanh toán thuận tiện và an toàn, được sử dụng rộng rãi khi khách hàng đi mua hàng ở xa. Tuy nhiên hiện nay hình thức này đã bị thu hẹp dần vì đã có hình thức thanh toán liên hàng điện tử.
1.2.3. Thể thức thanh toán uỷ nhiệm thu:
Là hình thức thanh toán mà tổ chức kinh tế uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền hàng hoá đã giao hoặc dịch vụ đã cung ứng.
Hình thức này áp dụng với các khách hàng có tài khoản trong cùng một chi nhánh ngân hàng hoặc tại các chi nhánh Ngân hàng trong cùng hệ thống hoặc tại các ngân hàng khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ.
Để thực hiện thanh toán bằng uỷ nhiệm thu hai bên mua bán phải thống nhất thoả thuận với nhau về việc dùng uỷ nhiệm thu, từ trước khi giao hàng phải qui định rõ những điều kiện cụ thể và ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết để làm căn cứ thực hiện uỷ nhiệm thu.
Đặc điểm của uỷ nhiệm thu là quyền chủ động đòi tiền thuộc về bên bán, và khả năng đòi được tiền là phụ thuộc năng lực chi trả của người mua chứ không phải thiện chí. Xét về lí thuyết hình thức này thiên về bảo vệ quyền lợi cho người bán hơn (so với uỷ nhiệm chi phải phụ thuộc vào thiện chí thanh toán của người mua). Tuy nhiên thanh toán bằng uỷ nhiệm thu khá phức tạp, phụ thuộc vào hợp đồng kinh tế và cũng chỉ áp dụng trong trường hợp hai bên tin tưởng lẫn nhau; vì thế hình thức này ít được sử dụng trong thương mại mà chủ yếu dùng để thanh toán các khoản cố định như tiền thuê nhà, tiền điện, nước, điện thoại, v.v...
Kế toán thanh toán bằng uỷ nhiệm thu:
Người thụ hưởng nộp UNT vào NH của mình, NH của người thụ hưởng gửi UNT cho NH của người phát hành.
NH của người phát hành hạch toán:
Nợ TKTG người phát hành
Có Chuyển tiền đi hoặc TK thanh toán bù trừ
NH của người thụ hưởng nhận được báo Có của NH của người phát hành, hạch toán:
Nợ TK Chuyển tiền đến hoặc TK TTBT
Có TKTG người thụ hưởng
1.2.4. Thể thức thanh toán thẻ :
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại gắn liền với kỹ thuật ứng dụng tin học trong ngân hàng, do NH phát hành và bán cho khách hàng để thanh toán tiền hàng hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tiền tại các ngân hàng đại lý hay các điểm rút tiền tự động (ATM).
Thẻ có thể được thanh toán tại ngân hàng phát hành thẻ hoặc tại các ngân hàng đại lí của ngân hàng phát hành thẻ. Để sử dụng thẻ, đơn vị bán phải là người chấp nhận thẻ (có đặt máy kiểm tra thẻ) và có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng phát hành thẻ hoặc ngân hàng thanh toán thẻ.
Thẻ có ba loại thẻ ghi nợ, thẻ kí quĩ và thẻ tín dụng.
+ Thẻ ghi nợ ( thẻ không phải kí quỹ ) : nguồn thanh toán thẻ là số dư trên tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại NH (4311). áp dụng đối với những khách hàng có tín nhiệm đối với NH.
+ Thẻ kí quỹ thanh toán : KH phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán thẻ (4663)
+ Thẻ tín dụng : : chỉ áp dụng cho những khách hàng mà NH đồng ý. Nguồn thanh toán thẻ chính là hạn mức tín dụng mà NH đồng ý cho chủ thẻ vay.
Trên thế giới thẻ tín dụng là hình thức phổ biến nhất. ở Việt Nam hiện nay thì thanh toán bằng thẻ còn chưa phổ biến, chủ yếu chỉ để phục vụ khách du lịch nước ngoài. Tuy nhiên, hầu hết các ngân hàng đều đã ý thức được rằng thị trưởng thẻ thanh toán là thị trường rất hấp dẫn trong tương lai, nên đã có kế hoạch và hoạt động chuẩn bị cho việc phát triển rộng rãi hình thức thanh toán này.
1.2.5. Thư tín dụng:
Thư tín dụng là uỷ nhiệm của ngân hàng bên mua đối với ngân hàng bên bán theo yêu cầu của người mua để trả tiền cho người bán theo giá trị hàng hoá đã giao hoặc dịch vụ đã cung ứng trên cơ sở các hoá đơn chứng từ hợp lệ phù hợp với các điều kiện và trong phạm vi thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
Thư tín dụng sử dụng khi đơn vị bán đòi hỏi đơn vị mua phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã kí trước; rất thích hợp với trường hợp hai bên chưa tín nhiệm._. lẫn nhau.
Tuy nhiên việc phát hành và thanh toán bằng thư tín dụng khá phức tạp vì thế ít được sử dụng trong thanh toán nội địa. Mỗi thư tín dụng lại chỉ được dùng để trả cho một người thụ hưởng và nói chung chỉ thanh toán một lần với thời hạn hiệu lực là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua mở thư tín dụng.Để tiết kiệm chi phí cho ngân hàng và khách hàng người ta qui định mức tiền tối thiểu và thời hạn hiệu lực của từng L/C.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng TTKDTM có vị trí, vai trò quan trọng như thế nào đối với sự phát triển của ngành NH nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì vậy, các ngân hàng cần nhận biết được thực trạng hoạt động của mình, nắm bắt được tình hình kinh tế xã hội, sự phát triển của đất nước để ngày càng hoàn thiện hơn, phát triển hơn và nâng cao chất lượng của hoạt động thanh toán nhất là TTKDTM đưa đất nước đi lên và hội nhập với thế giới. Hơn thế nữa, với công nghệ điện tử ngày càng hiện đại chắc chắn sẽ có những hình thức TTKDTM mới hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phát triển TTKDTM
TTKDTM là một phạm trù kinh tế có mối quan hệ với toàn bộ hoạt động của nền sản xuất xã hội, vì vậy nó chịu sự tác động bởi khã nhiều nhân tố trong quá trình tái sản xuất trong nền kinh tế.
1.3.1. Các nhân tố khách quan:
1.3.1.1. Môi trường kinh tế vĩ mô, sự ổn định chính trị xã hội
Sự ổn định về chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế nói chung và hoạt động TTKDTM. Khi chính trị của một quốc gia ổn định thì sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh tốt, hấp dẫn không chỉ những nhà đầu tư trong nước mà còn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và khách du lịch nước ngoài. Do đó sẽ góp phần phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ, từ đó sẽ thúc đẩy nhanh hoạt động TTKDTM. Đồng thời xu hướng sử dụng TTKDTM sẽ tăng lên nếu các hoạt động "kinh tế ngầm" như buôn lậu, mại dâm, trốn thuế, tham ô, hối lộ… được ngăn chặn, từ đó sẽ tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển TTKDTM vì khi một quốc gia phát triển thì nhu cầu trao đổi buôn bán hàng hoá, cung cấp các dịch vụ ngày càng trở nên đa dạng, không chỉ trong nước mà trên phạm vi quốc tế. Theo đó, nhu cầu thanh toán tiền tệ cũng phát triển không ngừng, đặc biệt là TTKDTM. Theo khảo sát cho thấy, tỷ lệ giữa doanh số TTKDTM so với GDP tại các quốc gia công nghiệp là rất lớn, nhất là tại các quốc gia là các trung tâm tài chính Quốc tế. Cụ thể là năm 1996, tại Thuỵ Sĩ doanh số TTKDTM gấp 109 GDP, tại Nhất Bản là gấp 99 lần GDP, tại Mỹ là 87 lần GDP, trong khi đó ở Việt Nam là 3,5 lần GDP.
1.3.1.2. Môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý là nhân tố quan trọng dẫn dắt hoạt động TTKDTM mở rộng và phát triển. Một môi trường pháp lý ổn định sẽ hạn chế những nhược điểm vốn có của hình thức TTKDTM với những quy định về TTKDTM được ban hành đầy đủ, phù hợp. Qua đó, các bên mua, bán cũng như các trung gian thanh toán sẽ thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình, thể hiện rõ vai trò của TTKDTM đối với các bên liên quan.
1.3.1.3. Tâm lý, thói quen, trình độ dân trí và thu nhập của người dân:
- Tâm lý và thói quen của người dân có ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động của TTKDTM. Do nước ta đi lên từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ nên sức ỳ của tâm lý "tiền trao cháo múc" đang rất phổ biến. Vì vậy tiền mặt vẫn là một phương tiện được người dân ưa chuộng, mọi người có thói quen chi trả trực tiếp bằng tiền mặt khi mua bán các hàng hoá và dịch vụ. Ngoài ra đại bộ phận dân cư còn cho rằng nếu thanh toán qua NH thì thủ tục rất rườm rà, phức tạp và thậm chí còn mất thêm phí rất cao. Bên cạnh đó, mọi người có xu hướng tiết kiệm, cất giữ tiền đồng, tiền có giá trị mạnh, kim loại quý hiếm.
- Thu nhập của người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động TTKDTM. Do đất nước ta là một nước nông nghiệp, có 65% là người có thu nhập thấp nên các khoản tiêu dùng của họ thường nhỏ, lẻ và có giá trị thấp và họ thích dùng bằng tiền mặt hơn nên NH đã không khuyến khích được người dân mở tài khoản để thanh toán. Ngoài ra, người dân cũng ngại đến các cơ sở khang trang của NH để giao dịch. Đây là một trong rất nhiều trở ngại của NH khi muốn đại chúng hoá các hình thức TTKDTM. Chúng ta cần phải từng bước thực hiện đưa các hoạt động TTKDTM vào đời sống ,làm người dân quen và thấy được các tiện ích khi sử dụng TTKDTM như sử dụng thẻ thanh toán qua NH đối với một số dịch vụ cố định như trả tiền điện ,nước, điện thoại…
1.3.2. Các nhân tố chủ quan :
1.3.2.1. Quy mô của NH:
Quy mô của NH càng lớn, mức tập trung của các NH càng cao thì việc hiện đại hoá công nghệ NH, trong đó có hoạt động TTKDTM càng được diễn ra nhanh chóng. Vì việc ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng phù hợp, phải đầu tư với chi phí ban đầu là rất tốn kém. Như ở Việt Nam hiện nay các máy rút tiền tự động ATM, máy để sử dụng với thẻ thanh toán cá nhân chỉ được thực hiện ở một số điểm với số lượng các máy còn ít. Vì vậy việc phổ biến hình thức này còn có nhiều hạn chế.
1.3.2.2. Khoa học kỹ thuật và công nghệ:
Tính hiệu quả của việc sử dụng các hình thức TTKDTM được xét từ nhiều yếu tố như tốc độ thanh toán, chi phí, an toàn và sự thuận tiện khi sử dụng.Nếu các yếu tố trên đáp ứng được thì đây là cách tốt nhất để hạn chế các giao dịch thanh toán bằng tiền mặt.
Việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ thanh toán vào hoạt động NH sẽ giúp cho chất lượng của các hình thức TTKDTM sẽ được cải thiện theo chiều hướng tốt. Để từ đó sẽ dần tạo niềm tin cho công chúng, thúc đẩy người dân tích cực tham gia thanh toán qua NH.
Khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại còn ảnh hưởng rất lớn tới việc lựa chọn hình thức TTKDTM nào trong thanh toán. Hình thức thẻ thanh toán áp dụng nhiều công nghệ mới có thể được coi là phương tiện thanh toán lý tưởng nhằm thay thế cho séc, vì nó có thể xử lý với tốc độ nhanh hơn, với chi phí thấp hơn nhiều so với séc và không phải thực hiện nhiều thủ tục khi sử dụng séc.
1.3.2.3. Nhân tố con người :
Việc chọn lựa sử dụng phương thức thanh toán nào hoàn toàn do ý thức sử dụng của con người. Có thể nói đây là nhân tố quyết định sự phát triển hoật động TTKDTM.
Ngoài ra đối với chất lượng của các sản phẩm dịch vụ NH thì con người đóng một vai trò hết sức quan trọng vì máy móc không thể thay thế được con người mà nó chỉ phục vụ một phần nào đó cho con người, giúp con người giảm bớt phần nào công việc của mình. Việc đáp ứng các yêu cầu và mong muốn của khách hàng với các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các sản phẩm dịch vụ trong thanh toán được các CBCNV của NH phụ trách. Việc đáp ứng này là phụ thuộc phần lớn vào năng lực của đội ngũ nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Thái độ nhiệt tình của cán bộ NH sẽ là cho khách hàng hài lòng, thêm vào đó là điều kiện kỹ thuật hiện đại thực hiện các khoản thanh toán sẽ đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác. Như vậy, mối quan hệ giữa NH và khách hàng sẽ trở nên tốt đẹp, nâng cao uy tín của NH trong kinh doanh và thu hút khách hàng sử dụng các dịch vụ của NH.
Trình độ của cán bộ NH về kỹ thuật thanh toán hiện đại cũng như đạo đức nghề nghiệp của CBCNV NH cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển TTKDTM. Nếu các nhân viên NH lợi dụng nghề nghiệp để gây ra những hành vi vi phạm pháp luật như tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của khách hàng sẽ làm mất đi hình ảnh tốt đẹp của NH, làm cho khách hàng không đến với NH và ảnh hưởng đến các hoạt động về mặt nghiệp vụ của NH, nhất là hoạt động TTKDTM, từ đó làm giảm lợi nhuận của NH.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG
TIỀN MẶT TẠI CHI NHÁNH NHNN &PTNT BÁCH KHOA
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NHNNo &PTNT BÁCH KHOA
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNNo Bách Khoa :
Chi nhánh NHNNo & PTNT Chi nhánh Bách Khoa tiền thân là Phòng Giao dịch Bách Khoa được Giám đóc NH Láng Hạ ra quyết định thành lập số: 293/QĐ - NHLH ngày 15/07/2001. Là Phòng Giao Dịch đầu tiên được mở ra của NHNo&PTNT Láng Hạ, một trong 5 Ngân hàng cấp I trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam có trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Để thực hiện ngay chủ trương phát triển mạng lưới bằng đề án "Cơ cấu lại NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010" và chiến lược kinh doanh tại địa bàn các khu Đô thị loại I giai đoạn 2001 - 2010" và chiến lược kinh doanh tại địa bàn các khu Đô thị loại I giai đoạn 2001 - 2005 của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, Ngân hàng láng hạ đã nhanh chóng cho triển khai thành lập Phòng giao dịch Bách khoa với phương châm mở rộng mạng lưới, tiến tới từng bước thu hút khách hàng tiền gửi dân cư, đầu tư tín dụng đối với loại hình cho vay đời sống và vay cầm cố chứng chỉ có giá, đồng thời từng bước mở rộng các dịch vụ NH trên địa bàn Thành phố trong giai đoạn phát triển kinh tế theo tinh thần Đại hội 13 của Đảng bộ Thành phố Hà Nội và định hướng chiến lược giai đoạn 2001 - 2005 của NHNo&PTNT Việt Nam. Song, với việc cùng một thời điểm có nhiều Chi nhánh, PGD NHNo tại Thành phố Hà Nội ra đời như các Chi nhánh NHNo, PGD thuộc NHNo Hà Nội, Thăng Long, Nam Hà Nội, Bắc Hà Nội... Phòng Giao dịch Bách khoa ra đời trong bối cảnh tương đối thuận lợi nhưng cũng gặp không ít những khó khăn.
Từ những ngày đầu thành lập, PGD Bách khoa được Chi nhánh Láng hạ bố trí cho 7 CBNV do đ/c Trương Minh Hoàng là CB phòng Kế hoạch - Kinh doanh CN Láng Hạ nguyên Phó Giám đốc NHNo&PTNT Bãi Cháy tỉnh Quảng Ninh giữ chức trưởng Phòng Giao Dịch Bách Khoa, đ/c Vi Thị Hà phòng Kế Toán NQNHNo Láng Hạ là phó phòng. Phòng có 4 CB làm công tác chuyên môn là 2 CB Kế toán, 1 CB tín dụng và 1 CB ngân quỹ, 1 hợp đồng bảo vệ. Về tổ chức Đảng có 2 đ/c lãnh đạo đều là Đảng viên.
Ngày 01/08/2001 Phòng giao dịch chính thức được thành lập tại trụ sở 51 phố Tạ Quang Bửu - Phường Bách Khoa HN (nay là 40 Lê Thanh Nghị - Phường Bách Khoa HN). Ban đầu là một phòng mặt tiền của một căn hộ 3 tầng, diện tích mặt bằng chỉ có 30m2 (3m x 10), các sinh hoạt đều chung với chủ nhà, cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, quầy giao dịch và tất cả các trang thiết bị đều đã qua sử dụng do Ngân hàng Láng Hạ chuyển xuống. Cán bộ lãnh đạo là các đồng chí trưởng, phó phòng đã từng có kinh nghiệm trong nghiệp vụ kinh doanh còn lại đa số cán bộ nhân viên đều bắt đầu làm quen với công việc hoàn toàn mới mẻ. Phòng giao dịch Bách Khoa đã tự hướng dẫn, bồi dưỡng tại chỗ cho các đồng chí mới vào nghề ngay trong những ngày đầu mới thành lập.
Ben cạnh đó, cùng trên một dãy phố có 5 Ngân hàng trong và ngoài hệ thống cùng đặt phòng giao dịch, mặt bằng trụ sở quá chật hẹp không đủ chỗ cho CBNV làm việc và không thuận lợi trong giao dịch khách hàng, do vậy ngày 15/11/2001 NHNo Láng Hạ đã quyết định thuê mở rộng diện tích trụ sở Phòng GD Bách Khoa với 2 tầng nhà riêng biệt diện tích 100m (mỗi tầng có 2 phòng: 30m2 và 16m2), song mặt tiền trụ sở chỉ rộng có 3m do vậy khách hàng không có chỗ để xe vào giao dịch đây là một trong những khó khăn ban đầu mà Phòng Giao Dịch Bách Khoa và sau này là CN Bách Khoa phải khắc phục trong suốt quá trình 4 năm vừa hoạt động kinh doanh vừa đi tìm trụ sở mới.
Để ổn định và phát triển kinh doanh Trưởng, phó phòng cùng anh em đã bắt tay ngay vào công việc sau khi khai trương Phòng giao dịch. Triển khai, khảo sát tiếp cận thị trường, tích cực khai thác khách hàng với phương châm: Quảng bá, tiếp cận khách hàng bằng nhiều phương pháp đa dạng như: nhờ tuyên truyền qua bản tin, phát thanh tại các phường, qua đường thư báo tới các trường học, bệnh viện, các cơ quan đóng chung quanh địa bàn Bách Khoa và quảng cáo tích cực nhất là ngoài giờ CBNV đến từng nhà dân để phát tờ rơi nhằm thu hút lượng khách hàng đến giao dịch tiền gửi cũng như đầu tư tín dụng. Chỉ trong 03 tháng cuối năm 2001, Phòng GD Bách Khoa đã huy động được 17 tỷ đồng tiền gửi dân cư, đây là con số báo cáo đầu tiên của năm đầu thành lập , có ý nghĩa rất lớn đối với Phòng GD Bách Khoa.
2.1.2. Mô hình cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành gồm có 1 giám đốc và 2 phó giám đốc, cùng 90 cán bộ công nhân viên và 7 phòng giao dịch.Tại hội sở chính lượng nhân viên được bố trí vào các phòng ban sau :
- Ban giám đốc
- Phòng tín dụng
- Phòng giao dịch
- Phòng kế toán – ngân quỹ
- Phòng nguồn vốn và khế hoach tổng hợp
- Phòng tổ chức hành chính
- Phòng kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế
- Tổ kiểm tra kiểm toán nội bộ
2.1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Bách Khoa
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn:
Nhu cầu vốn cho vấn đề phát triển nền kinh tế là rất cấp thiết.Trước yêu cầu phát huy nội lực, huy động các nguồn vốn trong xã hội để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các NHTM trong những năm qua đã không ngừng nỗ lực tìm kiếm và áp dụng các giải pháp để huy động vốn có hiệu quả. Chi nhánh NHNNo Bách Khoa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bằng uy tín của mình và cùng với các biện pháp, chính sách phù hợp Chi nhánh NHNNo Bách Khoa đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn. Nguồn vốn huy động ngày càng tăng lên và cơ cấu nguồn vốn cũng có nhiều thay đổi.
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh NHNNo Bách Khoa qua 3 năm
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn vốn
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tăng- giảm 2006/2005
Tăng- giảm 2007/2006
Số tiền
%
Số tiền
%
1) Phân theo thời gian huy động
171,9
338,9
508
+167
+97,1
+168,1
+49,6
- Tiết kiệm Không kỳ hạn
68, 7
127,9
160
+52,9
+77
+32,1
+25,1
- Tiết kiệm Có kỳ hạn
103,2
211
348
+107,8
+104,4
+137
+64,9
2) Phân theo tính chất nguồn vốn
171,9
338,9
508
+167
+97,1
+168,1
+25,1
- tiền gửi dân cư
82,3
171,2
214
+88,9
+108,1
+42,8
+25
- Tiền gửi TC- KT
89,6
167,7
294
78,1
87,1
126,3
75,3
(Nguồn: Phòng tổng hợp Chi nhánh NHNNo Bách Khoa)
Nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHNNo Bách Khoa chủ yếu được huy động từ các nguồn sau: Tiền gửi dân cư thông qua hoạt động của mạng lưới 04 quỹ tiết kiệm; Tiền gửi của các tổ chức kinh tế trên tài khoản tại NH; Phát hành kỳ phiếu theo các chi tiêu được giao; Các nguồn khác có thể huy động và sử dụng được.
Như vậy, tổng nguồn vốn huy động (bao gồm cả VND và Ngoại tệ) đạt 508 tỷ đồng, tăng so với 31/12/2006 là 168,1 tỷ đồng, với tốc độ tăng là 49,6%, so với kế hoạch tăng 1,6%. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm Không kỳ hạn tăng 32,1 tỷ đồng ( tăng tương ứng là 25,1%), tiết kiệm có kỳ hạn tăng 137 tỷ đồng ( tăng tương ứng là 64,9% ), tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng 126,3 tỷ đồng (tăng tương ứng là 75,3%), tiền gử của dân cư tăng 42,8 tỷ đồng (tăng tương ứng là 25%).
Trong năm 2006, Chi nhánh Bách Khoa có nhiều biện pháp để giữ vững và tăng trưởng nguồn vốn huy động như: Nâng tổng số quỹ tiết kiệm của Chi nhánh lên 04 quỹ, tăng cường mạng lưới huy động tiền gửi tiết kiệm trên các địa bàn đông dân cư, đáp ứng kịp thời nhu cầu mở tài khoản của khách hàng. Ngoài ra, Chi nhánh tiếp tục duy trì quan hệ với các khách hàng truyền thống và tích cực tìm kiếm thêm khách hàng có nguồn tiền gửi lớn.
Chi nhánh tiếp tục làm tốt chính sách phục vụ khách hàng, cải tiến phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu gửi tiền của dân cư và tổ chức kinh tế. Vì vậy, nguồn vốn huy động đã ngày tăng trưởng vững chắc.
2.1.3.2. Hoạt động đầu tư vốn tín dụng (sử dụng vốn):
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Chi nhánh NHNNo Bách Khoa đã sử dụng vốn vay có hiệu quả đem lại lợi nhuận tương đối ổn định cho NH. Chủ trương của chi nhánh là cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế và tất cả đều được bình đẳng. Chi nhánh đã đáp ứng đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu về vốn (cả nội tệ và ngoại tệ) cho các thành phần kinh tế,ưu tiên đầu tư tập trung cho các dự án trọng điểm, những ngành nghề then chốt mũi nhọn ... quan tâm đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, Chi nhánh còn cho vay các trương trình theo chỉ thị của Chính phủ.
Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn của NHNNo chi nhánh Bách Khoa
Đơn vị: Tỷ đồng
Sử dụng vốn
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tăng - giảm 2006/2005
Tăng - giảm 2007/2006
Số tiền
%
Số tiền
%
1) Doanh số cho vay
177,26
257,99
417,98
+80,73
+45,54
+159,99
+62,01
- Ngắn hạn
140,39
198,63
340,15
+58,24
+41,48
+141,52
+71,24
- Trung -dài hạn
36,87
59,36
77,83
+22,49
+60,99
+18,47
+31,11
2) Doanh số thu nợ
153,66
217,09
294,37
+63,43
+41,27
+77,28
+35,59
- Ngắn hạn
123,21
167,34
221,46
+44,13
+35,81
+54,12
+32,34
- Trung- dài hạn
30,45
49,75
72,91
+19,3
+63,33
+23,16
+46,55
3) Doanh số dư nợ
127,21
127,71
261,24
+0,5
+0,4
+133,53
+104,55
- Ngắn hạn
104,96
105,6
228,39
+0,64
+0,6
+122,79
+116,2
- Trung - dài hạn
22,25
22,11
32,85
-0,15
-0,6
+10,74
+48,57
(Nguồn: Phòng tổng hợp Chi nhánh NH NN Bách Khoa )
Như vậy, tổng dư nợ và đầu tư đến 31/12/2007 đạt 417,98 tỷ đồng, bằng 162,01% so với 31/12/2006, tăng 159,99 tỷ đồng vượt 1.3% so với kế hoạch. Trong đó:
Dư nợ vốn ngắn hạn chiếm 54,64% tổng dư nợ và đầu tư.
Dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm 7,8% tổng dư nợ và đầu tư.
Dư nợ nội tệ chiếm tỷ trọng 86% tổng dư nợ,dư nợ ngoại tệ chiếm tỷ trọng 14% tổng dư nợ.
Nợ quá hạn và nợ liên quan đến vụ án chiếm tỷ trọng 0.65% so với tổng dư nợ, so với cuối năm 2006 giảm được 0.15%.
- Về cho vay ngắn hạn:
NHNNo Bách Khoa đã đầu tư cho vay ngắn hạn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp có đủ vốn nhập nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, các sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh trên thị trường như: tổng công ty Chè, công ty SONA, công ty CP Phú Quyền, công ty CP TM Hợp Hoà phát…Tính đến hết ngày 31/12/2007 tổng dư nợ vay ngắn hạn đạt 221,46 tỷ đồng tăng 32.46% ( tương ứng với số tiền là 54,12 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 74,6% trong tổng dư nợ.
Thêm vào đó NHNNo Bách Khoa còn đầu tư có hiệu quả cho nhiều doanh nghiệp với mọi thành phần kinh tế trên địa bàn Thủ đô, tập trung đầu tư vốn cho các công trình xây dựng khu đô thị mới, đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho người lao động.
- Về cho vay trung và dài hạn:
Chi nhánh NHNNo Bách Khoa cũng chú trọng đầu tư cho vay trung dài hạn giúp các doanh nghiệp đổi mới dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Song tỷ trọng còn khiêm tốn, tính đên hết quý 4 năm 2007 dư nợ cho vay trung dài hạn chỉ chiếm 7,8% trong tổng dư nợ.(tức là khoảng 72,91 tỷ đồng).
-Về hoạt động công tác bảo lãnh :
Năm qua chi nhánh NHNNo Bách Khoa đã thực hiện nhiều nghiệp vụ bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu; bảo lãnh tiền tạm ứng; bảo lãnh bảo hành ; bảo lãnh thực hiện hợp đồng….. Các nhu cầu bảo lãnh của các doanh nghiệp, các NH đều được giải quyết kịp thời, nhanh chóng, nhiều dự án được NH bảo lãnh đã trúng thầu và đã cung cấp vốn kịp thời để thực hiện các dự án trúng thầu.
Tổng dư bảo lãnh đến 31/12/2007 là 4,86 tỷ đồng.
- Công tác thu hồi nợ quá hạn và tồn đọng:
Trong năm 2007, Chi nhánh Bách Khoa phối hợp với các cơ quan có chức năng thu hồi và xử lý nợ quá hạn và tồn đọng.
Trong đó:
+ Nợ quá hạn thu được tại Chi nhánh là 1tỷ 641 triệu đồng.
+ Hạch toán do Trung ương chuyển nợ khoanh và rủi ro là 2 tỷ 145 triệu đồng.
2.1.3.3. Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại :
Hoạt động mua bán ngoại tệ, phát hành L/C, thanh toán L/C,chi trả kiều hối…ngày càng phát triển. Thu phí hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NH năm 2007 đạt 1 tỷ 928 triệu đồng.
- Về thanh toán quốc tế:
+ Mở L/C :33 món, doanh số 5.951.385,87 USD , phí thu được : 9,035.26 USD.
+ Thanh toán nhờ thu xuất: 02 món, doanh số 125.432,5 USD,phí thu được ; 172.28 USD.
+Thanh toán WU:115 món,doanh số: 76.093,42 USD, phí thu được 892.83 USD.
+Tổng phí thanh toán quốc tế cả năm đạt: 11.936,72 USD.
-Về kinh doanh ngoại tệ:
+Doanh số mua vào: 9.702.259,33 USD.Trong đó tự khai thác của các tổ choc : 7,164,868.14 USD đảm bảo cân đối cho 73,8% nhu cầu thanh toán ngoại tệ của chi nhánh.
+Doanh số bán ra: 11.286.836,73 USD. Trong đó bán cho NH Láng Hạ & trụ sở chính : 7,546,917.02 USD.
- Thanh toán chuyển tiền ( TTR)
+Doanh số chuyển tiền : 320,738.75 USD số món : 79 món tăng so với năm 2006 là 67 món.
+ Phí chuyển tiền thu được : 1,841.78 USD
2.1.3.4. Công tác tiền tệ - kho quỹ:
Trong năm 2007, công tác tiền tệ- kho quỹ luôn luôn được từng bước nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mở thêm các dịch vụ tiền tệ, góp phần tăng thu cho mục tiêu kinh doanh của Chi nhánh.
Chi nhánh đã phục vụ tốt việc thu- chi tiền mặt, đảm bảo thu chi kịp thời, không để tiền đọng, vận chuyển, bảo quản tiền và các chứng từ có giá, không để xảy ra mất mát, hư hỏng, đảm bảo an toàn kho quỹ. Số liệu công tác kho quỹ trong năm 2007 như sau:
- Doanh số thu tiền mặt đạt: 1.627 tỷ đồng = 209% so với năm 2006.
- Doanh số chi tiền mặt đạt: 1.626 tỷ đồng = 210% so với năm 2006.
- Lượng thu – chi tiền mặt bình quân 1 ngày : 4.5 tỷ/ngày.
- Trong năm bộ phận kiểm ngân đã trả lại cho khách hàng số tiền thừa là 6.370.000 VNĐ tương đương tổng số 26 món.
Ngoài gia, khối lượng chọn lọc tiền rách nát, tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông rất lớn,chị em kiểm ngân và thủ quỹ tiết kiệm thường xuyên nâng cao cảnh giác, phát hiện khi có bạc giả, tổng số bạc giả thu được là 216 tờ, với số tiền 22,420,000 đồng
Bên cạnh đó còn thu- chi tiền mặt ngoại tệ với khối lượng lớn. Tổng thu- chi tiền mặt ngoại tệ đạt: 233.116,6 USD và 50.451,725 EUR.
2.1.3.5. Công tác kế toán- Tài chính
Công tác Tài chính đảm bảo thanh toán kịp thời, chính xác, không gây ách tắc phiền hà cho khách hàng trong giao dịch. Bên cạnh đó, các công tác TTĐT, TTĐTLNH, TTBT luôn đảm bảo nhanh gọn, chính xác, hoàn thanh tốt công tác quyết toán năm.
- Tổng doanh số thanh toán năm 2007 : 2.053 tỷ tăng 217% so với 2006 tương đương tăng 935 tỷ.
Trong đó :
+ tiền mặt chiếm tỷ trọng : 17%/ tổng doanh số thanh toán.
+doanh số chuyển tiền điện tử : 83% .tăng so với năm 2006 là 6%
Kết quả thu- chi tài chính:
- Tổng thu nhập cả năm đạt 107 tỷ đồng,trong đó lãi cho vay là 19 tỷ đồng, lãi thu từ điều chuyển vốn là 86 tăng 25 tỷ và = 132% so với năm 2006.
- Tổng chi phí hạch toán là 94,6 tỷ đồng, trong đó chi trả lãI là 26 tỷ, trả lãI điều chuyển vốn là 64,7 tỷ tăng 21 tỷ và = 129% so với năm 2006.
- Chênh lệch Thu nhập – Chi phí là 12,4 tỷ đồng tăng 4,4 tỷ và = 156% so với năm 2006áo với kế hoạch giao đạt 113%.Hệ số tiền lương đạt được là 1,51 lần.Lãi suất bình quân đầu ra chênh lệch là 0,29.
2.1.3.6. Công tác Kiểm tra- kiểm soát:
Trong năm 2007 NH đã kiểm tra một số nghiệp vụ sau:
- Kiểm tra tín dụng:
Đã kiểm tra được 125 hồ sơ cho vay với dư nợ 176 tỷ đồng, và kiểm tra được 17 hợp đồng bảo lãnh với dư nợ bảo lãnh được kiểm tra là 4,86 tỷ đồng.
Nghiệp vụ kế toán:
Trong năm bộ phận kiểm ngân đã trả lại tiền thừa cho khách hàng bới tổng số tiền là: 6.370.000 VNĐ tương đương với tổng số 26 món.
Đã kiểm tra được 22 hồ sơ mở tài khoản, 718 hồ sơ kế toán cho vay, kiển tra 825 món chứng từ chi tiêu nội bộ và 921 món thu trả lãi và phí.
-Nghiệp vụ thanh toán Quốc tế:
Kiểm tra chuyển tiền biên giới 14 món,doanh số 1,308,617.26 CYN ( tương đương 183,206.42 USD).Kiểm tra 9.702.259,33 USD doanh số mua ngoại tệ và 11.286.836,73 USD doanh số bán ngoại tệ.Kiểm tra thanh toán nhờ thu xuất : 02 món.Kiểm tra 60 món thu phí giao dịch hối đoái.Kiểm tra thanh toán WU :115 món
Trong quá trình thực hiện thanh toán, các món thanh toán L/C,chuyển tiền…đều đảm bảo an toàn chính xác lịp thời.
- Nghiệp vụ tiền tệ- kho quỹ:
Chấp hành tốt việc kiểm kê kho quỹ cuối tháng gồm: Kho tài sản thế chấp, kiểm kê tất cả các loại tiền mặt, thẻ trắng tồn kho, kiểm tra đột xuất chất lượng các bó bạc. Trong năm đã kiểm tra nghiệp vụ kho quỹ được 24 lần định kỳ và 20 lần đột xuất.
Qua kiểm tra, nhìn chung các nghiệp vụ đều đảm bảo chấp hành tốt các quy chế đề ra. Tuy nhiên còn một số sai sót đã được nhắc nhở kịp thời sửa chữa.
2.1.3.7. Công tác bảo hiểm tiền gửi:
Trong năm 2007, Tổ nghiệp vụ chuyên môn Bảo hiểm đã đạt được những kết quả nhất định như sau:
- Số hợp đồng khai thác trong năm 2007 là 12 hợp đồng.
- Tổng số tiền bảo hiểm 350.000.000 đồng.
- Tổng số tiền hoa hồng và thưởng trong năm 2007 là 26.633.505 đồng.
Tổ nghiệp vụ chuyên môn Bảo hiểm đã có những cố gắng trong việc khai thác loại hình dịch vụ này, đã quản lý chăm sóc khách hàng, mở rộng quan hệ với khách hàng bảo hiểm. Bên cạnh đó, Tổ còn được giao nhiệm vụ làm Marketing khách hàng, đã mời được nhiều khách hàng về mở tài khoản tiền gửi và vay vốn tại Chi nhánh.
2.2. THỰC TRẠNG TTKDTM TẠI CHI NHÁNH NHNNo & PTNT BÁCH KHOA
2.2.1. Tình hình chung về TTKDTM tại Chi nhánh NHNNo Bách Khoa.
Chi nhánh NHNNo Bách Khoa luôn coi việc mở rộng thanh toán qua NH là một trong những chiến lược kinh doanh cần phải được thực hiên tốt. Chi nhánh không ngừng đổi mới công tác thanh toán, cải tiến nghiệp vụ, ứng dụng công nghệ thông tin vào thanh toán, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ đảm nhiệm công việc này. Do đó ngoài những khách hàng truyền thống đã có quan hệ lâu dài với Chi nhánh thì có rất nhiều khách hàng mới cũng tìm đến giao dịch với Chi nhánh.
Hiện nay, tại Chi nhánh NHNNo Bách Khoa phương thức thanh toán vốn giữa các NH được sử dụng phổ biến là phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử. Chi nhánh đã thực hiện thanh toán với các NH cùng hệ thống bằng hệ thống phần mềm OSFA, nên đã giải quyết tình trạng thanh toán chậm trễ của phương thức thanh toán liên hàng truyền thống. Với phương thức mới thì có thể chuyển mỗi món thanh toán trong ngày thay vì phải mất từ 5- 7 ngày như với thanh toán liên hàng truyền thống. Quy trình này làm cho việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý diễn ra nhanh gọn, NH dễ phát hiện ra những sai sót, thất lạc khi chuyển tiền. Qua đó, khả năng thanh toán được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện, chính xác, rút ngắn thời gian luân chuyển vốn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho NH và cho cả khách hàng.
Bảng 2.3: Doanh số thanh toán vốn giữa các NH
Đơn vị: Đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số món
Số tiền
%
Số món
Số tiền
%
Số món
Số tiền
%
TTĐT
911
505,84
73,6
1028
719,99
77
1325
1.703,99
78
TTBT
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Tiền mặt
417
181,01
26,4
503
215,05
23
557
349,01
17
Tổng cộng
528
686,85
100
1531
953
100
1882
2.053
100
(Nguồn: Phòng tổng hợp Chi nhánh NHNNo Bách Khoa)
Qua bảng trên ta thấy:
- Đối với TTĐT: Năm 2005 có 911 món với giá trị là 505,84 tỷ đồng, chiếm 73,6% trong thanh toán vốn giữa các NH. Năm 2006 đạt 719,99 tỷ đồng chiếm 77% và năm 2007 tỷ trọng tăng lên là 78% với giá trị là 1.703,99 tỷ đồng. Qua đây ta thấy các Chi nhánh trong cùng hệ thống giao dịch với nhau rất nhiều cả về số lượng lẫn giá trị giao dịch.
- Đối với TTBT: Qua số liệu của 3 năm 2005, 2006 2007 ta thấy chi nhánh ko thực hiện giao dich TTBT.
- Đối với thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN: Năm 2005 Chi nhánh đạt được 181,01 tỷ đồng đạt 26,4% trong thanh toán vốn giữa các NH. Năm 2006 đạt 23% với giá trị là 215,05 tỷ đồng và năm 2007 giá trị thanh toán đạt 557 tỷ đồng với tỷ lệ là 17%.
Với việc thanh toán vốn giữa các NH được diễn ra trôi chảy đã góp phần không nhỏ vào quá trình TTKDTM được diễn ra nhanh chóng, chính xác, an toàn, từ đó tạo niềm tin cho khách hàng.
Do có sự quan tâm tới công tác TTKDTM nên tại Chi nhánh doanh số TTKDTM chiếm tỷ trọng trên 70% trong tổng doanh số thanh toán.Thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.4: Doanh số thanh toán tại Chi nhánh NHNNo Bách Khoa Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số món
Số tiền
%
Số món
Số tiền
%
Số món
Số tiền
%
TT = TM
417
181,01
26,4
503
215,05
23
557
349,01
17
TTKDTM
911
505,84
73,6
1028
719,99
77
1325
1.703,99
78
Tổng
1328
686,85
100
1531
953
100
1882
2.053
100
(Nguồn: Phòng tổng hợp Chi nhánh NHNNo Bách Khoa)
Qua bảng ta thấy, TTKDTM chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng doanh số thanh toán tại Chi nhánh, điều này cũng nói lên phần nào là TTKDTM cũng dần được sử dụng nhiều trong thanh toán. Năm 2005 doanh số TTKDTM chiếm 73,6% với giá trị là 505,84/tổng số 686,85 tỷ đồng, tương đương với 911/1328 món. Năm 2006 doanh số TTKDTM tăng lên tương đối cao chiếm tỷ trọng là 77% với giá trị là719,99/ 953 tỷ đồng, tương đương 1028/1531 món. Năm 2007 doanh số TTKDTM về tỷ trọng là 78% về giá trị là 1.703,99/2.053 tỷ đồng, tương đương 1325/1882 món.
Với một Chi nhánh có quy mô vào loại lớn trong hệ thống NHNNo địa bàn có rất nhiều thuận lợi để mở rộng TTKDTM thì tỷ trọng cũng như giá trị của TTKDTM trong tổng doanh số thanh toán của Chi nhánh vẫn chưa tương xứng.
Để rõ thêm về sự biến động của hoạt động TTKDTM, ta đi phân tích xu hướng biến động của TTKDTM trong 3 năm gần đây:
Bảng 2.5: Xu hướng biến động của TTKDTM
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Tăng- giảm 2006/2005
Tăng- giảm 2007/2006
Số tiền
%
Số tiền
%
TT = TM
181,01
215,05
349,01
+34,04
+18,8
+133,96
+62,2
TTKDTM
505,84
719,99
1.703,99
+214,2
+42,3
+984
+137
Tổng DS thanh toán
686,85
953
2053
(Nguồn: Phòng tổng hợp Chi nhánhNHNNo Bách Khoa)
Qua bảng ta thấy doanh số TTKDTM ngày càng tăng lên, năm sau lớn hơn năm trước. Năm 2006, doanh số TTKDTM tăng thêm 214,2 tỷ đồng với tốc độ tăng là 42,3%. Năm 2007, doanh số TTKDTM tăng thêm 984 tỷ đồng với tốc độ tăng là 137%. Để đạt được kết quả như vậy, chi nhánh NHNNo đã có một sự cố gắng rất đáng khen ngợi của Ban lãnh đạo cũng như toàn thể CBCNV trong chi nhánh.
Các thanh toán viên đã làm tốt nhiệm vụ được giao của mình một cách xuất sắc, hướng dẫn, phục vụ khách hàng với thái độ nhiệt tình, vui vẻ, đảm bảo tuyệt đối an toàn tài sản của khách hàng và NH trong khâu thanh toán,khách hàng yên tâm mở tài khoản tại NH. Ngoài ra trình độ hiểu biết của CBCBV về tin học và ứng dụng công nghệ hiện đại đã được nâng lên đáng kể. Chi nhánh đã triển khai hệ thống thanh toán điện tử thay thế cho hệ thống thanh toán liên hàng qua mạng máy vi tính trước đây với tốc độ thanh toánđược rút ngắn. Do đó đã tạo điều kiện cho TTKDTM ngày càng được sử dụng nhiều.
2.2.2. Các hình thức TTKDTM tại Chi nhánh NHNNo Bách Khoa:
Nhằm đánh giá việc sử dụng các hình thức TTKDTM tại Chi nhánh NHNNo Bách Khoa ta phân tích và nghiên cứu bảng thống kê số liệu sau :
Bảng 2.6: Tìn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28950.doc