Mục lục
Lời mở đầu 1
I. Lý luận chung về xuất khẩu thủy sản Việt Nam
vào Nhật Bản 2
1. Khái niệm và vai trò thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2
2. Nghiên cứu và phát triển thị trường xuất khẩu thủy sản 3
3. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường xuất khẩu thủy sản 5
4. Kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu 7
II. Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Nhật 10
1. Đặc điểm thị trường Nhật Bản 10
2. Tình hình xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản 11
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3. Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản 20
III. Giải pháp phát triển xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản 24
1. Mục tiêu và phương hướng phát triển thị trường xuất khẩu 24
2. Các giải pháp 25
3. Các điều kiện để thực hiện 31
Kết luận 33
Tài liệu tham khảo 34
Lời mở đầu
Sau những năm tháng hòa nhập hoạt động trong nền kinh tế thị trường, ngành thủy sản đã có bước chuyển biến đáng kể trong sản xuất kinh doanh và giao lưu thương mại quốc tế. Hàng thủy sản đã có mặt ở 50 nước trên thế giới. Thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có quy mô và tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 25 năm qua. Cơ cấu thị trường tương đối hợp lý, không lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường nào giảm hẳn tỷ trọng vào các thị trường trung gian và bắt đầu dành được vị trí quan trọng trên các thị trường lớn có yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản. Có khả năng chủ động điều chỉnh được cơ cấu mặt hàng và thị trường, khi thị trường truyền thống có bất lợi. Để đạt được kế hoạch đề ra, nhất là chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2004 đạt 2,55 đến 2,6 tỷ USD. Ngành thủy sản cần nhanh chóng hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể, quy hoạch phải gắn với thị trường. Phải sớm có kế hoạch về thị trường và sản phẩm, phải huy động các nguồn lực đầu tư theo kế hoạch. Tăng cường thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước, đặc biệt là Nhật Bản, là thị trường đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản vẫn đang còn gặp một ít khó khăn. Bởi thị trường này có nguyên tắc cao,đòi hỏi cách làm ăn bài bản. Mặt khác, xuất khẩu sang Nhật Bản còn chưa đa dạng, chưa có hàng chế biến chất lượng cao. Do đó, kim ngạch xuất khẩu thủy sản vẫn còn chưa xứng với tiềm năng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản. Tôi xin giới thiệu giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản.
Em xin chân thành cảm ơn thầy PGS.TS. Nguyễn Thừa Lộc và các thầy cô giáo trong bộ môn khoa thương mại đã giúp em hoàn thành đề án này.
I. Lý luận chung về thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản:
Khái niệm và vai trò thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam:
Hàng hóa xuất khẩu là những sản phẩm hàng hóa hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất gia công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị trường nước ngoài đi qua hải quan. Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hóa xuất khẩu. Hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hóa phải đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kỹ thuật và môi trường, đạt tính cạnh tranh cao ở thị trường Nhật Bản.
Vai trò xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế:
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển ổn định.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước trong nước.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi
Xuất khẩu tạo những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam. Thông qua xuất khẩu hàng hóa, ta có thể tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Do đó, xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Xuất khẩu có tác động đến công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước.
2. Nghiên cứu và phát triển thị trường xuất khẩu thủy sản:
Những năm gần đây, đặc biệt trong năm 2000, sản xuất và xuất khẩu thủy sản có sự tăng trưởng vượt bậc. Kết thúc cuối thế kỷ, chúng ta đã đạt hơn 1,4 tỷ USD giá trị xuất khẩu, tăng gần 14,38% so với năm 1999. Về cơ cấu thị trường, đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng vững chắc, với sự gia tăng nhanh chóng vào thị trường Mỹ và Trung Quốc. Từ năm 1997 đến năm 2000 trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản, Nhật giảm từ 50 xuống 33%, trong khi Mỹ tăng 5 lên đến 21,2%, Trung Quốc Hồng Kông tăng từ 2% đến 19,3%. EU dao động từ 10 đến 7%, các nước Châu á khác từ 19 đến 20%. Năm 1999, Việt Nam được công nhận vào danh sách các nước xuất khẩu sang EU với 18 doanh nghiệp. Năm 2000, số lượng này tăng đến 49 doanh nghiệp, đồng thời Việt Nam được EU công nhận vào danh sách các nước nhuyễn thể…. Hiện nay, có 70 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu thủy sản vào Mỹ. Sự nỗ lực trong việc tăng cường và mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu. Theo báo cáo Việt Nam, chỉ từ chỗ xuất khẩu sang hai thị trường trung gian là Hồng Kông và Singapo, nay đã có thị trường chính là Nhật, Mỹ, EU, Trung Quốc và Đông Nam á. Thị trường Nhật trong những năm đầu của thập kỷ 90 chiếm từ 65-75% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Song do sự biến động trong khu vực và đồng Yên mất giá nên thị trường này đã giảm xuống. Mặc dầu vậy, cho đến thời điểm này, đây vẫn là thị trường lớn nhất chiếm 40,7% với kim ngạch xuất khẩu đạt 381,3 triệu USD. Đứng sau Nhật Bản là Mỹ, thị trường này đang dần được cải thiện từ 7- 8% thị phần nay đã tăng lên 13,8%. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của thủy sản Việt Nam ở thị trường này còn thấp, chỉ có một số doanh nghiệp bán được sang Mỹ, tiếp đến là thị trường Trung Quốc và Hông Kông với 117 triệu USD chiếm 12,5%. Có thể nói thị trường Trung Quốc đang phát triển mạnh và nhu cầu rất đa dạng. Do quan hệ thương mại và thanh toán giữa hai nước còn gặp nhiều khó khăn nên hàng thủy sản vào Trung Quốc mới chủ yếu đi bằng đường tiểu ngạch và chỉ được bán sang một số tỉnh phía Đông Nam với các loại nguyên liệu tươi sống là chủ yếu. Song thị phần xuất khẩu ở thị trường này đang tiếp tục tăng lên. Ngược lại, thị trường Đông Âu đang có xu hướng giảm xuống từ 12,05% năm 1997 xuống còn 9,6% năm 1999.
Ngoài các thị trường nói trên còn có một thị trường mà chỉ trước đây vài năm đã là một thị trường có nhiều sức thuyết phục đó là thị trường Đông Nam á. Trong năm 1997, thị trường này đã tiêu thụ 22 ngàn tấn thủy sản chiếm 16,5%. Cơ cấu mặt hàng này cũng rất phù hợp với nguồn lợi biển của nước ta, đó là mặt hàng tươi sống sơ chế và nguyên liệu. Đáng tiếc là gần đây do khủng hoảng tiền tệ trong khu vực nên thủy sản vào thị trường này đã giảm. Thực tế cho thấy thị trường xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam rõ ràng là chưa ổn định. Chúng ta chưa đẩy mạnh được xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường chính mà vẫn xuất qua trung gian môi giới và các trung tâm tái xuất như Singapo, Hồng Kông. Chưa sử dụng hình thức đại lý như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Nếu không tận dụng được cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu. Tiếp tục đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tăng thị phần ở thị trường EU, Bắc Mỹ, tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường EU, Bắc Mỹ, tận dụng mở toàn cầu.
Thực tế thị trường Nhật Bản nhìn chung đã ở mức bão hòa và đang trong thời kỳ suy thoái về kinh tế. Trung Quốc là thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng, có khả năng tiêu thụ nhiều hàng khô giá thấp phù hợp với khả năng chế biến của doanh nghiệp Việt Nam.
3. Nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường xuất khẩu thủy sản
Nhân tố thuận lợi
- Đường lối của Đảng và nhà nước thông thoáng tạo điều kiện cơ hội tốt nhất cho các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới. Nhà nước đã cung cấp nguồn vốn tín dụng ưu đãi và chính sách ưu đãi cho các chủ đầu tư tham gia vào chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản cụ thể: trong 5 năm đầu nuôi trổng thủy sản được miễn các loại thuế (đất, doanh thu, lợi tức), giảm 50% cho 5 năm tiếp theo kể từ khi dự án đi vào sản xuất kinh doanh. Đối với chương trình đánh bắt hải sản xa bờ, ngư dân được vay vốn với lãi ưu đãi 0.81%/tháng, thời hạn hoàn vốn 7 năm, vốn đối ứng của dân là 15%. Bên cạnh đó, nhà nước còn có sự hỗ trợ, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học kỹ thuật. Bộ thủy sản đã tập trung ban hành các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm tương đương với các nước nhập khẩu, nâng cao năng lực cơ quan kiểm soát an toàn vệ sinh và tập trung trung tâm cơ sở sửa chữa, nâng cấp nhà xưởng.
- Đến nay đã có 61 doanh nghiệp nằm trong danh sách xuất khẩu đi EU, gần 100 đơn vị áp dụng HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Mỹ, Nhật Bản. Những cơ sở nâng cấp, mở rộng sản xuất, trên 40 cơ sở sản xuất mới có công nghệ hiện đại sẽ được xây dựng ở địa phương gần nguyên liệu. Hơn nữa, hiện nay hải sản tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong khẩu phần ăn của người Nhật. Đây là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam chế các loại sản phẩm đa dạng sang Nhật.
- Với sự hỗ trợ tích cực của dự án cải thiện chất lượng và xuất khẩu thủy sản (SEAQIP) do Đan Mạch tài trợ. Bộ thủy sản đã tiến hành nhiều hoạt động xúc tiến thương mại, tổ chức các kênh thông tin về thị trường.
3.2. Những khó khăn và thách thức
- Tính cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản rất cao, thị trường Nhật Bản nhập khẩu hàng thủy sản từ rất nhiều nước khác nhau. Trong đó có những nước có lợi thế tương tự như Việt Nam đều coi thị trường Nhật Bản là thị trường chiến lược của các nước này đều quan tâm đến đề xuất các giải pháp hỗ trợ và thâm nhập dành thị phần trên thị trường Nhật. Đây cũng là khó khăn tác động đến khả năng thúc đẩy xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường này.
- Hệ thống pháp luật Nhật Bản có tính nguyên tắc cao đòi hỏi cách làm ăn bài bản của doanh nghiệp xuất khẩu. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam thường thiếu thông tin về thị trường. Vì vậy, không nắm rõ được yêu cầu của Nhật. Vấn đề kiểm tra vệ sinh thực phẩm, nếu phát hiện có vi sinh gây ra bệnh dịch tả thì phải hủy những sản phẩm không đạt yêu cầu này. Vì vậy các doanh nghiệp phải nắm vững các quy định nhập khẩu thủy sản của Nhật, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ xây dựng được phương án xuất khẩu của mình sao cho hiệu quả nhất.
- Công tác quy hoạch nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu còn bị động và hiệu quả chưa cao. Dự báo của doanh nghiệp và các cơ quan quản lý còn nhiều hạn chế, thông tin thị trường thủy sản thế giới còn thiếu và chậm dẫn tới sản lượng thủy sản có xu hướng chững lại trong những năm gần đây.
- Cơ cấu thủy sản xuất khẩu chưa hợp lý biểu hiện: tôm vẫn chiếm tỷ trọng cao trong sản lượng thủy sản xuất khẩu năm 2003 chiếm tỷ lệ 43,6%) trong khi một số loại thủy sản khác cũng được giá chưa được phát triển. Người sản xuất, kinh doanh mới quan tâm tới số lượng chưa quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Chưa có nhiều loại thủy sản tiêu biểu, đặc sản mang tính đặc sắc của Việt Nam. Công nghệ đánh bắt và nuôi trồng, bảo quản và chế biến, mẫu mã bao bì, giống thủy sản vẫn chưa tốt.
- Bốn tháng đầu năm 2004, giá nguyên liệu thủy sản phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu tăng 10-20% gây nhiều khó khăn cho các nhà máy chế biến thủy sản nên một số nhà máy chế biến thủy sản đã giảm công suất, giảm nhập khẩu nguyên liệu thô.
- Chi phí cho sản xuất, chế biến và xuất khẩu thủy sản có xu hướng tăng nhanh, làm tăng giá sản phẩm nên giảm khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam.
- Tỷ lệ thủy sản xuất khẩu ở dạng chế biến sâu và xuất khẩu tới thị trường tiêu thụ trực tiếp chưa cao.
- Tình trạng thiếu vốn ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tự lo vay vốn ngân hàng làm ảnh hưởng giá thành xuất khẩu. Trình độ học vấn và tay nghề của công nhân ngành thủy sản chưa cao làm ảnh hưởng xây dựng uy tín cho doanh nghiệp, đến chất lượng tiêu chuẩn. Mặt khác, trình độ quản lý ở một số cán bộ còn chưa khoa học. Điều này thể hiện rõ ở nhiều mặt từ quy hoạch xây dựng dự án, kế hoạch đến các phương thức, biện pháp quản lý, cần điều chỉnh cho phù hợp:
Đó là những khó khăn chúng ta cần khắc phục để làm cho kim ngạch xuất khẩu thủy sản ngày một cao hơn.
4. Kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu
- Kinh nghiệm về thị trường và hội nhập
Thị trường tiêu thụ quan trọng của chúng ta là thị trường nước ngoài, bất cứ sự biến động nào của thế giới có thể ảnh hưởng đến sản xuất trong nước nếu ta không chủ động hội nhập. Thực tế chứng minh rằng, trước hết cơ quan nhà nước, bao gồm cả hệ thống tổ chức, năng lực cán bộ cũng như luật pháp, chính sách, phải đi trước trong quá trình hội nhập. Việc đổi mới hệ thống văn bản pháp chế kỹ thuật trong quản lý thực phẩm và xây dựng cơ quan nhà nước trong ngành thủy sản có thẩm quyền tương đương với các nước là một ví dụ cụ thể. Suy ra, các vấn đề công nghệ, môi trường, chính sách cũng phải vươn lên theo yêu cầu hội nhập.
- Bài học về huy động sức dân
Từ những năm 50 ngành thủy sản đã đề ra phương châm phát triển nghề cá nhân dân với ý nghĩa người lao động nghề cá. Các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành là chủ thể của nền sản xuất thủy sản. Trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu, sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang tăng lên rất nhanh hiện chiếm 30% doanh số xuất khẩu thủy sản, so với tỷ trọng gần như băng không khoảng 10 năm trước đây. Các doanh nghiệp tư nhân đã nhanh chóng vươn lên thành các doanh nghiệp hàng đầu của xuất khẩu thủy sản Việt Nam, đã xuất hiện các công ty TNHH có giá trị xuất khẩu từ 50 đến 70 triệu USD. Chủ thể của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hệ thống thống nhất các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế dân doanh đều là lực lượng không thể thiếu được, hỗ trợ và tác động lẫn nhau.
- Bài học về tổ chức hệ thống quản lý
Tổ chức hệ thống là thể hiện quan hệ sản xuất. Đối với các tổng công ty nhà nước phải cần tìm ra mô hình tổ chức thích hợp. Trong điều kiện mới của toàn cầu hóa, cạnh tranh và hội nhập. Nói riêng lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm, khi đã mở rộng diện quản lý ra các vùng sản xuất nguyên liệu thì nhất thiết phải có cơ quan quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm ở địa phương. Vì vậy chủ trương cải cách hành chính, tinh giảm biên chế là cần thiết, nhưng phải xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ quản lý. Trong thời kỳ mới, không thể đồng loạt, dập khuôn. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức, việc nắm thông tin, xử lý thông tin để đưa quyết định quản lý kịp thời là cần thiết, cả ở phạm vi doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, trong điều kiện hội nhập và xu thế toàn cầu hóa mỗi bộ ngành cần thiết phải tổ chức để nghiên cứu dự báo các vấn đề chiến lược phát triển.
Bước vào thế kỷ XXI, thế và lực của ngành thủy sản đã thay đổi, điều đó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ vừa qua và tiếp tục không ngừng đổi mới để tìm ra những con đường phát triển mới. Đổi mới không ngừng là bài học lớn dẫn đến thành công.
II. Tình hình xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản
1. Đặc điểm thị trường Nhật Bản
Thị trường Nhật Bản tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản tinh chế và hàng đóng gói nhỏ cho siêu thị, tôm sống, cá ngừ. Thị trường Nhật Bản có nhiều dấu hiệu khả quan hơn. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản sáu tháng đầu năm 2004 đạt 108 triệu USD đưa tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường lên trên 26%, tiếp tục đứng vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước, nhưng đã có sự thu hẹp khoảng cách so với thị trường Mỹ. Điều này cho thấy sự nỗ lực chuyển hướng thị trường này tăng 78% khối lượng và trên 80% giá trị. Tuy nhiên việc đưa hàng vào thị trường này cũng đang tiềm ẩn một số khó khăn đòi hỏi nguồn gốc, tình trạng nhiễm khuẩn. Tôm của Việt Nam được khách hàng Nhật Bản quan tâm còn vì chất lượng. Nếu mức thuế DOC kết luận sơ bộ cho tôm của ấn Độ và Thái Lan cũng thấp thì tôm của Việt Nam sẽ được các nhà nhập khẩu Nhật quan tâm. Nhìn chung xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản so với thị trường khác có sự khác biệt.
Thị trường
Sản lượng (tấn)
Giá trị (đô la Mỹ)
2002
2003
2002
2003
Châu á (không kể Nhật)
134744.06
90503,71
497803341
290925817
Châu Âu
28612,78
38186,88
73719852
116739138
Mỹ
98664,54
122162,89
654977324
777656159
Nhật Bản
96251,41
97953,91
537459466
582837870
Thị trường khác
100385,20
132259,39
288860933
431417822
Tổng
458657,99
481066,78
2022820916
2199576806
Nguồn: Trung tâm khoa học KHKT và kinh tế thuỷ sản- Bộ thuỷ sản
Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Nhật chủ yếu là các mặt hàng cao cấp như tôm đông lạnh, tôm hùm, bạch tuộc đông, mực đông, cua biển, cá chình. Gần đây, do người tiêu dùng Nhật Bản hạn chế việc mua các sản phẩm này nên các mặt hàng cao cấp trên có giảm xuống về số lượng và giá trị, đồng thời lại tăng các mặt hàng thủy sản thông thường. Nhập khẩu tôm của Nhật Bản đạt mức cao nhất là năm 1995 với giá trị 3,92 tỷ USD. Hiện nay, nhập khẩu tôm của Nhật giữ ở mức trung bình dưới 20 nghìn tấn/tháng. Một thực tế khó khăn là mặc dù chính phủ Nhật Bản đã dùng các biện pháp vốn trước đây rất hữu hiệu như giảm giá bán nhưng nay người tiêu dùng đòi hỏi tăng cường tính an toàn, bổ dưỡng và ngon lành đối với mặt hàng tôm. Các nhà xuất khẩu tôm còn có thể thấy thị trường Nhật Bản đang đơn giản hóa các kênh phân phối, loại bỏ trung gian, cả một số nhà buôn lớn để đến với các đầu ra hiệu quả nhất.
2. Tình hình xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản
2.1. Số lượng và kim ngạch
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 1998-2003 sang Nhật hầu như tăng, trung bình là 11%/năm. Trong đó, năm 2000 đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất 22,5%, mặc dù 2001 chỉ tăng nhẹ so với năm 2000 nhưng đến năm 2002 lại vọt lên 9,52% và đến năm 2003 tăng 7,6% so với năm 2002. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đạt 363,2 triệu USD chiếm 43,2% giá trị xuất khẩu chung, đến năm 2002 đạt 96,25 nghìn tấn giá trị 537,46 triệu USD, chiếm 26,6% giá trị xuất khẩu chung. Năm 2003 đạt giá trị 578,42 triệu USD, chiếm 25,8% giá trị xuất khẩu chung. Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng năm 2004 sang thị trường này là 2,8 tỷ USD, tăng19% so với cùng kỳ năm 2003, tháng 10 đã đạt được mức 80 triệu USD gấp 2,5 lần những tháng đầu năm. Tuy tỷ trọng xuất khẩu thủy sản sang Nhật Bản có giảm nhưng về giá trị tăng đáng kể.
Các loại thủy sản của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật đều có chất lượng cao đang được bạn hàng ưa thích nhất là tôm, mực tươi. Do đó giá cũng cao, đã mang lại nguồn ngoại tệ quan trọng và ổn định những năm qua. Hiện nay, Việt Nam là một trong 4 nước xuất khẩu thủy sản lớn vào Nhật Bản, sau Thái Lan, ấn Độ, Inđônêxia. Mục tiêu tăng trưởng tiêu tăng trưởng bình quân hàng năm là 10%. Năm 2005 dự kiến Việt Nam sẽ xuất khẩu được 600-700 triệu USD. Đây là mục tiêu có khả năng đạt được.
Kim ngạch thủy sản xuất khẩu sang Nhật Bản không những tăng liên tục mà ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Nhật Bản. Điều này thể hiện qua số liệu sau:
Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam-Nhật Bản
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Giá trị
(triệu USD)
363,19
395,2
482,16
490,76
537,46
578,42
% tăng
+10,9
+12,2
+10,1
+10,95
+10,76
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Tỷ trọng mặt hàng thủy sản xuất khẩu
trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng KNXK
1.740
1.962
2.621
2.509
2.438
2.910
Giá trị XKTS
363,19
395,2
482,16
490,76
537,46
578,42
Tỷ trọng (%)
20,87
20,14
18,39
19,56
22,05
19,86
Nguồn: JETRO; Hải quan Việt Nam
Hiện nay, có hơn 600 doanh nghiệp của Việt Nam đang trực tiếp hoặc gián tiếp xuất khẩu thủy sản ra thị trường thế giới thì có hơn 200 doanh nghiệp xuất khẩu hàng đi Nhật. Trong số này đã có gần 100 đơn vị áp dụng HACCP. Những doanh nghiệp này có giá trị kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trình độ chế biến của nhiều đơn vị được đánh giá là đạt mức tiêu biểu của khu vực và trên thế giới, góp phần làm tăng giá trị hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Nhật Bản là thị trường quan trọng và đang đứng thứ hai trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Mặc dù khối lượng và giá trị xuất khẩu liên tục tăng nhưng con số vẫn thấp so với tổng giá trị nhập khẩu thủy sản vào thị trường Nhật Bản. Thị phần của thủy sản Việt Nam còn rất khiêm tốn, giá trị xuất khẩu thủy sản của chúng ta mới chỉ chiếm 4,15% năm 2002 (555,49 triệu USD), trong khi đó các nước lân bang như Inđônêxia-7,36%; Thái Lan-7,62%; Đài Loan-4,8%. Hiện nay, Việt Nam xếp thứ 13 trong tổng số các nước xuất khẩu thủy sản sang thị trường này.
2.2. Chủng loại mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản
Các mặt hàng chủ yếu là tôm, cá, mực, bạch tuộc đông lạnh và mực khô. Các mặt hàng chủ yếu xuất sang Nhật trong năm 2003 là (khối lượng-nghìn tấn/giá trị-triệu USD/tỷ trọng % về giá trị): Tôm 52,01/380,23/65,7; mực và bạch tuộc đông 142,26/57,78/10,0; cá 14,81/54,15/9,4; hàng khô 1,97/14,55/2,5; hải sản khác 15,35/77,7/13,4.
Như vậy, xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là tôm đông, nhuyễn thể và cá chiếm tới 86,6% giá trị xuất khẩu sang thị trường Nhật.
Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản
Đơn vị tính: khối lượng: nghìn tấn
giá trị: triệu USD
Mặt hàng
Năm 2002
So với năm
2001(%)
Năm 2003
So với năm
2002(%)
KL
Giá trị
KL
Giá trị
KL
Giá trị
KL
Giá trị
Tôm
49,25
347,4
+39,4
+20,2
52,01
380,23
+5,6
+9,5
Cá
15,28
56,46
+13,4
+13,9
14,81
54,15
-3,1
-4,1
Mực, bạch tuộc
16,23
66,05
+21,5
+7,2
14,26
57,78
-12,2
-12,9
Hàng khô
3,66
23,49
+21,5
+24,7
1,97
1,55
-46,2
-38,9
Hải sản khác
12,17
44,57
+20,2
+25,1
15,35
71,71
+26,1
+50,8
Tổng cộng
96,25
527,46
+9,51
98,40
588,42
+2,2
+7,62
Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản 2/2004
*Nhóm mặt hàng tôm:
Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu tôm vào thị trường Nhật Bản khối lượng 246,98 nghìn tấn, trị giá 289,56 triệu USD, tương đương mức của năm 2000 và đứng hàng thứ 3 trong số các nước cung cấp tôm cho Nhật. Năm 2002 và 2003, đối với mặt hàng tôm đông lạnh, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam tương ứng với khối lượng 4,25 nghìn tấn và 52,01 nghìn tấn, giá trị 347,40 triệu USD và 380,23 triệu USD. Như vậy, về khối lượng năm 2002 đã tăng 39,4% so với 2001 và giá trị tăng 20% do giá tôm từ cuối năm 2001 ở Nhật tăng lên và chất lượng tôm của Việt Nam cũng được cải thiện hơn. Thị trường tôm Nhật Bản chiếm 36,7% trong tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam năm 2002. Điều đáng mừng là: nước ta xuất khẩu tôm vào Nhật cuối năm 2002 chiếm 16,68% thị phần, vượt qua ấn Độ để trở thành nước cung cấp tôm thứ 2 cho thị trường Nhật Bản, sau Inđônêxia, tuy nhiên, cũng đáng quan tâm là về khối lượng tôm đông xuất sang Nhật, Việt Nam đứng thứ 2 nhưng về giá trị chỉ đứng thứ 3 vì giá tôm rất thấp, trung bình chỉ 7,1USD/kg (giá trung bình năm 2003). Giá tôm trung bình của Việt Nam tại thị trường Nhật cũng còn rất thấp so với giá tôm của Thái Lan, Inđônêxia, thậm chí còn thấp hơn cả giá trung bình của thị trường Nhật Bản:10,7USD/kg(1998). Nếu so với Thái Lan (12,5USD/kg), Inđônêxia và Phillipin (10,2USD/kg) thì giá tôm đông lạnh của chúng ta xuất sang Nhật có ý nghĩa quan trọng hiện nay.
Hiện nay, tôm Việt Nam chỉ chiếm11,4% thị phần tại đây và khoảng cách với các nước dẫn đầu như Inđônêxia còn khá xa. Mặt khác, tôm xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật chưa đa dạng về chủng loại và mới chủ yếu là tôm đông lanh sơ chế trong khi đó thị trường Nhật Bản nhập khẩu tới gần 20 mặt hàng chủng loại tôm như: sống, tươi, đông lạnh, khô, muối, chín, xông khói, chế biến... Mặt hàng tôm xuất khẩu mang lại ngoại tệ nhiều nhất trong các loại thủy sản. Khoảng 85% tôm xuất khẩu của Việt Nam còn dưới dạng đông lạnh chưa qua chế biến nên trị giá ngoại tệ thu được còn thấp so với khả năng.
*Nhóm mặt hàng cá Từ năm 1998 trở về trước, xuất khẩu cá của Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo, Ôxtrâylia và một khối lượng nhỏ vào EU. Sản phẩm cá của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật chủ yếu là cá đông lạnh: cá ngừ, cá thu, cá bò, cá basa, cá cơm,... Các nhà cung cấp chính là Công ty du lịch tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Công ty thủy sản Hạ Long, Công ty TNHH thủy sản Trúc An,...
So với giá tôm, giá cá xuất khẩu sang thị trường Nhật có biên độ biến động tương đối hẹp, giá các loại sản phẩm như cá nục heo, cá thu phi lê hầu như không thay đổi giá trong suốt hai năm qua. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản hàng năm vẫn tăng với mức trung bình 10-15% về giá trị. Năm 2002 đạt 15,28 nghìn tấn, giá trị 56,46 triệu USD tăng so với năm 2001 là 13,4% về khối lượng và 13,9% về giá trị. Nhưng triên 11 tháng đầu năm 2003, khối lượng xuất sang Nhật Bản đật 13,51 nghìn tấn, giá trị 50,15 triệu USD giảm so với cùng kỳ năm 2002 tương ứng 3,3% về khối lượng và 2,3% về giá trị.
*Nhóm mực và bạch tuộc đông lạnh
Năm 2002, Nhật Bản đã nhập khẩu từ Việt Nam 16,23 nghìn tấn, giá trị 66,05 triệu USD tăng 21,1% về khối lượng và 7,2% về giá trị so với năm 2001. Mực nang của Việt Nam đã dành được vị trí thứ 2 tại thị trường Nhật Bản, sau Thái Lan với tỷ trọng chiếm 15,37% trong tổng số nhập khẩu của Nhật Bản. Hộp tôm, hộp cá ngừ của ta cũng đang dần có chỗ đứng trên thị trường Nhật. Điều chúng ta quan tâm nhiều hơn nữa tới hai mặt hàng đặc sắc là hộp thủy sản (chủ yếu là tôm và hộp cá ngừ) thì sẽ mở ra triển vọng lớn cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
Xét về cơ cấu thị trường, năm 2002, thị trường Mỹ vươn lên đứng đầu trong việc nhập khẩu tôm đông lạnh, chiếm 34% ( Nhật chiếm 36,7%). Tại thị trường xuất khẩu cá đông lạnh, Mỹ cũng dẫn đầu với 144,98 triệu USD trong khi Nhật chỉ chiếm 16%. Riêng thị trường mực và bạch tuộc xuất khẩu của Việt Nam, Nhật chiếm tỷ trọng áp đảo (52%) với 66,05 triệu USD và Mỹ chiếm 2,8% (3,34 triệu USD). Nhưng xuất khẩu hai mặt hàng này sang Mỹ tăng đột biến (90% năm 2000) trong khi sang Nhật chỉ tăng 11,8%.
Như vậy, hàng thủy sản của Việt Nam, nhất là tôm, mực, được thị trường Nhật Bản đánh giá khá cao. Việt Nam là một trong bốn nước hàng đầu xuất khẩu tôm và mực vào thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, thời gian gần đây quota nhập khẩu mực ống phân bổ cho Việt Nam trong việc đảm bảo duy trì quan hệ bạn hàng truyền thống với các nhà nhập khẩu Nhật. Đối với thị trường có hạn ngạch này, trong thời gian tới cần xem xét hỗ trợ về giá nhằm duy trì kim ngạch hàng năm để hạn ngạch phân bổ cho mặt hàng không bị giảm.
2.3. Giá cả và phương thức xuất khẩu
*Giá các mặt hàng thủy sản của nước ta những năm trước đây thường thấp hơn giá cùng chủng loại của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Inđônêxia, Trung Quốc, ấn Độ,... Tuy nhiên 3 năm gần đây, do dịch bệnh và môi trường xuống cấp ở Thái Lan và Inđônêxia nên năng suất nuôi trồng của họ đã bị giảm sút nghiêm trọng, kèm theo đó giá cũng bị hạ theo. Đối với thủy sản của nước ta, nhờ uy tín về chất lượng tăng nên hai năm gần đây giá các mặt hàng thủy sản của ta vẫn giữ được mức giá như trước.
Biểu: giá bình quân của một số mặt hàng thủy sản
xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản
STT
Mặt hàng
Năm 2002
(USD/kg)
Năm 2003
(USD/kg)
1
Tôm
7,053
7,089
2
Cá các loại
3,695
4,012
3
Hải sản khô
4,069
4,072
4
Mực và bạch tuộc
6,418
6,304
5
Hải sản khác
3,662
4,548
Nguồn: Tạp chí thương mại thủy sản 2/2003 và 2/2004
*Phương thức xuất khẩu
Đa số các nhà xuất khẩu thủy sản nước ta ký kết hợp đồng bán hàng cho các nhà thương mại bán buôn của Nhật Bản theo giá FOB, rồi từ đây thủy sản mới được cung cấp cho các nhà chế biến và hệ thống kinh doanh bán lẻ của Nhật Bản. Việc tìm kiếm khách hàng, xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thủy sản... phía Việt Nam luôn ở thế bị động phụ thuộc vào đối tác Nhật Bản. Việc xuất khẩu qua trung gian như vậy, bên cạnh những ưu điểm là chi phí lưu thông thấp, thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có quy mô hoạt động nhỏ và năng lực tiếp cận thị trường còn hạn chế, thì việc xuất khẩu qua trung gian này có rất nhiều nhược điểm, giá xuất khẩu thủy sản thấp, chủ yếu phải tham khảo giá xuất khẩu của nước khác, không tạo nên thương hiệu cho sản phẩm thủy sản ở Việt Nam, không trực tiếp tiếp cận với người tiêu dùng Nhật Bản nên khi thị hiếu thay đổi sẽ khó nắm bắt kịp.
Hiện nay, rất ít doanh nghiệp thủy sản Việt Nam áp dụng các hình thức Marketing để tìm kiếm khách hàng. Trong khi đó, các nhà kinh doanh thủy sản của Thái Lan, Trung Quốc có sự hỗ trợ của chính phủ thực hiện quảng cáo, tiếp thị, liên kết với các nhà bán buôn, siêu thị tổ chức các đợt khuyến mại rất có hiệu quả. Ngoài ra các nhà xuất khẩu còn thành lập văn phòng giao dịch thủy sản ở Nhật Bản.
2.4. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
2.4.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thủy sản
Đây là công việc đầu tiên và cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh thủy sản xuất khẩu, giúp doanh nghiệp biết được xu hướng và sự biến đổi nhu cầu thị hiếu của khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm của mình nên chúng ta phải trả lời các câu hỏi sau: Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam, khả năng tiêu thụ sản phẩm đó trên thị trường đó ra sao. Thị trường đang cần những mặt hàng xuất khẩu thủy sản nào? Tình hình cung cấp thủy sản cho thị trường đó của các nước khác đó như thế nào? Luật pháp và các quy định bắt buộc khi đưa thủy sản vào thị trường đó. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thông qua các phương pháp nghiên cứu tại phòng làm việc, tại hiện trường... Kết quả nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp hoạch định chiến lược xuất khẩu xây dựng phương án xuất khẩu và lựa chọn phương thức giao dịch hiệu quả.
2.4.2. Tiến hành đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu thủy sản
Các doanh nghiệp cần tổ chức giao dịch đàm phán, soạn thảo hợp đồng kinh tế, chuẩn bị hợp đồng. Các bên có thể tiến hành đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp hoặc thông qua thư từ giao dịch hoặc qua điện thoại, Internet. Điều này là do điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp quyết định. Khi đàm phán đòi hỏi phải chuẩn bị tốt mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán, người thực hiện đàm phán đòi hỏi hiểu biết rõ ràng và có kinh nghiệm. Những điều khoản trong hợp đồng phả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35663.doc