4ELời mở đầu
Bước sang thế kỷ 21 nền kinh tế của nước ta vẫn phát triển kiên trì theo định hướng xã hội chủ nghĩa với một hệ thống kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó yêu cầu đối với việc quy hoạch và lập kế hoạch cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế cũng như toàn ngành là phải đặt ra và thực hiện bằng các hoạt động cụ thể. Điều đó giải thích tại sao cần phải có các giải pháp cho thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2001 - 2005
Trong một môi trường kinh do
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1953 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thời kỳ 2003 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh có tính cạnh tranh cao đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước, các ngành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như cộng đồng những người dân phải thực hiện tốt những hoạt động của mình theo định hướng chung nhằm duy trì và làm tăng hiệu quả của ngành thủy sản, phát huy những lợi thế so sánh để cạnh tranh có hiệu quả trên các thị trường khu vực và thế giới. Như vậy, mục đích của kế hoạch phát triển ngành thủy sản đề ra là kiến tạo mục tiêu và đưa ra một tổng thể những hành động, những giải pháp để định hướng cho những hoạt động nhằm hướng tới những mục tiêu chung.
Giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản được soạn thảo ra nhằm mục đích giúp Nhà Nước nói chung và Ngành thủy sản nói riêng tiến hành những cải cách và điều chỉnh cần thiết, nhằm đáp ứng hiệu quả những thách thức trong tương lai. Có thể xem đây như những giải pháp then chốt để thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản trong thời gian tới. Tuy nhiên, mọi sự cải cách, điều chỉnh, phát triển chỉ có thể thực hiện được nếu có sự tham gia tích cực và nhiệt tình của toàn thể ngư dân, cán bộ công nhân viên chức trong tất cả hệ thống và cơ cấu tổ chức của ngành thủy sản và những ngành, những bộ phận, những con người có liên quan tới sự phát triển của ngành thủy sản từ Trung Ương tới Địa phương. Hơn thế nữa, giải pháp để thực hiện đạt kết quả cao quá trình thực hiện kế hoạch phát triển sẽ là kim chỉ nam để huy động những nỗ lực và những hành độnh chung, kể cả các tổ chức quốc tế, các quốc gia và cộng đồng quốc tế mong muốn giúp đỡ và phối hợp với Việt Nam thực hiện tốt kế hoạch phát triển ngành và những mục tiêu kinh tế xã hội sao cho: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Thủy sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù gồm các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ... ; là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng nuớc. Nghề cá của ta là nghề cá nhân dân gắn bó với cuộc sống của hàng triệu như dân với xây dựng và phát triển nông thôn nhất là vùng ven biển và hải đảo.Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa thủy sản cũng có những đặc thù riêng: Sản xuất bị phụ thuộc lớn vào những tác động của ngoại cảnh, thường gây ra những rủi ro khó lường cho những người sản xuất trực tiếp. Mặt khác trong sản xuất thủy sản những chi phí đầu tư rất lớn đặc biệt cho khai thác, cho xây dựng cơ sở hạ tầng và xây dựng một ngành công nghiệp chế biến hiện đại.
Thời gian qua, mặc dù ngành thủy sản đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ. Thế nhưng ngành thủy sản cũng đang đứng trước nhứng thách thức lớn như: Nguồn lợi hải sản ven bờ cạn kiệt, nguồn lợi xa bờ chưa nắm chắc, do phát triển ồ ạt diện tích nuôi thủy sản ở vùng bải triều, cửa sông, ven biển đã thu hẹp diện tích rừng ngập mặn, diện tích trồng lúa…có tác động xấu đến cân bằng môi trường sinh thái; các cơ sở chế biến thủy sản tuy nhiều nhưng đại bộ phận công nghệ đã củ kỹ, lạc hậu, sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trương, cơ sở hạ tầng yếu kém không đồng bộ...
Từ thực tế đó, để tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa và thực hiện tốt kế hoạch phát triển của ngành trong thời gian tiếp theo, cần phải có các giải pháp rất cụ thể và thực sự khoa học. Chuyển mạnh nghề cá tự do sang nghề cá được quản lý thống nhất bằng luật pháp có sự phân cấp cụ thể từ Trung Ương đến Địa phương. Chuyển đổi mạnh cơ cấu ngành từ khai thác tài nguyên tự nhiên chủ yếu sang khai thác lao động kỹ thuật, công nghệ tiên tiến đáp ứng phát triển thủy sản lâu dài, ổn định. Ngành thủy sản đang tập trung xây dựng các giải pháp thực hiện cho từng lĩnh vực sản xuất, từng vùng lãnh thổ để hướng dẫn và tập trung mọi nguồn lực vào mục tiêu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôi ngành thủy sản đã đề ra.
Đề tài “các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005” gồm 3 phần :
Chương I - Phát triển thủy sản đối với phát triển kinhh tế và những nội dung cơ bản của kế hoạch phát triển thuỷ sản
Chương II: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển ngành Thuỷ sản thời gian qua 2001-2002 trong khuôn khổ kế hoạch 5 năm 2001-2005
Chương III - Những giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005
Khi nghiên cứu đề tài này, thực tế chưa có đầy đủ lượng thông tin và độ chính xác cần thiết, do vậy chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các quý thầy cô và tất cả bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Phát triển thuỷ sản đối với phát triển kinh tế
I. Vai trò của ngành thuỷ sản đối với phát triển kinh tế và những nội dung cơ bản của kế hoạch phát triển thuỷ sản
1. Đặc trưng kinh tế - kỹ thuật và tiềm năng phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam
1.1. Đặc trưng kinh tế- kỹ thuật của ngành thuỷ sản
Thuỷ sản là một trong những ngành sản xuất kinh doanh, một ngành hoạt động kinh tế biển quan trọng trong tổng thể kinh tế - xã hội loài người. Có thể hình dung đặc điểm kinh tế – kỹ thuật chung của ngành thủy sản như sau:
Thứ nhất, thuỷ sản là ngành kinh tế - kỹ thuật có đặc thù bao gồm các lĩnh vực: Khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại...Trong đó :
- Khai thác và nuôi trồng hải sản giữ vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến và xuất khẩu, đảm bảo việc tái tạo nguồn lợi thuỷ sản và cân bằng môi trường sinh thái.
- Chế biến và thương mại thuỷ sản tuy nhìn bề ngoài như chỉ là hậu quả của khai thác và nuôi trồng thuỷ sản vì đầu vào của ngành này do khai thác và nuôi trồng thuỷ sản quyết định. Điều đó làm cho người ta nhầm lẫn rằng nuôi trồng và khai thác thuỷ sản tạo ra sản phẩm gì thì ngành chế biến và thương mại thuỷ sản chỉ có thể tạo ra các sản phẩm tương ứng mà thôi. Trong cơ chế thị trường với ngành thuỷ sản tình hình lại hoàn toàn ngược lại. Chính thương mại thuỷ sản (tức là xuất khẩu, buôn bán và tiêu thụ nội địa) phát hiện tạo ra những nhu cầu về mặt hàng. Từ những nhu cầu về mặt hàng đó, nó đặt hàng với khu vực chế biến và đến lượt mình ngành chế biến lại đặt hàng với lĩnh vực khai thác và nuôi trồng.
Thứ hai, sự phát triển của ngành thuỷ sản phụ thuộc vào nhu cầu, thị hiếu và thu nhập của dân cư. Nhu cầu, thị hiếu về các mặt hàng thuỷ sản của con người luôn luôn biến đổi tuỳ thuộc vào thu nhập của họ, cũng như tính dân tộc và tính truyền thống. Nhu cầu và thị hiếu tạo ra thị trường. Thị trường hàng hoá thuỷ sản cũng giống như tất cả các loại thị trường hàng hoá nào khác là cơ sở để cho xã hội giải quyết ba vấn đề cơ bản của kinh tế học là: sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai ?. Ba vấn đề đó cũng là những yếu tố cơ bản của phát triển sản xuất ngành thuỷ sản trong từng giai đoạn…
Thứ ba, thuỷ sản là ngành phát triển phụ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thuỷ sản là tài nguyên sinh vật, tài nguyên biển là một nguồn tài nguyên tự nhiên có thể tái sinh nhưng không vô hạn. Ngày nay, với sự phát triển của nghề khai thác thuỷ sản ở vùng biển gần bờ nơi có điều kiện thuận lợi nhất đã bị lợi dụng một cách quá mức cho phép. Làm cho nguồn lợi thuỷ sản đang ngày càng cạn kiệt, thậm chí bị huỷ diệt. Việc phát triển của nghề nuôi trồng không có quy hoạch cụ thể đã và đang làm cho nhiều ha rừng nguyên sinh và rừng ngập mặn bị tàn phá…Điều này đòi hỏi để phát triển ngành thuỷ sản phải có những giải pháp thích hợp trong thời gian tới.
Thứ tư, sản xuất thủy sản có tính chất liên ngành và diễn ra trong phạm vi rộng, từ cung cấp các điều kiện sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Quá trình phát triển ngành thuỷ sản gắn liền với sự phát triển của ngành nông nghiệp và lâm nghiệp cả về tính chất và nền tảng sinh thái của sản xuất. Vì thế phát triển ngành thuỷ sản rất cần thiết trong một thể thống nhất với những ngành và lĩnh vực kinh tế nông thôn khác. Ngoại ra, tự bản thân ngành thuỷ sản hàm chứa cả công nghiệp. Đó là: công nghiệp chế biến, công nghiệp đóng và sửa tàu thuyền, công nghiệp xây dựng cơ sở hậu cần dich vụ nghề cá…Vì thế phát triển thuỷ sản phải có sự kết hợp giữa ngành Nông- Lâm và Công nghiệp.
Thứ năm, sự phát triển thuỷ sản gắn liền với sự tồn tại của các thành phần kinh tế. Vai trò và các hình thức kinh doanh của nó trong ngành thuỷ sản rất đa dạng và khách quan, từ kinh tế hộ gia đình đến kinh tế trang trại, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản trong khai thác - nuôi trồng - chế biến và thương mại thuỷ sản.
Ngoài những đặc điểm tổng quát nói trên, ngành thủy sản Việt Nam còn có những đặc điểm đáng quan tâm sau:
- Việt Nam có bở biển dài trên 3 nghìn km, với nhiều sông lạch, ao hồ thuận lợi cho phát triển ngành thủy sản. Tuy nhiên những năm gần đây với sự cạn kiệt nguồn tài nguyên do khai thác bừa bải trong khi tốc độ tăng trưởng lao động vẫn tăng cao đã làm cho hiệu quả khai thác thủy sản giảm sút và lao động trong lĩnh vực khai thác đang có xu hướng giảm và chuyển dần sang các lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản.
- Do nằm trong khu vực nhiệt đới giáo mùa, nước ta có thảm động thực vật phong phú, đa dạng, có tiềm năng sinh khối lớn, có điều kiện bố trí và sử dụng lao động, công cụ sản xuất tốt hơn và mang lại hiệu quả cao.
- Đối tượng khai thác và nuôi trồng thủy sản nước ta chủ yếu là các loại Tôm, các loại Cá, các loại Nhuyễn Thể... có giá trị kinh tế cao. Nhưng hiện tại với việc khai thác bừa bãi thiếu khoa học cộng với việc đánh bắt có sử dụng mìn, điện đã làm giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy sản. Mặt khác, ngành thủy sản chưa có kế hoạch một cách khoa học và cụ thể trong việc công nghiệp hóa- hiện đại hóa quá trình sản xuất nên vấn đề phát triển bền vững và hiệu quả, môi trường sinh thái mất cân đối ở nước ta cần được coi trọng.
- Trình độ của lực lượng lao động nghề cá còn yếu kém đã tác động tiêu cực tới cả đầu vào và đầu ra của sản phẩm thủy sản. Vai trò của Nhà nước trong tìm kiếm, mở rộng thị trường chưa được quan tâm đúng mức làm cho người nông dân bị thiệt thòi về lợi ích kinh tế, không yên tâm đầu tư vốn và công nghệ để mở rộng sản xuất.
Như vậy, từ những đặc trưng chung và riêng của ngành thủy sản Việt Nam cho thấy. Thủy sản là một tổng thể các yếu tố tự nhiên - kinh tế - kỹ thuật - xã hội gắn bó mật thiết với nhau. Vì vậy, trong kế hoạch phát triển ngành thủy sản các kế hoạch cần được thực hiện một cách có hệ thống, khoa học; trong quản lý, các chính sách cần được ban hành một cách đồng bộ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên sức mạnh tổng thể đưa nền kinh tế thủy sản đi lên thực hiện tốt kế hoạch phát triển ngành thủy sản Việt Nam.
1.2. Tiềm năng phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam
Trong các ngành kinh tế quốc dân, ngành thuỷ sản là ngành có nhiều tiềm năng phát triển. Do đó, vấn đề của chúng ta trong những năm tới phải có những chính sách về đầu tư, quy hoạch sao cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.1. Tiềm năng về khai thác thuỷ sản tời gian tới
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km trải dài suốt 13 vĩ độ theo hướng Bắc Nam có 112 cửa sông, lạch. Vùng Biển nội thuỷ và lãnh hải rộng 228.000 km2, vùng biển kinh tế đặc quyền rộng khoảng 1 triệu km2 với hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ…là nguồn tiềm năng quý giá để phát triển ngành thuỷ sản nói chung và lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thuỷ sản nói riêng của nước ta. Với 2038 loài cá đã biết, trong đó cá hơn 100 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ lượng khoảng 3,1 triệu tấn/ năm, sản lượng khai thác cho phép từ 1,2 -1,4 triệu tấn/ năm. Giáp xác có 1647 loài trong đó Tôm có hơn 70 loài, Nhuyễn Thể 2500 loài với nhiều loài có giá trị kinh tế cao như Mực, Hải sản, Bào Ngư...Tuy gần đây sản lượng bị giảm sút một cách nhanh chóng do sự khai thác bừa bải thiếu tính khoa học nhất là những vùng gần bờ. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu thuộc Viện kinh tế thủy sản thì sản lượng tiềm năng phát triển thủy sản vẫn còn nhiều, đặc biệt là sản lượng những loài vùng xa bờ, sản lượng cá đáy và các loài nhuyễn thể…có thể đáp ứng cho nhu cầu phát triển của ngành thời kỳ tiếp theo.
Cùng với chương trình đánh bắt xa bờ. Các cơ sở đóng sửa tàu thuyền đã đóng mới nhiều tàu thuyền hàng năm và bổ sung hàng loạt các tàu thuyền đã củ, có công suất dưới 45 CV cộng với sự chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, trang thiết bị và công nghệ hiện đại vv...thì chắc chắn trong tương lại khả năng khai thác hải sản Việt Nam là rất lớn.
1.2.2. Tiềm năng về nuôi trồng thuỷ sản
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, diện tích mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản đế năm 2010 là 1.700.000 ha. Trong đó có 120.000 ha ao hồ nhỏ, mương vườn, chiếm 7%; 340.000 ha mặt nước lớn (20%); 580.000 ha ruộng trũng (34%); 660.000 ha vùng nước triều (39%). Ngoài ra còn có khoảng 300.000- 400.000 ha sông vùng vịnh quanh Đảo có thể nuôi trồng hải sản.
Với sự hoàn thiện đề án “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ngành thuỷ sản đến năm 2010” tháng 3 năm 2000, đây chính là cơ sở cho việc lập các dự án khả thi để đầu tư vào nuôi trồng của ngành thuỷ sản. Theo hướng đó, chúng ta đầu tư các trang thiết bị cũng như công nghệ hiện đại vào việc nuôi trồng theo quy mô công nghiệp. Thực tế cho chúng ta thấy rằng, năng suất nuôi trồng thuỷ sản hiện nay của ta còn thấp; diện tích khai thác nuôi trồng chưa được khải thác một cách triệt để… Trong những năm tới, nếu đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển nghiên cứu giống…Năng suất nuôi trồng thuỷ sản sẽ tăng lên góp phần vào thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản trong tương lai.
1.2.3. Tiềm năng về xuất khẩu thủy sản
Thực tế thị trường hàng thủy sản thế giới, xét về tổng thể là một thị trường còn có khả năng mở rộng và luôn có xu hướng cung chưa đáp ứng được cầu. Theo dự báo, trong thời gian trung hạn tới trọng tâm nhập khẩu thủy sản thế giới vẫn tập trung vào vào Nhật Bản, Bắc Mỹ và EU. Đặc biệt, EU với khả năng mở rộng liên minh thành 30 nước và đầu thế kỷ 21 so với 15 nước năm 2000 sẽ là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn nhất thế giới. Mặc dù thời gian qua thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam gặp phải một số khó khăn như: thị trường Nhật Bản nhìn chung đã ở mức bảo hòa và đang trong thời kỳ suy thoái kinh tế; thị trường các nước Đông á và Đông Nam á tạm thời trì trệ do cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thời gian từ 1997 trở lại đây...Với những đặc điểm như vậy, việc duy trì thị phần của Việt Nam ở đây là rất khó khăn và phụ thuộc rất lớn vào cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác trong khu vực và các nước trên thế giới.
Nhìn chung, khả năng hội nhập của Việt Nam vào ASEAN và AFTA, APEC... thời gian tới sẽ mở ra những cơ hội hợp tác và những thuận lợi cho việc tăng xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam vào khu vực. Đó là chưa kể tới sự mở rộng nhanh chóng của thị trường thủy sản Trung Quốc - là một thị trường láng giềng đầy tiềm năng. Với EU và Bắc Mỹ, trở ngại lớn nhất của thủy sản Việt Nam thâm nhập là việc đảm bảo chất lượng và an toàn hàng thủy sản theo những điều kiện HACCP. Những diễn biến gần đây cho phép chúng ta có cơ sở lạc quan rằng những năm tiếp theo, hàng thủy sản Việt Nam sẽ tăng cường mạnh sự hiện diện ở hai khu vực này. Mới đây nhất, sau hội nghị thưởng đỉnh á-âu ASEM, EU đã xếp Việt Nam vào nhóm I (nhóm nước đã được thanh tra của EU khảo sát và công nhận có đủ các điều kiện tương đương cho phép xuất khẩu thủy sản vào EU. Còn xuất khẩu vào thị trường Mỹ cũng sẽ được cải thiện rất nhiều khi hiện nay Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được ký kết. Do vậy, dự đoán tỷ trọng sang EU và Mỹ đến 2005 có thể sẽ đạt mức 35%- 40% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước. Ngoài ra các thị trường thuyền thống cũ của Việt Nam ở Đông âu, Trung Đông, Bắc Phi và các thị trường khác, tuy không lớn nhưng có thể có cơ hội tốt cho xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam nhờ vào hàng rào mậu dịch và chất lượng không quá khắt khe và nền kinh tế đang được phát triển mạnh mẽ. Như vậy, tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam thời gian tới là rất lớn. Chúng ta cần có những chính sách khai thác hợp lý để thu được kết quả cao hơn nữa.
1.2.4.Một số tiềm năng khác để phát triển ngành thuỷ sản
* Nguồn nhân lực đồi dào:
Việt Nam với số dân đông và rẻ là một tiềm năng dồi dào cho phát triển ngành thuỷ sản. Hiện nay số lao động nghề cá hiện có gần 6,5 triệu người, dự tính tới năm 2010 sẽ tăng lên 10 triệu người.
Nguồn nhân lực cho phát triển thuỷ sản dồi dào với hàng chục triệu hộ nông dân vừa làm nông nghiệp vừa khai thác thuỷ sản. Trên 5 triệu dân sinh sống ở vùng triều và có khoảng 1,5 triệu dân sống ở các đầm phá, tuyến đảo thuộc 29 tỉnh và thành phố có Biển. Lao động nghề cá Việt Nam có truyền thống cần cù, sáng tạo, có khả năng tiếp thu nhanh những cái mới nói chung, khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến nói riêng. Trong thời gian tới, chính sách đào tạo nguồn nhân lực là một trong những quyết sách quan trọng của ngành nhằm đáp ứng đòi hỏi của thời đại cộng với giá cả sức lao động của nhân công nghề cá tương đối rẻ cũng là những tiềm năng rất lớn cho phát triển thuỷ sản Việt Nam.
* Lợi thế người đi sau:
Với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Để ngành thuỷ sản Việt Nam có thể phát triển nhanh bền vững và có vị thế ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới trước thực tế nền kinh tế và khoa học kỹ thuật nước nhà còn nghèo nàn và lạc hậu. Xuất phát điểm là những nước đi sau, chúng ta cần tăng cường hơn nữa xu thế hội nhập thế giới này để kêu gọi đầu tư, nguồn vốn nước ngoài, chuyển giao công nghệ hiện đại đặc biệt trong công nghệ khai thác hải sản xa bờ và công nghệ sinh học phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, công nghệ chế biến sản phẩm xuất khẩu…
Ngoài ra, được sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước và sự nỗ lực không ngừng của các Ban, Bộ, Ngành liên quan cộng với vận dụng khoa học có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của mình. Hy vọng trong thời gian tới ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ phát triển nhanh và vươn xa hơn.
ị Như vậy, tiềm năng phát triển thuỷ sản Việt Nam thời gian tới là rất lớn, chúng ta cần tận dụng và khai thác triệt để hơn nữa những tiềm năng này cho mục tiêu phát tiển thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
2. Vai trò của ngành thuỷ sản đối với phát triển kinh tế đất nước
Thuỷ sản là ngành sản xuất kinh doanh quan trọng nhất của kinh tế biển. Thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, là ngành tạo công ăn việc làm cho những cộng đồng nhân dân đặc biệt là những vùng nông thôn và những vùng ven Biển; là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho một bộ phận nhân dân làm nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ, cũng như các ngành dịch vụ cho nghề cá. Ngoài ra thuỷ sản còn đóng góp rất đáng kể cho khởi động tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
2.1. Vai trò của ngành thuỷ sản đối với tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân
* Vai trò ngành thuỷ sản đối với tăng trưởng kinh tế
Trong khoảng thời gian 1995 đến nay, ngành thuỷ sản Việt Nam đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về sản lượng và giá trị. Đóng góp một cách rất to lớn tới sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Ngành thuỷ sản đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, là một trong những hướng ưu tiên chính của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay. Trong những năm qua (1995-2001), ngành đã đóng góp cho nền kinh tế bình quân 3,22% tổng GDP hàng năm.
Bảng 1.1. Đóng góp của ngành thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân
Đơn vị: Tỷ đồng
Giá trị SP
1995
1998
1999
2000
2001
Cả nước
228.892
361.017
399.942
441.646
484.493
Thủy sản
6.664
11.598
12.651
14.906
16.645
Cơ cấu(%)
2,91
3,32
3,16
3,38
3,34
Nguồn: Niên giám thống kê - năm 2001
Bên cạnh đó, thời gian qua, mặt hàng thuỷ sản đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đứng thứ ba chỉ sau xuất khẩu Dầu thô và Dệt May của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Bảng 1.2: Đóng góp của xuất khẩu thuỷ sản vào tổng kim ngạch xuất cả nước
Đơn vị: Triệu USD
Chỉ tiêu
1995
1998
1999
2000
2001
Tổng KNXK cả nước
5.448,6
9.360,3
11.541,4
14.482,7
15.027
XK Thủy sản
621.4
858,0
973,6
1.478,5
1.777,6
Cơ cấu (%)
11,4
9,17
8,435
10,21
11,83
Nguồn: Niên giám thống kê - năm 2001
Như vậy, nhìn vào bảng ta có thể thấy kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản thời gian qua có xu hướng giảm nhưng hiện nay đã bắt đầu tăng nhanh, bình quân thủy sản chiếm 10,21% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Ngoài ra sự phát triển của các thành phần kinh tế trong nghề cá cũng làm tăng thêm mức thu cho Ngân sách quốc gia. Hiện nay, ngư dân và các thành phần kinh tế phải đóng các loại thuế như: Thuế tài nguyên, thuế môn bài, thuế doanh thu,...Tuy nhiên con số cụ thể về mức đóng thuế từ nghề cá trong ngân sách chưa được thống kê một cách cụ thể.
* Vai trò đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá kinh tế đất nước, cơ cấu kinh tế mức độ xã hội hoá, sự phân công lao động và các mối quan hệ về mặt số lượng trong sản xuất kinh doanh, trong những điều kiện không gian và thời gian nhất định. Chính vì thế, phát triển thuỷ sản là một trong những nội dung quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Việc thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế trong nghề cá cũng có tác động tới thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng đa dạng hoá ngành nghề sản xuất. Tất cả các chủ trương chính sách, tổ chức chỉ đạo thực hiện được đưa ra đều nhằm khuyến khích, động viên, huy động thúc đẩy sự phát triển của mọi tầng lớp, mọi thành phần kinh tế trong nghề cá, nhưng hộ gia đình vẫn là một thành phần kinh tế ưu tiên hơn cả. Nghề cá hộ gia đình, tư nhân đã chứng minh được hiệu quả kinh tế cao và đặc biệt quan trọng trong việc huy động nguồn lực trong nội bộ ngành cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản nói riêng và ngành kinh tế nói chung. Ngoài ra, có thể nói rằng trong thời gian qua, ngành thủy sản là một ngành công nghiệp có sự phát triển mạnh mẽ nhất, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến thủy sản. Các nhà máy mới được ra đời và ổn định trong những năm tiếp theo theo hướng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phảm và phù hợp với yêu cầu công nghệ của từng nhóm hàng và nhu cầu tiêu thụ khó tính của thị trường. Nâng sức cạnh tranh của sản phảm xuất khẩu trên thị trường thế giới để thu được nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Như vậy, sự chuyển đổi cơ cấu của ngành thủy sản sẽ không chỉ bó hẹp trong phạm vi bản thân của ngành, nó sẽ là mắt xích trong sự chuyển đổi cơ cấu chung của kinh tế và tạo nội lực cho sự phát triển chung của kinh tế đất nước.
2.2 Vai trò của ngành thuỷ sản đối với giải quyết việc làm và nâng cao đời sống nhân dân
Ngành thuỷ sản góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu người dân Việt Nam. Theo số liệu thống kê, dân số sống dựa vào nghề cá không ngừng tăng nhanh qua các thời kỳ. Năm 1995 có khoảng 6,2 triệu người đến năm 2000 đã tăng tới 8,2 triệu người và ngày nay con số đó đã xấp xỉ 10 triệu người. Thu nhập thường xuyên trong nghề cá tăng trung bình 16%/ năm trong thời gian qua (1995-2002). Nhiều cộng đồng dân cư nhất là các cộng đồng dân cư sống ở vùng ven biển, trên vùng đầm phá có cuộc sống phải dựa vào ngành thuỷ sản, trong số họ đại bộ phận rất nghèo khổ. Đối với đời sống của người dân, hải sản cung cấp một lượng chất dinh dưỡng rất lớn không thể thiếu của cuộc sống. Đặc biệt đối với người dân vùng ven biển, thuỷ sản hàng ngàn năm nay là một trong những nguồn sống chính của họ. Thời gian qua, nhờ chuyển từ sản xuất cho tiêu dùng trong nước sang xuất khẩu , nhờ tác động của phát triển các lĩnh vực ngành thuỷ sản, giá cả và vị trí của các sản phẩm thuỷ sản tăng lên làm cho việc sản xuất các mặt hàng tăng lên, tạo ra nhiều việc làm và thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho người dân lao động. Phát triển thuỷ sản là một hướng rất tích cực để giải quyết vấn đề dư thừa lao động đang rất cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
2.3 Vai trò đối với môi trường sinh thái
Ngành thuỷ sản gắn liền với điều kiện tự nhiên như ao hồ, sông suối, biển, tài nguyên sinh vật...Vì thế phát triển thuỷ sản có ảnh hưởng rất lớn tới sự biến động của tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái. Với sự phát triển không ngừng của ngành thuỷ sản, khả năng khai thác được nâng cao, những vùng gần bờ nơi có điều kiện thuận lợi nhất đã bị khai thác tới trần, nhiều môi trường đã bị sử dụng quá mức cho phép. Cộng với sự đánh bắt vô ý thức như đánh bắt bằng mìn, bằng lưới điện...làm nguy hại nghiêm trọng tới môi trường sinh thái. Bên cạnh đó, với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chế biến dẫn tới sản lượng sản phẩm thuỷ sản chế biến tăng nhanh đồng nghĩa với việc tăng nhanh rác thải công nghiệp thuỷ sản trong khi các doanh nghiệp trong khi cơ sở chế biến chưa có chính sách đầu tư thích đáng để xử lý rác thải sao cho hợp lý.
Như vậy, phát triển thuỷ sản đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm và biện pháp bảo vệ môi trường, để thế hệ tương lai không bị ảnh hưởng do hiện tại để lại.
2.4. Vai trò thủy sản đối với bảo vệ an ninh chủ quyền, lãnh thổ quốc gia
Nước ta với hơn 1 triệu km2 mặt Biển, đây là con số tương đối lớn vì thế vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta khai thác được, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản một cách hợp lý, tránh sự xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia của các tàu đánh cá nước ngoài. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua vấn đề an ninh chủ quyền lãnh thổ quốc gia đang gặp nhiều khó khăn. Việc khai thác trái phép của các tàu thuyền nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan, Philipin...) gây nhiều khó khăn cho bộ đội Biên phòng, lực lượng Hải quân trong việc phát hiện và bảo vệ nguồn lợi hải sản. Sự phát triển của thuỷ sản sẽ cho phép xây dựng các dự án đánh bắt xa bờ, đầu tư các loại tàu thuyền đi biển dài ngày với máy móc hiện đại... Với sự hiện diện đó của các công dân Việt Nam trên khắp các vị trí của biển cả sẽ nâng cao được khả năng kiểm soát và bảo vệ nguồn lợi hải sản quốc gia, bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ đất nước.
II. Các bộ phận cấu thành kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản
Kế hoạch phát triển ngành thủy sản là tổng thể những bộ phận cấu thành của các kế hoạch mục tiêu. Nó bao gồm các bộ phận sau:
1. Kế hoạch tăng trưởng kinh tế ngành thuỷ sản
Kế hoạch hoá tăng trưởng kinh tế ngành thuỷ sản là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch hoá phát triển ngành, nó xác định các mục tiêu gia tăng về quy mô sản xuất và dịch vụ của ngành trong thời kỳ kế hoạch và các chính sách cần thiết để đảm bảo tăng trưởng trong mối quan hệ trực tiếp với các yếu tố nguồn lực và các chỉ tiêu xã hội.
Các chỉ tiêu của kế hoạch tăng trưởng là cơ sở để xác định các kế hoạch mục tiêu khác như mục tiêu cải thiện đời sống, tăng thu nhập dân cư, mục tiêu tăng trưởng các lĩnh vực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng kinh tế trong kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Các chỉ tiêu của kế hoạch tăng trưởng còn được sử dụng làm cơ sở cho việc xây dựng các cân đối chủ yếu cho phát triển kinh tế ngành cho thời kế hoạch.
Nội dung của kế hoạch tăng trưởng kinh tế ngành thuỷ sản
i- Xác định các mục tiêu tăng trưởng bao gồm việc lập các chỉ tiêu:
+ Chỉ tiêu kế hoạch tăng trưởng sản lượng thuỷ sản
+ Chỉ tiêu giá trị xuất khẩu thuỷ sản
+ Chỉ tiêu diện tích nuôi trồng thuỷ sản
+ Chỉ tiêu nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản
+ Chỉ tiêu cơ sở chế biến - hậu cần - dịch vụ nghề cá
+ Chỉ tiêu nguồn lao động phục vụ nghề cá
ii- Xây dựng các chính sách cần thiết có liên quan tới tăng trưởng kinh tế ngành như :
+ Chính sách tăng cường các yếu tố nguồn lực
+ Chính sách tăng trưởng nhanh đi đôi với các vấn đề lên quan mang tính chất hệ quả trực tiếp của tăng trưởng làm kiệt quệ nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường...
2. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thuỷ sản
Cơ cấu kinh tế là cấu trúc bên trong của quá trình tái sản xuất. Nó thường thể hiện bằng số lượng và chất lượng các thành phần, các mối quan hệ và các hình thức tác động tương hỗ của các lĩnh vực, thành phần và các loại hình kinh tế khác nhau. Trong kế hoạch người ta thường cho rằng cơ cấu kinh tế gồm các cấu thành có liên quan chắt chẽ với nhau trong quá trình phát triển đó là: Cơ cấu sản xuất và cơ cấu các thành phần kinh tế. Ngoài ra, tuỳ theo không gian và thời gian của bộ phận kinh tế lớn hay nhỏ mà có cơ cấu kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế của từng ngành, lĩnh vực sản xuất.
Cơ cấu kinh tế ngành thuỷ sản được phân thành nhiều bộ phận: Cơ cấu các lĩnh vực hoạt động (dựa trên giác độ phân công sản xuất) và Cơ cấu vùng kinh tế ( xét dưới giác độ hoạt động kinh tế).
* Cơ cấu các lĩnh vực hoạt động bao gồm: Khai thác hải sản, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến thuỷ sản... Trong quá trình hoạt động sản xuất, các lĩnh vực này có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Khai thác thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản là lĩnh vực cung cấp nguyên vật liệu cho ngành chế biến, tiếp đến để những sản phẩm này tới tay người tiêu dùng thì phải qua phân phối và trao đổi, quá trình này thương mại thuỷ sản và xuất khẩu thuỷ sản đảm nhận. Mối quan hệ giữa các bộ phận của ngành không chỉ thể hiện về mặt định tính mà còn được tính toán thông qua tỷ lệ giữa các bộ phận đó.
* Cơ cấu vùng: Cơ cấu vùng hình thành từ việc phân bố vị trí sản xuất theo không gian địa lý. Nước ta, ngành thuỷ sản phân chia thành 4 vùng kinh tế: Vùng Bắc Bộ (các tỉnh từ Quảng Ninh tới Ninh Bình); Vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hoá- Thừa Thiên Huế); Vùng Nam Trung Bộ (Đà Nẵng- Bình Thuận); Vùng Nam Bộ (Bà Rịa Vũng Tàu- Kiên Giang). Mỗi vùng lãnh thổ là một bộ phận tổ hợp của nền kinh tế Quốc dân. Do đó, sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động, kết cấu hạ tầng và các điều kiện xã hội khác tạo cho mỗi vùng có những đặc thù, thế mạnh riêng. Để tận dụng lợi thế đó, mỗi vùng lãnh thổ đều hướng tới những lĩnh vực chuyên môn hoá của mình.
2.1. Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành thủy sản
i-Xác định cơ cấu các lĩnh vực hoạt động sản xuất của ngành thuỷ sản
- Cơ cấu hoạt động khai thác hải sản
- Cơ cấu hoạt động nuôi trồng thuỷ sản
- Cơ cấu hoạt động chế biến - xuất khẩu thuỷ sản
ii- Các yếu tố tác động đến các lĩnh vực hoạt động sản xuất ngành:
- Đối ._.với khai thác thuỷ sản gồm :
+ Cơ cấu tàu thuyền đánh cá (sản lượng và công suất tàu thuyền)
+ Cơ cấu nghề nghiệp khai thác hải sản
+ Cơ cấu sản lượng khai thác hải sản
+ Cơ cấu sản phẩm khai thác hải sản
- Đối với nuôi trồng thuỷ sản gồm :
+ Cơ cấu diện tích mặt nước được sử dụng
+ Cơ cấu sản lượng nuôi trồng thuỷ sản
+ Cơ cấu công nghệ nuôi trồng thuỷ sản
- Đối với chế biến thuỷ sản gồm :
+ Cơ cấu nhà máy chế biến và công suất hoạt động
+ Cơ cấu sản phẩm chế biến
2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế ngành thủy sản
Nội dung cơ cấu thành phần kinh tế ngành thủy sản bao gồm việc xác định các thành phần tham gia hoạt động vào các lĩnh vực sản xuất thủy sản như khai thác, nuôi trồng, dịch vụ hậu cần và thương mại trong ngành. Xác định số lượng các thành phần trong từng lĩnh vực hoạt động và cơ cấu tỷ trọng, sự phân bổ của các thành phần đó trên các vùng lãnh thổ đất nước. Trong ngành thủy sản Việt Nam, tham gia hoạt động gồm có 5 thành phần kinh: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản Nhà nước.
Nội dung của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế ngành thủy sản là : Xác định số lượng, cơ cấu và sự phân bổ thành phần kinh tế Nhà Nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản Nhà nước sao cho hợp lý để phát huy hiệu quả cao nhất quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
3. Kế hoạch phát triển xuất khẩu thuỷ sản
Thuỷ sản đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp chất dinh dưỡng cho nhân loại, thuỷ sản còn là nguồn thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho lao động nghề cá và thu ngoại tệ cho quốc gia. Nhu cầu tiêu dùng cho đầu người trên thế giới không ngừng tăng lên đồng nghĩa với sự tăng thêm của mẫu mã, chủng loại và chất lượng của sản phẩm. Vì thế để phát triển ngành thuỷ sản không phải chỉ phát triển các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến thuỷ sản nội địa mà chúng ta còn phải phát triển cả về lĩnh vực xuất khẩu ra thế giới. Làm thế nào để thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm mình trên trường quốc tế đó là mục tiêu quyết định nhất của kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản. Như vậy, để ngành thuỷ sản phát triển một cách đồng đều chúng ta cần phải xây dựng một kế hoạch xuất khẩu cụ thể trong đó xác định rõ nội dung :
i - Cơ cấu thị trường : Xác định được các chỉ tiêu của thị trường, cơ cấu thị trường chính, thị trường mới - tiềm năng cần khai thác và mở rộng.
ii - Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu : Xác định tỷ trọng của các sản phẩm xuất khẩu và tỷ trọng đó trên các thị trường tiêu thụ đồng thời xây dựng các phương án nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm mình trên thị trường để thu được kết quả cao nhất.
Như vậy, với kế hoạch mỡ rộng và đa dạng hoá thị trường tiêu thụ; đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm mình trên thị trường thế giới. Trong tương lai không xa xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ có bước phát triển vững mạnh ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới.
4. Các kế hoạch nguồn lực cần thiết cho phát triển ngành thủy sản
4.1. Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
Với chiến lược lấy con người làm trung tâm của sự phát triển thì nguồn nhân lực trong ngành thuỷ sản có một vị trí vô cùng quan trọng trong kế hoạch hoá phát triển ngành. Kế hoạch hoá lực lượng lao động xác định quy mô, cơ cấu, chất lượng của bộ phận dân cư tham gia vào hoạt động sản xuất cần huy động cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế ngành. Các chỉ tiêu về nhu cầu việc làm mới, nhiệm vụ giải quyết việc làm trong kỳ kế hoạch đồng thời đưa ra các chính sách và giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động của ngành.
Nội dung của kế hoạch phát triển lao động ngành thuỷ sản bao gồm :
i - Xác định nhu cầu lao động cho các lĩnh vực ngành
- Nhu cầu trong khai thác thuỷ sản
- Trong nuôi trồng thuỷ sản
- Trong chế biến thuỷ sản
ii - Xác định nhu cầu đào tạo lao động của ngành
Lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản với việc đào tạo công nhân kỹ thuật cao, đào tạo đại học, sạu đại hoc, tiến sỹ, trung cấp, công nhân lành nghề...Đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế ngành thủy sản.
4.2. Kế hoạch vốn đầu tư
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ giá trị các tư liệu sản xuất được hình thành từ các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mỡ rộng.
Nội dung của kế hoạch hoá nguồn vồn đầu tư xác định quy mô cơ cấu tổng nhu cầu vốn đầu tư ngành cần và cân đối với các nguồn đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển ngành trong kỳ kế hoạch, bao gồm :
i - Xác định nhu cầu khối lượng vốn đầu tư ngành
Xác định tổng nhu cầu khối lượng vốn đầu tư là đối tượng chính trong nôi dung kế hoạch. Nhiệm vụ chủ yếu là xác định được tổng khối lượng vốn đầu tư cần tích luỹ, phân chia nhu cầu vốn đầu tư theo các lĩnh vực hoạt động.
ii - Cân đối nguồn hình thành vốn đầu tư kỳ kế hoạch
- Cân đối nguồn vốn trong nước và ngoài nước
- Đảm bảo cân đối vốn đầu tư từ các nguồn trong nước đồng thời khai thác triệt để các nguồn đầu tư từ nước ngoài.
iii - Xây dựng các chính sách khuyến khích thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước vào đầu tư (như: Sửa đổi luật đầu tư, chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài...)
Như vậy, kế hoạch phát triển ngành thủy sản bao gồm nhiều bộ phận kế hoạch mục tiêu cấu thành. Các bộ phận này có mối quan hệ mật thiết với nhau, mục tiêu này được thực hiện tốt là tiền đề để thực hiện những mục tiêu tiếp theo và mục tiêu tổng thể. Vì thế cần phải có những giải mang tính pháp hệ thống và cụ thể. Hy vọng thời gian tới, ngành thủy sản thực hiện tốt kế hoạch phát triển mà ngành đề ra.
III. Các yếu tố liên quan tới việc thực hiện Kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản
1. Nhóm nhân tố tự nhiên
Đánh giá đúng những tài nguyên thiên nhiên, các điều kiện và khả năng khai thác những tiềm năng đó. Một đặc điểm quan trọng của phát triển thuỷ sản là đại bộ phận lĩnh vực sản xuất từ khai thác tới nuôi trồng là sự chiếm hữu và lợi dụng tự nhiên, do đó cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của những điều kiện tự nhiên như là điều kiện tiên quyết của việc thực hiện kế hoạch. Những tiềm năng thiên nhiên mà dựa vào đó ngành thuỷ sản có thể tồn tại và phát triển là đất đai, sông ngòi, biển, ao hồ và các mặt nước khác nơi mà các sinh vật thuỷ sinh có thể sinh sống. Chúng ta phải có sự đánh giá một cách chuẩn mực và có khoa học tiềm năng và nguồn lợi này để đưa ra các chỉ tiêu kế họach hợp lý và thực hiện chúng. Ngoài ra thuỷ sản cũng gặp phải những hạn chế và rủi ro do sự thay đổi bất thường của thời tiết, khí hậu gây ra như : bảo, lũ, thời tiết nóng gây dễ bị ươn thối …Vì thế, kế hoạch phát triển thuỷ sản phải xác định được đúng thế mạnh cũng như những điểm bất lợi của đất nước, của ngành mới mong có được một kế hoạch tối ưu và thực hiện đạt hiệu quả cao nhất. Như vậy, nhóm nhân tố tự nhiên ảnh hưởng bao trùm tất cả kế hoạch phát triển của ngành.
Chẳng hạn, khi muốn phát triển một đội tàu khai thác xa bờ, ta cần hiểu biết rõ về khả năng của nguồn lợi thực tế ở biển khơi có thể cho một đội tàu hoạt động sinh lợi lâu dài hay không? Các công nghệ nào có thể áp dụng thích hợp? Tuyệt đối không nên đầu tư một cách duy ý chí vào đội tàu đó nếu như chưa biết kỹ lưỡng về các điều kiện đảm bảo sinh lợi lâu dài. Nếu không có thể gây ra những hậu quả xấu khôn lường vì việc đầu tư vào một đội tàu là rất lớn.
2. Những nhân tố thị trường sản phẩm thủy sản
Nhân tố thị trường trong nước và quốc tế đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển thuỷ sản trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Thị trường là một yếu tố khách quan đối với phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành. Thực chất trong nền kinh tế thị trường hiện hành, giá cả là một phạm trù tồn tại khách quan. Giá cả có vai trò quan trọng trong việc kích thích hoặc hạn chế tiêu dùng từ đó kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Chính sự vận động của giá cả định hướng cho sự biến động của cơ cấu sản xuất và thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng nhất là chỉ tiêu xuất khẩu của ngành. Hơn thế nữa, thị trường chính là môi trường để qua đó sản phẩm của ngành được tiêu thụ và tới tay người tiêu dùng. Tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên thị trường sẽ tích lũy được vốn sau đó sử dụng tiền đó vào tái sản xuất mở rộng và tái sản xuất chiều sâu. Đây chính là tiền đề để thực hiện tốt kế hoạch cho các thời kỳ tiếp sau.
Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Việc thành lập các tổ chức thương mại Quốc tế như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), diến đàn hợp tác Châu á Thái bình dương (APEC), khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)...đang trở nên phổ biến. Điều này cũng tạo cho thuỷ sản Việt Nam những cơ hội và thách thức lớn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và chuyển dao công nghệ hiện đại, kinh nghiệp quản lý ...
Chúng ta sản xuất phục vụ cho nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới có đặc điểm luôn biến động theo thu nhập, thị hiếu và tập quán sử dụng thực phẩm. Bởi vậy kế hoạch hoá phát triển phải linh hoạt để đáp ứng được các nhu cầu thị trường đa dạng và luôn luôn biến động đó.
3. Các nhân tố về kinh tế - xã hội
Các nhân tố về kinh tế - xã hội nổi lên như những yêu cầu chung, những đòi hỏi của xã hội đối với phát triển kinh tế ngành. Chẳng hạn như nhu cầu kết hợp Nông- Lâm- Ngư để tạo thế phát triển bền vững; nhu cầu phát triển cơ cấu canh tác và chọn phương án khai thác tài nguyên hợp lý để xoá đói giảm nghèo, tạo thêm công ăn việc làm hay trình độ phát triển đã đạt được của ngành (về kỹ thuật, công nghệ, nguồn vốn, lao động, quan hệ sản xuất...) ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển ngành. Nếu chủ quan duy ý chí trong việc đánh giá thực trạng kinh tế sẽ ảo tưởng trong việc định hướng kế hoạch phát triển và những mô hình mang tính tiêu cực. Ví dụ, trong lĩnh vực khai thác biển và xây dựng cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá nếu xác định sai về cơ cấu đầu tư có thể dẫn tới sự sụp đổ của nghề cá, sự tốn kém, lãng phí rất lớn và lâu dài.
4. Nhóm nhân tố về khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là nhân tố có tác động rất lớn, trực tiếp tới sự hình thành và thành công của kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản. Khoa học công nghệ phát triển sẽ tạo những điều kiện và khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới, trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, phương pháp công nghệ, đội ngũ cán bộ và khả năng của mạng lưới khuyến ngư, đào tạo nguồn lao động được nâng cao. Ví dụ: việc áp dụng khoa học công nghệ vào phát triển ngành thuỷ sản (khai thác, nuôi trồng, chế biến, thương mại...) giúp ngành thuỷ sản tạo ra được nhiều nguyên vật liệu hơn, có nhiều sản phẩm chế biến chất lượng tốt hơn, cạnh tranh cao hơn, khả năng nắm bắt thông tin cập nhật và chính xác hơn, đa dạng loại hình sản phẩm hơn và cải tiến đáng kể các phương tiện đánh bắt, cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá... Tất cả những yếu tố này là tiền đề để thực hiện đạt hiệu quả cao nhất kế hoạch của ngành.
5. Nhân tố về nguồn lực phát triển ảnh hưởng tới thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản
Một kế hoạch để thực hiện thành công không thể không có sự đóng góp của các nguồn lực như lao động và vốn. Lao động và vốn là những yếu tố cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng đặc biệt ,tạo động lực rất lớn tới việc thực hiện kế hoạch. Trong đó :
Nguồn lực lao động có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động của ngành thủy sản, từ người lập các kế hoạch phát triển tới những người trực tiếp sản xuất. Chung quy lại, khi ngành có một nguồn lực phát triển đó là lao động có tay nghề, có trình độ, kinh nghiệm...sẽ làm cho năng suất lao động tăng lên. Từ đó thực hiện tốt các chỉ tiêu phát triển của ngành, đồng thời thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu ngành và phân công lao động trong các lĩnh vực sản xuất. Đúng như V.I Lênin đã nói “xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”.
Nguồn vốn, đó là tất cả tài sản cố định như cơ sở hạ tầng, hậu cần dịch vụ , tàu thuyền, bến cảng...của nghề cá và nguồn vốn lưu động. Nguồn vốn chích là cơ sở hay nói đúng hơn chính là điều kiện đủ cho qúa trình phát triển, không có nó chắc chắn sẽ không thực hiện được những mục tiêu mà kế hoạch ngành đề ra.
Tóm lại, để thực hiện tốt kế hoạch phát triển ngành thì cần phải có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao và có những chính sách, giải pháp thu hút, tích lũy được càng nhiều vốn càng tốt.
6. Tác động của những nhân tố chính trị - kinh tế bên ngoài
Đó là sự phân công hợp tác quốc tế, nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc tế như: Bảo vệ nguồn lợi, môi trường sinh thái. Sự biến động của các quan hệ quốc tế, sự cần thiết phải tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng cũng là những nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản (vì ngành thuỷ sản có nhiều hoạt động trong môi trường biển và vùng ven bờ là nơi rất nhảy cảm với vấn đề môi trường)
ị Như vậy, phát triển Thuỷ sản là một nhu cầu mang tình khách quan của một nền kinh tế phát triển. Để thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản một cách thành công và đạt kết quả cao nhất, chúng ta phải phân tích, đánh giá những nhân tố ảnh hưởng tới nó. Sự tác động của các nhân tố đó phụ thuộc lẫn nhau theo những tỷ lệ hết sức chặt chẽ. Mỗi một nhân tố đều có tầm quan trọng riêng và ảnh hưởng tới toàn bộ quá trình phát triển. Nhận thức rõ điều đó sẽ giúp ngành thuỷ sản tìm ra được những biện pháp thích hợp. Đó chính là tiền đề cho sự thành công và phát triển thuỷ sản Việt Nam trong thời gian tới.
Chương II
Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển ngành Thuỷ sản thời gian qua 2001-2002
trong khuôn khổ kế hoạch 5 năm 2001-2005
I. Những mục tiêu chủ yếu kế hoạch phát triển ngành Thuỷ sản 2001-2005 và hai năm đầu 2001-2002
1. Phương hướng chung
Đẩy mạnh sự công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành thuỷ sản, thực hiện chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế, đảm bảo tăng trưởng bền vững để đến năm 2005 đạt tổng sản lượng thuỷ sản 2,55 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu đạt 3,0 tỷ USD. Nâng cao vai trò khoa học công nghệ tạo động lực mới cho sự phát triển và và đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút thêm nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, đào tạo nguồn nhân lực. Thu hút các thành phần kinh tế vào đầu tư, phát triển thuỷ sản, phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ, thực hiện xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội vùng nông thôn ven biển. Thực hiện cải cách công tác quản lý nhà nước, tăng cường năng lực thể chế, bộ máy tổ chức và cải tiến các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ.
Những mục tiêu chung của kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản 2001-2005 được cụ thể bằng những chương trình kinh tế sau:
2. Các chương trình kinh tế ngành thủy sản
2.1. Chương trình khai thác hải sản xa bờ
Để đạt mục tiêu tăng trưởng và khai thác hợp lý (cân đối giữa khai thác vùng gần bờ và xa bờ). Cần đóng mới từ 500 đến 700 chiếc tàu đánh bắt xa bờ có công suất phù hợp, hiện đại. Ngoài ra tập trung cải hoán, nâng cấp đội tàu hiện có với công suất lớn hơn và công nghệ khai thác, hệ thống hiện đại ngay trên tàu.
- Phát triển cơ sở hạ tầng tương ứng với phát triển năng lực khai thác hải sản. Đồng thời tăng cường điều tra nguồn lợi, theo dõi sự phân bố của đàn cá và phân bố nguồn lợi các ngư trường. Đặc biệt tập trung vào các ngư trường: Vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ, Đảo Trường Sa...
- Đẩy mạnh công tác đào tạo cho đánh bắt hải sản. Mục tiêu thời kỳ 2001-2005 đào tạo 16.200 người (Đại học 486 người, Trung học 1.620, công nhân kỹ thuật 7.614, Thuyền trưởng 1.620, máy trưởng 1.620, và các lớp bồi dưỡng ngắn hạn...) cho sự nghiệp phát triển ngành thuỷ sản.
- Ngoài ra tăng cường hợp tác quốc tế hoàn thiện phương án hợp tác quốc tế đánh bắt hải sản trên biển ở khu vực ngoài 50m. Đẩy mạnh tiếp xúc các tổ chức quốc tế để thu hút vốn cho đào tạo phát triển dịch vụ hậu cần ngành thuỷ sản .
Tổng vốn đầu tư của chương trình thời kỳ 2001-2005 là: 3.966,6 tỷ đồng.
2.2. Chương trình nuôi trồng Thuỷ sản
Nhằm đẩy mạnh và ổn định nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu đồng thời thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác. Ngành thuỷ sản phấn đấu đến năm 2005, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt 1,15 triệu tấn, trong đó sản lượng Tôm trên 200.000 tấn chiếm 18-25% tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng thêm 400.000 ha để đạt 1.200.000 ha. Đẩy mạnh nuôi các loài giá trị kinh tế cao như Tôm, cá Sòng, cá Dò, cá Cam, nghêu, sò huyết...
- Sản xuất giống đến năm 2005 đạt 24,04 tỷ con, trong đó giống Tôm mặn, lợ 12 tỷ con; Tôm càng xanh 1,6 tỷ con; cá giống biển, lợ 1,7 tỷ con; nhuyễn thể 1,2 tỷ con; giống cá nước ngọtcác loài 7,54 tỷ con. Thức ăn đạt 244.000 tấn chiếm 60% thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thuỷ sản trong nước. Ngoài ra đầu tư thiết lập các trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường, dự báo bệnh tại các vùng trọng điểm. Phát triển và hoàn thiện công nghệ về sản xuất giống cho những đối tượng có giá trị kinh tế cao.
- Công tác đào tạo cho nuôi trồng thuỷ sản, phấn đấu đến năm 2005 có 5.025 người được đào tạo.Trong đó đại học 1.000; trung cấp 3.000; thạc sỹ 200; tiến sỹ 25 người.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút khoa học công nghệ về sản xuất thuỷ sản nhân tạo. Xúc tiến thực hiện các dự án quốc tế và tìm nhà tài trợ cho đầu tư.
Dự kiến tổng vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ này là: 18.189 tỷ đồng.
2.3. Chương trình chế biến và xuất khẩu Thuỷ sản
Nhằm mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm hải sản cho xuất khẩu. Mục tiêu đến năm 2005 kim ngạnh xuất khẩu đạt 3,0 tỷ USD. Đến năm 2005 cần nâng cấp 80 cơ sở chế biến hải sản xuất khẩu hiện có và xây mới 20 nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh, áp dụng những tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để đưa công suất chế biến lên 1.500 tấn/ ngày.
- Xây dựng các khu công nghiệp chế biến thuỷ sản ở thành phố và mỗi vùng nhằm phù hợp với quy hoạch và đầu tư phát triển ngành. áp dụng 100% từ 2001 hệ thống chất lượng đối với các cơ sở chế biến nhằm bảo đảm an toàn và vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng và xuất khẩu.
- Mở rộng thị trường mới, duy trì thị trường truyền thống đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ chuyên môn, khoa học công nghệ, khuyến ngư và công tác tiếp thị.
- Hợp tác quốc tế, chủ động đưa các doanh nghiệp vào hoạt động theo khuôn khổ cam kết của Việt Nam với AFTA, WTO, APEC... Hoàn thiện các văn bản pháp lý cũng như năng lực hoạt động của cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền và kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản xuất nhập khẩu. Thu hút nguồn vốn nước ngoài và hoạt động đầu tư trực tiếp về lĩnh vực chế biến nhằm làm tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá hàng thuỷ sản .
Tổng nguồn vốn đầu tư thời kỳ 2001-2005 cho chương trình này ước khoảng: 1.935 tỷ đồng.
Ngoài ra còn có chương trình tăng cường công tác quản lý ngành với tổng nguồn vốn đàu tư dự kiến là 817 tỷ đồng.
3. Các chỉ tiêu chủ yếu kế hoạch phát triển ngành Thuỷ sản 2001-2005 và 2 năm đầu thực hiện kế hoạch 2001-2002
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu chủ yếu kế hoạch phát triển thuỷ sản 2001-2005 và hai năm đầu 2001-2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
2002
2001-2002
2001-2005
1-Tổng sản lượng Thuỷ sản
+Sản lượng khai thác
+Sản lượng nuôi trồng
2-Kim ngạch xuất khẩu
3-Diện tích nuôi trồng
+Mặn lợ, biển
+Nước ngọt
4-Tổng vốn đầu tư
1000Tấn
1000Tấn
1000Tấn
Tỷ USD
1000Ha
1000Ha
1000Ha
Tỷ đồng
2.300
1.400
1.090
2.3
1.000
550
450
5.876
4.400
2.600
1.800
3.4
1.700
725
925
9.789,66
11.940
6.800
5.140
10,95-11,2
5.000
2.625
2.375
24.907,6
Bảng 2.2 : Nhu cầu vốn đầu tư phát triển thủy sản 2001-2005 và hai năm đầu 2001-2002 (Đơn vị: tỷ đồng)
Hạng mục
2001-2002
(A)
2001-2005
(B)
Tỷ lệ
(A/B)
Tổng vốn đầu tư
+ Nguồn vốn ngân sách
+ Nguồn vốn tín dụng
+Nguồn vốn huy động
+ Nguồn vốn nước ngoài
9.981,5
1.460
4.755
2.833
933,5
24.907,6
4.120
12.987,6
6.600
1.200
40,07
35,44
36,61
43
77,8
Khai thác hải sản
2309,9
3.966,6
58,23
Nuôi trồng thủy sản
3.962
18.189
21,7
Chế biến xuất khẩu thủy sản
1.234,6
1.935
63,8
Tăng cường quản lý ngành TS
475
817
18,14
Nguồn: Kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005-Bộ thủy sản
II. phân tích Tình hình thực hiện và kết quả đạt được của việc thực hiện kế hoạch phát triển ngành Thuỷ sản 2001-2002
Trong 2 năm thực hiện kế hoach 2001-2002, ngành Thuỷ sản được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước thông qua những cơ chế, chính sách và tạo điều kiện khuyến khích phát triển. Bản thân ngành đã nhận thức sâu sắc vai trò của mình đối với nền kinh tế quốc dân, đã tập trung trí tuệ, năng lực, nguồn lực, lãnh đạo đầu tư phát triển ngành thuỷ sản, tranh thủ được ngoại lực bên ngoài để thu hút đầu tư và chuyển dao công nghệ... Tạo động lực cho ngành thuỷ sản thực hiện và hoàn thành các kế hoạch đề ra.
1. Tình hình thực hiện kế hoach tăng trưởng kinh tế ngành thuỷ sản
Hai năm đầu (2001- 2002) thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản, với sự phấn đấu liên tục ngành thuỷ sản đã có những bước phát triển lớn mạnh. Tốc độ tăng trưởng của ngành không ngừng tăng lên. Trong 2 năm 2001 - 2002 tất cả các chỉ tiêu phát triển của ngành đều được thực hiện một cách xuất xắc và vượt kế hoạch, có chỉ tiêu vượt rất nhiều so với kế hoach đề ra. Cụ thể như sau :
Bảng 2.3 : Kết quả thực hiện kế hoạch của ngành thuỷ sản 2001-2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
Kế hoạch
2001-2002
Thực hiện
2001-2002
Kết quả thực hiện KH(%)
1-Tổng sản lượng Thuỷ sản
+Sản lượng khai thác
+Sản lượng nuôi trồng
2-Kim ngạch xuất khẩu
3-Diện tích nuôi trồng
4-Tổng vốn đầu tư
5-Cơ sở chế biến
5-Lao động nghề cá
1000Tấn
1000Tấn
1000Tấn
Tỷ USD
1000Ha
Tỷ đồng
Cái
1000Người
4.400
2.600
1.800
3.4
1.700
9981,5
210
3.600
4.637,8
2.782,6
1.855,2
3,799
1.842,5
10.889
210
3.600
105,40
107.02
103.07
111,7
108,35
109,10
100,00
100,0
Nguồn : Tổng hợp báo cáo thực hiện kế hoạch các năm- Bộ thuỷ sản
Như vậy, nhìn vào bảng trên, chỉ có chỉ tiêu về cơ sở chế biến và lao động nghề cá là thực hiện được 100% còn hầu hết các chỉ tiêu kế hoạch khác đều được thực hiện vượt mức so với kế hoạch ban đầu. Tiêu biểu là kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trên 11% so với kế hoạch, trong đó năm 2002 đạt 2,014 tỷ USD tăng 67,8% so với năm 2000. Với những kết quả đạt được trên đây là một điều đáng mừng của ngành thuỷ sản Việt Nam nhưng bên cạch đó cũng có phần đáng lo, do tốc độ tăng trưởng quá nhanh của sản lượng khai thác, diện tích nuôi trồng thuỷ sản có thể làm cho cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản và làm mất cân bằng sinh thái.
Trong 2 năm qua, ngành thủy sản đã lớn mạnh lên rõ rệt. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10,7%/ năm về sản lượng; 30.9%/ năm về giá trị xuất khẩu và 23,13%/ năm về diện tích nuôi trồng Thuỷ sản... Ngành Thuỷ sản đã tạo công ăn việc làm cho 3,6 triệu người, nâng cao chất lượng cuộc sống và thu nhập cho hàng ngàn lao động, tạo động lực mạnh mẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế đất nước và sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Mức tăng trưởng của ngành Thuỷ sản trong 2 năm qua (2001-2002) như sau:
Bảng 2.4 : Tốc độ tăng trưởng (TT) của ngành thủy sản Việt Nam thời kỳ 2000 - 2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2001
2002
TT.TB
1-Tổng sản lượng Thuỷ sản
+Sản lượng khai thác
+Sản lượng nuôi trồng
2-Kim ngạch xuất khẩu
3-Diện tích nuôi trồng
4-Tổng vốn đầu tư
5-Cơ sở chế biến
5-Lao động nghề cá
1000Tấn
1000Tấn
1000Tấn
Tỷ USD
1000Ha
Tỷ đồng
Cái
1000Ng
1.969,1
1.241,9
614,5
1,2
640
2.712,7
200
3400
2.226,9
1.347,8
879
1,776
887
5.013
205
3555
2.410,9
1.434,8
976,1
2,023
955
5.876
210
3600
10,7%
7,5%
27,.4%
30,9%
23,13%
51,0%
2,47%
2,91%
Nguồn: Thống kê báo cáo thực hiện kế hoạch các năm- Bộ thủy sản
Qua bảng ta có thể thấy, tăng trưởng của ngành thuỷ sản thời gian qua đã không ngừng tăng lên, trong đó đáng kể là tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kim ngạch xuất khẩu và tổng sản lượng thủy sản... Tốc độ tăng trưởng bình quân của vốn đầu tư cơ bản đạt tới 51%/ năm, trong đó năm 2002 tổng vốn đầu tư đạt 5.876 tỷ đồng tăng 116,61% so với năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu tăng 31%/ năm, trong đó năm 2002 đạt 2,203 tỷ USD tăng 10,4% so với năm 2001 và tăng 68,58% so với năm 2000. Diện tích nuôi trồng thủy sản sản đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 23,13%/ năm, năm 2002 tăng 49,22% so với năm 2000... Tất cả các chỉ tiêu kế hoạch đã được ngành thủy sản thực hiện tốt, những năm sau sản lượng cũng như giá trị đều tăng hơn so với những năm trước, xứng đáng là ngành mũi nhọn của Việt Nam trong công cuộc phát triển đất nước.
Như vậy, ngành thủy sản những năm qua đã phát triển rất mạnh mẽ, thực hiện tốt và hiệu quả kế hoạch mà ngành đưa ra. Với kết quả đạt được của ngành thủy sản ta có thể tin tưởng rằng, đây sẽ là những tiền đề cho phát triển ngành thời kỳ kế hoạch những năm tiếp theo.
2. Tình hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành Thuỷ sản
2.1. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành thủy sản
2.1.1. Chuyển đổi cơ cấu trong khai thác hải sản
2.1.1.1. Cơ cấu tàu thuyền đánh cá
* Chuyển dịch số lượng tàu thuyền đánh cá
Trong 2 năm qua, số lượng tàu thuyền đánh cá ngày càng tăng nhanh. Năm 2002 toàn ngành có 96.235 cái tăng 4.235 chiếc so với năm 2000 trong đó tàu thuyền máy tăng 2.015 chiếc.
Năm 2000, tổng số tàu thuyền máy là 73.600 chiếc chiếm 80% tổng số tàu thuyền, số tàu thủ công là 18.400 chiếm 20%. Từ năm 2000 đến năm 2002 tỷ lệ tàu thuyền máy tăng dần, đến năm 2002 có 81.800 tàu thuyền chiếm 85% tổng số tàu thuyền tăng 11% so với năm 2000, bình quân hàng năm tăng 8,6%. Trong khi đó tỷ lệ tàu thuyền thủ công diễn biến theo chiều ngược lại.
Số lượng tàu thuyền cũng được phân bổ tại các vùng một cách không đồng đều. Trong 4 vùng lãnh thổ thì tỷ lệ tàu thuyền máy vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ tăng nhiều nhất, các tỉnh Nam Trung Bộ tăng chút ít còn các tỉnh Nam Bộ hầu như không tăng hoặc tăng không đáng kể từ năm 2000 đến nay. Đặc biệt các tỉnh như: Bình Thuận, Tiền Giang, Bến Tre, Ninh Hải, Kiên Giang...hầu như tàu thuyền được lắp máy 100%, trong khi 2 tỉnh có tỷ lệ tàu thuyền máy thấp nhất là Ninh Bình và Trà Vinh.
* Chuyển dịch cơ cấu công suất máy của tàu thuyền đánh cá
Năm 2002, toàn ngành có 96.235 chiếc tàu thuyền đánh cá, trong đó tàu thuyền máy là 81.800 cái chiếm gần 85% với tổng công suất 4.038.365 CV, trung bình 49,4 CV/ tàu. Với cơ cấu công suất như sau :
Bảng 2.5 : Tỷ trọng các loại tàu thuyền khia thác hải sản 2000-2002
Loại tàu
Năm 2000
Năm 2002
Tỷ lệ tăng giảm
Công suất dưới 20 CV
20-45 CV
46-90 CV
91-140 CV
Trên 140 CV
48,3%
29,0%
13,2%
5,8%
3,7%
43,71%
29,40%
14,80%
7,890%
4,20%
-4,59
+0,4
+1,6
+2,09
+0,5
Nguồn: Tổng hợp báo cáo thực hiện kế hoạch - Bộ Thuỷ sản
Trong thời gian qua, do tình hình nguồn lợi hải sản gần bờ bị khai thác quá mức, bị suy giảm nhanh nên buộc ngư dân có xu hướng đóng tàu công suất lớn hơn để vươn ra xa bờ. Qua bảng trên ta thấy, đến năm 2002, tỷ lệ tàu thuyền có công suất dưới 20 CV giảm đi trông thấy (4,59%), loại từ 20CV đến 90 CV thay đổi không đáng kể. Tuy nhiên loại tàu có công suất trên 90CV tiếp tục tăng nhanh, đến nay đạt tới 6.075 chiếc tăng 382 chiếc so với năm 2000 và chiếm 12,9% tổng tàu thuyền cả nước.
Sự phân bố các loại tàu thuyền công suất lớn tại các vùng kinh tế cũng khác nhau, phần lớn tập trung nhiều ở các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ. Điều này cũng hợp lý vì những vùng này có biển sâu trên 50m nhiều, có những vùng biều sâu và ngoài khơi như Vịnh Thái Lan, Đảo Phú Quốc...Nếu tính riêng ở Nam Bộ, năm 2000 tỷ lệ tàu thuyền từ 76 CV trở lên chiếm 17 %, bằng gấp 3 so với ba vùng còn lại. Những năm gần đây, tất cả các vùng đều đóng tàu công suất lớn nhưng tỷ lệ tăng nhanh nhất vẫn là các tỉnh Nam Bộ. Đến năm 2002, tỷ lệ tàu thuyền của Nam Bộ có công suất trên 76 CV là gần 18,5% trong khi tổng số tàu ba vùng là 7,12% gấp hơn 2 lần. Ngược lại, những vùng có tỷ lệ tàu thuyền công suất thấp nhất là các tỉnh Bắc Trung Bộ ( bởi vì bờ biển ở đây nông, khai thác và đánh bắt ở đây chủ yếu là gần bờ ). Năm 2002 số lượng tàu thuyền mới vùng này chỉ chiếm 4,7%, trong khi tỷ lệ tàu thuyền nhỏ dưới 20CV lại chiếm tỷ lệ cao nhất 80%, còn các tỉnh Nam Bộ chỉ chiếm 3,2%.
Như vậy, với chương trình khai thác thủy sản xa bờ trong những năm qua ngành thủy sản đã có những chuyển biến trong cơ cấu khai thác. Số lượng tàu thuyền có công suất lớn, hiện đại tăng nhanh. Cải hoán được nhiều tàu thuyền có công xuất không phù hợp và lạc hậu, củ kỹ đồng thời giảm nhanh số lượng các loại tàu thuyền thủ công hoạt động không có hiệu quả trong đánh bắt thủy sản...Thực hiện tốt các chỉ tiêu chương trình mà ngành đặt ra.
2.1.1.2. Cơ cấu nghề nghiệp khai thác hải sản
Trong những năm qua, nhìn chung cơ cấu nghề nghiệp khai thác hải sản cũng có những thay đổi so với năm 2000. Cụ thể như sau:
Bảng 2.6 : Tỷ lệ nghề nghiệp khai thác hải sản 2000-2002
Nghề nghiệp
Năm 2000
Năm 2002
Tỷ lệ tăng giảm
Họ kéo lưới
Họ lưới rê
Họ lưới vây, rùng
Họ vó + mánh
Họ câu
Họ cố định
Các nghề khác
26,2%
34,4%
4,3%
5,6%
13,4%
7,1%
9,0%
23.15%
36,0%
3,91%
5,24%
13,2%
8,5%
10,0%
-2,05%
+0,6%
-0,39%
-0,36%
-0,2%
+1,4%
+1,0%
Nguồn : Quy hoach tổng thể phát triển ngành thủy sản đến 2010 - Viện chiến lược thủy sản - 2002
Trong 2 năm qua các họ nghề chính như lưới kéo, lưới vây, họ vó mánh và họ câu đã giảm đi đáng kể. Nghề lưới rê, nghề cố định và các nghề khác có xu thế tăng và có thể tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo. Năm 2002 nghề kéo lưới đã giảm 2,05% so với năm 2000 trong khi nghề cố định tăng 1,4%, nghề khác tăng 1,0%. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì nghề cố định tăng là do số lao động đánh cá có tăng lên nhưng thiếu phương tiện. Tỷ lệ nghề khác tăng là do tăng thêm các nghề Pha xúc ở Ninh Thuận, Khánh Hòa và nghề chụp Mực ở các tỉnh phía Bắc, nuôi ngọc Trai ở Đảo Bạch Long Vĩ...; nghề kéo lưới giảm tương đối lớn là do nguồn lợi hải sản đã bị giảm đi rất đáng kể cho nên vó mánh không có xu thế tăng lên nữa, nhất là vùng gần bờ trong khi một số nghề khác đã có sự thay đổi. Nghề câu Mực cũng giảm đáng kể vì thời gian qua sản lượng đánh bắt nhất là Mực ống đã vượt q._.tranh xâm lược I-Rắc của đế quốc Mỹ sẽ gây những bất lợi đến xuất khẩu thuỷ sản. Ngoài ra, việc áp dụng chặt chẻ các rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam và sức ép cạnh tranh gay gắt của các đối thủ trên thế giới gây ra những trở ngại và thách thức lớn cho ngành thuỷ sản
- Ngoài ra, hoạt động của ngành thuỷ sản thường bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như: Lũ lụt, bảo, bệnh dịch làm ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của việc thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam.
II. Mục tiêu kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thời kỳ 2003-2005
1. Mục tiêu chung
Bảo đảm tốt khâu nguyên liệu, nâng cao công nghệ chế biến, mở rộng thị trường và tháo gỡ các khó khăn, rào cản trong xuất khẩu thuỷ sản để giữ nhịp tăng kim ngạch xuất khẩu; có các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn; có bước đột phá phát triển theo hướng coi trọng chất lượng nghề cá biển đảm bảo gia tăng giá trị, nâng cao hiệu quả, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi, coi trọng nuôi biển ở một số khu vực ven bờ, ven đảo thuận lợi và các đối tượng đang có điều kiện thị trường.
Thực hiện chủ trương sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ngành. Đẩy mạnh cải cách hành chính theo Chương trình tổng thể cải cách hành chính đến năm 2010 của Chính phủ. Có các chuyển biến tích cực trong các hoạt động hội nhập Quốc tế và khu vực, tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các hỗ trợ của các nước và tổ chức Quốc tế cho phát triển ngành.
2. Nhiệm vụ cụ thể
- Tập trung triển khai công tác quy hoạch phát triển Ngành, ưu tiên các dự án quy hoạch phục vụ chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven biển, đặc biệt ở những vùng chuyển đổi từ trồng cây nông nghiệp, làm muối kém hiệu quả sang phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
- Tập trung các nguồn lực để phát triển nhanh các nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ xuất khẩu. Đưa thêm các nhóm sản phẩm mới như cá Rô phi đơn tính, Tôm thẻ chân trắng, tôm càng...trở thành các sản phẩm hàng hoá với giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, trong đó ưu tiên đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở thuỷ lợi phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng ngừa bệnh thuỷ sản khu vực, hệ thống giống giống thuỷ sản quốc gia; hệ thống thông tin liên lạc phục vụ khai thác hải sản xa bờ, khu neo, đậu phòng tránh bão cho tàu thuyền nhằm nâng cao hiệu quả hạn chế rủi ro cho nghề đánh bắt hải sản .
- Ưu tiên phát triển một số ngành nghề nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo vùng bải nganh ven biển và hải đảo
- Có giải pháp cụ thể thực hiện chỉ thị của Thủ Tướng chính phủ và các văn bản của ngành liên quan tới không sử dụng thuốc kháng sinh, hoá chất bị cấm trong nuôi trồng và bảo quản hàng thuỷ sản cũng như việc bơm chích tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản cho chế biến xuất khẩu.
- Chủ động thực hiện chương trình hội nhập quốc tế trong công tác thị trường, thuế quan, đầu tư, các điều kiện tham gia hội nhập của ngành theo nội dung cam kết đa phương và song phương của Chính phủ; đẩy mạnh xúc tiến thương mại và nâng cao sức cạnh tranh tạo chổ đứng vững chắc cho hàng thuỷ sản xuất khẩu vaò các thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý ngành trên cơ sở Luật Thuỷ Sản và các nghị định trình Chính phủ; xây dựng các văn bản hướng dẫn của ngành về luật pháp và chính sách có liên quan. Triển khai việc điều chỉnh chức năng nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức bộ máy và biên chế, nâng cao năng lực và tay nghề của cán bộ và công nhân viên.
- Tiếp tục việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, sát nhập, giải thể những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Tổng kết xây dựng mô hình, phát huy vai trò kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân để tạo thành tổng thể các thành phần kinh tế phát triển và hoạt động có hiệu quả.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn trên biển, xây dựng các chính sách nhằm chủ động và đưa vào ổn định việc giúp dân cư khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất kinh doanh.
3. Các chỉ tiêu kế hoạch 3 năm cuối (2003-2005) kế hoạch phát triển 5 năm ngành thuỷ sản
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu của thời kỳ 2003-2005
Chỉ tiêu
Đơn vị
2001-2005
2003-2005
2005
1-Tổng sản lượng Thuỷ sản
+Sản lượng khai thác
+Sản lượng nuôi trồng
2-Kim ngạch xuất khẩu
3-Diện tích nuôi trồng
+Mặn lợ, biển
+Nước ngọt
4-Lao động nghề cá
5-Cơ sở chế biến
1000Tấn
1000Tấn
1000Tấn
Tỷ USD
1000Ha
1000Ha
1000Ha
1000ng
Cơ sở
4.400
2.600
1.800
3.4
1.700
725
925
-
-
7.540
4.200
3.340
7,55-7,8
3.300
1.850
1.450
-
-
2.550
1.400
1.150
3,0
1.200
700
500
4.000
225
Nguồn: Báo cáo kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005
- Ngành thủy sản phấn đấu thời kỳ kế hoạch 2003-2005 đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 1,89%/ năm về sản lượng, đến năm 2005 đạt 2.550.000 tấn. Trong giai đoạn này ngành giữ vững ở mức khai thác 1.400.000 tấn còn sản lượng nuôi trồng liên tục tăng hàng năm. Đến 2005 đạt 1.150.000 tấn tăng bình quân 5,71%/ năm; Kim ngạch xuất khẩu tăng trươởng đạt 12% - 14,3%/ năm; Diện tích mặt nước nuôi trồng tăng 7,9% /năm.
- Tiếp tục không ngừng chuyển đổi cơ cấu nghề cá theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa để chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Đóng góp ngày càng nhiều cho nguồn thu Ngân sách Nhà nước vv.
- Thời gian này, hoàn thành tốt các chương trình kinh tế ngành. Phấn đấu tới năm 2005, tạo công ăn việc làm cho 3.600 nghìn lao động, xây mới 15 cơ sở chế biến để đến năm 2005 đạt 225 cơ sở. Phối hợp với các Bộ, Ngành và thành phần kinh tế khác thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Bảng 3.2: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển thủy sản thời kỳ 2003-2005
Đơn vị: Tỷ đồng
Hạng mục
2001-2005
2003-2005
Tổng vốn đầu tư
+ Nguồn vốn ngân sách
+ Nguồn vốn tín dụng
+Nguồn vốn huy động
+ Nguồn vốn nước ngoài
24.907,6
4.120
12.987,6
6.600
1.200
14.024,6
3.021,8
7.309,6
3.409,0
284,2
Khai thác hải sản
3.966,6
1.755,5
Nuôi trồng thủy sản
18.189
10.693,0
Chế biến xuất khẩu thủy sản
1.935
1.037,1
Tăng cường quản lý ngành thủy sản
817
539,0
Nguồn: Báo cáo kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005
Thời kỳ này, với mục tiêu chủ đạo nhất là hoàn thành đạt kết quả cao nhất kế hoạch phát triển ngành. Thực hiện thành công và vượt các chỉ tiêu kế hoạch ban đầu. Toàn ngành nỗ lực kêu gọi và huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài nước. Trong thời kỳ này, tổng nguồn vốn đầu tư là 14.024,6 tỷ đồng chiếm 56,3% tổng nguồn vốn thời kỳ kế hoạch 5 năm, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,4%/năm. Trong đó, nguồn vốn được huy động chủ yếu là nguồn vốn tín dụng và vốn huy động chiếm tới 76% tổng nguồn vốn cần huy động, được phân bổ phần lớn cho chương trình nuôi trồng thuỷ sản (75.8%). Trong thời gian này, công tác đầu tư tăng cường quản lý ngành được chú trọng hơn với nguồn vốn là 539 tỷ đồng chiếm 66% kế hoạch 2001-2005.
III. Các giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển ngành thuỷ sản thời kỳ 2003-2005
1. Lựa chọn khâu đột phá cho kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005
a- Trong khai thác hải sản:
- Khai thác hải sản là một lĩnh vực khó và chậm được đổi mới. Tàu thuyền, ngư cụ, công nghệ, lao động, khai thác cá biển của ta vẫn còn lạc hậu và có nhiều bất cập khi đi vào công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong điều kiện một nước nghèo, kinh tế chậm phát triển, dân trí ven biển và hải đảo còn thấp như nước ta, thì phát triển khai thác biển xa, phát triển kinh tế biển là rất cần thiết và gặp những thách thức lớn. Để đẩy mạnh sự phát triển của lĩnh vực này, trong những năm tiếp theo, tất cả các tỉnh, thành phố ven biển và toàn Ngành cần tiến hành đánh giá lại một cách đầy đủ, toàn diện thực trạng khai thác hải sản, sự biến động, chuyển đổi ở vùng gần bờ và kết quả cũng như những vấn đề đang đặt ra trong trong thực hiện chủ trương khai thác hải sản xa bờ. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, gắn với yêu cầu hội nhập dựa vào khả năng và hiện trạng sử dụng nguồn lợi để có định hướng chiến lược và giải pháp đẩy mạnh phát triển khai thác hải sản gắn với bảo vệ và tái tạo nguồn lợi, nhất là khai thác hải sản xa bờ, đồng thời thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu khai thác gần bờ một cách hợp lý. Do đó, phải tập trung đẩy mạnh điều tra dự báo nguồn lợi, lựa chọn những mô hình hoạt động có hiệu quả, có khả năng phát triển từ các thành phần kinh tế, trên từng vùng, từng lĩnh vực hoạt động (cả khai thác, dịch vụ hậu cần, tiêu thụ sản phẩm) để khuyến khích, hỗ trợ các mô hình này phát triển. Một số việc cụ thể là:
- Tập trung đầu tư điều tra nguồn lợi hải sản xa bờ, Vùng Vịnh bắc Bộ, Trường Sa, DK1, tiến tới lập bản đồ ngư trường khai thác.
- Tìm giải pháp tổ chức để tăng cường năng lực khai thác hải sản ở các ngư trường trọng điểm.
- Thí điểm và mở rộng từng bước vững chắc hợp tác đánh cá với các nước, trước hết là các nước láng giềng trong khu vực.
- Tăng cường năng lực hậu cần dịch vụ cho khai thác xa bờ và khai thác ở vùng biển nước ngoài song song với việc đẩy mạnh hợp thác với vùng biển ngoài hải phận.
- Phát triển khai thác hải sản gắn với các biện pháp bảo vệ nguồn lợi hải sản. Chuẩn bị để triển khai thi hành Luật Thuỷ sản, các nghị định quản lý nguồn lợi hải sản, quy hoạch tàu thuyền, nghề nghiệp, mùa vụ, đối tượng khai thác.
b- Trong nuôi trồng thuỷ sản:
- Đối tượng, qui mô hàng hoá, phương thức nuôi bước đi phù hợp cần được tính toán, xác định rõ ràng trong quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo tuyến, theo vùng, trên từng địa phương bảo đảm nâng cao giá trị sản phẩm của Ngành một cách vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có kết quả, từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá Ngành thời gian tới.
- Tập trung giải quyết khâu đột phá là cung ứng đủ giống thuỷ sản có chất lượng và giá bán hợp lý.
- Chuyển giao nhanh những kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản tiên tiến cho ngư dân. Khuyến khích các thành phần kinh tế đẩy mạnh sản xuất giống thương phẩm cung cấp cho nhu cầu nuôi trồng và thị trường.Tính toán để có thể cân đối trên cơ sở số lượng và chất lượng giống theo yêu cầu của từng đối tượng để nhập khẩu một số lượng giống cần thiết cho yêu cầu phát triển nuôi thuỷ sản.
- Quản lý tốt việc nhập khẩu, sản xuất và lưu thông thức ăn và các chế phẩm dùng trong nuôi trồng thuỷ sản. Trong khi vẫn bảo đảm sự thông thoáng theo môi trường chính sách đổi mới để phát huy cao nguồn lực trong dân cho phát triển.
- Làm tốt công tác kiểm dịch giống thuỷ sản, nuôi thả đúng thời vụ, hạn chế rủi ro dịch bệnh. Mở rộng từng bước vững chắc việc sản xuất tôm sú giống tại phía Bắc.
- Tiếp tục hoàn chỉnh việc chuyển đổi đất ruộng trũng, đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản. Nhanh chóng đưa các dự án đầu tư nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm trên cát, nuôi hải sản biển vào hoạt động.
- Tiến hành áp dụng quản lý vùng nuôi tốt, bảo đảm vệ sinh môi trường vùng nuôi, vệ sinh chất lượng sản phẩm từ vùng nuôi, xây dựng và phổ biến mô hình quản lý cộng đồng ở các vùng nuôi thuỷ sản. Không sử dụng các hoá chất, kháng sinh bị cấm vào nuôi trồng thuỷ sản.
- Đa dạng hoá các loài tôm nuôi ngoài tôm sú, đưa tôm thẻ chân trắng vào làm một trong các đối tượng nuôi chính, tăng lợi thế cạnh tranh bằng nuôi tôm sú có kích cỡ với sức cạnh tranh cao trên thị trường. Cùng với nuôi công nghiệp sạch bệnh cần phát triển nuôi sinh thái ở những vùng phù hợp. Mở rộng nuôi cá ba sa, cá tra, rô phi đơn tính, các đối tượng nước ngọt xuất khẩu khác.
- Then chốt của việc bảo đảm phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhanh, ổn định, bền vững là làm tốt quy hoạch. Trong thời gian 2003-2005, trên cơ sở hoàn thành Quy hoạch tổng thể, sớm xây dựng và trình phê duyệt quy hoạch nuôi ruộng trũng, nuôi trên cát, nuôi vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng. Các địa phương phải hoàn thành quy hoạch chi tiết các vùng nuôi. Bộ tiếp tục phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có giải pháp đầu tư thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản.
c- Trong chế biến và xuất khẩu thủy sản:
- Song song với tập trung đầu tư cho chế biến xuất khẩu, cần tăng cường đầu tư cho chế biến tiêu thụ nội địa. Coi chế biến tiêu thụ nội địa là hướng lâu dài phục vụ dân sinh, đồng thời là cán cân đối trọng bảo đảm sự ổn định, an toàn cho xuất khẩu.
- Để thực hiện chỉ tiêu xuất khẩu trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh hơn công tác xúc tiến thương mại, tiếp tục nâng cao năng lực tiếp cận thị trường của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp phía Bắc và Bắc Miền Trung. Duy trì cơ cấu các thị trường hiện có, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và thị trường EU, tiếp tục đầu tư khai thác thị trường chính ngạch Trung Quốc và mở rộng tìm kiếm các thị trường khác như: Nga, Trung Đông, Mỹ La Tinh...
- Có kế hoạch cùng các địa phương tìm giải pháp khuyến khích nâng cấp và đổi mới công nghệ các cơ sở chế biến, đặc biệt trong số 2/3 cơ sở chế biến hiện chưa đáp ứng các yêu cầu thị trường về công nghệ và chất lượng. Đầu tư cho bao bì, nhãn mác và đăng ký bản quyền thương hiệu sản phẩm. Tiếp tục đầu tư hoàn thiện công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn Quốc tế để nâng số lượng doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào danh sách được phép xuất khẩu vào EU.
- Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn phát triển thị trường xuất khẩu.
2. Huy động các nguồn vốn cho phát triển thuỷ sản
Kế hoạch nguồn vốn đầu tư để thực hiện kế hoạch 2003-2005 là: 14.024,6 tỷ đồng. Cơ cấu vốn đầu tư cho thời kỳ 2003-2005 như sau:
Bảng 3.3: Cơ cấu vốn đầu tư ngành thủy sản thời kỳ 2003-2005
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn vốn
Giá trị
Tỷ trọng (%)
Tổng: Trong đó
14.024,6
100,0
Tín dụng
7.309,6
52,0
Huy động
3.409,0
24,3
Ngân sách
3.021,8
21,55
Nước ngoài
284,2
2,15
Nguồn: Kế hoạch phát triển ngành thủy sản 2001-2005 - Bộ thủy sản
Tuy nhiên so với dự báo nhu cầu vốn của Viện chiến lược thuỷ sản thì tích luỹ nội bộ của ngành chỉ đáp ứng được khoảng 50% ( tuy tình hình thực hiện kế hoạch 2 năm qua cho thấy, tích lũy trong ngư dân, chủ tàu, chủ nậu vựa để phát triển đã đạt tới 60 đến 65%). Như vậy phần còn lại phải dựa vào nguồn vốn bên ngoài kể cả trong nước và ngoài nước. Giải pháp huy động nguồn vốn thời gian tới được thực hiện cụ thể như sau :
- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất- kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này
- Nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vốn cho khu vực gặp nhiều khó khăn ở vùng ven biển, hải đảo, vùng giáp biên, khai thác vùng khơi, vùng nghèo như các tỉnh Bắc trung bộ, đầu tư mạnh vào vùng trọng điểm nghề cá như đồng băng Sông Cửu Long, Nam Trung Bộ.
Đối với nguồn vốn trong nước: dự báo hàng năm ngành thuỷ sản cần 70 đến 80 triệu USD, chiếm khoảng 30% nhu cầu tổng đầu tư. Để thu hút được nguồn nước ngoài cần hoàn thiện cơ sở đầu tư, các chế định quản lý, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư , tạo môi trường hấp dẫn hơn, đẩy mạnh hợp tác đầu tư khai thác, chế biến dịch vụ và thương mại thuỷ sản đối với Mỹ, Đan Mạch...
Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có quy chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu chợ cá, dịch vụ thuỷ sản , sản xuất giống cá biển, nuôi thuỷ sản ...
Ưu tiên cho các dự án đầu tư tạo lập hạ tầng hoàn chỉnh và xây dựng khu nuôi công nghệ sản xuất giống một số loài thuỷ sản quý hiếm. Bên cạnh đó có chính sách ưu đãi cho việc đào tạo cán bộ có trình độ công nghệ cao, tinh nhuệ trong xây dựng và thẩm định các dự án đầu tư phát triển. Cần đầu tư phát triển các trung tâm phân tích, phổ biến thông tin và thị trường công nghệ. Đẩy mạnh công tác khuyến ngư hơn nữa.
3. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ xuất khẩu
Cần tiếp tục đa dạng hóa thị trường, tiếp tục tiềm kiếm bạn hàng, cũng cố những vị trí ở những thị trường quen thuộc, thâm nhập vào những thị trường đã có đồng thời mở rộng thêm những thị trường mới ( Châu phi, Trung Đông...), tạo các mối quan hệ với bạn hàng theo chiều sâu, giảm bới thị trường trung gian thường xuyên điều chỉnh và không bị lệ thuộc vào một thị trường. Tăng tỷ trọng thị trường Nhật Bản, EU, ASEAN và các nước khác đồng nghĩa làm giảm thị trường Mỹ Trung Quốc và Hồng Kông (ở đây hiểu là, tuy giảm tỷ trọng thị trường nhưng không làm giảm kim ngạch xuất khẩu tại các thị trường đó ). Mục tiêu trong thời gian tới, cơ cấu thị trường thủy sản đạt được như sau:
Bảng 3.4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản dự kiến
(Dự kiến tỷ lệ % theo giá trị xuất khẩu)
Thị trường
2002
Năm
2005
2010
Nhật Bản
26,6
40
40
Mỹ
32,4
18
20
EU
4,2
10
10
Tr.Q+H.Kông
14,9
10
10
ASEAN
3,9
4
4
Các nước khác
17,9
18
16
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010
Như vậy, mục tiêu những năm tới, ngành cần mở rộng và phát triển thị trường kể cả thị trường trong nước và nước ngoài, tận dụng tối đa vị trí của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thuỷ sản để tăng cường giao lưu kinh tế, ổn định thị trường truyền thống, thúc đẩy hơn nữa mở rộng thị trường mới như EU, Mỹ, Trung Quốc, các nước ả Rập và kể cả thị trường cá nổi nhỏ, giá trị thấp ở Châu Phi... Các giải pháp cụ thể là:
- Tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lý, thương mại, ngoại giao, truyền thống. Tuy nhiên yếu tố chất lượng và giá cả được đặt lên hàng đầu.
- Đầu tư cho khoa học công nghệ chế biến thủy sản xuất khẩu để tăng chất lượng và chữ “tín” các sản phẩm thủy sản mình trên thị trường trong nước và quốc tế, nghiên cứu cải tiến mẫu mã, đa dạng các sản phẩm sao cho thích hợp với nhu cầu ngày càng khắt khe của người tiêu dùng và nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm mình trên thị trường quốc tế.
- Nghiên cứu thị trường, tăng cường hơn nữa công tác tiếp thị, quảng cáo sản phẩm...đồng thời phát triển mạng lưới tiêu thụ để đưa sản phẩm tới các thị trường tiêu thụ.
- Thời gian tới ngành thuỷ sản cần sắp sếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia và thị trường thuỷ sản. Kiên quyết dẹp bỏ những doang nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên, khó có khă năng khôi phục lại để tạo điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh.
- Tạo dựng và duy trì trạng thái thị trường có lợi cho ngành thuỷ sản đảm bảo tính hiệu quả của việc phân phối phân phối vốn, đất đai: Ví dụ chính sách sử dụng đất đai lâu dài, chính sách hình thành trang trại lớn. Ngoài ra, nên hạn chế số lượng người tham gia quá nhiều vào khai thác mà phát triển doanh nghiệp trọng điểm để không những đảm bảo phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển có hiệu quả của các doanh nghiệp. Cũng tương tự như trong nuôi trồng: không ưu tiên phát triển manh mún, trong chế biến không nên phát triển dàn trải.
4. Giải pháp về nhân lực ngành
Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, nhu cầu lao động trong ngành thuỷ sản sẽ tăng với nhịp độ 2,65%/ năm chủ yếu trong hai lĩnh vực: nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Lao động khai thác hải sản phải giảm để tăng tính hiệu quả thương mại, vì lượng lao động khai thác gần bờ đã quá lớn, lực lượng này sẽ chuyển một phần sang khai thác khơi, một phần sang nuôi nước lợ, biển. Mặt khác do tốc độ tăng dân số cao 2%/ năm nên áp lực lao động đối với cùng này vẫn lơn. Nhà nước cần phải phát triển các ngành nghề khác, nhằm tận dụng nguyên liệu từ thuỷ sản và thế mạnh ven biển tăng thêm việc làm, tăng thu ngoại tệ...
Thời kỳ kế hoạch tới, ngành cần tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng, kỹ luật cao cho mọi lĩnh vực ngành, cụ thể các giải pháp sau:
- Tập trung đào tạo cán bộ quản lý ngành thuỷ sản giỏi kiến thức chuyên môn, xã hội để có thể quản lý ngành phát triển bền vững.
- Đào tạo cán bộ khoa học có khả năng tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của thế giới trong mọi lĩnh vực.
- Đào tạo đội ngũ thanh tra, kiểm soát viên trong mọi lĩnh vực từ bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đến an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Đồng thời xúc tiến nhanh và tìm kiếm các phương thức đào tạo cán bộ thuỷ sản phù hợp với yêu cầu trước mắt về kiến thức và số lượng, từng bước tạo ra đội ngũ lâu dài đồng bộ. Đề nghị Chính phủ cho phép ngành thuỷ sản tìm kiếm sự giúp đỡ của các nước các tổ chức quốc tế để đào tạo cán bộ đại học và sau đại học ở các nước có nghề cá phát triển.
5. áp dụng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực sản xuất và hoạt động khuyến ngư ngành thủy sản
* Triển khai thực hiện Nghị quyết TW 2 và kết luận của Hội nghị lần thứ VI Ban Chấp hành TW Đảng khoá IX, xác định các quan điểm, định hướng chiến lược khoa học công nghệ đến năm 2020, nhiệm vụ, mục tiêu đến 2010 và những giải pháp để đẩy nhanh phát triển khoa học công nghệ. Trước mắt cần tập trung vào việc gắn hơn nữa giữa nội dung các hoạt động khoa học công nghệ với yêu cầu phát triển Ngành và việc đổi mới quản lý và tổ chức hoạt động khoa học công nghệ, từng bước chuyển hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ sang chế độ tự trang trải kinh phí, tự chủ, tự chịu trách nhiệm dưới hình thức doanh nghiệp.
- Về công nghệ trong nuôi trồng thủy sản: Giải pháp thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ là đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho sản xuất. Tham gia tích cực vào chương trình công nghệ sinh học. Những năm tiếp theo hoạt động khoa học công nghệ phải tập trung giải quyết những nhiệm vụ của Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản và quá trình chuyển đổi diện tích canh tác nông nghiệp đặt ra. Khâu đột phá là chiến lược và các đề án về giống thuỷ sản. Tập trung đầu tư, dành kinh phí khoa học cho nghiên cứu sản xuất và chuyển giao công nghệ sản xuất giống, ưu tiên cho giống sạch bệnh; bảo đảm lựa chọn được cơ cấu giống đa dạng, hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên và gắn chặt với thị trường sản phẩm. Thời kỳ 2003-2005, cần tiếp tục củng cố qui trình sản xuất giống tôm sú, tạo ra những vùng, những cơ sở nuôi dưỡng, bảo tồn phát triển nguồn tôm sú bố mẹ. Đồng thời nghiên cứu đưa vào sản xuất các loại giống tôm he chân trắng, tôm càng xanh, tôm rảo, tôm he mùa... Song song với tôm, phải đẩy mạnh nghiên cứu và hình thành sự lựa chọn cơ cấu giống cá trên từng tuyến: cá mú, cá giò, cá vược, ở tuyến nước mặn; cùng với cá tra, ba sa, tạo điều kiện nghiên cứu phát triển mạnh cá rô phi đơn tính và các loài khác trên các vùng nước ngọt. Mở rộng phát triển nuôi cua, cá, nhuyễn thể... ở tuyến nước lợ. Bên cạnh đó, ngoài việc tập trung cho nghiên cứu sản xuất, chuyển giao công nghệ giống thuỷ sản, phải chú trọng nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn, quy phạm (theo GAP) nuôi sạch, chú trọng công tác phòng ngừa dịch bệnh, cảnh báo môi trường, không sử dụng kháng sinh, hoá chất bị cấm.
- Về điều tra nguồn lợi, khai thác hải sản: Đồng thời với việc tiếp tục điều tra nguồn lợi hải sản xa bờ, cần tập trung điều tra nghiên cứu, xử lý thông tin và thống kê thực tiễn để có nhanh một số kết quả về nguồn lợi phục vụ dự báo và giúp tổ chức sản xuất, phát triển công nghệ khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo đảm cung cấp luận cứ khoa học cho việc lập quy hoạch và đổi mới công nghệ sản xuất của Ngành phù hợp với phát triển ổn định, bền vững. Đồng thời với nghiên cứu điều tra nguồn lợi hải sản trên vùng biển Việt Nam, cần tiến hành thu thập thống kê số liệu nguồn lợi hải sản trên các vùng biển tiếp giáp các nước láng giềng Đông Nam á làm cơ sở phục vụ cho việc hợp tác đánh cá chung giữa các nước đã và sẽ được mở ra.
- Về công nghệ chế biến thuỷ sản: Những năm qua khoa học công nghệ đã góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản tiếp cận và áp dụng thành công chương trình quản lý chất lượng theo HACCP và GMP trong phạm vi nhà máy. Nhiệm vụ then chốt của khoa học công nghệ trong năm 2003-2005 là phải xây dựng được hệ thống an toàn vệ sinh chất lượng sản phẩm đến đầu nguồn nguyên liệu một cách hệ thống, bảo đảm tại mọi khâu đáp ứng được yêu cầu an toàn vệ sinh, chất lượng sản phẩm thuỷ sản.
Ngoài ra, thời gian tới ngành thủy sản củng cố cơ sở vật chất của các Viện, Trung tâm nghiên cứu tương xứng với yêu cầu phát triển và thực hiện được các nhiệm vụ trên. Trước mắt đầu tư để hoàn thành dứt điểm các hạng mục công trình trọng điểm sớm đưa vào sử dụng như phòng thí nghiệm, trại sản xuất thực nghiệm, Trạm quan trắc và cảnh báo môi trường, dịch bệnh, Trung tâm giống Quốc gia. Có kế hoạch cụ thể để có thế hệ các nhà khoa học mới, thay thế được lớp đàn anh, đáp ứng các yêu cầu mới của đổi mới, phát triển, hội nhập. Ưu tiên lựa chọn đào tạo cán bộ đầu đàn, các nhà khoa học biển giỏi chuyên môn.
* Công tác khuyến ngư cần gắn kết chặt chẽ với kết quả các hoạt động khoa học công nghệ để nhanh chóng đưa tiến bộ khoa học công nghệ đến với người sản xuất và ứng dụng tốt trong thực tế sản xuất thuỷ sản. Trọng tâm của công tác khuyến ngư là tiếp tục thực hiện chuyển giao công nghệ sản xuất giống thuỷ sản (thực hiện tiếp các dự án 2002 và 10 dự án chuyển giao giống thuỷ sản mới); hướng dẫn thực hiện nuôi theo qui trình sạch, an toàn, không sử dụng hoá chất, kháng sinh; tổng kết tuyên truyền mở rộng các hình thức, mô hình nuôi mới; phổ biến chuyển giao các công nghệ khai thác hải sản, hướng dẫn công nghệ bảo quản sau thu hoạch trong nuôi trồng thuỷ sản và trên tàu, trên bến sau khai thác, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm từ nuôi trồng, khai thác đến chế biến và tiêu thụ.
6. Đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế
Những năm tiếp theo, ngành cần phải có kế hoạch chuẩn bị các chương trình, dự án, tổ chức lực lượng để trang thủ có hiệu quả tối đa các cơ hội hợp tác với nước ngoài. Xây dựng quy chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn và phương thức hợp tác, tài trợ theo hướng chung của ngành, tạo ra nguồn lực rất quan trọng về vốn và công nghệ cho sự phát triển của ngành.
Để tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế cao cần phải có những hành lang pháp lý hấp dẫn hơn đối với đầu tư vào các lĩnh vực thuộc ngành thuỷ sản như các ưu đãi về thuế sử dụng đất cho đầu tư vào nuôi trồng đặc biệt ở các vùng ven biển
Tập trung nghiên cứu cơ sở về mặt pháp lý quốc tế cho việc xác định vùng chồng lấn hoặc ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Xúc tiến việc xuất khẩu lao động nghề cá theo các hiệp địng chính thức với nước ngoài để tạo công ăn việc làm và học hỏi kinh nghiệm quản lý.
IV. Những kiến nghị đối với Nhà nước
1. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo triển khai đồng bộ việc hoàn thiện và đưa vào thực hiện qui hoạch tổng thể sử dụng đất đai trong phạm vi cả nước liên quan đến phát triển nuôi trồng thuỷ sản, có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, các địa phương, đặc biệt là triển khai qui hoạch thuỷ lợi đồng bộ cho các vùng nuôi trồng thuỷ sản sản xuất hàng hoá lớn, các vùng mới chuyển đổi, nhanh chóng đưa các công trình đầu tư xây dựng vào sản xuất để triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản đã được Chính phủ phê duyệt.
2. Đề nghị Chính phủ và các Bộ, ngành sớm có ý kiến và phê duyệt các đề án Bộ đã trình trong năm 2001 và trước đó. Cần thiết nhất là:
- Qui hoạch tổng thể ngành Thuỷ sản.
- Chương trình khai thác hải sản xa bờ.
- Hệ thống thông tin cứu nạn, quản lý tàu thuyền cùng với một số chủ trương Bộ Thuỷ sản trình xin ý kiến.
3. Đề nghị Chính phủ cho thành lập Quĩ xúc tiến thương mại thuỷ sản, có sự hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước và huy động vốn của các doanh nghiệp; thực hiện bảo hộ hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường nước ngoài.
4. Đề nghị Chính phủ có biện pháp tháo gỡ các vướng mắc về tín dụng cho dân nuôi trồng thuỷ sản, thực hiện cho vay với nguồn vốn lớn cho các đề án có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Đồng thời có chính sách cụ thể về đất đai nuôi trồng thuỷ sản thể hiện rõ 5 quyền trong sử dụng đất canh tác, tránh ách tắc khi giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi đất đai và đền bù giải toả khi xây dựng các dự án đầu tư.
*
* *
Như vậy, ngành thủy sản cần phải tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được trong năm 2001-2002, khắc phục những tồn tại và yếu kém, vượt qua các thử thách mới trong cơ chế thị trường, toàn Ngành tiếp tục sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước quyết tâm phấn đấu hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội kế hoạch năm 2003-2005 đã đề ra.
Kết luận
Giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế ngành thủy sản đã xây dựng các định hướng, các giải pháp, bước đi cho quá trình phát triển tiếp theo 2003-2005. Những quan điểm cơ bản của của kế hoạch phát triển ngành là tiếp tục phát triển nghề cá nhân dân trên cơ sở công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hướng mạnh về xuất khẩu, thích nghi với điều kiện sinh thái, trong mối quan hệ liên ngành và có mối liên hệ mật thiết gắn với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc phòng của tổ quốc. Mục tiêu và giải pháp được thể hiện phương pháp và bước đi của ngành thủy sản trong thời gian tới. Với những giải pháp đưa ra, ngành thủy sản sẽ thực hiện tốt không những hoàn thành mà còn vượt xa kế hoạch đề ra.
Để thực hiện tốt kế hoạch phát triển ngành thời kỳ 2003-2005, ngoài sự nỗ lực của toàn ngành, thủy sản cần được Đảng, Nhà nước quan tâm nhiều hơn nữa. Đồng thời có các chính sách tạo điều kiện khuyến khích phát triển ngành... Thực hiện được như vậy, chắc chắn ngành thủy sản sẽ tạo được sự chuyển đổi về chất, hoàn thành tốt kế hoạch, tiếp tục phát triển là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước trong tương lai ./.
Tài liệu tham khảo
1- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ngành thủy sản 2000-2010 - Bộ thủy sản
2- Cơ sở chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong ngành thủy sản - Hà Xuân Thông - Viện nghiên cứu thủy sản
3- Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản các năm 2000-2002 - Bộ thủy sản
4- Báo cáo định hướng kế hoạch phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2001-2005 - Bộ thủy sản
5- Giáo trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế đất nước - TS. Ngô Thắng Lợi - Khoa KH & PT - ĐHKTQD Hà nội.
6- Giáo trình kinh tế phát triển - Khoa KH & PT - ĐHKTQD Hà nội.
7- Các tạp chí phát triển kinh tế, nghiên cứu kinh tế vv... các năm
8- Một số tài liệu khác...
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0021.doc