Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa & nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Nguyên

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế hiện nay, các DNVVN là một tế bào không thể thiếu bởi nó ngày càng có nhiều của cải đóng góp cho xã hội. Kinh nghiệm thực tế của một số nước trên thế giới cho thấy việc phát triển DNVVN sẽ tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, nguồn công nghệ... Tạo ra nhiều của cải vật chất, phân phối lưu thông giúp nền kinh tế ổn định, đứng vững khi mà chu kì khủng khoảng và suy thoái trên thế giớ

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa & nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i đang ngày càng có xu hướng ngắn lại. Những nước có nền kinh tế phát triển mạnh thì tỉ lệ DNVVN chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Cụ thể như ở Mỹ, DNVVN chiếm 90% tổng số hãng kinh doanh có thuê công nhân, thu hút 52% lao động, chiếm 31% kim nghạch xuất khẩu hàng hoá (năm 2000). Còn ở Nhật theo số liệu năm 1998 DNVVN chiếm 99.7% tổng số DN cả nước, sử dụng 70% lao động, tạo ra 40% doanh thu và 60% giá trị gia tăng toàn khu vực nông nghiệp... Như vậy loại hình DNVVN đã rất phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới, ở Việt Nam trước đây loại hình doanh nghiệp này chưa thực sự được đầu tư quan tâm. Nhưng trước nhu cầu phát triển của đất nước cũng như quá trình hội nhập với trong khu vực và trên thế giới thì vai trò của DNVVN đã phát huy tác dụng. Nhận thức được tầm quan trọng đó Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tạo điều kiện cho DNVVN phát triển. Hiện nay nước ta có khoảng 70% đến 80% DNVVN trong tổng số các doanh nghiệp và hàng năm các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 25% GDP cho ngân sách Nhà Nước . Với đường lối đổi mới kinh tế và định hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhất là DNVVN. Do xuất phát điểm của nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu thị trường vốn kém phát triển nên gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các nguồn vốn mở rộng phát triển sản xuất. Bên cạnh đó nhiều DNVVN chưa đủ uy tín để vay vốn, lại chưa có chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh nghiệp này. Vì thế Nhà Nước cũng như bản thân các doanh nghiệp phải tìm ra những giải pháp thích hợp để đẩy lùi khó khăn Một trong những yếu tố đầu tiên để cho DNVVN phát triển là nhu cầu vốn, ngoài nguồn vốn tự có nhỏ bé doanh nghiệp cần đượchỗ trợ từ các nguồn bên ngoài nhất là nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Nhưng có một thực tế là có những doanh nghiệp vay vốn ngân hàng song lại sử dụng không có hiệu qủa, vì thế mà việc tìm ra giải pháp tín dụng đối với DNVVN đang là mối quan tâm đặc biệt của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu về Chi nhánh NHCT Thái Nguyên em đã chọn đề tài: ‘‘Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Nguyên”. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá một cách tổng quát thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN tại Thái Nguyên và hoạt động đầu tư tín dụng của chi nhánh NHCT Thái Nguyên cho loại hình doanh nghiệp này. Đồng thời đề tài cũng đưa ra một số giải pháp tín dụng nhằm góp phần phát triển DNVVN trên địa bàn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động tín dụng cho các DNVVN của Chi nhánh NHCT Thái Nguyên, phạm vi nghiên cứu và số liệu thu thập từ Chi nhánh NHCT Thái nguyên trong thời gian năm 2001, 2002, 2003. 4 Phương pháp nghiên cứu Trong qúa trình nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và giải thích thực tiễn như phương pháp: biện chứng duy vật, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế… 5. Kết cấu đề tài Tên đề tài: “Giải pháp tín dụng nhằm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng công thương Thái Nguyên” - Phần mở đầu - Phần nội dung. Trong phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng đầu tư tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Thái Nguyên. Chương 3: Giải pháp tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng công thương Thái Nguyên - Phần kết luận Chương 1 DOANH NGHIệP vừa Và NHỏ - Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.1 Vị trí và vai trò của Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế 1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp là một tổ chức hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế, nhưng để đưa ra một khái niệm cụ thể về doanh nghiệp thì lại có nhiều quan điểm khác nhau. Theo DLarue-Acitlat: “doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất và là một đơn vị phân phối… doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục tiêu và quản lý theo hướng tạo ra lợi nhuận hùng mạnh, vĩnh cửu...” (Kinh tế nông nghiệp- NXB Khoa học kỹ thuật 1994). Còn theo Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam: ‘‘Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng kí kinh doanh theo qui đinh của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh” Như vậy doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức hoạt động kinh tế có tư cách pháp nhân, được thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định với mục đích thu được lợi nhuận hoặc công ích. Trong nền kinh tế thi trường có rất nhiều doanh nghiệp ta có thể phân theo một số các tiêu thức: - Theo qui mô sản xuất hoạt động: doanh nghiệp qui mô lớn, doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ - Theo cấp quản lý: doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp điạ phương, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp. Theo ngành kinh tế kỹ thuật: doanh nghiệp nghành công nghiệp, doanh nghiệp ngành thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp ngành nông- lâm nghiệp, doanh nghiệp ngành tài chính, doanh nghiệp ngành phi tài chính. DNVVN là một trong số các doanh nghiệp được phân loại theo tiêu thức trên, nó đang tồn tại và phát triển rộng trong nền kinh tế thị trường. DNVVN cũng mang những đặc điểm chung giống như các loại hình doanh nghiệp khác nhưng lại có những đặc điểm riêng mà chỉ có ở những doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Vậy doanh nghiệp thế nào là được coi là DNVVN, tuỳ vào điều kiện của từng nước khác nhau thì đưa ra các khá niệm khác nhau. Nhưng để căn cứ chính xác thường phải dựa vào vốn tự có, số người lao động làm việc trong doanh nghiệp, giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp…Như theo quan điểm của Mỹ mức lợi nhuận hàng năm dưới 150.000 USD được coi là DNVVN, theo quan điểm của Thái Lan doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200 lao động, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có dưới 50 lao động. Còn ở Việt Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 23/11/2001 thì DNVVN được hiểu: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo nghị định này thì DNVVN sẽ bao gồm các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp, các hợp tác xã hoạt động theo luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể. 1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những đặc trưng vốn có của một doanh nghiệp thì nó cũng mang những đặc trưng riêng xuất phát từ chính khái niệm của nó. Một là: Vốn tự có thấp không quá 10 tỷ đồng, chu kỳ kinh doanh ngắn nên các doanh nghiệp này có thời gian hoàn vốn ngắn hơn nhiều so với các tổ chức kinh tế có qui mô lớn Hai là: Những DNVVN sản xuất thường không có tính ổn định trên thị trường, nên cơ cấu mặt hàng sản phẩm dịch vụ thường xuyên thay đổi và không lớn về số lượng. Ba là: Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, các mối quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh, vì thế có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với biến động của nền kinh tế. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ giữa người quản lý và người lao động thường rất chặt chẽ. Bốn là: Ngành nghề hoạt động của DNVVN rất đa dạng và phong phú nhờ vậy mà việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp ngân hàng phân tán rủi ro hoặc gây rủi ro nhưng biến động không nhiều đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Năm là: Tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn doanh nghiệp lớn nên hiệu suất làm việc cao hơn. Sáu là: Khả năng cạnh tranh của những doanh nghiệp này còn thấp do hạn chế vốn, trình độ công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thị trường kém. Đây chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho các DNVVN vay vốn. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt, nhạy bén thích ứng nhanh với sự biến động trên thị trường và thường các DNVVN rất dễ đáp ứng được các yêu cầu đó . Vì thế loại hình doanh nghiệp này ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là ở nước ta khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng lực lượng lao động dồi dào môi trường kinh doanh lại đang được Đảng và Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi Một là: DNVVN góp phần thu hút tối đa mọi nguồn lực trong dân, giải quyết nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế: Với qui mô tổ chức gọn nhẹ đa rạng nhiều nghành nghề đã thu hút được nhiều lao động, giải quyết được tình trạng thất nghiệp và tận dụng tốt sự bỏ ngỏ một số nghành kinh tế mà các doanh nghiệp lớn chưa kinh doanh hoặc không đủ sức đảm trách vì đó không phải là nghành có tầm quan trọng sống còn đối với nền kinh tế . Theo thống kê DNVVN thu hút khoảng 64,8% lực lượng lao động mỗi năm (Thông tin NHCTVN-số 1/2004). Như vậy các DNVVN đã điều tiết phân giải lực lượng lao động trên các khu vực còn nhiều “khoảng trống”, góp phần giãn cách điều hoà nhu cầu lao động tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế. Trình độ của lực lượng lao động ở nước ta còn thấp ,tiềm năng phát triển của nền kinh tế lại lớn .Vì vậy chỉ có các DNVVN mới có thể thực hiện tốt điều đó. Hai là: DNVVN tạo thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động và cải thiện đời sống dân cư: Do có lợi thế là chỉ cần một số vốn nhỏ cũng có thể thành lập được doanh nghiệp chính điều đó thể hiện tính năng động tính linh hoạt cao, có khả năng thích ứng với nhu cầu thay đổi thường xuyên của người tiêu dùng nên DNVVN trong những năm qua phát triển khá nhanh. Sau 4 năm thi hành Luật doanh nghiệp ở Việt Nam đã có gần 73.000 doanh nghiệp mới đăng ký với số vốn hơn 145.000 tỷ đồng. Đến nay cả nước đã có hơn 120.000 doanh nghiệp, 15.000 hợp tác xã, 13.000 trang trại và gần 3.000.000 hộ kinh doanh cá thể, trên 10.000.000 hộ nông dân sản xuất hàng hoá. Đây là lực lượng đóng góp to lớn vào sự phát triển tăng trưởng cuả nền kinh tế tạo ra 25% GDP của cả nước mỗi năm (thông tin NHCTVN-1/2004). Đời sống của người lao động được cải thiện, kỹ thuật sản xuất của DNVVN chủ yếu là trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, chế biến nông lâm sản... nên có khả năng thu hút nhiều lao động tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội và tăng thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao động. Trong khi các doanh nghiệp lớn kỹ thuật sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, nhất là đối với các doanh nghiệp tự động hoá làm cho số người thât nghiệp ngày càng tăng phát sinh nhiều tiêu cực xã hội Như vậy DNVVN cũng là một nguồn thu thêm cho ngân sách Nhà nước bởi số lượng doanh nghiệp ngày càng đông , giá trị kinh tế tạo ra ngày càng nhiều, giải quyết tốt công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay của nước ta do hạn chế về vốn kỹ thuật vì vậy Nhà nước cần phải có các chính sách thích hợp tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ba là: DNVVN đáp ứng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú và đa dạng, và tham gia vào quá trình lưu thông . DNVVN đáp ứng ngày càng tích cực nhu cầu hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Bởi có những mặt hàng mà người tiêu dùng có nhu cầu ít, cá biệt song chất lượng, chủng loại, mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được nhưng DNVVN do có qui mô sản xuất nhỏ nên có khả năng điều chỉnh sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Nên hàng năm giá trị sản xuất của DNVVN luôn chiếm tỉ trọng khoảng hơn 50% tổng giá trị sản xuất của tổng các doanh nghiệp cả nước. Trong quá trình tái sản xuất hàng hoá từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng phải trải qua khâu trung gian, đó là khâu lưu thông do các cửa hàng bán buôn, bán lẻ đảm nhận. Với lợi thế sẵn có DNVVN đã thực hiện vai trò này rất tốt vì hệ thống cửa hàng kinh doanh thương mại dịch vụ vừa và nhỏ đặt ở khắp các đường phố, các khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư có thể đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng. Có thể nói rằng DNVVN ngày càng tham gia tích cực vào các mối quan hệ kinh tế của xã hội, chiếm tỉ trọng về số lượng, giá trị sản xuất tạo ra ngày càng nhiều. Từ đó cho thấy sự quan tâm tạo điều kiện từ phía Nhà Nước, ngân hàng về vốn, hệ thống luật, môi trường kinh doanh là rất cần thiết cho các DNVVN. Bốn là: DNVVN có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương và khai thác thế mạnh tiềm năng của từng vùng: Xuất phát từ lợi thế qui mô vừa và nhỏ dễ thuận lợi cho việc thành lập ở mọi nơi nên tuỳ vào từng đặc điểm của từng loại lãnh thổ, thì có các DNVVN kinh doanh sản xuất các mặt hàng khác nhau để phục vụ người tiêu dùng và kiếm lợi nhuận cho mình từ các tiềm năng thế mạnh của vùng . Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất đa dạng nên các DNVVN ở từng địa phương sản xuất và kinh doanh những mặt hàng cũng khác nhau. Chính nhờ đặc điểm này mà DNVVN đã tham gia tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là khu vục nông nghiệp, tạo ra sự phát triển cân đối trên toàn quốc theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Sáu là: DNVVN tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế, thúc đẩy thị trường vốn, thị trường tín dụng phát triển. DNVVN hoạt động đa rạng trên nhiều lĩnh vực, đã tạo ra sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Phát triển DNVVN tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá dịch vụ với chất lưọng cao là cơ hội thuận tiện cho người tiêu dùng lựa chọn so sánh.Như vậy chính điều này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất là luôn phải nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng làm cho nền kinh tế thị trường trở nên sôi động Sự xuất hiện của các DNVVN tạo ra một nhóm khách hàng thường xuyên cho các Ngân hàng, để sản xuất kinh doanh các DNVVN cần phải có vốn trong khi đó vốn tự có của họ nhỏ bé không đủ đáp ứng vì vậy các DN này cần phải đi vay mượn trên thị trường thương mại. Nhưng không phải lúc nào các DN bạn hàng cũng thừa vốn để cho mượn nên các DNVVN sẽ đi vay ngân hàng. Hiện nay các DNVVN không chỉ vay vốn qua ngân hàng mà còn thanh toán qua ngân hàng, điều đó có nghĩa ngân hàng vừa là người cho vay vừa là trung gian thanh toán phục vụ cho các nhà kinh doanh. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về qui mô, về chất lượng các DNVVN đã tạo ra một nhu cầu lớn với Ngân hàng đó là nhu cầu về vốn, nhu cầu về thanh toán dịch vụ qua Ngân hàng. Có thể nói loại hình doanh nghiệp này là thị trường đầy triển vọng của ngân hàng . DNVVN ngày càng đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Dù không phải là chủ đạo nhưng tiện ích của DNVVN thì lại rất lớn, không chỉ làm tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân, giải quyết việc làm cho người lao động mà còn góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Hiện nay, các DNVVN ở Việt Nam chưa thực sự phát triển theo đúng tiềm năng vốn có. Bởi nền kinh tế nước ta còn đang ở trong gia đoạn thấp, nhất là gia đoạn chuyển đổi kinh tế hàng hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước. Các DNVVN còn bộc lộ nhiều yếu kém trong quá trình hoạt động, do đó rất cần được quan tâm hỗ trợ từ các phía. 1.1.4 Điều kiện để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường. Phát triển có nghĩa là sự vật thay đổi theo chiều hướng tốt lên. Doanh nhgiệp phát triển có nghĩa là doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt hơn phục vụ có ích cho xã hội. Từ đó tăng thu nhập cho người lao động, tăng tích luỹ để mở rộng sản xuất, muốn cho nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì quốc gia đó phải quan tâm tới mọi loại hình doanh nghiệp. Đặc biệt là loại hình DNVVN vì số lượng của nó ngày càng chiếm đại đa số trong nền kinh tế, để các DNVVN phát triển cần phải tạo các điều kiện nhất định như * Điều kiện về vốn tài chính Vốn là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh. Điều kiện về vốn là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển các doanh nghiệp nói chung và nhất là DNVVN. Hiện nay các DNVVN rất hạn hẹp về vốn, nguyên nhân là do qui mô hoạt động của doanh nghiệp nhỏ không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Và khả năng tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng lại hạn chế vì không đủ tài sản thế chấp, mức lãi suất cho vay quá cao so với mức lợi nhuận thu được, thời gian cho vay ngắn... Đây là khó khăn rất lớn với cả doanh nghiệp và Ngân hàng, nếu vấn đề này được giải quyết thì đây chính là tiền đề để doanh nghiệp phát triển. * Điều kiện thị trường Thị trường là nơi doanh nghiệp tồn tại và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng qua thị trường doanh nghiệp biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Thị trường được hiểu bao gồm cả thị trường yếu tố đầu vào và thị trường đầu ra của sản phẩm. Với đặc điểm và ưu thế của mình, các DNVVN nên tập trung vào những thị trường nhỏ đầu tư vào những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh và phát triển không ngừng, các DNVVN cũng cần phải quan tâm đến thị trường các địa phương khác và vươn ra thị trường quốc tế, hướng vào những sản phẩm có chất lượng và có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự khai thác một cách tối đa thị trường trong tầm tay để từ đó phát triển ra thị trường rộng hơn, chính điều này cũng ảnh hưởng không ít tới sự phát triển của doanh nghiệp. * Điều kiện về cơ sở vật chất. Trước sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ trên thế giới, buộc các doanh nghiệp nhất là các DNVVN ngừng cải tiến thiết bị công nghệ cho phù hợp với thời đại để nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Điều kiện thiết bị sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả của công tác quản lý. Các yếu tố về cơ sở hạ tầng là những điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp có thêm thuận lợi trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy để có thể giúp các DNVVN thì rất cần phải quan tâm đến vấn đề này. * Điều kiện về khả năng lãnh đạo kinh doanh của chủ doanh nghiệp. Lãnh đạo doanh nghiệp là người điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, một trong những cản trở lớn đối với sự phát triển của các DNVVN là trình độ cuả người lãnh đạo bị hạn chế. Lãnh đạo doanh nghiệp phải biết thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích và đánh giá các loại thông tin kinh tế - kỹ thuật, từ đó đề ra chiến lược đúng đắn cho doanh nghiệp. Để thực hiện được các yêu cầu đó đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi. * Điều kiện về tri thức tay nghề của người lao động. DNVVN sử dụng rất nhiều nhân công, song hầu hết đều có trình độ tay nghề thấp nhưng lại rất quan trọng vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của loại hình doanh nghiệp này. Nếu như trình độ của người quản lý tốt luôn tạo những cơ hội cho người lao động phát triển, khi người lao động có tri thức có tay nghề cao sẽ làm ra nhiều sản phẩm đẹp với chất lượng và năng suất cao. Điều kiện này rất cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp. * Điều kiện về hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà Nước. Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà Nước tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có cả sự tồn tại và phát triển của DNVVN. Hệ thống này sẽ tạo điều kiện hoặc gây khó khăn cản trở cho các doanh nghiệp, nếu pháp luật hoàn thiện tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thì ở quốc gia đó các DNVVN sẽ phát triển rất mạnh và đóng góp vào sự phát triển chung của Nhà Nước. * Điều kiện về hệ thống các biện pháp hỗ trợ phát triển: Hệ thống các biện pháp hỗ trợ của Nhà Nước cũng như của các tổ chức kinh tế là những điều kiện quan trọng để hỗ trợ các DNVVN phát triển. Các DNVVN có bất lợi là thường hoạt động đơn độc, không có sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau. Vì thế cần có các tổ chức giúp đỡ để bảo vệ quyền lợi cũng như đại diện cho các doanh nghiệp đưa ra yêu cầu cho các cấp có thẩm quyền, nhằm tạo cho hoạt động của doanh nghiệp được phát triển một cách thuận lợi nhất. Tóm lại: Sự phát triển của các DNVVN chiụ sự tác động của rất nhiều yếu tố. Nếu như tất cả các điều kiện trên được thuận lợi có thể giúp DNVVN phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối với nền kinh tế. Ngoài ra, bản thân mỗi doanh nghiệp và các cấp có thẩm quyền cần phải quan tâm nhiều hơn và toàn diện hơn tới tất cả các yếu tố. 1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Hệ thống ngân hàng là trung gian tài chính, luân chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn, là trung tâm thần kinh của nền kinh tế tập trung thu phát hoạt động kinh doanh nói chung của nền kinh tế. Theo pháp lệnh số 38 về NHTM, Hợp tác xã và các tổ chức tín dụng định nghĩa: “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán” Vậy hoạt động kinh doanh của ngân hàng là xoay quanh đồng tiền. Ngoài vốn tự có không đủ đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, ngân hàng phải đi huy động để cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM . Ta có thể hiểu tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình trong xã hội. Trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Tín dụng ngân hàng ra đời với nhiệm vụ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo thành một quỹ cho vay khổng lồ, đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các thành phần kinh tế. 1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng cấp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngân hàng luôn được coi là người bạn đồng hành thân thiết với các nhà doanh nghiệp vì tín dụng ngân hàng luôn có khả năng đáp ứng các nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đối với DNVVN ngân hàng thường có các hình thức cấp tín dụng chủ yếu sau: Một là: Tín dụng chiết khấu Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu những giấy tờ còn thời hạn thanh toán, thì làm giấy đề nghị chiết khấu và làm các thủ tục giống như vay vốn. Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá, kiểm tra hạn mức chiết khấu của mình còn thì sẽ cho khách hàng vay khi họ thoả mãn các điều kiện. Ngân hàng chỉ nhận chiết khấu những giấy tờ có giá còn thời hạn không quá 90 ngày, khi cần thiết ngân hàng có thể đem chiết khấu lại taị Ngân hàng trung ương. Hai là: Cho vay trả góp Đó là những khoản vay tài trợ cho nhu cầu mua máy móc thiết bị và các nhu cầu khác của doanh nghiệp. Tiền vay được thanh toán dần cho khách hàng theo định kì. Các điều khoản về mức vay, lãi suất vay, kì hạn trả, mức trả từng lần cho cả gốc và lãi được ngân hàng và khách hàng thoả thuận trong hạn mức tín dụng. Cho vay trả góp cũng bao gồm cả việc ngân hàng mua những khoản nợ phát sinh do những công ty mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ trả góp cho các tổ chức và cá nhân. Hình thức cho vay này đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp lại vừa hỗ trợ cho tiêu dùng hàng hoá. Ba là: Cho vay ứng trước Kỹ thuật cho vay ứng trước là phương thức tài trợ trực tiếp cho người đi vay để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận một mức cho vay trong thời hạn nhất định. Bên đi vay chịu trách nhiệm vô điều kiện việc hoàn trả nợ vay khi đến hạn. Cho vay ứng trước gồm hai phương thức là hạn mức tín dụng và thấu chi trên tài khoản vãng lai. Vay theo hạn mức tín dụng là loại cho vay đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp, và giới hạn tối đa số tiền ngân hàng có thể cấp cho một khách hàng trong một thời gian nhất định. Trường hợp này áp dụng với những doanh nghiệp kinh doanh ổn định, có nhu cầu vay nợ thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng . Cho vay thấu chi là ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền vượt quá số tiền trên tài khoản vãng lai trong phạm vi thời hạn, hạn mức nhất định. Hình thức này giúp doanh nghiệp tránh phải làm lại thủ tục vay nhiều lần trong một thời kì. Bốn là: Cho vay bảo lãnh Theo quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN ban hành: “Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên có quyền nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh). Khi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết”. Mục đích của cho vay bảo lãnh là bù vào những thiếu hụt vốn trong thời gian đang thiếu vốn tạm thời. Đảm bảo cho các dự án có đủ vốn thực hiện đúng kế hoạch, tránh tốn kém về chi phí và thời gian. Đây là một hình thức cấp tín dụng có độ rủi ro cao, vì vậy cần phải có sự tín nhiệm giữa ngân hàng và khách hàng Năm là: Tín dụng thuê mua tài chính Tín dụng thuê mua tài chính là một hình thức tài trợ vốn trong đó theo yêu cầu của bên đi thuê, bên cho thuê sẽ tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi thuê sử dụng. Theo phương thức này, người đi vay không phải bỏ vốn mua mà chỉ phải trả tiền thuê tài sản cho công ty tài chính. Khi hết hạn thuê hợp đồng, người vay được quyền mua lại tài sản. Hình thức này có lợi cho những doanh nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ, giúp doanh nghiệp có tài sản mới sử dụng khi không đủ tiền mua hoặc thay thế những tài sản cũ kỹ, lạc hậu... thích hợp với các DNVVN Như vậy có thể nói rằng các hình thức tín dụng của NHTM ngày càng đa rạng, phong phú để thoả mãn tối đa nhu cầu vay vốn của các mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trườngtiền tệ nên các ngân hàng luôn phải quan tâm và hoàn thiện các sản phẩm tín dụng của mình. 1.2.3.Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường NHTM là trung gian tài chính điều hoà vốn của nền kinh tế. DNVVN cũng là những khách hàng vay vốn thường xuyên của ngân hàng, nhờ có nguồn vốn vay này mà doanh nghiệp tiếp tục hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Vai trò ấy được thể hiện như sau: 1.2.3.1 Tín dụng ngân hàng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế, các doanh nghiệp luôn phải cải tiến máy móc để đưa ra những sản phẩm tốt hơn. Nhưng trên thực tế rất ít doanh nghiệp có đủ 100% vốn đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Việc phát triển và mở rộng sản xuất chủ yếu dựa vào các nguồn vốn tài trợ mà phần lớn là của hệ thống ngân hàng. Vốn tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị và trang trải những chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình tái sản xuất và phát triển. Chính nhờ nguồn vốn này góp phần giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện một cách liên tục. 1.2.3.2 Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh và không ngừng phát triển. Vì có những hạn chế về qui mô, trình độ tay nghề cũng như trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ nên các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao tồn tại đó. Để có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu trên các doanh nghiệp phải tìm đến các NHTM, vì các ngân hàng có khả năng thoả mãn được các nhu cầu này bằng các nguồn vốn huy động được trong dân với các mức lãi suất phù hợp, giúp cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh chiếm lĩnh thị trường trong cạnh tranh với mức chi phí hợp lý. 1.2.3.3 Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh nghiệp vưà và nhỏ Xét trên phương diện lý thuyết, một doanh nghiệp có vốn tự có tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhiều, vốn đi vay ít là một doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy quá nhiều vốn chủ sở hữu sẽ gây lãng phí và không mang lại hiệu quả cao như một cơ cấu vốn với số lượng vốn nợ vay hợp lý. Điều này không những làm giảm bớt rủi ro mất vốn của doanh nghiệp mà còn đem lại cho doanh nghiệp lợi nhuận lớn nhất từ những đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra kinh doanh Một cơ cấu vốn tối ưu sẽ giúp tận dụng triệt để mọi nguồn lực từ đó có thể khai thác tối đa mọi tiềm năng của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. 1.2.3.4 Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng ngoài phần gốc phải trả như đã thoả thuận còn phải trả thêm phần lãi, vì vậy các doanh nghiệp phải có đầy đủ hồ sơ theo qui định như về khả năng tài chính, các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Các ngân hàng thường quan tâm doanh nghiệp kinh doanh như thế nào, sản xuất như thế nào, đầu vào và thị trường đầu ra có khả thi để chấp nhận cho doanh nghiệp vay vốn. Ngoài việc quan tâm thu hồi đẩy đủ vốn ngân hàng còn quan tâm đến việc doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, tăng vòng quay vốn nhanh, đảm bảo có lãi sau khi đã trả nợ ngân hàng... Điều đó có nghĩa ngân hàng phải thực hiện kiểm soát trước trong và sau khi cho vay để đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích. Như vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNVVN. Tóm lại những phân tích trên cho thấy tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và với DNVVN nói riêng. Ngân hàng giúp các DNVVN phát triển, ngược lại sự phát triển của DNVVN cũng giúp ngân hàng hoàn thiện hơn các hoạt động kinh doanh của mình. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong hoạt động tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và ._.nhỏ 1.3.1. ấn độ Xu hướng phát triển DNVVN ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Cũng giống như các doanh nghiệp ở Việt Nam, các DNVVN ở ấn độ trong gia đoạn trước thường thiếu vốn nghiêm trọng, ấn độ không chấp nhận việc tài trợ cho các thương phiếu, các khoản phải thu trong sổ nợ. Điều này gây không ít khó khăn cho DNVVN khi vay vốn. Vấn đề cấp thiết đặt ra là cần phải thúc đẩy các dịch vụ mua bán nợ, và các nhà tài trợ vốn với việc có nhận trách nhiệm thu hồi, bảo hộ, kiểm soát tín dụng cho khách hàng thuộc đối tượng khu vực ngành nghề nhỏ hay không. Chính phủ ấn độ đã khuyến khích các nhà tài trợ mua các khoản phải thu của khách hàng khi phát sinh, tham gia vào việc giữ sổ sách liên quan đến các khoản phải thu và thực hiện các chức năng phụ trợ khác. Mặc dù tăng thêm các chi phí nhưng dịch vụ mua bán nợ đã giúp các DNVVN vượt qua những khó khăn liên quan đến vốn lưu động. Để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này có hiệu quả cao, Chính phủ ấn độ còn đưa ra các giải pháp nhằm tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển như: Các NHTM và NHTW đưa ra một danh mục đánh giá về chức năng của các “chi nhánh” ngân hàng đặc biệt phục vụ các DNVVN, bao gồm vị trí tổ chức, nhân viên và dịch vụ. Nếu cần thiết các “chi nhánh” đặc biệt có thể có thể được chuyển tới vị trí thuận lợi hơn hoặc ở ngay trong khu ngành nghề nhỏ tập trung. Điều quan trọng là các “chi nhánh” này phải cung cấp dịch vụ một cách toàn diện cho các DNVVN như tư vấn các thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, công nghệ, marketing... Chính phủ cấp giấy phép cho các ngân hàng hoạt động dễ hơn để hướng tới phục vụ các quận huyện nơi có đông các ngành nghề nhỏ tập trung. Các DNVVN có quyền lựa chọn chi nhánh ngân hàng mà họ thấy thuận tiện nhất. Để giảm chi phí của các khoản vay và rủi ro của người đi vay, dịch vụ tín dụng được mở rộng. Các chi phí liên quan đến xếp hạng tín dụng sẽ thấp hơn nếu như việc tổ chức đánh gía xếp loại tín dụng doanh nghiệp được thực hiện trong khu vực có DNVVN tập trung nhiều. Bên cạnh đó các ngân hàng và tổ chức tài chính còn góp vốn cổ phần để tạo vốn chủ sở hữu lành mạnh cho các doanh nghiệp này. Như thế các ngân hàng và các tổ chức tài chính sẽ là các nhà đầu tư dài hạn vào những doanh nghiệp này. Ngoài ra, các ngân hàng và các tổ chức tài chính tìm cách mở rộng hoạt động tới các khách hàng tiềm năng là những DNVVN chưa có quan hệ tín dụng với mình bằng cách giới thiệu miễn phí các chương trình đào tạo về quản lý doanh nghiệp, marketing, quản lý tài chính, kỹ thuật sản xuất ... Có thể nói rằng Chính phủ ấn độ đã áp dụng các chính sách ưu đãi doanh nghiệp dưới mọi hình thức nhằm cung ứng vốn cho các DNVVN phát triển một cách hiệu quả nhất. 1.3.2. Nhật Bản Nhật Bản là ngày nay là một nước có trình độ công nghệ phát triển cao trên thế giới. Từ một nước nghèo về tài nguyên thiên nhiên, nhưng đến nay thì đã trở thành một trong những trung tâm kinh tế phát triển. Có được thành quả đó là do chính phủ Nhật đã đưa ra những chính sách hỗ trợ đặc biệt các doanh nghiệp, nhất là những DNVVN để tháo gỡ những khó khăn cản trở trong việc tăng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh như: thiếu sự đảm bảo về vốn vay, khả năng tiếp cận vốn thấp, vấn đề tài chính còn nhiều bất cập. Các chính sách đó gồm: Những biện pháp hỗ trợ tín dụng giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thông qua sự bảo lãnh của hiệp hội bảo lãnh tín dụng. Ngoài ra, còn có ba tổ chức tài chính công khác là Công ty tài chính DNVVN, công ty tài chính nhân dân và Ngân hàng Shoko Chu kin do Chính phủ đầu tư thành lập, nhằm tài trợ vốn cho các DNVVN đổi mới máy móc thiết bị và hỗ trợ vốn lưu động dài hạn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. Ngay từ năm 1980 Chính phủ Nhật đã thành lập công ty doanh nghiệp nhỏ Nhật bản phụ trách việc thực hiện các chính sách đối với doanh nghiệp nhỏ trong toàn quốc với các chức năng chủ yếu: - Hướng dẫn chỉ đạo thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, tài trợ cho các dự án, nâng cấp hoạt động kinh doanh của các DNVVN thông qua việc thành lập các hội. Giúp các DNVVN liên kết, liên doanh với các tổ chức khác và hỗ trợ việc tăng cường quản lý điều hành các DNVVN thông qua việc thành lập một khu vực kinh tế gồm các DNVVN tại các địa phương. - Thành lập các viện các trường đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn cho các DNVVN. Phục vụ thông tin và hỗ trợ cho việc quốc tế hoá và cải tiến kỹ thuật cho DNVVN. -Hệ thống tương trợ nhằm ngăn ngừa việc phá sản các DNVVN thông qua việc đóng góp của các thành viên trong hệ thống các DNVVN, nhằm mục đích ngăn chặn các doanh nghiệp đi tới chỗ phá sản hoặc đang gặp khủng hoảng trong hoạt động do các công ty khách hàng gây ra. Nhật Bản đã chú trọng rất nhiều đến người quản lý và điều hành DNVVN cũng như các chính sách đãi ngộ người lao động. Ngoài ra Chính phủ đã có được các biện pháp hạn chế việc phá sản DNVVN từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển ổn định trong nền kinh tế. 1.3.3. Đài Loan Các DNVVN ở Đài Loan trong giai đoạn trước cũng trong tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ và thừa lao động. Để khắc phục tình trạng này, Chính quyền Đài Loan đã tập trung vào việc giúp các doanh nghiệp bằng những chính sách rất hiệu quả. Những năm 1990 nước này chính thức ban hành hệ thống chính sách tổng hợp hỗ trợ các DNVVN. Từ khi thực hiện chính sách này, Đài Loan đã thành công trong việc phát triển DNVVN, các doanh nghiệp này đã đóng góp bình quân mỗi năm khoảng 40% GNP cho đất nuớc, khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho khoảng 68% lực lượng lao động. Đặc biệt là chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng đã đem lại nhiều hiệu quả nhất. Chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng có mục tiêu là cung cấp tín dụng cho các DNVVN, giúp điều chỉnh cơ cấu tài chính cho phù hợp với ngành nghề kinh doanh của từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó Chính quyền cũng đưa ra các biên pháp thực hiện mục tiêu tạo thuân lợi cho các DNVVN tiếp cận nguồn vốn tín dụng, được bảo lãnh tín dụng, tư vấn quản lý tài chính tín dụng, giảm thuế, trợ giúp hoạt động kế toán, quản lý ngân sách hàng ngày và quản lý tài sản, tiếp cận thị trường chứng khoán... Nội dung chính của chính sách hỗ trợ tín dụng các doanh nghiệp gồm: Thứ nhất: Khuyến khích các ngân hàng cho các DNVVN vay vốn thông qua điều chỉnh mức lãi suất. Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và qui định tỉ lệ cấp tài chính cho các doanh nghiệp này phải tăng lên hàng năm. NHTW yêu cầu các NHTM thành lập riêng phòng tín dụng dành cho các DNVVN, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận được với ngân hàng. NHTW cũng sử dụng các chuyên gia tư vấn cho các DNVVN về cách củng cố cơ sở tài chính, tăng khả năng nhận tài trợ. Thứ hai: Thành lập quỹ phát triển DNVVN để cung cấp vốn cho các DNVVN. Đài Loan đã thành lập ba quỹ, các quỹ này có chức năng cấp vốn cho các DNVVN qua hệ thống ngân hàng. Hàng năm, Chính quyền tiến hành phân bổ vốn cho các DNVVN nào thoả mãn các điều kiện Chính quyền đưa ra với một mức lãi suất ưu đãi. Lãi thu được của quỹ này dùng vào chương trình trợ giúp các DNVVN ở địa phương. Thứ ba: Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng. Nước này thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN để giúp các doanh nghiệp này có thể xin vay vốn dưới sự bảo lãnh của Quỹ. Quỹ sẽ cùng ngân hàng chia sẻ rủi ro nên các ngân hàng thấy tin tưởng hơn khi cấp tín dụng cho các DNVVN. Sự ra đời của Quỹ đã góp phần đưa các DNVVN vào nhiều kênh tài chính khác nhau, đồng thời cũng góp phần ổn định môi trường tài chính cho những doanh nghiệp này. 1.3.4. Bài học kinh nghiệm vân dụng đối với Việt Nam Với những kinh nghiệm của các nước đi trước như ấn độ ,Nhật Bản, Đài Loan trong việc hỗ trợ các DNVVN phát triển là những bài học quý giá cho Việt Nam học tập. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và vận dụng vào điều kiện thực tế của đất nước, có thể rút ra được một số bài học sau: Một là: Về vốn Đảng và Nhà nước cần tạo các điều kiện thuận lợi về vốn cho các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nên thành lập các tổ chức hỗ trợ về vốn chuyên dành cho các DNVVN. Tổ chức này sẽ giúp các doanh nghiêp tiếp cận được nguồn vốn của nhiều tổ chức tài chính khác nhau trong xã hội, nhất là nguồn vốn tín dụng của ngân hàng thông qua các biện pháp: bảo lãnh, đồng tài trợ, hỗ trợ lãi suất ưu đãi... Các NHTM cần xây dựng và hoàn thiện chính sách vay vốn đối với các DNVVN, nên giúp các DNVVN xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh khả thi và tư vấn quản lý tài chính kế toán cho các DNVVN. Điều này ở Việt Nam chưa làm được. Hai là: Môi trường cạnh tranh Nhà Nước và các cơ quan có thẩm quyền phải xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh cho các DNVVN như: hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đưa ra các hệ thống chính sách pháp luật phù hợp... Nền kinh tế thị trường luôn biến đổi, vì vậy việc xây dựng hành lang pháp lý là cơ sở quan trọng để các DNVVN hoạt động kinh doanh đúng luật và phát huy hết tiềm năng thực sự của mình. Để nâng cao khả năng cạnh tranh cho DNVVN ngoài yếu tố thuộc về vốn thì Chính phủ nên thành lập các tổ chức chuyên trách quản lý DNVVN. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp này liên kết với nhau lại để tăng sức cạnh tranh và tính ổn định trong kinh doanh. Ba là: Tổ chức quản lý. Cơ cấu tổ chức của các DNVVN nói chung thuờng khá chặt chẽ vì số lượng người lao động không nhiều hoặc có các mối rằng buộc khác nhau như quan hệ gia đình bạn bè... Thế nhưng để thích nghi với nền kinh tế luôn biến động thì các DNVVN cần phải nâng cao khả năng tự tổ chức quản lý như: đào tạo thêm kỹ năng tổ chức quản lý cho lãnh đạo doanh nghiệp, học hỏi kinh nghiệm quản lý từ nước ngoài... Bên cạnh đó Nhà Nước ta nên có một trung tâm cung cấp các thông tin về thị trường cho các DNVVN để họ kịp nắm bắt xu hướng phát triển của nền kinh tế tạo cho việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây chỉ là một số ý chính rút ra từ kinh nghiệm của một số nước đi trước. Trên cơ sở các ý đó khi vận dụng vào Việt Nam phải đưa ra các biện pháp cụ thể hơn nữa cho phù hợp. Nói tóm lại: Qua những phần lý luận trình bày ở chương 1 đã đưa ra cho chúng ta một cách nhìn khái quát nhất về DNVVN. Vai trò của tín DNVVN trong nền kinh tế thị trường và các điều kiện để phát triển DNVVN. Đóng góp vào phát triển DNVVN là vai trò của tín dụng ngân hàng đối vơí phát triển DNVVN. Và thông qua kinh nghiệm trong việc hỗ trợ DNVVN phát triển của các nước đi trước thì rút ra một số bài học cho Việt Nam. Chương 2 Thực trạng đầu tư tín dụng cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng công thương Thái Nguyên 2.1.Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh thái nguyên Là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc có diện tích tương đối rộng trong đó đồi núi là chủ yếu, dân số không nhiều song cũng có tới hơn 300 doanh nghiệp hoạt động ở mọi loại hình kinh tế. Để phát huy những tiềm năng vốn có về tài nguyên như: diện tích rừng nhiều, có vùng đồi chè Tân Cương, có mỏ than Khánh Hoà, mỏ sắt Trại Cau, khu du lịch Hồ Núi Cốc... Tỉnh đang cố gắng xây dựng một cơ cấu công nông nghiệp, dịch vụ, du lịch hợp lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh và đồng bộ. Năm 2003 tỉnh Thái Nguyên được Nhà Nước phong lên thành phố hạng hai vì nền kinh tế của Tỉnh có nhiều bước phát triển mới. Trong đó có một phần không nhỏ là sự đóng góp của màng lưới DNVVN trên địa bàn. Các DNVVN không chỉ tập trung nhiều ở trung tâm thành phố Thái Nguyên, khu công nghiệp Gang Thép mà còn phân bố ở các vùng xa, vùng cao như ở các huyện Định Hoá, Võ Nhai, Phú Bình... Hiện tại cả Tỉnh có khoảng gần 200 doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ gồm các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty tư nhân. Từ năm 2002 số lượng các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ trên địa bàn tăng thêm nhiều: Công ty cổ phần tăng thêm 25 đơn vị, công ty TNHH tăng thêm 20 đơn vị, công ty tư nhân tăng thêm14 đơn vị và tỉnh đã có một công ty liên doanh với nước ngoài mở ở khu công nghiệp Sông Công. Cũng trong năm này Chính quyền Tỉnh đưa ra chính sách cơ cấu tổ chức lại các doanh nghiệp trên địa bàn nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Sang đến năm 2003 số DNVVN Nhà nước tăng lên 14 đơn vị, Công ty cổ phần thêm 16 đơn vị, Công ty TNHH thêm 18 đơn vị, Công ty tư nhân thêm 8 đơn vị. Với sự phát triển và mở rộng không ngừng nên trong những năm qua, các DNVVN đã đóng góp nhiều cho Ngân sách của Tỉnh. Năm 2003 tăng trưởng GDP 8,7%, sản xuất công nghiệp tăng 14,3%, sản xuất lương thực đạt 397,7 ngàn tấn tăng 10% so với năm 2002... Bên cạnh những kết quả đạt được thì các DNVVN hoạt động trên địa bàn của Tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục như : Khả năng tự chủ về tài chính của những doanh nghiệp còn yếu, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có khả năng tiếp cận vốn tín dụng của ngân hàng dẫn đến mất cơ hội đầu tư kinh doanh. Cơ sở vật chất còn lạc hậu kém phát triển chưa bắt kịp với nhu cầu của thị trường, phần lớn máy móc là công cụ thủ công hoặc nửa cơ giới đã gần hết khấu hao. Do hạn chế về qui mô, ngành nghề kinh doanh nên người điều hành doanh nghiệp này thường có trình độ quản lý yếu kém, nhất là quản lý mảng sổ sách kế toán tài chính. Nhiều doanh nghiệp chưa hạch toán đúng theo qui định cuả Bộ tài chính, chưa lập quỹ dự phòng rủi ro xảy ra trong kinh doanh và không có khả năng xây dựng kế hoạch sản xuất khả thi. Hầu hết người lao động làm trong các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ trên địa bàn đều có trình độ thấp, chưa được đào tạo tay nghề kỹ càng. Xuất phát rừ những hạn chế trên đã làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Chính điều này dễ dẫn doanh nghiệp đến phá sản, đây chính là lý do tại sao mỗi năm có thêm nhiều doanh nghiệp mới ra đời làm ăn có lãi, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp phải ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong vài năm trở lại đây, các DNVVN trên địa bàn đã làm ăn có hiệu quả tạo ra nhiều của cải cho địa phương. Song mặt bằng chung giống như các DNVVN trên cả nước thì các DNVVN ở Thái Nguyên còn nhiều mặt hạn chế xuất phát từ nhiều phía như: từ bản thân doanh nghiệp, các điều kiện kinh tế xã hội, môi trường pháp luật.... Nhưng tựu chung lại phát triển DNVVN trên địa bàn là cần thiết, bởi nó tạo đà cho nền kinh tế của Tỉnh phát triển cân đối giữa các huyên vùng sâu, vùng xa với trung tâm thành phố. 2.2. Thực trạng đầu tư tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng công thương Thái Nguyên 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương Thái Nguyên Chi nhánh NHCT Thái Nguyên được thành lập từ tháng 8 năm 1998 theo nghị định 53/HĐBT (nay là Thủ tướng Chính phủ) trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam có nhiệm vụ kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Với các nghiệp vụ cơ bản là: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng, và cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Khi mới thành lập Chi nhánh gặp rất nhiều khó khăn, trụ sở làm việc phải đi mượn Ngân hàng Nhà Nước Tỉnh, số lượng nhân viên thiếu, màng lưới các Chi nhánh cấp 2 và phòng giao dịch chưa có. Thì đến nay với sự cố gằng không ngừng Chi nhánh đã mở rộng hoạt động ra toàn tỉnh. Thành lập mới 2 Chi nhánh cấp 2 là Chi nhánh NHCT Lưu Xá và Chi nhánh NHCT Sông Công, mở thêm phòng giao dịch Đán và phòng giao dịch Núi Voi, nâng tổng số Quỹ tiết kiệm lên 17 quỹ nằm rải rác khắp thành phố Thái Nguyên và các huyện phụ cận thành phố. Song song với việc mở rộng phạm vi hoạt động thì Chi nhánh luôn nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên. Cán bộ Chi nhánh có trình độ cao đẳng và đại học chuyên ngành ngân hàng chiếm trên 70% trên tổng cán bộ toàn Chi nhánh. Với mục tiêu đa rạng hoá các dịch vụ ngân hàng, đổi mới tổ chức quản lý, cải tiến qui trình công nghệ... Chi nhánh luôn phấn đấu để phục vụ tốt nhất, nhanh nhất nhu cầu của khách hàng. Hiện nay bộ máy tổ chức của Chi nhánh đã hoàn thiện hơn gồm có Ban lãnh đạo: một Giám đốc phụ trách chung, một phó giám đốc phụ trách nghiệp vụ kế toán, ngân quỹ, tín dụng, một phó giám đốc phụ trách đối nội, đối ngoại, nguồn vốn và các phòng giao dịch. Tại hội sở chính có các phòng ban: phòng nghiệp vụ kinh doanh, phòng kế toán tài chính, phòng kiểm soát nội bộ, phòng nguồn vốn, phòng ngân quỹ và phòng kinh doanh ngoại tệ. Các Chi nhánh phụ thuộc là Chi nhánh NHCT lưu Xá, Chi nhánh NHCT Sông Công. Hai phòng giao dịch Đán và Núi Voi, 17 quỹ tiết kiệm. Sơ đồ bộ máy quản lý Phó Giám đốc Phó Giám đốc P. Ngân quỹ P. Kế toán P. Tổ chức hành chính P. Kiểm soát nội bộ P. Kinh doanh P. KD đối ngoại P. Nguồn vốn Các Phòng giao dịch Giám đốc Hoạt động trên một địa bàn tiềm năng như Thái Nguyên Chi nhánh có nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó cũng có không ít những bất lợi gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhiều NHTM cùng hoạt động: toàn tỉnh có ba ngân hàng thương mại quốc doanh, 1 ngân hàng chính sách, 1 quỹ hỗ trợ phát triển và nhiều quỹ tín dụng nhân dân tạo ra sự cạnh tranh lớn trên thị trường tiền tệ. Số lượng hàng hoá xuất khẩu nhỏ và các dịch vụ còn hạn chế nên cũng giảm phần nào khối lượng tín dụng ngân hàng, ngoài ra tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn Nhưng với phương châm “phát triển- an toàn- hiệu quả” và “sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chính là sự tồn tại phát triển của ngân hàng” Chi nhánh đã khắc phục những hạn chế đó bằng việc đa rạng hoá các dịch vụ ngân hàng, ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động kinh doanh đã tiết kiệm thời gian chi phí hoạt động cùng với phong cách phục vụ nhiệt tình văn minh lịch sự của cán bộ nhân viên, Chi nhánh đã ngày càng chiếm được sự tín nhiệm của khách hàng. 2.2.2. Hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Thái Nguyên Trong những năm vừa qua, Chi nhánh NHCT Thái Nguyên đã đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của tỉnh. Chi nhánh đã giải ngân vốn tín dụng cho nhiều doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả như doanh nghiệp Nhà Nước có nhà máy gang thép Thái Nguyên, nhà máy cơ khí 59 thuộc Bộ Quốc phòng, doanh nghiệp phi Nhà Nước có Công ty TNHH Trà Hoàng Bình, Doanh nghiệp cơ khí tư nhân Thái Hưng... Nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội đạt mắc tăng trưởng khá, cơ sở hạ tâng được đầu tư đổi mới, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Chi nhánh liên tục vượt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao như: tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân tăng, chất lượng tín dụng tốt với tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng giảm... Điều đó thể hiện ở các mặt hoạt động kinh doanh sau: 2.2.2.1. Công tác huy động vốn Huy động vốn là hoạt động “đầu vào” của Ngân hàng thương mại, có làm tốt công tác này thì công tác tiếp theo mới có hiệu quả. Bởi vì đây là một trong các nghiệp vụ cơ sở, là tiền đề quyết định đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguồn vốn huy động có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp sẽ nâng cao hiệu quả cho vay. Hiểu rõ vấn đề này Chi nhánh Thái Nguyên đã tận dụng ưu thế của mình để tăng số dư tiền gửi tiết kiệm của dân cư một cách chắc chắn và ổn định. Với 17 quỹ tiết kiệm được phân tán ở khắp thành phố và mỗi quỹ lại áp dụng phương thức giao dịch tức thời trên máy tính đã tạo điều kiện cho khách hàng đến rút và gửi được nhanh chóng và thoả mái. Bên cạnh đó để huy động được nhiều tiền gửi của dân cư Chi nhánh còn đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn, các hình thức tiết kiệm dự thưởng để thu hút khách hàng... Với các biện pháp huy động vốn linh hoạt, phong cách phục vụ văn minh lịch sự, đúng quy trình, tận tình chu đáo của cán bộ nhân viên quỹ tiết kiệm đã làm cho khách hàng đến gửi tiền tiết kiệm váo ngân hàng ngày càng đông. Tình hình huy động vốn của chi nhánh những năm qua được thể hiện qua bảng sau: Bảng 01: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh các năm 2001-2003 ( Đơn vị triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Số tiền Số tiền +/- (%) Số tiền +/- (%) Tổng nguồn vốn 704.884 831.232 +18% 974.356 +17% Ngoại tệ (USD) 186.897 210.782 +12% 254.306 +20% Nội tệ (VND) 517.987 620450 +19% 702.456 +13% -Tiền gửi của dân cư 566.850 704.432 +24,3% 895.267 +27,2% - Tiền gửi của tổ chức kinh tế 132.763 115.228 -13% 159.642 +38% - Tiền gửi khác 5.271 11.572 +119,5% 7.773 - 33,1% (Nguồn: Phòng tín dụng thống kê- Kế hoạch) Qua bảng trên ta thấy tình hình huy động vốn của Chi nhánh có sự tăng trưởng vững chắc qua các năm. Điều này cho thấy khả năng huy động vốn của Chi nhánh ngày càng được nâng cao về cả số lượng và chất lượng. Cụ thể: Năm 2001 tổng nguồn vốn huy động đạt 704.884 (trđ) trong đó 80% là tiền gửi tiết kiệm của dân cư còn lại 20% là tiền khác. Những con số này thể hiện sự cố gắng của chi nhánh trong công tác huy động vốn. Huy động bằng VND là chủ yếu với số tiền 517.987 (trđ) còn lại là huy động bằng ngoại tệ. Năm 2002 tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt 831.232 (trđ) tăng 18% so với năm 2001. Sự tăng trưởng này cho thấy phương pháp và cách thức thu hút vốn của chi nhánh ngày càng phù hợp với thị hiếu của nhân dân trong Tỉnh. Trong đó nguồn vốn tiết kiệm của dân cư vẫn là chủ đạo chiếm hơn 90% trên tổng nguồn vốn huy động và tăng 24,3% so với năm 2001. So với năm 2002 thì đến năm 2003 tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh đạt 974.356 (trđ), tăng 17%. Trong đó tiền gửi tiết kiệm của dân cư là chủ yếu chiếm 87% và tăng 27,2%. Có thể coi đây là nguồn vốn tương đối ổn định của Chi nhánh. Ngoài ra, Chi nhánh huy động bằng kỳ phiếu và trái phiếu có hiệu quả với số tiền đạt 142.063 (trđ). Những thành tích trên cho thấy sự cố gắng của Chi nhánh NHCT Thái Nguyên trong công tác huy động vốn. Nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng trưởng liên tục với tốc độ nhanh và vững chắc. Trong cơ cấu nguồn vốn thì vốn từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư luôn chiếm khoảng 80% tỷ lệ huy động năm sau cao hơn năm trước. Điều đó cho thấy màng lưới quỹ tiết kiệm rộng trên khắp tỉnh, các hình thức huy động vốn phong phú linh hoạt, luôn tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các hình thức khuyến mãi với các khách hàng gửi tiền, áp dụng tin học vào giao dịch để đáp ứng nhanh nhất, tốt nhất nhu cầu của khách hàng của Chi nhánh có hiệu quả. Như vậy có thể thấy công tác huy động vốn của Chi nhánh rất tốt. 2.2.2.2. Tình hình sử dụng vốn Hoạt động tín dụng là hoạt động giữ vai trò quyết định trong việc kinh doanh của NHTM. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng chiếm phần lớn trong thu nhập của Ngân hàng. Vì vậy trong chiến lược kinh doanh của Chi nhánh thì công tác tín dụng luôn được quan tâm hàng đầu. Trong những năm qua với mục tiêu là nâng cao chất lượng tín dụng và đưa hoạt động tín dụng đi vào chiều sâu. Chi nhánh liên tục rà soát đánh giá, sàng lọc khách hàng, đầu tư với khách hàng truyền thống đồng thời không ngừng tìm kiếm, tiếp thị các khách hàng mới có uy tín có khả năng tài chính lành mạnh đặt nền móng cho việc mở rộng hoạt động tín dụng một cách vững chắc an toàn và hiệu quả. Với những nỗ lực trên hoạt động tín dụng của Chi nhánh ngày càng được mở rộng điều đó thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn của chi nhánh NHCT Thái Nguyên (Đơn vị: triệu đồng) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Số tiền Số tiền +/- (%) Số tiền +/- (%) Tổng Dư nợ 492.715 732.088 +48,5% 895.375 +22,3% - Nợ ngắn hạn 291.086 466.157 +60,1% 500.46 + 22% - Nợ trung dài hạn 197.248 262.023 +35,5% 318.246 + 21,4% - Nợ quá hạn 4.381 3.908 - 10,7% 3.083 - 21% + Nợ quá hạn ngắn hạn 752 329 - 0,56% 270 - 17% + Nợ quá hạn trung, dài hạn 3.629 3.579 - 1,37% 2.813 - 2% (Nguồn: Phòng tín dụng thống kê- Kế hoạch) Theo bảng số liệu dư nợ của Chi nhánh luôn tăng trưởng. Dư nợ ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao hơn dư nợ trung dài hạn và đều trên mức 50%. Năm 2001 dư nợ ngắn hạn chiếm 59%, còn dư nợ trung dài hạn là 40% tổng dư nợ. Năm 2002 dư nợ ngắn hạn chiếm 63,6%, còn dư nợ trung dài hạn 35,8% tổng dư nợ. Năm 2003 dư nợ ngắn hạn chiếm 63,7% dư nợ, còn dư nợ trung dài hạn là 35,5% tổng dư nợ. Như vậy mức tăng trưởng dư nợ của Chi nhánh tăng liên tục và ổn định. Năm 2002 tổng dư nợ đạt 732.088 (trđ) tăng 48,5%. so với năm 2001 Năm 2003 tổng dư nợ đạt 895.375 (trđ) tăng 22,3%. so với năm 2002 Trong tốc độ tăng trưởng chung thì dư nợ ngắn hạn luôn đạt tốc độ tăng cao nhất năm 2002 tăng 60,1%so với 2001 và năm 2003 tăng 22% so với năm 2002. Dư nợ của Chi nhánh tăng cao và tỉ lệ nợ quá hạn lại giảm, điều đó cho thấy chất lượng tín dụng của Chi nhánh tốt. Năm 2001 nợ quá hạn chiếm 0,88% tổng dư nợ với nợ quá hạn ngắn hạn chiếm 0,15% và nợ quá hạn trung dài hạn chiếm 0,7%. Sang đến năm 2002 nợ quá hạn đã giảm 10,7% với nợ quá hạn ngắn hạn giảm 0,56%, nợ quá hạn trung dài hạn giảm là 1,37% so với năm 2001. Đến năm 2003 nợ quá hạn tiếp tục giảm 21% với nợ quá hạn ngắn hạn giảm 17%, nợ quá hạn trung dài hạn giảm 22% so với năm 2002. Có thể thấy rằng hoạt động sử dụng vốn nói chung của Chi nhánh tương đối có hiệu quả. Với kết quả đã đạt được như trên là do Chi nhánh chú trọng đến công tác cho vay mở rộng và tìm kiếm khách hàng, , cán bộ phòng kinh doanh luôn bám sát, đôn đốc các đơn vị có nợ quá hạn để thu hồi nợ từ đó nâng cao chất lượng tín dụng 2.2.2.3 Hiệu quả tín dụng Nhìn chung hiệu quả tín dụng của Chi nhánh ngày càng cao thể hiện ở việc tăng doanh số cho vay, tăng doanh số thu nợ, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tăng vòng quay vốn tín dụng. Cụ thể được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3: Hiệu quả tín dụng của Chi nhánh qua các năm 2001 - 2003 (Đơn vị: Triệu đồn) Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 Số tiền Số tiền +/- (%) Số tiền +/- (%) Doanh số cho vay 700.627 820.345 +16% 942.154 +14% Doanh số thu nợ 639.524 800.512 +15% 913.259 +16% Tổng dư nợ 492.751 521.584 +4,02% 641.479 +25,1% (Nguồn: Phòng Tín dụng- thống kê kế hoạch) Theo bảng số liệu trên ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ, và dư nợ qua các năm có xu hướng tăng. Doanh số cho vay năm 2002 đạt 820.345 (trđ) tăng 16% so với năm 2001. Năm 2003 đạt 942.154(trđ) tăng 26% so với năm 2002. Có được kết quả đó là do Chi nhánh có cơ cấu đầu tư đa rạng, có chính sách lãi suất hợp lý và mở rộng cho vay tới nhiều thành phần kinh tế Bên cạnh đó doanh số thu nợ của Chi nhánh cũng tăng, cụ thể năm 2002 đạt 800.512(trđ), tăng 15% so với năm 2001 và đến năm 2003 đạt 913259(tr) tăng18% so với năm 2002. Điều này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như công tác thẩm định khách hàng của cán bộ tín dụng tốt, lựa chọn được khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh để cấp tín dụng, từ đó làm giảm các khoản nợ xấu của Chi nhánh. 2.2.2.4 Hoạt động nghiệp vụ khác Ngoài nghiệp vụ kinh doanh tín dụng truyền thống Chi nhánh NHCT Thái Nguyên còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng như: thanh toán quốc tế và thu đổi ngoại tệ. Việt Nam có đặc điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu đang trên đà phát triển nên thị trường ngoại hối còn non trẻ về qui mô hoạt động, cũng như kỹ năng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Các NHTM chỉ đơn thuần cung cấp các dịch vụ mua bán ngoại tệ phục vụ khách hàng để hưởng phí. Hoạt động kinh doanh ngoại hối của Chi nhánh NHCT Thái Nguyên cũng giống như các NHTM khác là cung cấp dịch vụ mua bán ngoại tệ và cung cấp các phương tiện thanh toán quốc tế trong hoạt động xuất nhập khẩu cho khách hàng. Năm 2003 hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh đạt được một số kết quả như sau: * Kinh doanh ngoại tệ: Chi nhánh thực hiện nghiêm túc chế độ quản lý ngoại hối của Nhà Nước trong việc niêm yết tỷ giá hàng ngày, kết quả là doanh số mua 16.357.479 USD, doanh số bán 17.210.968 USD. * Thanh toán quốc tế: Mở 50 L/C nhập khẩu với số tiền 11.348.015 USD, Thanh toán 53 L/C nhập khẩu với số tiền 11.148.694 USD. Thông báo 25 L/C xuất khẩu với số tiền 926.695.USD. * Thanh toán 21 L/C nhập khẩu với số tiền 2.252.854 USD. Trong năm 2003 Chi nhánh đã mở rộng dịch vụ thanh toán như thanh toán chuyển tiền nhanh, thanh toán séc du lịch cho khách hàng. 2.2.2.5 Kết quả kinh doanh của Chi nhánh Những thành tựu đáng kể trong hoạt động kinh doanh như trên Chi nhánh đã thu được nhiều kết quả khả quan ta có thể tổng hợp lại bảng kết quả sau: Bảng 4: Bảng kết quả kinh doanh của Chi nhánh năm 2001-2003. (Đơn vị: triệu đồng) ăNăm Thu nhập Chi phí Lợi nhuận hạch toán 22001 46.414 44.042 2.372 22002 54.392 50.677 3.715 22003 77.664 71.125 6.539 ( Nguồn: Phòng Tín dụng- Thống kê kế hoạch) Theo bảng số liệu trên ta thấy lợi nhuận hạch toán tăng đều qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001 đạt được 2.372 (trđ), năm 2002 đạt được 3.715 (trđ) năm 2003 đạt 6.539 (trđ). Thu nhập cao hơn chi phí bỏ ra nên Chi nhánh có lãi ổn định. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn cũng như những hạn chế còn tồn tại nhưng có thể khẳng định hoạt động tín dụng của Chi nhánh NHCT Thái Nguyên trong ba năm qua đã được năng lên cả về qui mô và chất lượng. Bên cạnh đó sự đồng lòng nhất trí của cán bộ tín dụng với hướng chỉ đạo đúng đắn của ban lãnh đạo đã không ngừng đổi mới phương thức làm việc, đưa ra các giải pháp đúng đắn, những chính sách phù hợp nhằm tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng. 2.2.3. Thực trạng đầu tư tín dụng đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHCT Thái Nguyên 2.2.3.1 Điều kiện vay vốn và quy trình cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng Công Thương Việt Nam * Điều kiện vay vốn Các NHTM khi cho khách hàng vay vốn đều phải tuân theo các nguyên tắc nhất định của NHNN. Bên cạnh đó, mỗi hệ thống ngân hàng lại có các văn bản cụ thể thêm công văn số 1250NV/NHNN ngày 15/09/1997 về đối tượng cho vay, điều kiện vay và lãi suất vay vốn. NHCT Việt Nam có quy định chung cho vay tất cả các thành phần kinh tế bao gồm cả cho vay DNVVN. Khi vay vốn DNVVN phải có đủ tư cách vay vốn theo thể lệ tín dụng hiện hành của NHCT Việt Nam. Nếu là chủ thể vay vốn Doanh nghiệp Nhà Nước và doanh nghiệp phi Nhà Nước. vay vốn tín dụng của Ngân hàng tối thiểu phải có 30% vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất kinh doanh, có thể bằng tiền, máy móc, thiết bị, nhà xưởng (bao gồm giá trị đất đai). Phương án xin vay vốn phải được thông qua ngân hàng, ngân hàng thẩm định trực tiếp đúng đối tượng cho vay, có hiệu qủa kinh tế, có khả thu hồi đủ cả gốc cả lãi phát sinh. Ngoài ra, cho vay DNVVN thường chứa đựng nhiều rủi ro nên ngân hàng yêu cầu khách hàng cần có tài sản đảm bảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0304.doc
Tài liệu liên quan