Giải pháp vấn đề Cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Lời mở đầu Qua các doanh nghiệp cổ phần, tôi thấy cần phải có sự hình thành nền kinh tế hàng hoá dựa trên hai điều kiện sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá phát triển đòi hỏi phải có sự phát triển của sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội. Kinh tế thị trường là sự phát triển của trình độ cao của kinh tế hàng hoá với sự ra đời của hệ thống ngân hàng thị trường tài chính và công ty cổ phần. Các hình thức kinh tế này, trước hết là sản phẩm của sự phát triển kinh

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp vấn đề Cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế hàng hoá nhưng đều có chung một cội nguồn ở sự phát triển xã hội hoá sở hữu tư nhân: dựa trên cấp tiếp cận này chúng ta sẽ lý giải nguồn gốc của sự hình thành và sự phát triển hình thái Công ty cổ phần bằng việc phân tích phạm trù sở hữu vận dụng và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương của Đảng và nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Nhằm đa dạng hoá sở hữu tạo động lực cho người có vốn cổ phần và người lao động trong doanh nghiệp hăng say lao động vì lợi ích chính đáng, đồng thời phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Cổ phần hoá còn tiếp tục góp phần cho việc hình thành thị trường chứng khoán - một yêu cầu cấp thiết của quá trình vận hành nền kinh tế thị trường. đề tài: Giải pháp vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam Nội dung I. Một số vấn đề lý luận về cổ phần hoá nhà nước 1. Sự lựa chọn tất yếu Sở hữu tư nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Sự khảo cứu phạm trù sở hữu sẽ bắt đầu từ nền kinh tế hàng hoá và sau đó theo dõi sự vận động của nó trong nền kinh tế thị trường. Trước hết chúng ta xác định phạm trù sở hữu trong quan hệ bản chất trước khi có thể nhìn thấy những biểu hiện cụ thể đa dạng của nó trong xã hội. Quan hệ bản chất này trước hết thuộc về lĩnh vực sản xuất vật chất vì không có sản xuất thì không có sở hữu. Với tư cách là lao động chung trìu tượng của con người sở hữu biểu hiện như là một quan hệ sản xuất phản ánh lao động xã hội tổng thể của con người tác động chiếm hữu những điều kiện khách quan phục vụ lợi ích của con người và phát triển xã hội. Với tư cách là một lao động cụ thể có ích của con người sở hữu biểu hiện như là quá trình chiếm hữu thực tế bằng lao động các đối tượng cụ thể làm ra một vật phẩm tiêu dùng nhất định. Quan hệ giữa sở hữu xã hội và chiếm hữu tư nhân trong phạm trù sở hữu là quan hệ biện chứng vừa thống nhất vừa tách biệt ở những khía cạnh sau: - Sở hữu có thể là tiên đề của chiếm hữu tư nhân ở khía cạnh này sở hữu xã hội được biểu hiện như là một điều kiện khách quan có trước quy định lao động trước khi kết hợp với tư liệu sản xuất tức là quy định quá trình chiếm hữu thực tế. - Sở hữu thực tế có thể được bảo tồn duy trì và thực hiện bằng quá trình chiếm hữu. Thực tế bởi lao động cụ thể của mọi cá nhân trong cộng đồng. -Sở hữu xã hội là một tổng thể của một quá trình chiếm hữu tư nhân bởi vì lao động xã hội tổng thể của các quá trình chiếm hữu tư nhân bởi vì lao động xã hội tổng thể là tổng số các quá trình lao động cụ thể của các cá nhân riêng lẻ. Trong một hệ thống phân công lao động xã hội. Với quan hệ trên, chúng ta có thể hình dung được mâu thuẫn giữa hai mặt của phạm trù sở hữu tư nhân vận động như thế nào khi sản xuất và trao đổi hàng hoá chiếm ưu thế trong quá trình sản xuất xã hội. Quá trình chiếm hữu tư nhân - tức là quá trình sản xuất được hiểu là sở hữu tư nhân của người lao động - do đó sản phẩm thuộc về họ bây giờ biểu hiện ra là quá trình sản xuất ra giá trị trao đổi. Khi sản phẩm đã mang hình thái giá trị cao việc vạch ra tính chất hai mặt của sở hữu này hết sức quan trọng để hiểu phạm trù này, vận động trong nền kinh tế hàng hoá và chúng ta sẽ thấy sự tách biệt hai mặt trong phạm trù này là một quá trình lịch sử góp phần cho sự ra đời và phát triển của thị trường tài chính. Công ty tổ phần trong nền kinh tế thị trường phân công của nhà nước. Sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế thị trường càng được đề cao khi lý thuyết điều chỉnh kinh tế của Keynes ra đời. Khu vực kinh tế nhà nước ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc ổn định và phát triển. Nền kinh tế có sở hỗn hợp với sự tham gia điều tiết của nhà nước dựa trên nguyên tắc của thị trường là đặc trưng của xã hội hoá sở hữu ngày nay. Nó thể hiện ở hai quá trình tư nhân hoá và quốc hữu hoá. Để vừa đảm bảo tính cạnh tranh và hiệu quả nhờ phát huy của các yếu tố thị trường và lợi ích cá nhân và lợi ích của tập thể vào định hướng nhờ có sự can thiệp của nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế. Như vậy, quá trình xã hội hoá sở hữu tư nhân với những đặc điểm chủ yếu được trình bày trên đây đã quy định sự ra đời và phát triển hình thái công ty cổ phần tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. 2. Kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở một số nước a. Tổng quát về quá trình cổ phần hoá ở các nhóm nước trên thế giới Cổ phần hoá ở nhóm các nước tư bản phát triển. Trong thập kỷ 80 các nước tư bản phát triển đặc trưng ở tây âu, được chú ý như là giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường hỗn hợp đã được hình thành với việc thiết lập khu vực kinh tế nhà nước ngày càng rộng lớn kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Chính sách cổ phần hoá bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ chức đời sống kinh tế thị trường, thương mại hoá sản xuất và cạnh tranh lành mạnh có hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và thể chế hành chính. Cuộc khủng hoảng của "Nhà nước phúc lợi chung" ở phương tây đã khiến cho các Chính phủ đi đến ủng hộ các quan điểm kinh tế tân cổ điển và mở đường cho sự quay lại vận dụng mục đích rộng rãi cơ chế thị trường để điều tiết các hoạt động kinh tế. Việc thực hiện cổ phần hoá của các nước nền kinh tế thị trường phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt nền kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế nhà nước mới đảm nhận mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực này. Do đó, Chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu các khu vực kinh tế nhà nước, mà trái lại củng có cho chính đáng với vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vì lợi ích toàn xã hội. Xét về quy mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế nhà nước ở các nước công nghiệp phát triển có sự thu hẹp xét theo các chỉ số của tỷ lệ việc làm tỷ trọng tổng tư bản có định hướng và thu nhập quốc dân. Như vậy, có thể nhận thấy nét đặc trưng quá trình cổ phần hoá ở các nước công nghiệp phát triển là hình thành các công ty. Cổ hỗn hợp nhà nước - tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và luật phát của nhà nước. Những công ty quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước được đổi mới thành các công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước - tư nhân đã góp phần quan trọng làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị này trở nên năng động, nâng cao được danh lợi và khả năng cạnh tranh với các công ty cổ phần tư nhân. Có thể nói thông qua các quá trình phần hoá sự hợp tác và xâm nhận lẫn nhau giữa khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân kể cả các công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay. ii. doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và thực trạng cổ phần hoá 1. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước trong nước chuyển sang kinh tế thị trường. ở nước ta cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước bao gồm toàn bộ nền kinh tế quốc dân là mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xã hội công nghiệp xã hội. Vvì vậy, khu vực kinh tế nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng, rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực cơ bản đích thực mà nó mang lại, trong đó phải kể đến sự ra đời tràn lan của các doanh nghiệp nhà nước do cấp địa phương quản lí. Tỷ trọng kinh tế nhà nước trong tổng sản phẩm xã hội của từng ngành tương ứng hiện nay và xây dựng 76% trồng rừng, trong lâm nghiệp 35%, nông nghiệp 3%, trong các ngành Bưu chính viễn thông, vận tải hành khách, hàng không chiếm 100%. Trong nhiều ngành sản xuất công nghệ, dầu khí, điện than, khai thác quặng hầu hêt các ngành cơ khí chế tạo máy, của tạo hoá chất cơ bản, xi măng, thuế là kinh tế nhà nước nắm chủ yếu. Trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tín dụng ngân hàng. Các doanh nghiệp nhà nước được hình thành được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp nhà nước. Song cũng giống như nhiều nước trên thế giới, khu vực kinh tế nhà nước hoạt động hết sức kém hiệu quả đặc biệt là các doanh nghiệp do cấp địa phương trực tiếp quản lí. Có thể minh hoạ nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau đây. +Tỷ trọng tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo một đồng thu nhập quốc dân, thường cao gấp 2 lần so với kinh tế tư nhân. +Mức tiêu hao vật chất của các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất cho một giá trị đơn vị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung trên thế giới. Chất lượng sản phẩm của nhiều doanh nghiệp nhà nước rất thấp và không ổn định. -Một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Thứ nhất khu vực kinh tế nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm với chính sách cấp phát giao nộp các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong điều kiện vốn được nhà nước cấp vật tư được nhận theo chỉ tiêu sản phẩm . 2. Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Công việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta được tiến hành trong điều kiện đặc thù với những yếu tố thuận lợi và khó khăn nhất định, chúng ta có thể nêu ra một vài yếu tố quan trọng. -Về các yếu tố thuận lợi: Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập được tất cả doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện "thương mại hoá" các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện điều này thực hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trìn cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước như luật công ty. Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Như đã trình bày ở trên khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều nước đang phát triển và Đông âu là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Điều này cũng đúng với Việt Nam khi hàng chục năm khu vực này được coi là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự nhỏ bé và yếu ớt cản trở của khu vực kinh tế tư nhân phân cấp trình độ phát triển của kinh tế thị trườngtrong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ hầu hết với mọi người, điều này gây ra sự bỡ ngỡ cho cả người đầu tư với người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu và do đó làm doanh nghiệp tiến hành chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý. * Một số quan điểm cơ bản trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được chính phủ nêu ra trong quyết định 217/HĐBT ngày 1-1-1987 ở điều 22 "Bộ tài chính nghiên cứu và tổ chức làm việc thử việc mua bán cổ phần ở một số xí nghiệp và báo cáo kết quả lên HĐBT vào cuối năm 1988 tuy nhiên với điều kiện cụ thể lúc bấy giờ là hệ thống bao cấp của nhà nước đối với các doanh nghiệp là rất lớn và chưa được bỏ hết thì không thể cho phép có những hiểu biết đầy đủ và vận dụng thực sự các yếu tố của kinh tế thị trường vào công tác quản lí và điều hành các sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thái công ty cổ phần và những hiểu biết của nó cũng như cổ phần hoá còn rất mới mẻ đối với những cấp lãnh đạo và chỉ đạo… Cuộc khủng hoảng vốn đã làm bộc lộ tất cả những mặt yếu kém tiêu cực của kinh tế nhà nước và đòi hỏi phải có sự đổi mới. iii. quan điểm và giải pháp để thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta trong thời kỳ tới 1. Những quan điểm cơ bản quán triệt trong quá trình cổ phần hoá -Thiếu sự thống nhất về quan điểm chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương và cơ sở do đó thiếu quyết tâm để thực hiện. Tính chất nhạy cảm của nó đối với vấn đề kinh tế chính trị và xã hội cũng như sự thiếu hụt về tri thức và kinh nghiệm để giải quyết nó đã làm cho các cấp chủ quản ở bộ và địa phương, dè dặt chông chờ ỷ lại vào Trung ương. Không có đề án phương pháp tổng quát của cải cách khu vực kinh tế nhà nước nên các bộ và địa phương lúng túng không biết xử lý các doanh nghiệp theo hướng nào. Từ thực tiễn thí điểm cổ phần hoá trong hơn 2 năm qua cho phép cần xác định. Cổ phần hoá nhiệm vụ quan trọng và bức bách. Thực hiện đường lối của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Chính phủ đã có hàng loạt biện pháp cần thiết để tăng cường hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước ngay từ 1987 với quyết định của 217 HĐBT Chính phủ đã tạo được đột phá giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp nhà nước. Riêng cổ phần hoá được triển khai thí điểm đã quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch HĐBT. Kết quả thực hiện thí nghiệm đã được khẳng định cổ phần hoá là một biện pháp tích cực nhằm cải tổ lại các khu vực doanh nghiệp nhà nước. Các nghị định 28CP ngày 7/5/1996 và nghị định sửa đổi 25 CP ngày 25/3/1997 đã vụ thê hoá quyết định của Chính phủ về công tác cổ phần hoá. Triển khai nội dung các nghị định của Chính phủ, Bộ tài chính đã có nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể như thông tư 47 TC-TCT ngày 17/8/1996 thông tư 50-TC DNP ngày 30/8/1996 hướng dẫn những vấn đề tài chín bán cổ phần và phát hành cổ phiếu trong việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Thực hiện chính sách nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước Đảng và Chính phủ đã coi cổ phần hoá là một trong những biện pháp tích cực nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Làm tốt cổ phần hoá sẽ góp phần. Thực tế quá trình cổ phần hoá thời gian qua đã làm tăng hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đây là vấn đề mấu chốt quyết định đến khả năng nâng cao mức thu nhập của người lao động đồng thời theo đó một vấn đề được coi là hóc búa nhất trong cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước - vấn đề thất nghiệp cũng được giải quyết thoả đáng. Các doanh nghiệp nhà nước không những không xa thải công nhân khi cổ phần hoá, ngược lại trên thực tế còn tuyển thêm nhiều lao động mới thì hiệu quả kinh tế tăng lên, thị trường mở rộng. Về phía nhà nước cái lợi vừa mang tính chiến lược lại vừa cụ thể hoá ngân sách nhà nước bớt được các khoản chi bao cấp số thu ngân sách nhà nước tăng do doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn. Mặt khác thông qua cơ chế hoạt động của loại hình doanh nghiệp cổ phần hoá nhà nước tạo ra được một cách quản lí mới có tính tập thể và hiệu quả cao. Thông qua hợp đồng quản trị từ nay người lao động cũng tham gia vào quá trình quản lí và phân phối kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả điều tra hiệu quả sản xuất kinh doanh của 11 doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần hoá hoạt động từ 1 năm trở lên cho thấy các chỉ tiêu cụ thể như: vốn tăng bình quân: 45%/năm, doanh thu tăng 56,9% năm, lợi nhuận tăng 79%/năm, nộp ngân sách nhà nước 98%, lao động tăng 20%, đưa đến thu nhập người lao động tăng 20%. Như vậy có thể nói lợi ích của cổ phần hoá là không phải tranh cãi, tuy nhiên một câu hỏi đặt ra là tiến trình cổ phần hoá lại quá chậm trễ ? Trong suốt 5 năm từ 1992 đến 1997 ở nước ta chỉ có 18 doanh nghiệp với số vốn hết sức nhỏ bé (doanh nghiệp lớn nhất chỉ đạt được 20 tỷ đồng nhỏ nhất là 0,4 tỷ) được cổ phần hoá. Hàng loạt chủ trương của Đảng và nhà nước trong việc thúc đẩy tiến trình này đều hầu như không được triệt để. Nghiên cứu và thăm dò ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lí các doanh nghiệp chúng tôi thấy nguyên nhân của tình trạng này có nhiều song tập trung lại có 5 nguyên nhân cơ bản sau đây. Thứ nhất do quyết tâm của Chính phủ chưa cao cổ phần hoá là chủ trương đúng song việc điều hành còn yếu nên chưa có tác dụng thúc đẩy các bộ, ngành, địa phương làm nhanh hơn. Một số việc đã được các cán bộ ngành đề nghị từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý dẫu rằng công việc đó trong tâm tay và thuộc chức năng của chính phủ. Đó là việc có ý nghĩa mở đường cho cổ phần hoá như dự thảo và trình ban hành luật hay pháp lệnh về cổ phần hoá phân loại doanh nghiệp nhà nước. Không phân loại những doanh nghiệp thì không sắp xếp được và cũng không xác định được những doanh nghiệp nào cần hay không cần cổ phần hoá. Thứ hai, do quyết tâm của cán bộ tỉnh, thành phố chưa cao thể hiện ở các địa phương cơ sở không sốt sắng làm hết trách nhiệm được giao. Rõ nhất là việc thành lập và đôn đốc các ban cổ phần hoá đã không được chú ý đúng mức mặc dù có ý kiến chính thức của Trung ương đến nay chỉ có 31 tỉnh thành phố thành lập ban cổ phần hoá tại Trung ương đôn đốc hướng dẫn cụ thể. Mặt khác còn có những nguyên nhân xuất phát từ những lợi ích cục bộ cản trở tiến trình cổ phần hoá (theo số liệu thông kê thời gian cổ phần hoá trung bình là 27 tháng nhanh nhất là 9 tháng lâu nhất là 79 tháng) các bộ tỉnh thành phố vẫn có trong tay mình một số doanh nghiệp nhà nước đáng kể để chi phối. Nếu cổ phần hoá thì không còn đối tượng để chi phốin nữa tức là mất quyền mất lợi ích. Kiểu tư duy đó nhất thiết phải được xoá bỏ đương nhiên cổ phần hoá phải theo nguyên tắc tự nguyện. Nếu không có sự tác động mạnh của ban lãnh đạo nếu cứ để tình trạng làm được đến đâu hay đến đó thì khó có thể đặt kế hoặc cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nhà nước để tăng gia cho năm 1998. Trong cơ chế thị trường nhà nước có vai trò rất quan trọng, cần sử dụng chủ động sử dụng đồng bộ các chính sách vĩ mô hoặc phối hợp chặt chẽ hai biện pháp kinh tế và hành trình (pháp lệnh). Thứ ba, do quyết tâm của doanh nghiệp nhà nước chưa cao điều này thể hiện ngay trong lãnh đạo từng doanh nghiệp còn thiếu quyết tâm, thực tế cho thấy nhiều giám đốc, bí thư Đảng uỷ đều tỏ ra lo ngại về cổ phần hoá, tâm lý lo nếu cổ phần hoá doanh nghiệp bản thân có thể mất quyền lực chức tước và lợi ích. Từ đó dẫn đến việc chỉ đạo phối hợp của các cấp uỷ chính quyền đoàn thể không đồng bộ, không thống nhất. Chính vì vậy bị chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án tại cơ sở. Thứ tư, công tác cổ phần hoá chưa được hưởng ứng rộng rãi từ phía quần chúng lao động. Các ưu đãi khuyến khích mua cổ phiếu, cho công nhân mua chịu trả lãi thấp, thời hạn thấp, lâu phát hành cổ phiếu, thưởng tức suốt đời… Hiện mới chỉ dừng ở mức các giải pháp mang tính một chiều xuất phát từ các đánh giá chỉ mang tính một chiều. Đối với họ nếu đồng ý cổ phần hoá nghĩa là đồng ý để công ty tự xoay sở trước bão tạp cạnh tranh mua cổ phiếu công ty cũng cổ nghĩa bỏ phiếu thuận cho việc xoá bỏ bảo trợ của nhà nước dưới mọi hình thức đồng thời chưa biết lời lãi ra sao đã phải ký nhận nợ về số cổ phiếu sẽ nhận. Nếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục làm ăn không hiệu quả, nguy cơ mất việc làm sẽ không xa, thu nhập dù thấp cũng chẳng được đảm bảo. Trưởng hợp xấu khi doanh nghiệp phá sản số tiền đã bỏ ra thanh toán cổ phiếu sẽ mất mà ghánh nặng nợ về mua cổ phiếu vẫn còn đó. Những mối lo này là có thật. Thứ năm, những tồn tại về mặt kỹ thuật: việc xây dựng quy trình cổ phần hoá tuy đã có hướng dẫn triển khai cơ chế cổ phần song các hướng dẫn của ta còn thiếu tính thực tế không bao quát hết các vướng mắc muôn hình muôn vẻ tại cơ sở nên khi gặp các trường hợp cụ thể từ địa phương không biết nên xử lý thế nào cho đúng, khá nhiều nơi còn lúng túng đã xảy ra. Mặt khác quy trình cổ phần hoá đối với địa phương còn khá phức tạp nên cũng dễ gây nản chí cho cơ sở. Trong thựctế ở một doanh nghiệp sẽ có nhiều khó khăn phát sinh khi tiến hành cổ phần hoá. Phân loại doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu thức cụ thể gắn liền với cổ phần hoá là công việc nhất thiết phải làm trước sau khi đã xác định rõ cần chia các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá thành các nhóm nhỏ hơn để dễ xác lập lịch trình và phương pháp tiến hành cụ thể. Thông thường các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá được chia làm 3 nhóm: Nhóm có khả năng cổ phần hoá ngay được đó là những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, quy mô vừa phải sẵn có người mua cổ phần. Nhóm các doanh nghiệp có khả năng phục hồi cần cơ cấu lại cấp thêm vốn đầu tư theo chiều sâu đổi mới công nghệ sau đó sẽ tiến hành cổ phần. Nhóm thứ ba, là những doanh nghiệp không có khả năng phục hồi làm ăn thua lỗ công nghệ cũ kỹ lạc hậu, các doanh nghiệp này sẽ được thanh lý. Để chống độc quyền tư nhân, chống hiện tượng chuyển tài sản nhà nước vào tay một số ít người thông qua tư nhân hoá cần chú trọng "chào bán công khai" phối hợp chặt chẽ với công tác thanhảca giám sát nhiều nhất trong những trường hợp riêng lẻ không được nhiều người quan tâm. Chú trọng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hay cổ phần phương án phải cụ thể: sản xuất gì bán ở đâu, số lượng bao nhiều , giá thành sản xuất, giá bán… Các chuyên gia giầu kinh nghiệm được thuê đến làm trực tiếp trong doanh nghiệp ngay từ khâu chuẩn bị kế hoạch cổ phần hoá. Tách các chức năng "phúc lợi xã hội" (nhà trẻ mẫu giáo) ra khỏiht sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời tạo lập các bộ phận cần thiết mới cho sản xuất kinh doanh như tiếp thị khuyến mại. -Xử lý dứt điểm các khoản nợ trước khi cổ phần hoá, tạo mặt bằng tương đương về tình hình tài chính cho doanh nghiệp cổ phần hoá trước các đối thủ cạnh. Việc xác định giá cổ phiếu và ký kết hợp đồng cũng có nhiều điểm đáng học tập. Thông thường giá bán của các doanh nghiệp do thị trường quyết định. Hợp đồng sẽ được ký kết sau khi đã thoả thuận song về giá. Trong hợp đồng phải có các điều khoản cam kết duy trì việc làm cho người lao động. Các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng được chú trọng đáng kể nhằm tạo ra các cơ hội mới công nghệ mới và ý tưởng mới cho các doanh nghiệp nhà nước. Qua phân tích về thực trạng nguyên nhân của quá trình cổ phần hoá và tham khảo nghiên cứu kinh nghiệm ở nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nhà nước trong năm 1998 lấy đó làm bàn đạp cho cổ phần hoá năm sau. Qua những vấn đề trên cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một trong những doanh nghiệp giải pháp cơ bản để đổi mới công cuộc kinh tế nhà nước nhưng dù sao đó cũng vẫn là một vấn đề mới mẻ trong nhận thức đối với nhiều người. Vì vậy việc cổ phần hoá được sự lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ của Đảng và nhà nước mà trước hết là làm cho trong Đảng và nhân dân thống nhất về quan điểm thông suốt về tư tưởng có quyết tâm cao: có những phương án có tính khả thi và lựa chọn cán bộ có trách nhiệm đủ kiến thức về lĩnh vực này để trực tiếp tham gia chương trình cổ phần hoá. 2. Một số giải pháp cơ bản để đẩy nhanh vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới kinh tế giai đoạn 1996-2000 do Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương kinh tế lớn là một giải pháp quan trọng nhằm huy động tiềm năng lao động xã hội và cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế tập trung trong nền kinh tế thị trường. Sau 4 năm làm thí điểm cổ phần hoá ở 9 doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ và ở hàng loạt các doanh nghiệp cấp Bộ ngành khác thì cổ phần hoá đang ngày càng một rõ dần. Cụ thể như công ty đại lý liên hiệp vận chuyển mức tăng doanh thu hàng năm: năm 1993 là 16,5 tỷ, 1994 là 24,1 tỷ và 1995 là 57 tỷ tăng 40% so với trước khi tiến hành cổ phần hoá. Cổ tức vượt con số 30% so với mức đại hội cổ đông đặt ra và lợi nhuận đã tăng gấp 1,5 so với năm trước, bên cạnh đó vốn doanh nghiệp tăng gấp 2,5 lần và đạt con số 17,6 tỷ mức nộp thuế các loại tăng 3,36 lần lãi ròng tăng hơn 7 lần đưa đến thu nhập của cán bộ nhân viên và người lao động bình quân tháng tăng từ 1,2 triệu lên 2 triệu trong khi đó số lao động trước cổ phần hoá là hơn 90 người nay lên tới 300. Tương tự như vậy công ty cơ điện lạnh có mức doanh số hàng năm: năm 1992 là 42 tỷ, 1993 là 45 tỷ, 1994 là 77 tỷ, 1995 là 213,9 tỷ tăng 60% so với trước đó cũng tại đây mức đóng góp ngân sách và thu nhập của người lao động cũng tăng nhanh, mức thuế nộp ngân sách tăng hơn 6,5 lần, lãi ròng tăng 1,44 lần và thu nhập của người lao động đạt hơn 1,5 triệu đồng/tháng so với 1,2 triệu đồng trước đó. ở công ty Giày Hiệp An mức đóng góp ngân sách tăng 5,6 lần lãi ròng tăng 6,1 lần và thu nhập người lao động đạt 840.000 đồng /tháng tăng gấp 2 lần và trong tháng 8 năm 1998 lãi 6,5 lần so với trước đo. Ngoài ra công ty còn đầu tư 2,2 tỷ đồng xây dựng thêm xưởng mới. Nhận xét chung chúng ta thấy những doanh nghiệp này trước khi cổ phần hoá cán bộ ngần ngại, công nhân không mặn mà, nhưng sau đó thấy cổ phần hoá là cần thiết bởi nó mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Từ việc tổng kết thực tiễn cổ phần hoá 4 năm qua Chính phủ đã ra nghị định 28 Cp ngày 7/5/1996 về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và Bộ tài chính ban hành thông tư số 50 TC/TCDN hướng dẫn thực hiện bước sang giai đoạn thực hiện trên quy mô cả nước. Tuy nhiên một chủ trương lớn tiến hành trong thời gian lâu dài và có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế của đất nước thì một vài văn bản của nhà nước chưa thể đủ. Nó còn đòi hỏi phải có những văn bản cụ thể hơn để hướng dẫn việc tổ chức thực hiện. Chẳng hạn như thế nào là loại có quy mô vừa và nhỏ (loại doanh nghiệp đó có vốn vaff lao động là bao nhiêu, trình độ trang thiết bị như thế nào) và các điều kiện kèm theo để có thể tiến hành cổ phần hoá. Do đó để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhanh hơn trong tình thế hiện nay theo tôi cần thực hiện một số điều sau: Tạo ra "sân chơi" bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh bởi vì chính sách đổi mới doanh nghiệp nhà nước hiện nay cần có những ưu đãi tạo nên nhiều lợi thế như: tài sản doanh nghiệp nhà nước khấu hao thấp việc làm ổn định hơn toàn bộ lợi nhuận sau thuế do doanh nghiệp làm ra đều được để lại. Sau khi đa trích 35% cho quỹ phát triển sản xuất doanh nghiệp nhà nước còn tới 65% dùng làm quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi… Có hệ thống thông tin chính xác, tin cậy vào tình hình sản xuất kinh doanh các kết quả của cổ phần đã được kiểm toán độc lập bằng hình thức thông tin thông qua báo chí, đài, qua các tổ chức đoàn thể. Triển khai nhanh và cụ thể hoá cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc cổ phần hoá theo nghị định 28 CP của chính phủ ngày 7/5/1996 như sau: Việc xác định danh mục loại hình doanh nghiệp cần phải cổ phần hoá ở những mức độ nào, vấn đề xác định doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá (đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc cổ phần hoá bị ì ạch dẫm chân tại chỗ, 4 năm qua chúng ta đã đẩy lên qua cao về giá trị còn lại của nhân dân) vai trò làm chủ người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá (theo nghị định 28 CP quy định về việc bán chịu cổ phiếu cho người lao động đã ghi rõ "được mua chịu một số cổ phiếu trong 5 năm với lãi suất 4%năm" thông tư 50TC/TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ tài chính còn quy định thêm "hàng năm người lao động phải trả tối thiểu là 20% giá trị cổ phiếu mua chịu và 4% lãi trên số nợ vay: nếu người lao động không trả được nợ trong 2 năm liền, giá trị cổ phiếu mua chịu thì phải hoàn trả cho nhà nước. Như vậy rất khó khăn cho người lao động, bên cạnh đó để thúc đẩy tiến trành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước một cách có hiệu quả ngành ngân hàng có vai trò: tiếp tục cung ứng vốn tín dụng theo cơ chế cho vay như đối với doanh nghiệp nhà nước. Tham gia mua cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hoá, điều đó có lợi cho ngành ngân hàng là thông qua tư cách người cổ đông ngân hàng sẽ nắm được sát sao tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo điều kiện thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn vì trong lợi ích của doanh nghiệp có lợi ích của ngân hàng trong mối quan hệ thị trường vốn, thị trường tiền tệ vừa tạo điều kiện để thực hiện mua bán cổ phiếu lại vừa thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Sau cùng là: nhà nước sớm ban hành luật cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương của Đảng và nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nhằm đa dạng hoá sở hữu lao động tự lực cho người lao động vì lợi ích chính đáng đồng thời phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong tiến trình đổi mới nền kinh tế ở nứơc ta. Cổ phần hoá còn tiếp tục góp phần trong việc hình thành cho thị trường chứng khoán một yêu cầu cấp thiết của quá trình vận hành nền kinh tế thị trường và đó là một trong các giải pháp để giải quyết cơ cấu lại kinh tế quốc doanh, điều kiện thúc đầy nền kinh tế phát triển ổn định và vững chắc. Phần kết luận Qua phân tích về thực trạng nguyên nhân của quá trình cổ phần hoá và tham khảo nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, nhằm đáp ứng nhu cầu cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nhà nước trong năm 1998. Qua những vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp là một giải pháp cơ bản để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước. Nhưng dù sao đó vẫn là vấn đề mới mẻ trong nhận thức đối với nhiều người. Vì vậy việc cổ phần hoá cần được sự lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ của Đảng và nhà nước mà trước hết là làm cho trong Đảng và nhân dân thống nhất về quan điểm thông suốt về tư tưởng, có quyết tâm cao; có những phương án có tính khả thi và lựa chọn cán bộ có trách nhiệm đủ kiến thức về lĩnh vực này để lĩnh vực trực tiếp tham gia chương trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương của Đảng và nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Nhằm đa dạng hoá sở hữu tạo động lực cho người lao động vì lợi ích chính đáng. Đồng thời phù hợp với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Qua ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0900.doc