lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đất nước ta sau mười lăm năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế trong đó sự nghiệp CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ qúa độ lên CNXH. CNH, HĐH chính là qúa trình tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, qúa trình cơ khí hóa, HĐH nền sản xuất, nó phải được gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội. Song để làm được điều đó thì cần phải có những điều kiện nhất định mà một tron
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những tiền đề quan trọng hàng đầu là phải có sự tích luỹ về vốn. Sự đáp ứng vốn cho quá trình CNH, HĐH có thể xuất phát từ vốn trong nước hoặc vốn nước ngoài nhưng về cơ bản thì vẫn dựa chủ yếu nguồn vốn trong nước nhằm phát triển nội lực quốc gia, tận dụng một cách tối đa những tiềm lực tiềm năng sẵn có.
ở nước ta hiện nay, hệ thống NH, các TCTD là nguồn cung cấp vốn lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội. NH với các nghiệp vụ của mình đã tập hợp nguồn vốn nhàn rỗi để thoả mãn nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, cho vay đối với các dự án, các DN sản xuất kinh doanh.
Nhưng thực tế, trong thời gian gần đây hoạt động đầu tư TD đối với khu vực KTNQD chưa được hệ thống NHTM quan tâm thích đáng cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Hơn nữa, vốn TD của các NH cho vay đối với khu vực KTNQD chưa được hợp lý, hiệu quả chưa cao và thậm chí còn nhiều rủi ro. Vì vậy, mở rộng quy mô cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động TD đối với KTNQD đang là vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Giải quyết vấn đề này không những tạo điều kiện cho các DN nâng cao hiệu quả trong hoạt động, giúp khu vực KTNQD phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế mà còn góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Sau một thời gian thực tập tại SGDI - NHCTVN em nhận thấy SGDI cũng đang gặp khó khăn trong việc mở rộng cho vay đối với khu vực KTNQD. Từ tính cấp thiết của vấn đề này nên em đã chọn đề tài: "Giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN" làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Cơ sở luận về tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
- Phân tích đánh giá thực trạng về tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN.
- Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng trong phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài này là vấn đề mở rộng TD với khu vực KTNQD tại SGDI - NHCTVN. Từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm mở rộng TD cho khu vực KTNQD để phát triển khu vực kinh tế này theo hướng CNH, HĐH đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục đích đề ra, Khoá luận kết hợp sử dụng một số phương pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê ... đồng thời quán triệt vận dụng đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ.
5. Kết cấu của Khóa luận.
Tên đề tài: "Giải pháp tín dụng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN".
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, bản Khóa luận được chia thành 03 chương cụ thể như sau:
Chương1: Kinh tế ngoài quốc doanh và tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh.
Chương2: Thực trạng tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN.
Chương3: Một số giải pháp tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDI - NHCTVN.
Chương 1
Kinh tế ngoài quốc doanh và tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1. Những vấn đề cơ bản về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1.1. Khái quát về kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế Việt Nam, KTNQD là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân bao gồm hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp, HTX đến các công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần... hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, thành phần KTNQD đã tạo ra một phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hút lao động, tận dụng khai thác tiềm năng của đất nước.
ở nước ta, Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định nước ta có các thành phần kinh tế như sau: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, Kinh tế tư bản tư nhân và Kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đảng ta xuất phát từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của V.I.Lênin: "Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ". Từ đó sở hữu tư nhân được thừa nhận, KTNQD được tồn tại và phát triển bình đẳng cùng kinh tế Nhà nước.
Kinh tế quốc doanh: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị mà toàn bộ vốn thuộc về nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của các thành phần kinh tế này là các DNNN, đó là các TCKT do Nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. (Luật DNNN - Điều 1).
Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm những đơn vị kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Nòng cốt của loại hình này là các HTX. Đây là các tổ chức kinh tế tự chủ do người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là các cá nhân kinh doanh đầu tư vốn thấp và có quy mô kinh doanh nhỏ. Thành phần kinh tế này có vị trí quan trọng lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các DNNN hay HTX.
Kinh tế tư bản nhà nước: Là hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và giữa kinh tế Nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các DN Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh. Kinh tế tư bản Nhà nước nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, công nghệ tiên tiến, kỹ thuật và phương pháp quản lý... để phát triển đất nước thông qua các loại hình DN.
Kinh tế tư bản tư nhân: Các nhà kinh doanh đầu tư vốn thuộc sở hữu tư nhân để thành lập DN hoạt động dưới hình thức DN tư nhân hoặc công ty TNHH, công ty cổ phần được pháp luật quy định.
Công ty TNHH, công ty cổ phần: Gọi chung là công ty, là DN trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp của mình vào công ty.
DN tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của DN.
Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản kể trên cũng còn một số hình thức kinh tế khác cùng song song tồn tại đó là những hình thức liên doanh liên kết giữa các chủ thể trong nước cũng như trong nước với nước ngoài.
1.1.2. Đặc điểm và xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1.2.1. Đặc điểm của khu vực KTNQD.
Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình "Quốc doanh hoá" và "Tập thể hoá", các thành phần KTNQD gần như bị xoá bỏ. KTNQD mới thực sự khởi sắc sau khi có Luật DN tư nhân và Luật công ty được Nhà nước ban hành năm 1991. Chính những biến cố lịch sử nói trên đã quyết định nên đặc điểm của thành phần KTNQD ở nước ta.
Thứ nhất là cơ sở sản xuất phân tán, manh mún, thiết bị kỹ thuật công nghệ lạc hậu rất nhiều so với thế giới. Phần lớn các dây chuyền máy móc thuộc thập kỷ 60 - 70 nên năng suất lao động thấp, chất lượng xấu, giá thành cao, sức cạnh tranh của sản phẩm kém. Hiện tại các DNNQD có công nghệ tiên tiến, hiện đại không nhiều chỉ có một số xí nghiệp liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn hầu hết các đơn vị có vốn đầu tư trong nước còn sử dụng công nghệ thủ công, dây chuyền thiết bị chắp vá, thiếu đồng bộ. Theo các số liệu điều tra năm 1998 chỉ có 25% số DN và 20,5% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ hiện đại, 33,5% số DN và 18,7% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ truyền thống, 38,5% số DN và 60,5% số công ty tư nhân kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại.
Hơn nữa trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp, lại bị Mỹ cấm vận trong nhiều năm trước đây nên thông tin về công nghệ, kỹ thuật mới còn thiếu, khả năng tiếp xúc với công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế. Chủ yếu máy móc trong thời kỳ này là tự sản xuất ở trong nước hoặc nhập khẩu từ Đông Âu, Liên Xô cũ. Trong thời gian gần đây Nhà nước đã thành lập uỷ ban quốc gia về chính sách công nghệ, đã nhập được một số dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, song còn hạn chế ở một số lĩnh vực nhất định.
Thứ hai, khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn. Phần lớn các DNNQD thường bị hạn chế về tài chính. Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tồn tại và phát triển của DNNQD. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các DNNQD thường gặp phải vấn đề thiếu vốn, thể hiện ở tổng nguồn vốn kinh doanh và vốn tự có trong tổng vốn, một số DN kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay song số DN được xét duyệt vay vốn từ NH để tiến hành các hoạt động kinh doanh không nhiều. Song có một thực tế là sổ sách kế toán của các DNNQD nói chung thường quá đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do vậy việc đánh giá DN thông qua phân tích tài chính để quyết định cho vay thực sự khó khăn đối với NH, nhất là hiện nay hầu hết các sổ sách của các DN đều chưa được kiểm toán. Ngoài ra, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các DNNQD này vì họ chưa có uy tín, chưa thể tạo lập khả năng trả nợ, và hầu hết họ không có tài sản thế chấp, dự án khả thi... Do vậy, các DNNQD phần lớn phải dựa vào các nguồn vốn phi chính thức từ bạn bè, họ hàng, hay thu hút vốn qua hình thức mua bán chịu... Việc mở rộng DN luôn bị ngăn cản bởi sự hạn hẹp về nguồn vốn.
Thứ ba là trình độ lao động thường không cao do đầu tư vào trình độ công nghệ của các DNNQD không nhiều. Do ảnh hưởng của cơ chế cũ là quan liêu bao cấp làm thui chột tính năng động, sáng tạo của người lao động, gây tâm lý thụ động, ỷ lại. Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý chưa qua trường lớp đào tạo, không biết ngoại ngữ, chưa quen hoạt động trong môi trường cạnh tranh sôi động, chưa đủ bản lĩnh, trình độ làm đối tác liên doanh với nước ngoài, các DNNQD lại thường không có điều kiện để tự đào tạo lực lượng lao động của mình.
Thứ tư là khả năng quản lý của DNNQD vừa yếu lại vừa thiếu, đặc biệt trong việc lập kế hoạch tài chính. Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng phương án sản xuất có hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của các DN, khả năng dự đoán về sự biến động của ngành, của nền kinh tế... Do vậy DNNQD khó có thể xây dựng được kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành. Đa số các DN tư nhân quản lý DN bằng kinh nghiệm theo cách suy nghĩ, hiểu biết của riêng mình. Nhiều người trong số họ chưa qua trường lớp đào tạo nên ít hiểu biết về pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức.
Thứ năm, môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định. Các thành phần KTNQD phát triển thất thường lúc lên, lúc xuống tuỳ thuộc vào chính sách quản lý cụ thể của Nhà nước (chính sách thuế, lãi suất cho vay, chính sách xuất nhập khẩu...). Môi trường kinh doanh đối với các thành phần KTNQD không thuận lợi ngay từ khâu ban đầu là thủ tục đăng ký kinh doanh và thành lập DN. Thủ tục này kể từ khi có Luật DN (được bắt đầu thực hiện từ ngày 1.1.2000) đã giảm đi được nhiều khâu, song vẫn còn gây khó khăn cho các nhà kinh doanh muốn thành lập DN, như đăng ký kinh doanh đối với các loại hình DN thuộc mọi ngành nghề đều phải tập trung về Sở kế hoạch - đầu tư tỉnh, gây khó khăn cho các tổ chức cá nhân muốn thành lập DN ở địa phương xa tỉnh. Bên cạnh đó còn có sự sách nhiễu, phiền hà của các cán bộ đăng ký kinh doanh làm cho các cá nhân, tổ chức tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc.
Việc thanh tra, kiểm soát chồng chéo hiện nay của các lực lượng thanh tra, kiểm tra đang gây nhiều khó khăn cho các DN. Mỗi lực lượng tiến hành thanh tra, kiểm tra theo cách của mình, thậm chí sai pháp luật, vượt quá quyền hạn và phạm vi thanh tra.
Một trong những lĩnh vực mà khu vực DNNQD không có nhiều ưu đãi so với các DNNN là quan hệ TD với NH. DNNQD luôn bị coi là những khách hàng nhỏ, hoạt động theo kiểu chộp giật, quy mô hoạt động nhỏ, vốn tự có thấp và uy tín chưa cao, ngoài trừ DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN liên doanh. Ngoài ra, phần lớn các DNNQD gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm do thị trường trong nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân thấp, hàng ngoại nhập, nhất là hàng nhập lậu cạnh tranh tràn ngập. Nguyên nhân hầu hết là máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin của thị trường thế giới (về sản phẩm, giá cả, nhu cầu, thị hiếu, kỹ thuật công nghệ...). Như vậy, cạnh tranh trong nước đã khó, trên thị trường quốc tế lại càng khó hơn đối với sản phẩm của các DNNQD.
Từ những đặc điểm trên cho thấy DNNQD có những lợi thế và bất lợi như sau:
* Về lợi thế:
- Do quy mô vừa và nhỏ nên các DN này có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh.
- Có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật.
- Vốn đầu tư ban đầu thấp, hiệu quả thu hồi vốn nhanh.
- DNNQD có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động lớn hơn nhiều so với DN lớn cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp, chặt chẽ.
- Sự đình trệ thua lỗ, phá sản của các DNNQD có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
* Những mặt bất lợi:
- Nguồn vốn hạn chế dẫn tới cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc hậu.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNNQD bị hạn chế rất nhiều.
- Trình độ quản lý của các DNNQD còn bị hạn chế.
- Các DNNQD có năng suất lao động và sức cạnh tranh thấp hơn nhiều so với DN lớn.
1.1.2.2. Xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1.2.2.a. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước.
Với chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã kích thích phát huy nội lực trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thành phần KTNQD có vốn đầu tư trong nước đã phát huy được thế mạnh của nó, khu vực này bao gồm hai loại hình: DNNQD và Kinh tế hộ gia đình.
Loại hình DN: Bao gồm những công ty đăng ký với số vốn không thấp hơn mức vốn pháp định do Nhà nước quy định, hoạt động theo Luật doanh nghiệp. DNNQD hoạt động dưới nhiều hình thức: DN tư nhân do một tư nhân làm chủ, công ty cổ phần do những người nắm giữ cổ phiếu làm chủ, hoặc tham gia dưới hình thức HTX. Trong điều kiện nước ta hiện nay phổ biến nhất là hai loại hình công ty tư nhân và công ty TNHH bởi nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất là số vốn cần thiết cho việc thành lập và hoạt động nhỏ, còn sự phát triển của công ty cổ phần vẫn còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam.
Trong những năm qua số lượng DNNQD tăng lên khá nhanh, theo ước tính hiện nay có khoảng 25.000 DNNQD đang hoạt động. Trong khi đó số DNQD lại có xu hướng giảm xuống do tiến trình cổ phần hoá hoặc do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến giải thể, phá sản của một loạt các DNNN. Vì vậy một bộ phận lớn người lao động có trình độ, tay nghề đã chuyển từ DNNN sang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân do khu vực này đang làm ăn có hiệu quả.
Nhưng một hạn chế lớn nhất đối với các DNNQD ở nước ta là vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng nhà xưởng, máy móc thiết bị do vậy sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết bị trở nên lỗi thời không còn thích ứng được với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và phát triển thì phải đổi mới dây chuyền thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại. Trong khi đó nguồn vốn tự có lại có hạn, nguồn vốn đi vay cũng bị hạn chế bởi quy mô và tài sản có. Như vậy, trong tương lai không xa một xu hướng tất yếu xảy ra đối với các DN này là sự sát nhập cùng chung vốn vào sản xuất kinh doanh. Đó là tiền đề cho sự phát triển của công ty cổ phần, ưu điểm của công ty cổ phần là có thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu. Nhưng tốc độ phát triển của các công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các NH, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay các công ty chứng khoán còn chưa phát triển. Ngoài ra, khi các NH phát triển đến một mức nhất định thì các NH không chỉ là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty mà còn có thể mua các cổ phiếu, trái phiếu đó để công ty có đủ nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Loại hình không phải DN (kinh tế hộ gia đình): Là khu vực sản xuất kinh doanh nhỏ bao gồm tất cả các hoạt động của tư nhân nằm ngoài khu vực DN như: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại vận tải và các dịch vụ khác. Trong giai đoạn đầu của cơ chế quản lý mới khu vực kinh tế này phát triển rất nhanh, thu hút mọi đối tượng tham gia, tận dụng triệt để các nguồn lực sản xuất của xã hội nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đối với nước ta hiện nay ngành nông - lâm nghiệp giữ vai trò quan trọng thì sự phát triển của khu vực này hiện nay là tất yếu. Trong tương lai với công cuộc CNH và HĐH đất nước thì khu vực này sẽ từng bước giảm dần chuyển sang lao động trong các ngành công nghiệp hiện đại.
Theo cơ chế mới của nền kinh tế nhiều thành phần đã có những chuyển biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và thế giới, nếu tốc độ phát triển của KTNQD nhanh hơn tốc độ phát triển của nền KTQD bình quân 1%/năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội nước ta trong 10 - 20 năm nữa là: Kinh tế quốc doanh 10%, kinh tế ngoài quốc doanh 90%. Trong đó thành phần kinh tế tư bản Nhà nước không quá 30%, kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%, kinh tế cá thể và gia đình 30%. Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với đặc điểm KTNQD. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư bản tư nhân bên cạnh những tập đoàn kinh tế Nhà nước trong môi trường cạnh tranh tự do, bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong nước và hợp tác quốc tế.
1.1.2.2.b. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, hàng năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP, góp phần chuyển giao công nghệ, khoa học quản lý hiện đại, thu hút lao động trong nước với mức lương cao, đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách lao động công nghiệp hoá.
Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đang được nhiều người quan tâm và trên thực tế hoạt động này đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu từ cuối năm 1987 và được đánh dấu bằng sự ra đời Luật đầu tư nước ngoài. Từ đó tới nay hoạt động đầu tư nước ngoài ngày một tăng lên cả về tổng số vốn đầu tư, số lượng dự án đầu tư, số nước tham gia và các lĩnh vực đầu tư. Tuy vậy, từ năm 1997 đến nay hoạt động đầu tư nước ngoài có phần giảm sút so với các năm trước, đây đang là vấn đề được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà kinh tế. Phải thừa nhận rằng đầu tư nước ngoài giảm sút trong mấy năm qua có nhiều nguyên nhân như ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm rà, chính sách thuế thiếu ổn định. Nhưng với lợi thế ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, chịu khó, có nguồn nguyên liệu rẻ, cùng với việc thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài của Chính phủ như cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế, giảm giá cho thuê đất. Chắc chắn trong tương lai khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển một cách nhanh chóng, sẽ có ngày càng nhiều những dự án kinh doanh có hiệu quả tạo công ăn việc làm cho người lao động và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong những năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn song được sự khuyến khích của Đảng và Nhà nước, khu vực KTNQD đã dần dần khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế. Với tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, KTNQD đã sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường, đóng góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất, sự phát triển của KTNQD đã tạo ra sự cạnh tranh, góp phần phát triển kinh tế.
Trong những năm vừa qua, sự tồn tại và phát triển của khu vực KTNQD là cần thiết và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn mới. Việc phát triển KTNQD không những không làm suy yếu KTQD mà còn tăng sức cạnh tranh, góp phần thúc đẩy KTQD phát triển mạnh mẽ hơn. KTNQD phát triển ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng, sôi động. Người tiêu dùng nhờ vậy mà có nhiều cơ hội để lựa chọn hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các DNQD hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước nên sản phẩm làm ra không đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của thị trường. Bây giờ, với sự xuất hiện và phát triển của DNNQD thì các DNNN sẽ phải hoạch định lại chiến lược kinh doanh, thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp với tình hình mới, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, khu vực KTNQD đóng vai trò hỗ trợ cho khu vực KTQD phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực KTQD không đảm nhiệm hết hoặc đảm nhiệm không tốt.
KTNQD không những là đối thủ cạnh tranh mà còn là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho KTQD. Sự kết hợp sản xuất - tiêu thụ giữa KTQD và KTNQD tạo ra một dây chuyền sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất, tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy sự phát triển của khu vực KTNQD đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự ganh đua giữa các thành phần kinh tế, buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng phải luôn đổi mới, hoàn thiện để tồn tại và phát triển.
Thứ hai, sự phát triển KTNQD đã thu hút một lực lượng lớn lao động, giảm sức ép về tình hình thất nghiệp cho đất nước.
Như chúng ta đã biết, khu vực KTNQD với quy mô vốn đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân hay một số cổ đông liên kết lại dưới dạng công ty TNHH, công ty cổ phần... có mặt trong tất cả các ngành nghề như: nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ nên rất linh hoạt, có khả năng tạo việc làm cho người lao động nhanh nhất, dễ dàng hơn nhiều so với khu vực KTQD.
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, kinh tế tập thể đã thu hẹp lại, kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng cũng như quy mô hoạt động, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ.
Trong những năm gần đây, cùng với số lao động được giải quyết việc làm bằng vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước chiếm 40% - 50% mỗi năm, và có 80 - 85 vạn lao động có thêm việc làm do các đơn vị tư nhân bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. Hiện nay, với chủ trương giảm biên chế, khu vực KTNQD sẽ là nơi thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan nhà nước và hành chính sự nghiệp.
Thứ ba, KTNQD phát triển góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Khu vực KTNQD tồn tại và phát triển sẽ là nguồn đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế. Hàng năm khu vực KTNQD đóng góp vào ngân sách Nhà nước khoảng 30%. Nguồn ngân sách Nhà nước sẽ được dùng để đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng hay giúp đỡ, hỗ trợ một số ngành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, khu vực KTNQD có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa, từng bước hội nhập với kinh tế thế giới thì các DNNQD sẽ trở thành cầu nối cho sự hòa nhập đó.
Từ nay đến năm 2005, do có những thay đổi mạnh trong quan hệ kinh tế thế giới các DN sẽ phải đương đầu với các thách thức rất lớn. Việt Nam sẽ xoá bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan và giảm thuế nhập khẩu cho phù hợp với quy định của AFTA vào ngày 01/06/2006, hạn chế định lượng và kiểm soát ngoại hối, mở rộng hơn con đường tiếp cận của bên ngoài vào thị trường nội địa, lúc đó các DN được Nhà nước bảo hộ sẽ chịu những tác động lớn. Hơn nữa, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải tuân thủ những hướng dẫn của WTO vào năm 2010 hoặc sau đó. Do đó Nhà nước cần phải tạo ra những cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các DN thuộc các thành phần kinh tế, nếu các DNNQD bị bỏ lại đằng sau hoặc chịu sự phân biệt đối xử thì doanh nghiệp Việt Nam khó có thể gánh vác được nền kinh tế đất nước vào năm 2005 và những năm sau đó. Hơn nữa, thực hiện chính sách mở cửa tức là chấp nhận cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư, kinh doanh trong nước và như vậy chắc chắn sẽ thu hút được một nguồn vốn nước ngoài tương đối lớn. Để tận dụng cơ hội này cho phát triển kinh tế thì phải chú trọng phát triển KTNQD vì các nhà đầu tư nước ngoài chỉ tham gia vào quốc gia có các thành phần kinh tế tư nhân phát triển bởi có như vậy họ mới có cơ hội để tồn tại và phát triển.
Thứ năm, DNNQD góp phần quan trọng trong việc thu hút và sử dụng tối ưu các nguồn lực trong nền kinh tế.
Việc tạo lập DNNQD không cần nhiều vốn, điều đó đã tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư; mặt khác trong quá trình hoạt động các DNNQD có thể dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNNQD được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư.
Từ thực tế ta thấy rằng sự tồn tại và phát triển của các DNNQD là một tất yếu khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
1.2. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển khu vực KTNQD.
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng La-tinh "credo" có nghĩa là "sự giao phó" hay "tôi đặt niềm tin vào đó", hoặc từ tiếng La-tinh "credittum" có nghĩa là "sự tín nhiệm".
TD NH là một phạm trù kinh tế tồn tại qua nhiều hình thức xã hội khác nhau. Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau ta có những cách biểu hiện khác nhau. Theo quan niệm truyền thống TD là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển giao cho người khác, TCKT khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc một lượng hiện vật nào đó với những điều kiện được hai bên thoả thuận trước, những điều kiện đó thường về số lượng, chất lượng, thời gian hoàn trả và lượng giá trị tăng thêm. Hay nói cách khác, TD là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo Luật các TCTD: Cấp tín dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ khác.
Hoạt động TD có từ rất xa xưa và phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau. TD nặng lãi tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến và hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số nơi, một đặc điểm của hình thức tín dụng này là lãi suất cho vay rất cao từ vài chục cho đến hàng trăm %. Tín dụng nặng lãi không thúc đẩy nền sản xuất mà nó chỉ nhằm mục đích phục vụ những nhu cầu tối thiểu của con người.
Nền sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển, các nhà kinh doanh tư bản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, họ phải xem xét tới chi phí vay vốn của mình, để có lãi trong kinh doanh nhà tư bản không vay vốn với lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Do đó, xuất hiện một hình thức tín dụng phù hợp hơn đó là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là hình thức mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân với nhau, giữa các nhà sản xuất với các thương nhân. Theo C.Mác "Tín dụng thương mại không phải cho vay bằng hàng hoá mà cho vay bằng tiền của hàng hoá đem bán chịu". Quan hệ mua bán chịu này chỉ diễn ra trong một phạm vi nhỏ của nền kinh tế, chỉ giữa các đơn vị có liên quan trực tiếp với nhau, có thông tin đầy đủ về nhau. Vì vậy hình thức tín dụng này cũng không đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Từ những hạn chế của tín dụng thương mại, TD NH ra đời. Hoạt động TD này có liên quan đến chủ thể rất quan trọng đó là NH. Khi nói về vấn đề này C.Mác nhận xét "NH ra đời với vai trò môi giới tài chính trung gian và tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đem cho các nhà DN và công chúng vay. Bằng cách đó tạo ra sức mua cho họ mà không làm giảm sức mua của bất cứ ai. Đó chính là nét nổi bật trong vai trò của NH, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ".
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất đối với bản thân các NHTM, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng._. tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của NH cho khách hàng (còn được gọi là TD NH).
1.2.2. Phân loại TD NH.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro TD. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau:
Mục đích.
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại sau:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các DN trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu...
- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp TD cho các NH, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Cho thuê. Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc - thiết bị.
Thời hạn cho vay.
Theo căn cứ này cho vay được chia ra làm 3 loại sau:
- Cho vay ngắn hạn. Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các DN và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Cho vay trung hạn. Theo quy định hiện nay của NHNN Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm.
TD trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều...
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các DN, đặc biệt là những DN mới thành lập.
- Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 - 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm.
TD dài hạn là loại TD được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các NHTM đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của NH.
Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm 2 loại:
- Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì NH có thể cấp TD dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với NH, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để NH có thêm một nguồn thứ 2, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Trong những năm 90 các NH chỉ được phép cho vay có bảo đảm, trừ các DNNN kinh doanh có hiệu quả và cho vay hộ nông dân, từ 5 triệu đồng trở xuống. Ngày 29/12/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD; theo Nghị định này việc cho vay không bảo đảm được mở rộng hơn so với trước đây, cho phép các TCTD được lựa chọn khách hàng để cho vay không bảo đảm khi cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Tuy nhiên, khách hàng vay không bảo đảm phải hội đủ các điều kiện sau:
+ Có tín nhiệm với TCTD cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
+ Có dự án đầu tư, hoặc phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi, có khả năng hoàn trả nợ; hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi, phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của TCTD nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng TD; cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được các biện pháp bảo đảm bằng tài sản.
Tổng mức cho vay không bảo đảm và điều kiện cho vay không bảo đảm do NHNN quy định.
Phương pháp hoàn trả.
Dựa vào căn cứ này cho vay của NHTM được chia làm hai loại:
- Cho vay có thời hạn là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. Cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ (hay còn gọi là phi trả góp) là loại cho vay thanh toán một lần theo thời hạn đã thoả thuận.
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ cụ thể hay còn gọi là cho vay trả góp: Là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay bất động sản nhà ở thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ (cho vay chợ), cho vay để mua sắm máy móc - thiết bị.
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, mà việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay. Hoặc cho vay này được áp dụng theo kỹ thuật thấu chi.
Đối với loại cho vay có thời hạn khách hàng có thể trả nợ trước hạn, nhưng NH được quyền thu lãi toàn bộ kỳ hạn trả nợ theo hợp đồng, trừ trường hap có những thoả thuận khác.
+ Cho vay không có thời hạn cụ thể.
Đối với loại cho vay không có thời hạn thì NH có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thoả thuận trong hợp đồng.
Xuất xứ TD.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: NH cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho NH.
- Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau:
+ Chiết khấu thương phiếu. Người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho NH. Trong trường hợp này NH cấp cho khách hàng một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Khi các chứng từ đến hạn thanh toán người thụ hưởng lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho NH. Cần lưu ý, trong nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu người cấp TD và người chịu trách nhiệm thanh toán chính cho NH là hai người khác nhau.
+ Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp.
Do sự tác động của phương thức tiêu thụ hàng hoá gắn với phương pháp tiếp thị mới đã thúc đẩy các NHTM đưa vào áp dụng loại cho vay gián tiếp. Trong điều kiện hiện nay, các DN thương mại đã tìm mọi biện pháp để cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hoá, trong đó bán chịu hàng hoá được coi là biện pháp để mở rộng tiêu thụ hàng hoá có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nguồn vốn của các DN có hạn, vì vậy cần phải có nguồn tài trợ của NH thông qua nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp.
+ Nghiệp vụ thanh tín là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương mại, trong đó bên mua nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro TD. Nghiệp vụ thanh tín, thực chất là hình thức tài trợ vốn lưu động cho các DN.
Nghiệp vụ thanh tín hay còn gọi là mua các khoản phải thu là một hình thức tài trợ vốn ngắn hạn. Nghiệp vụ này thường do các công ty mua nợ thực hiện.
Ngoài các loại cho vay trên đây, NH còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ này NH không phải cung cấp bằng tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên, mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của NH là TD bằng chữ ký.
1.2.3. Vai trò của TD NH đối với sự phát triển khu vực KTNQD.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khẳng định sự tồn tại của khu vực KTNQD như một tất yếu khách quan, được hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hợp pháp với những quy định, thể chế... Đặc biệt trong những năm gần đây, sự tiếp cận của các NH đối với các DNNQD đã đóng một vai trò to lớn, đã hỗ trợ kịp thời các điều kiện về vốn sản xuất, tạo điều kiện phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Pháp lệnh NH ra đời với những quy chế TD, các chế độ kiểm tra, kiểm soát và xử lý nợ chặt chẽ các khoản TD đã góp phần thúc đẩy các DN hoạt động có hiệu quả. Ngoài ra, NH còn là nơi cung cấp vốn dồi dào và an toàn nhất. Điều này không chỉ đúng với những nước đang phát triển mà còn thể hiện ngay ở những nơi mà thị trường tài chính rất phát triển. Chẳng hạn như Mỹ là một nước có thị trường chứng khoán phát triển vào bậc cao nhất thế giới, các DN có thể vay vốn thông qua thị trường chứng khoán. Những số liệu thống kê cho thấy vốn vay từ NH vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn vay cuả DN Mỹ. Song không phải DN nào cũng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán mà chỉ có những DN lớn, có uy tín. Quay trở lại Việt Nam, ta thấy rằng các DNNQD, khi mà tình hình tài chính, sản xuất còn yếu kém và thị trường chứng khoán còn chưa phát triển thì họ rất cần sự hỗ trợ từ các NH. Vì vậy TD NH có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của khu vực KTNQD.
TD NH tạo điều kiện ra đời các DNNQD. TD NH có tác dụng điều tiết, hướng dẫn các DN này hoạt động theo định hướng chung của Nhà nước, hạn chế tính tự phát chạy theo lợi nhuận của KTNQD, đảm bảo cho một nền kinh tế phát triển lành mạnh và đồng đều.
TD NH động viên các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, trên cơ sở đó cho vay tới các đơn vị cá nhân cần vốn sản xuất kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nhờ có TD NH, KTNQD sẽ có một lượng vốn đủ lớn để đáp ứng các yêu cầu đầu tư cho sản xuất kinh doanh, có điều kiện để cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác và phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân.
Thông qua quan hệ vay vốn, để đảm bảo tiền vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả NH đi sâu nghiên cứu phương án sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của DN để cùng với DN xác định những hướng đi đúng đắn, nghiên cứu nhu cầu vốn cần thiết, hiệu quả của quá trình sử dụng vốn cũng như khả năng hoàn trả của người vay. Qua đó đóng góp cho các DN những ý kiến đúng đắn và thích hợp. Khi đó, vì lợi ích kinh tế và xã hội của cả hai bên, NH đóng vai trò là một cơ quan tư vấn cho các DN có quan hệ TD với NH.
TD NH đã kích thích thành phần KTNQD nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh trên nguyên tắc TD có hoàn trả cả gốc và lãi. Điều này đòi hỏi các chủ thể vay vốn phải tăng nhanh vòng quay vốn, kinh doanh có hiệu quả mới có thể trả cả gốc và lãi cho NH.
TD NH góp phần tích cực vào việc đa dạng hoá thành phần KTNQD, tạo điều kiện cho sự ra đời của các mô hình công ty như: công ty TNHH, công ty cổ phần. Đây là hình thức mới và là mô hình có hiệu quả của KTNQD trong cơ chế thị trường.
Thông qua công tác TD trung và dài hạn, TD NH đã giúp các đơn vị KTNQD đầu tư vốn để cải tiến kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng kinh doanh từ đó nâng cao năng suất lao động tạo tiền đề cho việc tích tụ và tập trung vốn ngày càng cao, giải quyết việc làm cho người lao động, tạo tiền đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhận thức sâu sắc về vai trò to lớn của TD NH đối với việc phát triển nền kinh tế nói chung và đối với khu vực KTNQD, chúng ta cần có biện pháp đúng đắn để tạo điều kiện cho TD NH phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhằm đáp ứng sự phát triển không ngừng đối với nền kinh tế quốc dân.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến TD NH đối với khu vực KTNQD.
1.2.4.1. Nhóm nhân tố khách quan.
Một là, nhân tố kinh tế: Nền kinh tế là một thực thể gồm nhiều hoạt động kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau. Bất kỳ một sự biến động của hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nào đó cũng sẽ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực còn lại. Hoạt động TD NH chịu ảnh hưởng của các biến động kinh tế, do vậy sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động TD NH đối với DN nói chung và DNNQD nói riêng.
Thật vậy, khi nền kinh tế ở tình trạng hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động thì nhu cầu vay vốn của DN tăng lên để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Khi đó hoạt động TD NH sẽ phát triển và ngược lại, trong môi trường kinh tế suy thoái, TD NH sẽ bị thu hẹp, hoặc chí ít thì cũng không thể phát triển được.
Hai là, nhân tố xã hội bao gồm các nhân tố như: trật tự an ninh, an toàn xã hội, trình độ dân trí... có ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ TD NH. Thật vậy, nếu một nơi nào đó trật tự an ninh không đảm bảo, an toàn xã hội kém sẽ gây ra tâm lý không yên tâm cho các chủ đầu tư. Do đó nhu cầu vay vốn cũng bị hạn chế, ảnh hưởng đến việc mở rộng TD của các NH. Ngược lại, nơi nào có trật tự an ninh tốt, ít tệ nạn xã hội sẽ an toàn cho hoạt động đầu tư. Điều đó khuyến khích các chủ đầu tư mở rộng quy mô hoạt động của mình. Như vậy nhu cầu vay vốn tăng lên, TD NH có cơ hội được phát triển.
Ba là, nhân tố pháp lý: Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động TD NH cũng vậy, phải tuân theo mọi quy định của NHNN, Luật các TCTD, Luật dân sự và các quy định khác. Nếu các quy định không đồng bộ, không ổn định và có nhiều "kẽ hở" thì sẽ rất khó khăn cho NH trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Ngược lại, những văn bản pháp luật và những quy định đồng bộ sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc, góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NH trong hoạt động tín dụng. Và đó là cơ sở pháp lý để NH giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xảy ra trong hoạt động TD. Điều đó giúp cho hoạt động TD có thể mở rộng một cách hiệu quả.
1.2.4.2. Nhóm nhân tố về phía NH.
Việc mở rộng TD đối với các DNNQD không chỉ chịu tác động bởi các nhân tố bên ngoài mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố bên trong như : Chính sách và thể lệ tín dụng, thông tin tín dụng, tình hình huy động vốn, công tác tổ chức của NH...
- Về chính sách TD:
Đó là yếu tố giới hạn mức cho vay với khách hàng, kỳ hạn của khoản TD, lãi suất cho vay... tất cả các yếu tố đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới việc mở rộng TD. Nếu như có một chính sách TD linh hoạt đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng về vốn thì NH đó sẽ thành công trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng TD và ngược lại. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt xảy ra giữa các NH trong việc thu hút khách hàng, thì một chính sách TD đúng đắn, linh hoạt là hết sức quan trọng.
- Về quy trình TD:
Sự tôn trọng và kết hợp nhịp nhàng các bước trong quy trình sẽ tạo cho điều kiện cho NH phát hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được diễn biến các khoản tín dụng để có biện pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
- Về thông tin TD:
Trong hoạt động TD thì chất lượng thông tin có một vai trò rất quan trọng, bởi thông tin có chính xác, đầy đủ và kịp thời thì chất lượng TD mới được đảm bảo. Ngược lại, nếu thông tin không đầy đủ, kịp thời và thiếu chính xác sẽ dẫn đến những rủi ro lớn trong hoạt động TD của các TCTD. Do vậy, các TCTD thường rất chú trọng vấn đề nắm bắt thông tin để vừa nâng cao chất lượng TD, vừa mở rộng TD thông qua nắm bắt đúng nhu cầu về vốn của khách hàng trong nền kinh tế.
Ngoài ra còn nhiều nhân tố khác ảnh hưởng dến việc mở rộng và nâng cao chất lượng TD đối với các DNNQD như: công tác tổ chức bộ máy NH, tình hình huy động và chất lượng cơ sở vật chất thiết bị... Do vậy để thực sự thực hiện được điều này thì NH phải tìm ra những giải pháp cho riêng mình đồng thời phải học hỏi từ các nước khác trong và ngoài khu vực. Có như vậy công tác mở rộng TD mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa.
1.3. Sự cần thiết phải tăng cường Tín Dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh.
- Sự phát triển KTNQD là tất yếu để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, đặc biệt với các nước đang phát triển, thiếu hụt vốn đầu tư, tích luỹ nội bộ còn thấp thì đây là cách thức hiệu quả để khai thác nội lực và phát triển nền kinh tế đất nước.
- Do hầu hết khu vực KTNQD thiếu vốn nên cần vốn hỗ trợ và biện pháp hỗ trợ quan trọng nhất thuộc về các TCTD. Việc đầu tư TD đối với các DN thuộc thành phần KTNQD có nhiều tác động:
+ Hỗ trợ vốn đầu tư phát triển cho các DN này.
+ Thông qua đòn bẩy lãi suất TD để tăng tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của DN.
+ Thông qua nguồn vốn cho vay đúng mục đích, đối tượng sẽ tạo tín hiệu khuyến khích phát triển trong các lĩnh vực có thế mạnh...
Với các hình thức TD tài trợ thanh toán của các TCTD sẽ giúp các DNNQD tích luỹ vốn hướng vào các lĩnh vực có lợi thế và hướng ra các thị trường quốc tế.
- Thông qua quá trình phát triển, các DNNQD sẽ ngày càng lớn mạnh và sẽ trở thành các DN lớn. Việc hỗ trợ cho các DN này không chỉ đơn thuần là mục tiêu kinh doanh của NHTM, mà còn là chủ trương có tính chiến lược của Chính phủ. Bất cứ Chính phủ nào cũng thông qua các biện pháp khác nhau để hỗ trợ các DNNQD phát triển. ở nước ta điều này lại càng quan trọng, vì số lượng DNNQD rất lớn.
- Phát triển KTNQD với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng chiến lược quan trọng của quá trình CNH, HĐH. Hầu hết các DNNQD hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại, số lượng DN tham gia các lĩnh vực sản xuất vật chất còn thấp. Các DN này phần lớn chỉ lo có việc làm, tăng doanh số, bảo đảm thu nhập cho người lao động, tỷ lệ tích luỹ rất thấp; khá nhiều DN tư nhân kinh doanh theo kiểu buôn chuyến, chụp giật, lỗ lãi từng phi vụ.
Như vậy phát triển khu vực KTNQD là phù hợp tất yếu khách quan. Do đặc thù của KTNQD ở nước ta và xét trong hoàn cảnh chung của nền kinh tế, hiện tại khu vực kinh tế này đang đứng trước những khó khăn cần tháo gỡ và quá trình phát triển KTNQD đã và đang bộc lộ hạn chế chủ yếu. Đó là do quá trình phát triển KTNQD còn ngắn, đang trong giai đoạn khởi đầu nên khả năng tích luỹ vốn còn hạn chế. Trước hết do bản thân DN thiếu tài sản thế chấp NH trong khi mức cho vay bị giới hạn. Hơn nữa hầu hết các khoản vay đều là ngắn hạn với lãi suất cao nên các DNNQD cho dù được phép vay và khó tìm được nguồn vốn trung, dài hạn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các DN có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính từ bên ngoài một cách rộng rãi ổn định hơn.
Mặt khác, cũng do nguồn vốn hạn hẹp của các DN nên các DN không có điều kiện đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao công nghệ sản xuất để mở rộng năng lực sản xuất. Do đó năng suất lao động còn thấp, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Tuy nhiên, hiện nay vốn để đầu tư thành lập DN cũng như để mở rộng, phát triển sản xuất đang là một trong những khó khăn căn bản của các DNNQD ở Việt Nam. Thực sự, các DNNQD đang có nhu cầu bức xúc về vốn để thành lập và phát triển DN, lo lắng là làm sao vay được vốn vừa sức chi trả, tìm được người tư vấn giúp họ có thể tìm được chỗ vay vốn thích hợp và có thể làm để trả được vốn cả gốc lẫn lãi.
Các DN mới thành lập rất khó vay vốn trong trường hợp họ mới thành lập lần đầu, thiếu vốn và sẵn sàng vay vốn NH với bất cứ giá nào, NH không dám mạnh dạn cho vay vì không biết năng lực của họ thế nào. Trong khi Luật chỉ cho phép NH được cho vay tối đa 50% trị giá dự án, các DN lại muốn vay vượt số này thì rất khó. Bởi thế tự lực phần lớn về vốn là hiện trạng của phần nhiều DNNQD hiện nay.
Như vậy, để phát triển được DNNQD thì các NHTM phải cung cấp đủ vốn cho các DN, phải tạo điều kiện thuận lợi để các DNNQD đến vay vốn ở các NHTM. Mặc dù cho vay các DNNQD dễ gặp rủi ro hơn nhưng các DN này là một trong những nhân tố bảo đảm sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động... Khu vực KTNQD góp phần to lớn đến phát triển ở nước ta, vậy thì việc tăng cường TD đối với khu vực kinh tế này là rất quan trọng và cần thiết.
1.4. Kinh nghiệm của các nước trong việc mở rộng Tín Dụng đối với DNNQD.
1.4.1. Kinh nghiệm.
Trong kế hoạch tổng thể lần thứ hai (1991-2000) Malaysia đã khẳng định rõ vai trò của các DNNQD trong công cuộc HĐH đất nước. Trong thời kỳ này, Chính phủ đã thông qua chương trình hỗ trợ các DNNQD như: các chương trình về thị trường và hỗ trợ kỹ thuật, chương trình cho vay ưu đãi, chương trình công nghệ thông tin... mục đích của chương trình này là nhằm giúp các DNNQD có một lượng vốn cần thiết để thúc đẩy tự động hoá và HĐH, để cải tiến chất lượng và phát triển cơ sở hạ tầng... Có được cơ sở hạ tầng tốt thì hoạt động của các DN ở đây cao lên nhiều để từ đó NH tích cực mở rộng cho vay đối với DNNQD mà không ngại về điều kiện ban đầu.
ở CHLB Đức thì do phần lớn các DNNQD không đủ tài sản thế chấp để có thể nhận được khoản TD lớn bên cạnh các khoản TD ưu đãi nên nước này phát triển khá phổ biến các tổ chức bảo lãnh TD với sự hợp tác chặt chẽ của các Phòng thương mại, Hiệp hội DN, NH và Chính quyền Liên Bang. Vì thế các DNNQD ở CHLB Đức đã khắc phục được nhiều khó khăn trong huy động vốn, đồng thời các NH lại tăng dược doanh số cho vay với sự đảm bảo chắc chắn.
Còn ở Đài Loan, nhận thức được những khó khăn của các DNNQD trong việc thế chấp tài sản vay vốn NH nước này đã thành lập Quỹ bảo lãnh TD. Ngoài ra, Đài Loan còn mời các chuyên gia đến giúp DNNQD nhằm tối ưu hoá cơ cấu vốn và tăng cường các điều kiện vay vốn.
1.4.2. Những bài học rút ra từ kinh nghiệm.
Từ những kinh nghiệm của các nước, có thể rút ra một số bài học mà Việt Nam có thể vận dụng để phát triển DNNQD một cách có hiệu qủa, đó là:
- Chính phủ cần khẩn trương xúc tiến thành lập Cục phát triển DNNQD để tạo điều kiện đưa ra các chương trình trợ giúp, điều phối, hướng dẫn và kiểm tra tình hình giúp các DN phát triển.
- Cần phải bảo đảm cho khu vực KTNQD thực sự bình đẳng với các DNQD khi vay vốn NH. Nhà nước cần khuyến khích các NH có ưu đãi nhất định cho các DNNQD vay vốn, hoặc ít nhất cũng có sự bình đẳng về mặt thủ tục, thời gian vay và lãi suất vay giữa các DNNQD với các DNQD.
- Triển khai rộng rãi mô hình Quỹ bảo lãnh TD cho các DNNQD.
Tóm lại, tuy mỗi nước đều có đặc điểm và mức độ phát triển khác nhau, nhưng các DNNQD đều đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, tạo ra nhiều việc làm góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định xã hội .... cho đất nước. Chính vì vậy, sự tồn tại và phát triển của các DNNQD là một tất yếu khách quan và cần thiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. DNNQD góp phần to lớn đến sự phát triển ở nước ta, mà DNNQD lại cần vốn còn các NHTM lại có vốn. Vậy thì việc mở rộng TD đối với các DNNQD ở các NHTM vào thời điểm này là rất cần thiết và phù hợp với quy luật chung.
CHƯƠNG 2
tHựC TRạNG CHO VAY KINH Tế NGOàI
QUốC DOANH TạI SGDI - NHCTVN
2.1. Khái quát về SGDI - NHCTVN.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Từ Đại hội VI của Đảng, cùng với sự đổi mới của nền kinh tế, hệ thống NH đóng vai trò làm động lực cho sự phát triển cũng được đổi mới. Điều này được thể hiện bởi sự xuất hiện của Nghị định 53/HĐBT nay là Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là sự ra đời của hai Pháp lệnh NH năm 1990 - hình thành nên NH Chính sách và NH kinh doanh. Từ đây đã tạo ra một sự chuyển biến căn bản trong hệ thống NH Việt Nam - đó là việc chuyển đổi từ hệ thống NH một cấp sang hệ thống NH hai cấp.
Trước đây SGDI - NHCTVN là một bộ phận của hội sở chính NHCTVN. Theo Quyết định số134/QĐ-HĐQT-NHCT1 đến ngày 01/01/1999 SGDI tách khỏi Hội sở chính thành một đơn vị hạch toán phụ thuộc, hoạt động kinh doanh như các chi nhánh khác trên địa bàn Hà Nội.
SGDI - NHCTVN có trụ sở tại số 10 Lê Lai, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trụ sở đặt tại một quận trung tâm của Hà Nội, tập trung nhiều DN kinh doanh (cả DN tư nhân, DNQD, hộ gia đình), nhiều đầu mối thương mại, mặt bằng dân trí cao, rất nhạy cảm về kinh tế chính trị, thực sự là địa điểm thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Và cũng là quận có nhiều khu phố có hoạt động kinh doanh sầm uất như phố: Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc... có rất nhiều khách du lịch nước ngoài cũng như trong nước. Chính điều này đã tạo nhiều thuận lợi cho SGDI trong quá trình hoạt động như: có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh TD, thanh toán và các dịch vụ khác như dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ tư vấn, dịch vụ cầm cố tài sản... Tuy nhiên, SGDI cũng gặp nhiều khó khăn do trên địa bàn có hơn 70 NH cùng hoạt động nên sự cạnh tranh cũng rất lớn, đòi hỏi NH phải thường xuyên nỗ lực để đáp ứng nhu cầu thụ trường.
Mặc dù trong những năm đầu hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, SGDI còn gặp nhiều khó khăn do cơ sở vật chất nghèo nàn, kinh doanh đối nội là chủ yếu, sản phẩm dịch vụ đơn điệu... đội ngũ cán bộ đào tạo trong cơ chế bao cấp, đông về số lượng nhưng yếu về chất lượng - nhất là kiến thức về cơ chế thị trường. Tuy nhiên trong hơn mười lăm năm xây dựng và trưởng thành, trong suốt chặng đường đổi mới, các mặt hoạt động của SGDI cũng không ngừng được lớn mạnh cả về quy mô và tốc độ phát triển, đưa SGDI nhanh chóng trở thành một chi nhánh NHTM tiên tiến, hiện đại, đáp ứng tốt mọi nhu cầu phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của SGDI.
Tính đến năm 2003, SGDI có khoảng 228 nhân viên, hầu hết các cán bộ trong NH đều có kinh nghiệm lâu năm công tác, gắn bó với NH từ thời kỳ mới hoạt động. Trình độ cán bộ đã được nâng lên, 6,3% có trình độ thạc sỹ, 70% có trình độ Đại học và Cao đẳng, đội ngũ cán bộ ngày càng được đào tạo chuyên sâu, có nghiệp vụ giỏi, được đào tạo và trẻ hoá. Mỗi cán bộ NH đã chủ động, sáng tạo, phát huy cao độ tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, Ban lãnh đạo NH thường xuyên chú trọng nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo về mọi mặt. NH cũng luôn quan tâm đến công tác đào tạo, thường xuyên tổ chức các lớp học bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong NH. Đây chính là nhân tố có tính chất quyết định sự phát triển của SGDI.
Ngày 20/10/2003, Chủ tịch Hội đồng quản trị NHCTVN đã ban hành quyết định số 153/QĐ-HĐQT-NHCTVN1 về mô hình tổ chức mới của SGDI theo dự án hiện đại hoá NH. Cụ thể:
Cơ cấu tổ chức của SGDI - NHCTVN được thể hiện ở mô hình sau:
Ban giám đốc
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Kế toán giao dịch
Phòng Thông tin
điện toán
Phòng Khách hàng số 1 (DN lớn)
Phòng Tài trợ thương mại
Phòng Khách hàng cá nhân
Phòng Khách hàng số 2 (DN vừa và nhỏ)
Phòng Kế toán
tài chính
Phòng Tổng hợp tiếp thị
Phòng Tiền
tệ kho quỹ
Phòng Kiểm tra nội bộ
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh chủ yếu tại SGDI - NHCTVN.
Năm 2003, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển vững chắc, nhiều chỉ tiêu kinh tế tăng trưởng vượt kế hoạch đề ra. Tăng trưởng GDP đạt 6,9%, cao nhất so với cùng kỳ từ năm 1998 đến nay; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,7%; vốn đầu tư phát triển tăng 20,5%. Hoạt động kinh tế đối ngoại khá thuận lợi, giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng dẫn đến kim ngạch xuất khẩu tăng 32,6%.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan thì năm 2003 cũng có một số vấn đề đáng quan ngại. Trước hết là giá trị sản xuất công nghiệp tăng cao nhưng tăng nhiều ở những sản phẩm có tỷ lệ giá trị tăng thêm thấp và phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu như dệt may, giầy dép, lắp rắp hàng điện tử. Vốn đầu tư gia tăng nhưng hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp, giá vốn, giá bất động sản cao làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Nhập siêu giá tăng cả về kim nghạch và tỷ lệ, tăng 24,3% so với cùng kỳ năm 2002. Giá tiêu dùng có xu hướng giảm dần chỉ tăng 2,1% so với tháng 12 năm 2002.
Trên thị trường tài chính tiền tệ trong nước cũng có diễn biến không thuận. Lãi suất VND luôn có xu hướng gia tăng và đứng ở mức cao làm cho chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra thu hẹp, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh NH. Lãi suất ngoại tệ giảm thấp, chênh lệch lãi suất VND và ngoại tệ là rất cao dẫn đến hiện tượng hoán đổi tiền gửi từ ngoại tệ sang VND, trong khi người vay vốn lại thích vay ngoại tệ hơn vì lãi suất thấp làm cho việc điều hành vốn kinh doanh của NH gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù có những khó khăn, song được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của NHCTVN, NHNN Thành phố Hà Nội, Cấp uỷ, chính quyền và các cơ quan chức năng địa phương, sự hợp tác có hiệu quả của khách hàng, SGDI đã nỗ lực phấn đấu vươn lên để phát triển kinh doanh và đạt được một số kết quả tốt.
2.1.3.1. Công tác huy động vốn.
Khi NH chuyển sang hình thức tự hạch toán kinh doanh đòi hỏi phải tự cân đối nguồn vốn của mình bằng các chính sách thích hợp để huy động vốn bởi huy động vốn không chỉ là cơ sở tạo ra nguồn vốn để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ khác của NH mà còn giúp NH tăng tính chủ động trong kinh doanh đồng thời tạo nên sự độc lập tương đối với NHNN.
Nhận thức được điều này, SGDI đã có những biện pháp và phương thức hợp lý để huy động vốn từ các thành phần kinh tế, đảm bảo cho hoạt động của mình như tập trung mọi nỗ lực để khai thác nguồn vốn, thường xuyên khảo sát, nghiên cứu các hình thức huy động vốn, kỳ hạn, lãi suất của các NHTM trên địa bàn để xây dựng chiến lược huy động vốn có hiệu quả, lãi suất sát với mặt bằng lãi suất chung trên thị trường, đảm bảo hài hoà lợi ích của NH, khách hàng và có tính cạnh tranh. Chủ động tiếp cận và có kế hoạch làm việc với các đơn vị thường có số dư tiền gửi lớn tại SGDI, áp dụng chính sách ưu ._.khác đạt hiệu quả cao nhất.
- Ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh trong quá trình cho vay bằng các biện pháp sau:
+ Làm tốt khâu thẩm định dự án phát triển KTNQD trước khi cho vay, thẩm định tài sản thế chấp, thủ tục hồ sơ cho vay là những yếu tố cần thiết, song yếu tố quyết định chính là hiệu quả kinh tế của dự án xin vay chứ không phải là thủ tục pháp lý của hồ sơ TD hoặc tài sản thế chấp.
Nền kinh tế phát triển ngày càng cao tất yếu dẫn đến các doanh nghiệp phải mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, từ đó nhu cầu về vốn cũng tăng mạnh, và vốn vay NH là một trong những giải pháp hàng đầu cho việc đáp ứng này. Thực tế, ngày càng có nhiều dự án đầu tư mới, cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp gửi đến xin vay vốn. Việc thẩm định cho vay những dự án này là công việc vô cùng quan trọng và hết sức phức tạp. Điều này lại một lần nữa đặt ra vấn đề về trình độ thẩm định một dự án xin vay của bộ phận thẩm định. Vì vậy, cần điều tra xem xét kỹ hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư phát triển KTNQD để hoàn thành thủ tục vay là công việc quan trọng hàng đầu đối với cho vay KTNQD.
+ Tìm những hình thức thích hợp để nắm chắc đối tượng vay. Cán bộ TD cần theo dõi sát tình hình sử dụng vốn, thu nhập, trả nợ của DNNQD để có biện pháp tác động kịp thời, ứng phó linh hoạt với các DN vay vốn; ngoài ra, cần kết hợp với các TCTD khác để nắm thực trạng vay và sử dụng vốn vay, nợ quá hạn, thái độ đối với việc trả nợ vay của khách hàng.
+ Hỗ trợ các DNNQD giải quyết các khó khăn: Tư vấn cho các DN sử dụng vốn vay. Cùng các DN tìm các biện pháp giải quyết khó khăn trong kinh doanh. Đề nghị kịp thời tới cấp trên các trường hợp khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ, gia hạn nợ hợp lý khi có thiên tai, rủi ro xảy ra.
+ Tổ chức tốt việc thu hồi nợ quá hạn: Phân loại chính xác nguyên nhân nợ quá hạn và nguyên nhân không muốn trả nợ để có biện pháp xử lý hợp lý.
- Mở rộng cho vay khách hàng có tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay.
Theo Khoản 2 Điều 2 Chương 1 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP này 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay thì cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của TCTD mà theo đó, nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng hoặc bảo lãnh tài sản của bên thứ ba.
Trong nhiều trường hợp, NH yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận TD. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho NH do thu nhập từ hoạt động kinh doanh giảm sút mạnh. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho NH những tổn thất lớn.
Trong các hoạt động TD của NH thì chỉ có DNQD là có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp, còn 100% DNNQD khi vay vốn NH đều phải có tài sản đảm bảo, kể cả các DNNQD làm ăn rất tốt, có uy tín và phương án sản xuất đầu tư hiệu quả.
Tuy nhiên, không phải DNNQD nào cũng có khả năng đáp ứng được yêu cầu này, mà thậm chí xét cho cùng thì việc bảo đảm bằng tài sản cho món vay cũng chỉ mang tính an ủi tâm lý cán bộ TD khi mà họ quyết định cho vay, là phương án cuối cùng thu nợ mà thôi. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTNQD phát triển mà không có tài sản để thế chấp có được nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình, SGDI cần mở rộng cho vay bằng tài sản đảm bảo được hình thành từ nguồn tài trợ của SGDI. Đây là biện pháp cuối cùng để SGDI có thể mở rộng hoạt động TD của mình đối với KTNQD mà có thể hạn chế việc người vay bán tài sản hình thành từ vốn vay, hạn chế được tổn thất cho SGDI. Mặt khác, khi người vay không có khả năng trả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài sản thế chấp loại này không đảm bảo cho SGDI thu đủ gốc và lãi.
Đối với khách hàng vay: phải có tín nhiệm với NH, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ khả thi... Ngoài ra, đối với thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay hợp đồng phải được lập thành văn bản; có thể ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc lập thành văn bản riêng do các bên thoả thuận. Khi tài sản được hình thành và đưa vào sử dụng, các bên phải lập phụ lục hợp đồng thế tài sản hình thành từ vốn vay, trong đó mô tả đặc điểm, xác định giá trị tài sản đã được hình thành...
- Xử lý lãi suất cho vay.
Cùng với nguồn vốn, lãi suất là vấn đề cốt lõi thể hiện trong kết quả hoạt động NH. Nó phải được sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô của nền kinh tế và hoạt động NH. Xử lý lãi suất huy động và lãi suất cho vay là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp. Cái khó nhất hiện nay trong xử lý lãi suất NH là làm thế nào vừa đảm bảo tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường để SGDI thực hiện kinh doanh, vừa đảm bảo sự ưu tiên nhất định đối với khu vực KTNQD. Lãi suất huy động (đầu vào) phải đảm bảo sát với chỉ số giá cả thị trường có thể cạnh tranh và huy động được, còn lãi suất đầu ra phải tương đối thấp mới có tác động đến sự phát triển sản xuất (trong phạm vi giới hạn chấp nhận được) để SGDI đảm bảo có thu nhập. Vì vậy, lãi suất cho vay DNNQD nên xử lý theo các hướng như: Lãi suất phân chia theo từng khu vực, từng đối tượng vay, từng dự án theo nguyên tắc đối tượng nào, khu vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao thì lãi suất cho vay cao; cần thực hiện cơ chế thưởng lãi suất cho DNNQD nào trả nợ đúng hạn cả gốc và lãi nhằm khuyến khích các DN này sử dụng vốn đúng mục đích và trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
3.2.2.2. Tích cực cải cách thủ tục hành chính, tăng cường quản trị kinh doanh.
Quản trị điều hành phải được thực hiện bằng các công cụ: cơ chế chính sách, thông tin, thanh tra - kiểm tra. Mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh phải phù hợp với trình độ, năng lực quản lý, kiểm soát của bộ máy tổ chức, cán bộ và nhu cầu thực tế khách quan của thị trường, đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, đồng thời nâng cao vai trò tham mưu, tính tự chủ, năng động và tự chịu trách nhiệm của các bộ phận công tác.
Trong quá trình cho vay DNNQD, thủ tục hồ sơ đã có nhiều cải tiến song còn nhiều tồn tại cần giải quyết. Thủ tục phải đơn giản ở mức tối đa nhưng vẫn phải đảm bảo cơ sở pháp lý. Đây là một vấn đề khó, cần hoàn thiện dần, nhằm nâng cao năng lực quản lý phục vụ và tiện ích cho khách hàng. SGDI cần:
+ Tổ chức lại mạng lưới cho vay DNNQD.
Tổ chức mạng lưới NH phù hợp, bảo đảm gọn nhẹ, năng động, hiệu quả và thuận tiện là đòi hỏi khách quan. Nơi có môi trường kinh doanh cần phải có các Phòng giao dịch, Quỹ tiết kiệm để huy động vốn và cho vay vốn một cách nhanh chóng, kịp thời tới các DNNQD.
+ Hiện đại hoá công nghệ, phát triển dịch vụ NH.
Để phát triển các dịch vụ tiện ích cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của SGDI, đòi hỏi phải đổi mới công nghệ, trang bị thêm máy tính cùng các thiết bị đồng bộ, các phương tiện hiện đại như máy ATM, máy in sổ tiết kiệm... để đổi mới phương pháp giao dịch đảm bảo thuận tiện cho yêu cầu quản lý và phục vụ tại các đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng, bố trí lại nhân viên để tăng cường nhân viên TD cho vay các DNNQD.
3.2.2.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ.
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực thẩm định dự án.
Con người là yếu tố quyết định thành bại trong kinh doanh. Không thể tạo ra bước đột phá, giữ vững ổn định và phát triển nhanh nếu thiếu đội ngũ cán bộ có năng lực, bản lĩnh vững vàng, hết lòng tận tâm vì sự nghiệp chung. Do đó, trong chiến lược phát triển kinh doanh, chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phải được đặt lên hàng đầu và phải dành nhiều sự đầu tư thoả đáng cho công tác này. Hoạt động TD đòi hỏi một đội ngũ cán bộ TD không chỉ tinh thông nghề nghiệp mà còn có phẩm chất đạo đức. Cán bộ TD không chỉ nắm chắc thể lệ, chế độ của ngành mà phải am hiểu các lĩnh vực khác liên quan, nắm vững đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, hiểu biết luật pháp để vận hành tốt nghiệp vụ. Cần có chế độ thưởng phạt nghiêm minh, xử lý thích đáng những cán bộ TD cố ý làm sai, phát động phong trào thi đua, có khen thưởng kịp thời các điển hình, tiên tiến - từ đó động viên người lao động hăng say công việc và đạt kết quả tốt.
Mọi nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng TD không phải đổ lỗi hết cho khách quan, mà điều quan trọng trước hết, đầu tiên tác động đến chất lượng TD là con người, là những cán bộ TD trực tiếp liên quan đến những khoản đầu tư, những người thẩm định đến chất lượng TD. Chính vì con người có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng TD, cho nên mỗi NH không thể không từng bước nâng cao chất lượng cán bộ, không ngừng bồi dưỡng nghiệp vụ, chấn chỉnh tư tưởng, đạo đức.
Ngoài vấn đề về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, đòi hỏi cán bộ TD cần phải có những kỹ năng sau:
- Kỹ năng bán hàng: đòi hỏi cán bộ TD phải có những kỹ năng nhất định về Marketing để thu hút khách hàng, nắm vững nghiệp vụ TD để cho vay được nhiều, với chất lượng tốt.
- Kỹ năng tìm hiểu điều tra: kỹ năng này yêu cầu cán bộ TD phải biết cách thu thập và khai thác thông tin có ích từ khách hàng và từ các nguồn khác.
- Kỹ năng phân tích: đòi hỏi cán bộ TD phải biết nhận định, đánh giá tình hình có cơ sở khoa học, từ đó rút ra được những rủi ro có thể gặp phải khi đặt quan hệ tín dụng dưới hình thức văn bản có tính thuyết phục để trình lên xin ý kiến chỉ đạo.
- Kỹ năng đàm phán với khách hàng: cán bộ TD phải biết thương lượng với khách hàng, về các vấn đề có liên quan tới việc tuân thủ các điều khoản đã quy định trong chế độ, thể lệ cho vay, để khoản vay được tiến hành trong điều kiện thuận lợi nhất.
Trên cơ sở những yêu cầu đòi hỏi đó, SGDI cần rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại để bổ sung những mặt còn thiếu, còn yếu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục tình trạng bất cập về trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của cán bộ TD, nhất là số cán bộ do sắp xếp lại tổ chức đang làm các nghiệp vụ khác chuyển sang làm tín dụng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà lựa chọn hình thức đào tạo.
Cần phải khẳng định rằng phát triển hoạt động đào tạo có hiệu quả là yếu tố quyết định trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mỗi NH. Đồng thời để đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, hoạt động đào tạo ngày nay không chỉ đào tạo, đào tạo lại, cập nhật kiến thức kỹ năng các sản phẩm dịch vụ mới hiện đại mà còn phải có chiến lược cụ thể để đào tạo được nhiều nhân lực có trình độ cao, đáp ứng được yêu cầu hội nhập theo phương châm “đi trước đón đầu”. Vì vậy yếu tố hợp tác đào tạo cần được đẩy mạnh. Chỉ có vậy mới tiếp cận được khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại, kinh nghiệm quản lý điều hành... Hợp tác có thể được thực hiện trong nước như NH có thể hợp tác với các trường đại học và các Trung tâm đào tạo về tài chính NH để giao lưu trao đổi phương pháp, kỹ năng dạy và học, cập nhật được những kiến thức kỹ năng hiện đại, ngoài ra có thể hợp tác đào tạo khu vực và quốc tế...
Nhiều năm qua, việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên của SGDI đã có những bước chuyển biến rõ rệt, phần nào đáp ứng được yêu cầu phát triển trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sự biến đổi đó vẫn còn chậm so với sự biến đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ NH cùng các công cụ quản lý mới hiện đại. Vì vậy mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, văn hoá giao tiếp và kỹ năng quản lý điều hành đang là vấn đề bức bách, là chiến lược ưu tiên hàng đầu của NHCTVN nói chung và của SGDI nói riêng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đã đề ra.
SGD có đội ngũ cán bộ công nhân viên đông đảo, không thể đào tạo được hết trong một thời gian ngắn mà phải có quá trình, có bước đi thích hợp, nhưng phải hết sức cấp bách. Có như vậy SGDI mới nhanh chóng trở thành một chi nhánh NHTM hiện đại, có vai trò chủ đạo, chủ lực trong hệ thống NHCTVN, góp phần nâng cao vị thế của NHCTVN trên thị trường trong nước và quốc tế và đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan chức năng.
Để giúp các NHTM mở rộng hoạt động cho vay đối với khu vực KTNQD thì Chính phủ cần phải đề ra các biện pháp để thúc đẩy các thành phần KTNQD phát triển nhằm tạo ra được một đối tượng khách hàng rộng lớn và an toàn cho các NHTM để các NH này có thể yên tâm đầu tư. Muốn vậy, Chính phủ và các cơ quan có chức năng cần phải có các biện pháp sau:
Trong khi các nước láng giềng như Trung Quốc và các nước thuộc khối ASEAN đang ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lý với nỗ lực tạo ra sân chơi bình đẳng giữa DNQD và DNNQD thì hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam còn chồng chéo, thiếu minh bạch và thiếu ổn định, các thủ tục về thuế và hành chính tuy đã được cải thiện song vẫn còn phức tạp. Vì vậy phải tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước đã ban hành liên quan đến việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động cạnh tranh lành mạnh; tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý theo hướng nâng cao vai trò tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao hơn trong kinh doanh của các NHTM; cụ thể hoá và thể chế hoá các biện pháp khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động NH.
ở điều kiện nước ta hiện nay việc xây dựng các văn bản, bộ luật dành riêng cho các DNNQD đặc biệt là các DN vừa và nhỏ là hết sức cần thiết. Trước mắt, phải có sự hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan tới loại hình DN này và giám sát thật kỹ quá trình áp dụng của các cơ quan chức năng. Về lâu dài cần phải xây dựng một bộ luật DN vừa và nhỏ trong đó quy định về: tư cách pháp nhân, ngành nghề kinh doanh, các chính sách khuyến khích bảo hộ... Đồng thời trong quá trình xây dựng Luật phải tiến hành song song với việc xây dựng các văn bản thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngay vào cuộc sống. Các văn bản phải được đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các DN yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Hướng dẫn các DN phát triển kinh doanh theo Pháp luật, tạo điều kiện cho các DN hiểu pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, nhanh chóng đưa pháp luật vào cuộc sống; đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các DN. Bên cạnh đó cũng phải xử lý nghiêm và kịp thời những DN cố ý kinh doanh trái pháp luật, cùng với việc sử dụng biện pháp kinh tế để xử lý những hành vi vi phạm đó. Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ tín dụng giữa NH với DNNQD khi xảy ra các tranh chấp do DN không trả được nợ cho NH.
Chính phủ có biện pháp thúc đẩy cổ phần hoá các DNNN có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng, tạo ra sự đột phá tăng tốc, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN, thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, muốn phát triển nhanh và bền vững khu vực tư nhân phải phát triển mạnh khu vực KTQD, đặc biệt nên tập trung cho các DN lớn làm mũi nhọn, làm đầu tàu cho nền kinh tế, yểm trợ cho các DN nhỏ của khu vực tư nhân là một điều rất quan trọng.
Chính phủ thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB... về cải tổ DNNN, chống bao cấp, bảo trợ quá mức cho DNNN, thúc đẩy phát triển DNNQD.
Do vốn và tài sản của DNNQD không lớn, nên mức độ đảm bảo an toàn cho các khoản vay không cao, các NHTM thường ngại cho các DNNQD vay vốn. Để khuyến khích các NHTM cho DNNQD vay vốn, Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp như hỗ trợ lãi suất đối với các khoản cho vay đối với các DNNQD, giảm thuế thu nhập DN nếu NH cho vay đối với các DNNQD đạt được một tỷ lệ nhất định trong tổng TD của NH.
Chính phủ cần sớm thành lập các tổ chức định mức tín dụng đối với các DN, trong đó có các DN loại vừa để làm cơ sở cho việc đầu tư vốn. Quy chế cho vay và nghị định đảm bảo tiền vay cần chú ý tới nhu cầu, khả năng, thực trạng của các DNNQD để có tín dụng phù hợp đối với họ, nhất là hình thức tín dụng trung và dài hạn.
Chính phủ cần có chính sách xử lý rủi ro đối với các NH cho vay vốn DNNQD, bình đẳng đối với các DN như: khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ, ưu đãi lãi suất...
Trước đây cơ quan công chứng Nhà nước không chịu chứng nhận cho các NHTM trong việc chủ động bán tài sản, bởi vì yêu cầu việc bán tài sản phải thông qua Trung tâm đấu giá. Đến nay vướng mắc này đã được giải toả, không bắt buộc phải qua Trung tâm do Bộ Tư pháp và NHNN có hướng dẫn cụ thể thì lại gặp rắc rối mới, đó là Sở Địa chính - Nhà đất không cho chuyển tên sở hữu tài sản. Vì vậy, đối với việc xử lý tài sản cầm cố thế chấp, Sở Địa chính - Nhà đất khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các giao lưu dân sự nói chung và điều kiện cho thế chấp tài sản nói riêng. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xử lý tài sản thế chấp, đề nghị UBND và cơ sở ban ngành của Thành phố tạo điều kiện hỗ trợ NH trong việc hợp pháp hoá các tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ, hỗ trợ khi kê biên và đấu giá tài sản. Bên cạnh đó, các cơ quan pháp luật, công an, viện kiểm soát, toà án tạo điều kiện cho NH thu giữ tài sản thế chấp, giải quyết nhanh các vụ án để thu hồi vốn cho NH.
Để giúp các DN có dự án khả thi cần vốn tín dụng đầu tư song thiếu một phần thế chấp, bảo lãnh theo hợp đồng vốn vay, nhanh chóng đưa Quỹ bảo lãnh cho DN vừa và nhỏ đi vào hoạt động. Mục đích của Quỹ là để bảo lãnh một phần, nhằm hỗ trợ cho các DN tiếp cận được các khoản vay ngắn, trung và dài hạn tại các TCTD thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh TD; đồng thời chia sẻ rủi ro giữa Quỹ bảo lãnh tín dụng và DN với TCTD khi gặp rủi ro bất khả kháng không trả được nợ vay. Hình thành Quỹ tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu. Chính phủ cần hỗ trợ cho các DN thuộc thành phần KTNQD thực hiiện nhanh quá trình đổi mới như: tiếp nhận thông tin và công nghệ mới hiện đại, hướng dẫn cải tiến công nghệ kỹ thuật truyền thống, hỗ trợ vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để có thể tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ. Đồng thời giúp các DN lựa chọn cho mình những máy móc thiết bị công nghệ phù hợp. Ngoài ra, trong điều kiện nước ta hiện nay, bên cạnh việc đầu tư kỹ thuật công nghệ mới để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thì các DN cần lưu ý khai thác các kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động, kết hợp với việc cải tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Chính phủ cần trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo lại nguồn lao động có trình độ, đặc biệt là tư vấn, đào tạo cán bộ có trình độ quản lý tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Chính phủ cần phải quan tâm hơn nữa hoạt động của các trung tâm thông tin, trung tâm xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin cho các DN tư nhân về các lĩnh vực sản phẩm, thị trường, chiến lược ngoại thương... Việc cung cấp thông tin cần thiết cho các DN thuộc thành phần KTNQD là hết sức cần thiết, thông tin cung cấp phải được chọn lọc, cập nhật thường xuyên; đồng thời xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các DNNQD, giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập DN.
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ các DN tiếp cận với thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ hỗ trợ bằng các chính sách thuế quan ưu đãi để kinh tế tư nhân phát triển, đó là điều rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp kích cầu của Chính phủ cần được tiếp tục đẩy mạnh để giúp tháo gỡ những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho khu vực kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, nhập lậu, chống hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu, mẫu mã...
Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc quyền của các DNNN. Bên cạnh đó, phải có sự hoàn thiện hơn nữa đối với một số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách thương mại và công nghiệp, chính sách thuế, chính sách đầu tư... nhằm tạo điều kiện cho các DNNQD phát triển mạnh mẽ, ổn định và đúng hướng đồng thời tạo ra một sân chơi bình đẳng đối với mọi loại hình DN thuộc mọi thành phần kinh tế.
3.3.2. Kiến nghị đối với NHCTVN.
NHCTVN là cơ quan chủ quản của SGDI do đó cần phải tạo điều kiện giúp SGDI trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy mặt mạnh để cùng hệ thống phát triển. Để làm được vấn đề đó cần thực hiện các nội dung sau:
Tổ chức giải quyết nhanh, rõ ràng các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của SGDI như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư... Sửa đổi cơ chế, chính sách cho vay, bảo lãnh phù hợp với NHNN theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hệ thống NHCTVN nói chung và SGDI nói riêng.
Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, của các nước khác, hỗ trợ SGDI về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động NH theo lộ trình quốc tế; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ NH; trang bị công nghệ NH hiện đại.
Mở rộng hình thức TD thuê mua và cung cấp các khoản TD trung, dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các DNNQD mới khởi sự hoặc đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Đơn giản hoá các thủ tục NH trong việc cho vay, đặc biệt là các khoản cho vay trung và dài hạn bị quy định bởi các thủ tục rườm rà, phức tạp làm cho chi phí giao dịch tăng cao.
Hỗ trợ SGDI trong việc lắp đặt thêm trang thiết bị hiện đại cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy ATM, nối mạng trong toàn bộ hệ thống NH... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ NH cho cán bộ nhân viên trong SGDI. Phải có chiến lược đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo lại cán bộ về chuyên môn, chính trị, trình độ ngoại ngữ và tin học, ý thức trách nhiệm để xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng đủ đức đủ tài, tinh thông nghề nghiệp.
Thường xuyên hỗ trợ SGDI tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm bắt được các thông tin về tình hình hoạt động của NH, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm, kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động.
Cần có chính sách khen thưởng hợp lý đối với những chi nhánh làm ăn có hiệu quả, huy động được nguồn vốn lớn và hoạt động tín dụng không làm thiệt hại đến lợi nhuận của NH. Đồng thời cần sớm nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách, chế độ, thể lệ làm việc, nghĩa vụ quyền lợi của đội ngũ cán bộ TD, có chính sách ưu đãi cán bộ về thu nhập, đi lại. Thường xuyên quan tâm đến việc động viên khen thưởng cho đội ngũ cán bộ TD giỏi để có cơ sở đề nghị xét chọn, khen thưởng hàng năm. Rõ ràng là quyền lợi vật chất cũng là một vấn đề cần phải quan tâm xem xét, nhất là trong điều kiện săn lùng chất xám hiện nay, để có thể khuyến khích động viên kịp thời những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm, gắn bó thuỷ chung với NH.
Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin TD nhằm ngày càng nâng cao chất lượng TD, giúp SGDI phòng ngừa rủi ro.
NHCTVN cần nâng cao hơn nữa hiệu suất sử dụng các phần mềm tin học trong công tác kế toán, đào tạo cán bộ kế toán có trình độ, khai thác các phần mềm ứng dụng nghiệp vụ và đáp ứng yêu cầu thông tin báo cáo đảm bảo nhanh chóng chính xác, hiệu quả cao.
Thực hiện tốt công tác chỉ đạo điều hành từ Trung ương xuống các NH cơ sở; tuân thủ đúng từ việc thẩm định các dự án, tổ chức kiểm tra đến việc quy định cụ thể về chế độ thông tin kiểm tra, chế độ thông tin thống kê, tổng kết, kiểm tra.
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống NH nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời các các sai sót, phòng ngừa rủi ro.
Hiện nay, xu thế hội nhập và hợp tác trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ngày càng trở nên rõ nét và cần thiết. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngành NH đang đứng trước những cơ hội mới của quá trình hội nhập, nhưng bên cạnh đó, cũng đứng trước nhiều thách thức gay gắt từ bên ngoài.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM của Việt Nam sẽ đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn của các NH nước ngoài với rất nhiều thế mạnh vượt trội so với hệ thống NHTM trong nước. Cụ thể nhất là tiềm lực về tài chính với số vốn điều lệ lên tới hàng trăm triệu USD thậm chí lên tới hàng tỷ USD. Chúng ta cũng sẽ phải cạnh tranh gay gắt với các NH nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động lâu năm, có trình độ quản lý rất chặt chẽ và khoa học với nhiều dịch vụ NH đa dạng, phong phú và hiện đại. Do vậy, việc nâng cao năng lực về tài chính và trình độ công nghệ, quản lý... là công việc cấp bách mang tính sống còn của các NHTM trong nước, đặc biệt là hệ thống NHTM Nhà nước. Nếu các NHTM trong nước không kịp đổi mới để phát triển thì chúng ta sẽ đánh mất khả năng cạnh tranh trên chính thị trường trong nước, vai trò là “bà đỡ” của nền kinh tế của các NHTM trong nước nói chung và các NHTM nói riêng sẽ trở nên mờ nhạt và không phát huy tác dụng, thậm chí sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Hi vọng với chính sách thông thoáng của Nhà nước, cùng với sự phối hợp của các Bộ ngành, NHNN ban hành chính sách tín dụng, tiền tệ riêng cho khu vực KTNQD và các NHTM chủ động tiếp cận, khai thác, mở rộng hoạt động trong khu vực này sẽ góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy phát triển KTNQD... và các hoạt động trong lĩnh vực NH cũng ngày càng đa dạng, chiếm lĩnh thị phần ngày càng cao với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo được khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập hiện nay.
Trên đây là những giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy và phát triển KTNQD. Tuỳ từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế mà có những giải pháp và kiến nghị hữu hiệu với thực tiễn hoạt động NH. Hy vọng rằng với gì đã đề cập ở trên tuy không phải là tuyệt đối nhưng cũng phần nào giúp thêm cho SGDI - NHCTVN trong việc thúc đẩy phát triển KTNQD nhằm không ngừng đưa khu vực KTNQD ngày càng đi lên theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
Kết luận
Thực tế đã chứng minh vai trò của KTNQD là không thể phủ nhận, đặc biệt trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Sự phát triển của khu vực kinh tế này góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung và của hệ thống NHTM nói riêng. Đồng thời các NHTM cũng đóng góp một vai trò rất lớn vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Trong tương lai khu vực KTNQD sẽ là thị trường đầy tiềm năng mà NH cần phải khai thác. Mở rộng hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh vừa là nhiệm vụ vừa là quyền lợi của NH cũng như là xu thế tất yếu của kinh tế thị trường. Trong những năm gần đây, SGDI với vai trò trung gian dẫn vốn đã mặn mà hơn đối với cho vay ngoài quốc doanh song dư nợ vẫn còn hạn chế, một phần do các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước và của ngành NH còn nhiều bất cập, bản thân SGDI vẫn còn rất e dè khi cho vay.
Từ việc phân tích tình hình thực tế hoạt động cho vay KTNQD tại SGDI - NHCTVN, Khoá luận đã tập trung giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
1. Khoá luận đã tổng hợp những cơ sở luận về TD NH và mở rộng TD NH đối với việc phát triển khu vực KTNQD từ đó làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan của vấn đề mở rộng TD của SGDI đối với khu vực KTNQD. Khoá luận đã tổng kết những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để từ đó rút ra mhững bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong quá trình mở rộng TD đối với khu vực KTNQD ở Việt Nam.
2. Khoá luận đã phân tích thực trạng về KTNQD ở Việt Nam cũng như thực trạng tín dụng đối với khu vực KTNQD tại SGDI - NHCTVN, chỉ ra những kết quả, tồn tại cùng nguyên nhân của tồn tại. Việc khắc phục những nguyên nhân đó sẽ cho phép SGDI hạn chế những tồn tại để tiếp tục mở rộng tín dụng nói chung cũng như đối với khu vực KTNQD nói riêng.
3. Trên cơ sở phân tích thực trạng để khắc phục những tồn tại, bản Khoá luận đã đưa ra được các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng TD của SGDI đối với sự phát triển KTNQD.
Với kết quả của bản Khoá luận này bản thân em hi vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào việc giải quyết những khó khăn của thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất phức tạp và rộng lớn, trong khi đó thời gian thực tập cũng như khả năng nhận thức, khả năng tìm hiểu thực tế của bản thân còn có những hạn chế nhất định vì vậy bản Khoá luận này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết. Bản thân em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô và cơ quan thực tế cùng với bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn NCS. Nguyễn Thị Thanh Sơn, người hướng dẫn thực hiện cùng các cán bộ của SGDI - NHCTVN đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện trong thời gian thực tập để hoàn thành bản Khoá luận này.
Danh mục các tài liệu tham khảo
Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002 và năm 2003 của SGDI - NHCTVN
Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ
TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo
Ngân hàng thương mại - Eward W.Read & E.K.Gill
Tiền tệ, Ngân hàng & Thị trường Tài chính - Frederic S.Mishkin
Quản trị Ngân hàng thương mại - Peter S. Rose
Tạp chí Ngân hàng
Tạp chí kinh tế phát triển
Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ
Tạp chí Thông tin Ngân hàng Công thương Việt Nam
Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng tháng 1/1998
Và một số Khóa luận khác
Bảng ký hiệu các chữ viết tắt
SGDI - NHCTVN : Sở Giao Dịch I - Ngân hàng
Công thương Việt Nam
Nh : Ngân hàng
Nhnn : Ngân hàng Nhà nước
Nhtm : Ngân hàng thương mại
Tctd : Tổ chức tín dụng
Tckt : Tổ chức kinh tế
Tnhh : Trách nhiệm hữu hạn
Htx : Hợp tác xã
Dn : Doanh nghiệp
Dnnn : Doanh nghiệp Nhà nước
Dnqd : Doanh nghiệp quốc doanh
Dnnqd : Doanh nghiệp quốc doanh
Ktqd : Kinh tế quốc doanh
Ktnqd : Kinh tế ngoài quốc doanh
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
Cnh, hđh : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Td : Tín dụng
Td nh : Tín dụng Ngân hàng
Danh mục các bảng, biểu
Ký hiệu
Nội dung bảng, biểu
Trang
2.1
Hoạt động huy động vốn tại SGDI – NHCTVN
37
2.2
Hoạt động tín dụng của SGDI
41
2.3
Tỷ lệ nợ quá hạn tại SGDI – NHCTVN
45
2.4
Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ đối với KTNQD
49
2.5
Tình hình tín dụng đối với các DNNQD từ 2001 - 2003
50
2.6
Tình hình thu nợ ngoài quốc doanh theo thời gian
52
2.7
Nợ quá hạn phân theo thành phần kinh tế
54
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0333.doc