LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài tại Việt Nam
Với dân số là 127,46 triệu người và tổng thu nhập quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 5,04 tỷ đôla (tốc độ tăng trưởng năm 2006 là 2,1%), Nhật Bản là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Nhật Bản có sức mua lớn, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản (trong đó có đồ gỗ) đang ngày càng gia tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay. Nhu cầu tiêu dùng của Nhật Bản mở ra nhiều triển vọng mớ
149 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản từ nay đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cho các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật trong đó có Việt Nam. Hiện nay Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Hoa Kỳ). Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khối lượng hàng hoá trị giá khoảng 400 tỷ USD, trong đó nhập khẩu từ Việt Nam khoảng 2,9 tỷ USD.
Lâu nay, các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam chỉ có dầu thô, dệt may, thuỷ sản… thì nay, đồ gỗ cũng được xem như là một mặt hàng xuất khẩu chính, giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là một trong 6 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, với nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu ngoạn mục (trung bình 70%/năm).
Hơn thế, trong năm 2005, thị phần đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đã tăng từ vị trí thứ tư lên vị trí thứ ba (sau Trung Quốc và Đài Loan), hiện đang chiếm 8% thị phần nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu hướng tăng hơn nữa. Với nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ đạt khảng 2,2 tỷ USD/năm của người Nhật Bản, đồ gỗ là một mặt hàng có triển vọng rất lớn để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản năm 2006 và những năm sau nữa.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng trong điều kiện toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu sắc hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cạnh tranh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản nói riêng ngày càng mạnh mẽ và quyết liệt. Những sản phẩm Việt Nam có lợi thế xuất khẩu sang Nhật Bản cũng là những sản phẩm mà nhiều nước và khu vực khác trên thế giới nhất là các nước ASEAN và Trung Quốc có điều kiện lợi thế để xuất khẩu sang thị trường này. Đó là chúng ta còn chưa nói tới những khó khăn xuất phát từ đặc điểm thị trường Nhật Bản - một thị trường đòi hỏi khắt khe đối với hàng hoá nhập khẩu và có các rào cản thương mại phức tạp vào bậc nhất trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu và tìm ra giải pháp để xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản là hết sức cần thiết. Không những đối với việc mở rộng xuất khẩu trong thời gian trước mắt mà còn về lâu dài, góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ từ nay đến năm 2020.
II. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Làm rõ đặc điểm và xu hướng nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản, đánh giá thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999 đến nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến nay.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp.
V. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu bài viết gồm có ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 1999 đến nay.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ nay đến năm 2020.
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
1.1. Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Như chúng ta đã biết, cùng với sự phát triển kinh tế của các quốc gia, xuất phát từ những sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, khí hậu, sự khác biệt về trình độ phát triển sản xuất và từ nhu cầu phong phú đa dạng của mọi tầng lớp dân cư trên thế giới…, nhu cầu buôn bán trao đổi hàng hoá cũng ngày càng phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, không những chỉ trao đổi trong nội bộ quốc gia mà còn qua khỏi biên giới quốc gia, lan rộng ra toàn thế giới.
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá và dịch vụ từ nước này sang nước khác.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu là một hoạt động không thể thiếu trong thương mại quốc tế. Xuất khẩu có những vai trò sau:
Thứ nhất, xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình.
Thứ hai, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc và những nguyên nhiên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Thứ ba, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất sản phẩm.
Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân.
Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
1.1.2.1. Hình thức xuất khẩu trực tiếp
Hình thức xuất khẩu trực tiếp là hình thức, trong đó người bán (người sản xuất, người cung cấp, người xuất khẩu) và người mua (người nhập khẩu) quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thoả thuận về hàng hoá, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
1.1.2.2. Hình thức xuất khẩu qua trung gian
Xuất khẩu qua trung gian là hình thức bán hàng được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của trung gian thứ ba. Người thứ ba này được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến trong phương thức này là đại lý và môi giới.
1.1.2.3. Hình thức xuất khẩu buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu hay còn gọi là hình thức xuất khẩu liên kết là phương thức trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi với nhau có gía trị tương đương nhau. Mục đích xuất khẩu ở đây không phải nhằm thu ngoại tệ mà thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Các loại hình buôn bán đối lưu chủ yếu: Hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển nợ, mua bán bình hành, mua lại.
1.1.2.4. Hình thức gia công xuất khẩu
Là một phương thức giao dịch kinh doanh quốc tế trong đó một bên (bên đặt gia công) giao cho bên kia vật tư, nguyên liệu nhằm nhập về những thành phẩm sau khi trả cho bên kia một khoản lệ phí (phí gia công).
Các hình thức gia công xuất khẩu:
Căn cứ vào sự chuyển giao quyền sở hữu: Hình thức giao nguyên liệu nhận thành phẩm, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm.
Căn cứ vào cách thức thanh toán phí gia công: Hợp đồng thực thanh thực chi, hợp đồng khoán
Căn cứ vào chủ thể tham gia gia công: gia công hai bên, gia công nhiều bên.
1.1.2.5. Hình thức tái xuất khẩu
Là hình thức xuất khẩu những mặt hàng ngoại nhập trước đây mà bản chất hàng hoá đó không thay đổi nhiều qua quá trình gia công lưu thông nhằm tăng giá trị của hàng hoá đó
Các hình thức tái xuất khẩu: Tái xuất thông thường, tam nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập.
1.1.2.6. Hình thức xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức xuất khẩu mà người bán (người xuất khẩu) bán hàng hoá hay dịch vụ trong phạm vi biên giới quốc gia của mình.
Hình thức: Bao gồm các hoạt động như: Bán hàng tại hội chợ, triển lãm quốc tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu
1.1.3.1.Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước
Tuỳ vào từng thời điểm khác nhau, tình hình biến động kinh tế xã hội, chính trị khác nhau mà mỗi quốc gia sẽ theo đuổi một chính sách riêng để đạt mục tiêu chung là phát triển đất nước. Bởi vậy, chính sách quản lỹ của từng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.
Khi quốc gia thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu thì quốc gia đó sẽ thực hiện tất cả các biện pháp để có thể thúc đẩy xuất khẩu của quốc gia. Ngược lại, khi quốc gia thực hiện chính sách bảo hộ nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu thì hoạt động xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Mặt khác, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia cũng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, minh bạch, các thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ không rườm rà, phức tạp thì các doanh nghiệp có thể tận dụng được nhiều cơ hội hơn trong kinh doanh và xuất khẩu. Thêm vào đó, khi hệ thống luật pháp ổn định rõ ràng tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, đồng thời tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu.
1.1.3.2. Các yếu tố đầu vào sản xuất, nguyên liệu, vốn, lao động…
Các yếu tố này có mối quan hệ tỷ lệ thuận với khả năng xuất khẩu của một quốc gia. Khi tiềm lực các yếu tố này càng mạnh thì khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia này sang thị trường nước ngoài càng cao, sản phẩm của quốc gia này càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước ngoài và ngược lại. Ví dụ, khi một quốc gia sản xuất hàng xuất khẩu, nguyên liệu để sản xuất phải nhập khẩu từ nước khác sẽ dẫn đến tình trạng khả năng xuất khẩu hàng hoá của quốc gia đó sẽ bị phụ thuộc vào tình hình biến động nguyên liệu đầu vào của thị trường khác. Khi giá nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá sản phẩm xuất khẩu tăng, dẫn đến sức cạnh tranh về giá của sản phẩm đó trên thị trường nước ngoài sẽ giảm, làm hạn chế xuất khẩu mặt hàng đó.
1.1.3.3. Tỷ giá hối đoái
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu, vì lúc này, đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ nên cùng một lượng ngoại tệ có thể có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giame xuống sẽ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít đồng nội tệ hơn nên không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư nhiều cho hoạt động xuất khẩu.
1.1.3.4. Sức cạnh tranh hàng hoá
Khi sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường nước ngoài lớn, đáp ứng được những nhu cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ở thị trường nước ngoài thì thì thị phần của hàng hoá đó sẽ chiếm rất lớn ở nước ngoài, nhiều hơn so với các hàng hoá cùng loại của nước khác, sẽ thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Nếu sức cạnh tranh của hàng hoá đó càng tăng dẫn đến thị phần của hàng hoá đó trên thị trường nước ngoài càng lớn sẽ tất yếu dẫn đến xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn sang thị trường này.
1.1.3.5. Nhu cầu của thị trường nước ngoài
Cho dù là sản xuất cho tiêu dùng trong nước hay sản xuất để xuất khẩu, nhu cầu vẫn luôn là yếu tố quyết định đến sản lượng. Khi nhu cầu về một hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài tăng thì các nhà sản xuất sẽ tập trung mở rộng quy mô sản xuất để có thể sản xuất ra nhiều hàng hoá để đáp ứng nhu cầu, tất nhiên sẽ khuyến khích xuất khẩu nhiều hơn sang thị trường này.
Ngược lại, nếu nhu cầu về hàng hoá nào đó của một quốc gia trên thị trường nước ngoài giảm sẽ không khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, thậm chí còn thu hẹp quy mô sản xuất, dẫn đến hạn chế xuất khẩu hàng hoá đó.
1.1.3.6. Yếu tố khác
Ngoài các yếu tố cơ bản tác động tới xuất khẩu như trên, còn có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Sau đây là một số yếu tố khác:
Một là, trình độ quản lý, nếu nhà quản lý không có trình độ hay trình độ kém thì không thể nhận ra được tiềm năng của thị trường, từ đó sẽ không thực hiện các biện pháp để nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường đó.
Hai là, quan hệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu: Quan hệ này nếu tiến triển tốt đẹp, hợp tác hai bên cùng có lợi thì chắc chắn nước này sẽ giành cho nước kia những ưu đãi về thuế nhập khẩu, hạn ngạch… thông qua các hiệp định song phương và đa phương, khiến cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá giữa hai quốc gia sẽ diễn ra dễ dàng thuận lợi, tạo được sức cạnh tranh của hàng hoá nước này từ đó thúc đẩy xuất khẩu giữa hai quốc gia. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai quốc gia không tốt, thì hai bên sẽ không dành cho nhau những ưu đãi, mà còn tạo ra những hạn chế để nước này không thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường nước kia, dẫn đến hạn chế xuất khẩu giữa hai nước. Nếu một trong hai nước có nền kinh tế phát triển mạnh trên thế giới thì đôi khi còn có thể tạo ra những cấm vận để nước còn lại không những không thể xuất khẩu sang quốc gia mình mà còn hạn chế cả xuất khẩu sang quốc gia khác.
Ngoài ra, những biến động tình hình kinh tế - xã hội như khủng hoảng, đình công,… sẽ làm cho nền kinh tế trong nước phải chịu những tổn thất, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất trong nước. Do vậy cũng ảnh hưởng gián tiếp đến xuất khẩu ra nước ngoài. Hơn nữa, lúc này quốc gia đang gặp phải những biến động vì vậy mọi giải pháp trước mắt đều tập trung nhằm hạn chế ảnh hưởng của những biến động này tới nền kinh tế, nên hoạt động xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn, rủi ro hơn.
1.2. Các quy định pháp lý của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam
1.2.1. Giới thiệu khái quát về Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các quy định của WTO
1.2.1.1. Giới thiệu chung về Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) - WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
WTO là nơi đề ra những quy định để điều tiết hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Tính đến nay, WTO có 150 thành viên. WTO chính là một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng, nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., để giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế: Ra đời với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý, WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp lý này bản chất là các "hợp đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký kết, công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận. Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của những thoả thuận này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán của mình.
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh...(gọi chung là quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy định đã thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của WTO chính là “mục tiêu chính trị” của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu kinh tế và chính trị nêu trên là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
1.2.1.2. Mục tiêu và chức năng của WTO
a) Mục tiêu của WTO: Các mục tiêu của WTO được ghi nhận tại lời mở đầu của “Hiệp định thành lập WTO” như sau:
"Các bên ký kết Hiệp định này thừa nhận rằng: Tất cả những mối quan hệ của họ (tức các bên ký kết thành lập ra WTO) trong lĩnh vực kinh tế và thương mại phải được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và một khối lượng thu nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế khác nhau”.
“(Các bên ký kết Hiệp định) thừa nhận thêm rằng: cần phải có nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
(Các bên ký kết Hiệp định) mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này bằng cách tham gia vào những thoả thuân tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;
Do đó, (Các bên ký kết Hiệp định), quyết tâm xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này”.
b) Chức năng của WTO
Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, WTO có 5 chức năng sau:
Một là, WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc thực hiện các hiệp định nhiều bên;
Hai là, WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO. WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ trưởng đưa ra;
Ba là, WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp giữa các thành viên;
Bốn là, WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước thành viên);
Năm là, để đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.
1.2.1.3. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
Cho dù có đến gần 30.000 trang văn bản, bao gồm rất nhiều văn bản pháp lý quy định nhiều lĩnh vực kinh tế - thương mại khác nhau như: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, viễn thông, các biện pháp kiểm dịch động - thực vật, sở hữu trí tuệ... song thực chất, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng và chuyển tải các nguyên tắc cơ bản của WTO, hay nói cách khác, WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
Một, thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia);
Hai, thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);
Ba, dễ dự đoán (tức có thể dự đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch;
Bốn, tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn;
Năm, khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất).
1.2.2. Lợi ích và khó khăn đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
1.2.2.1. Lợi ích của doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO:
Thực tế ở các nước trên thế giới và kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm qua cho thấy, khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp được nhiều hơn mất, khả năng tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng thu hút vốn đầu tư nước ngoài là chắc chắn.
Bởi lẽ, khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ được:
Một là, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì WTO là tổ chức có 150 thành viên chiếm trên 85% tổng thương mại hàng hoá và khoảng 90% tổng thương mại dịch vụ toàn cầu. Gia nhập WTO, ngoài việc được sự đối xử bình đẳng trong quan hệ thương mại như tất cả các thành viên khác của WTO, Việt Nam còn được hưởng những ưu đãi thương mại cho một nước đang phát triển, ở trình độ thấp. Với những lợi thế do WTO mang lại, Việt Nam sẽ có điều kiện để tăng cường tiếp cận thị trường của các nước thành viên WTO, mở rộng thị trường xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có tiềm năng, có lợi thế, và một khi xuất khẩu tăng trưởng sẽ tạo đầu ra cho sản xuất trong nước, mang lại sự tăng trưởng cho sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
a. Tăng số lượng thị trường xuất khẩu hàng hoá cho doanh nghiệp:
Nhờ tư cách thành viên của WTO, doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu vào toàn bộ 149 nước thành viên khác của WTO với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có một số thị trường truyền thống (Nga, Ðông Âu) và một số thị trường mới khai thác (Mỹ, Nhật Bản, EU). Nếu nhớ lại rằng, giá trị xuất khẩu của Việt Nam hiện chiếm 1/ 2 giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thì sẽ thấy rõ lợi ích to lớn của việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam. Một khi quy mô sản xuất hàng xuất khẩu phát triển lên đến một mức nào đó, nếu không giải quyết được bài toán đầu ra, doanh nghiệp khó lòng phát triển, chứ chưa nói đến phát triển bền vững.
b. Tăng số lượng hàng hoá xuất khẩu ra các nước:
Nhờ thành quả đàm phán cắt giảm thuế quan và loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan trong lịch sử 50 năm qua của WTO đến nay, doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc xuất khẩu vào các thị trường các nước thành viên của WTO với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp. Nếu không là thành viên WTO, chắc chắn doanh nghiệp Việt Nam không thể xuất khẩu nhiều hàng hoá sang các nước đang là thành viên WTO. Bởi lẽ, các nước này trước hết cần thực hiện quy chế đãi ngộ tối huệ quốc với các nước thành viên WTO; còn trong khi đó họ có thể phân biệt đối xử với hàng hoá của Việt Nam thể hiện qua việc họ có thể đánh thuế cao vào hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hoặc sử dụng các biện pháp phi thuế quan để ngăn trở hàng hoá của Việt Nam. Do vậy, nếu được hưởng mức thuế suất nhập khẩu thấp, sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam có mức giá cạnh tranh được với hàng hoá tương tự của các nước khác. Vì thế, có thể khẳng định, đồng thời với việc mở rộng không gian thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu, mức thuế nhập khẩu thấp cũng sẽ giúp doanh nghiệp có cơ hội thúc đẩy sự xâm nhập hàng hoá của mình vào thị trường các nước thành viên WTO.
Ngoài ra, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ những quy định của WTO về ưu đãi cho các nước đang phát triển để tăng lượng xuất khẩu, chẳng hạn, các mặt hàng sơ chế khi xuất khẩu sang các nước phát triển sẽ được hưởng mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp, hoặc không có thuế, hoặc hưởng chế độ của hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP)...Khi tham gia WTO, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi từ quy chế miễn trừ quy định cấm trợ cấp xuất khẩu đối với các nước đang phát triển có thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm.
c. Tạo cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các ngành mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh:
Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng cơ hội này từ hai bình diện: do những quy định của WTO và do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại.
Những cơ hội do quy định của WTO đem lại:
Ðối với hàng nông sản: Vốn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước đang phát triển, nơi mà công nghiệp chế biến chưa phát triển, trình độ chế biến thấp. Ở những nước này, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu còn chiếm ở mức cao, do đó, nếu bị đánh thuế cao, số lượng xuất khẩu sẽ không được nhiều, chắc chắn ảnh hưởng đến tổng sản lượng xuất khẩu, làm giảm doanh thu xuất khẩu. Nhưng khi vào WTO, các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, sẽ được hưởng những thành quả nhờ những vòng đàm phán đa phương trước đó của WTO về nông nghiệp. Bao gồm việc tăng cường tiếp cận thị trường (mở rộng hạn ngạch thuế quan và giảm leo thang thuế quan đối với sản phẩm chế biến), giảm và loại bỏ mọi dạng trợ cấp xuất khẩu, giảm đáng kể hỗ trợ trong nước. Việt Nam cũng không phải cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân (các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 20% mức hỗ trợ trong nước trong thời gian 6 năm, các nước đang phát triển khác là 13,3% trong vòng 10 năm). Theo Hiệp định nông nghiệp, các hạn chế về số lượng trong đó có gạo, nông sản khác sẽ được chuyển thành thuế quan và cắt giảm dần. Do đó, Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng xuất khẩu gạo và các mặt hàng nông sản khác sang các thị trường mới. Mặt khác, các sản phẩm nông sản xuất khẩu của các nước không phải là thành viên sẽ phải chịu thuế suất cao do việc thuế quan hoá của các nước thành viên.
Ðối với hàng dệt may: Việt Nam cũng sẽ được hưởng lợi từ cơ chế mới của WTO. Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng dệt - may được ký kết, thay thế cho Hiệp định đa sợi. Thực chất của Hiệp định đa sợi là các nước phát triển, nhất là Mỹ và EU đặt ra cơ chế hạn ngạch nhằm bảo hộ công nghiệp trong nước, theo đó, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển vào các nước này phải chịu 15 - 30% thuế suất, đặc biệt là phải chịu hạn ngạch xuất khẩu. Hiệp định dệt may đã quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản phẩm dệt may vào hệ thống thương mại đa biên. Khi các sản phẩm đã được nhất thể hoá thì không phải chịu sự hạn chế về số lượng nữa. Do đó, khi trở thành thành viên của WTO, hàng dệt may của Việt Nam sẽ không phải chịu hạn ngạch hoặc được hưởng sự nới lỏng các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm còn hạn ngạch. Từ 1/1/2005, trong khuôn khổ WTO, đã bãi bỏ toàn bộ hạn ngạch đối với nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên WTO.
Ðối với những cơ hội do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại: Khi tham gia vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tham gia vào sự phân công lao động, sản xuất trong một thị trường mang tính toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có ưu thế do giá cả rẻ, chi phí thấp (do lương nhân công thấp). Chẳng hạn, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều ưu thế về các mặt hàng sử dụng tay nghề truyền thống, sử dụng lao động rẻ (ví dụ lao động nông nhàn, lao động học vấn thấp nên lương công nhân thấp), nguyên liệu sẵn có trong nước như hàng mây tre, thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ...; hoặc các mặt hàng tận dụng được ưu đãi của thiên nhiên (mặt nước, biển, sông, hồ, ao, đầm để nuôi thuỷ hải sản..); khí hậu nhiệt đới cho phép trồng được những loại cây cà phê, hạt tiêu, cao su, thanh long, dừa...; hoặc các mặt hàng mang tính truyền thống, là đặc sản của địa phương, vùng miền (phở, mỳ tôm, nước chấm, gia vị, khô mực, khô cá...). Một số mặt hàng tuy sử dụng nguyên liệu nhập khẩu như dệt may, da giày...song cũng có thể tận dụng ưu thế chi phí lao động rẻ, tiền lương thấp. Ðồng thời, đây cũng là những mặt hàng mà đến nay nhiều nước phát triển không tập trung sản xuất nữa...
Hai là, nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẳng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
a. Tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên:
Các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, qua đó hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận bình đẳng vào các thị trường của 149 thành viên khác của WTO mà không bị chèn ép, đối xử không bình đẳng như khi chưa là thành viên WTO. Ðặc biệt, đối với những quy định chỉ dành cho thành viên của WTO, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam cũng sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, một số cường quốc thương mại vẫn tiếp tục duy trì các biện pháp phân biệt đối xử đối với các nước với cái gọi là "thương mại nhà nước" hay các nước có nền kinh tế phi thị trường, các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Các biện pháp này sẽ không được áp dụng đối với một nước là thành viên WTO.
b. Bảo hộ sản xuất trong nước theo các khuôn khổ quy định của WTO:
Các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các hiệp hội của mình hoặc thông qua cơ quan quản lý nhà nước về thương mại (Cục quản lý cạnh tranh...) để kiến nghị Chính phủ áp dụng các biện pháp bảo vệ sản xuất trong nước. Chẳng hạn, với tư cách là thành viên WTO, doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ tiến hành điều tra về mức gây phương hại của hàng nhập khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối kháng hoặc chống bán phá giá theo quy định của Hiệp định về chống bán phá giá và thuế đối kháng; thực hiện điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam quá mức, gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước...
c. Sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xay ra tranh chấp thương mại quốc tế:
Doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận, sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO để giải quyết tranh chấp trong thương mại, tránh bị các nước lớn chèn ép khi xảy ra tranh chấp thương mại quốc tế. Ví dụ, nếu trước kia các quy định của GATT còn nhiều hạn chế với đặc trưng là thiếu cơ chế đảm bảo cho các nghị quyết được thực hiện thì ở WTO, được xem như một "Liên hợp quốc" trong lĩnh vực thương mại quốc tế, mà trong đó mỗi quốc gia thành viên đều có một phiếu bầu, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã đảm bảo mục tiêu công bằng hơn, thống nhất và chắc chắn hơn; đảm bảo một quy trình, thủ tục và thời gian biểu chặt chẽ cho việc giải quyết tranh chấp; đảm bảo có được kết luận đúng cho tranh chấp.
Ba là, hưởng lợi từ các chính sách cải cách trong nước
a. Nhờ gia nhập WTO, tham gia vào một "sân chơi' chung trên phạm vi toàn cầu, WTO mang lại một cơ hội toàn diện về thị trường hàng hoá, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Với một không gian kinh tế mới rộng lớn hơn rất nhiều, với hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp minh bạch, có thể tiên liệu được, thông qua sự phân công lao động toàn cầu, việc gia nhập WTO hay nói rộng hơn là ._.tham gia vào quá trình toàn cầu hoá sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy các cải cách kinh tế trong nước, làm sâu sắc hơn các thành quả của cải cách.
b. Nhờ việc Việt Nam tham gia vào WTO, thực thi chính sách mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, nền kinh tế trong nước sẽ phải cải cách, mở cửa, tái cơ cấu.
Nền hành chính sẽ được cải cách nhằm đáp ứng các yêu cầu công khai, minh bạch, dễ dự đoán của "luật chơi quốc tế", bộ máy quản lý hành chính nhà nước sẽ trở nên gần dân hơn, trở thành một nền hành chính phục vụ dân, phục vụ doanh nghiệp, làm cho môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, đồng thời giảm thiểu các chi phí tốn kém của doanh nghiệp trong quá trình gia nhập, tiếp cận và tham gia thị trường.
c. Một khi các cam kết khi gia nhập WTO đưược thực hiện, một mặt quá trình mở cửa, tự do hoá, thuận lợi hoá thưương mại, đầu tư minh bạch hoá chính sách sẽ dần đáp ứng yêu cầu của luật chơi quốc tế, mặt khác tạo điều kiện cho chúng ta bổ sung những nguồn lực mà trong nưước còn thiếu, còn yếu như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý. Các nhà sản xuất, kinh doanh trong nước sẽ được đặt trong môi trường cạnh tranh, năng động hơn; tiếp cận với công nghệ, trình độ, chất lượng quốc tế.
Kết quả là các nhân tố nói trên sẽ tạo ra động lực quan trọng giải phóng sức sản xuất trong nước, thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tiềm năng sẵn có của chúng ta như tài nguyên, lao động, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mike Moore, Cựu Tổng giám đốc WTO (trong chuyến thăm Việt Nam 11/4/2005) đã từng nói: “WTO sẽ tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch hơn, dễ tiên đoán hơn và hạn chế tham nhũng cho bản thân các nước thành viên. Kinh nghiệm 50 năm qua đã chứng minh rằng những nước có mức sống cao nhất là những quốc gia theo đuổi chính sách tự do hoá thương mại. Môi trường kinh doanh lành mạnh sẽ tạo ra những doanh nhân sẵn sàng đối mặt với cạnh tranh chứ không phải kiếm lời từ sự trợ giúp của chính phủ hay lợi dụng những hạn chế, bảo hộ của nhà nước.”
Bốn là, tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
a. Về khía cạnh thị trường:
Khi tham gia vào hệ thống phân công lao động toàn cầu, tham gia vào thị trường toàn cầu rộng lớn, Việt Nam trở thành địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài muốn tận dụng cơ hội đầu tư vào các ngành, lĩnh vực tạo ra hàng hoá để xuất khẩu hoặc phục vụ các nhà xuất khẩu. Ðồng thời, khi các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra (mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua để làm nguyên liệu của họ); tạo ra thị trường làm thuê, nhận gia công, chế tác, cung cấp linh kiện, cung cấp lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm cho các doanh nghiệp trong nước.
b. Về khía cạnh pháp lý:
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và tham gia WTO nói riêng, thực chất Việt Nam đã chấp nhận thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư giữa các quốc gia. Việc thực hiện các cam kết này cũng đồng nghĩa với việc Việt Nam cần phải có một hệ thống luật pháp minh bạch, phù hợp với thông lệ của WTO, bao gồm cả về thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Hệ thống luật pháp và hệ thống cơ chế chính sách minh bạch, tiên liệu được sẽ làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh của Việt Nam, làm cho nhà đầu tư yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam.
Năm là, tiếp thu công nghệ, kỹ năng quản lý, quản trị kinh doanh, tiếp thị, xây dựng thương hiệu của nước ngoài
Khi tham gia WTO, tham gia thị trường toàn cầu, các luồng vốn đầu tư khoa học công nghệ, nguồn nhân lực trong nước có cơ hội giao lưu, tham gia vào sự phân công lao động toàn cầu. Trong sự giao lưu và phân công, phân công lại mang tính thị trưường nhưư vậy, tất yếu thị trường trong nước được tiếp nhận những yếu tố tiên tiến, vưượt trội về khoa học công nghệ, khoa học quản lý, tiếp thị, đồng thời nguồn nhân lực trong nưước được đào tạo, được cọ xát, học hỏi tiếp thu những thành quả, tinh hoa của các nền kinh tế phát triển hơn.
Trực tiếp hơn, thông qua quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài (khi họ đem theo vốn, đem theo bí quyết, công nghệ sản xuất mới, phương thức tổ chức các kênh phân phối, tiếp thị, cách thức xây dựng thương hiệu, quảng bá nhãn hiệu hàng hoá, sản phẩm...vào Việt Nam), các doanh nghiệp trong nước nói chung và đội ngũ lãnh đạo, quản lý, nhân viên nói riêng có thể học hỏi, rút tỉa, mô phỏng các công nghệ sản xuất, dịch vụ của nước ngoài; đồng thời rèn luyện, học hỏi được kỹ năng, kỹ xảo, bí quyết về quản trị doanh nghiệp, về tiếp thị, xây dựng và quảng bá thương hiệu...
1.2.2.2. Khó khăn đối với doanh nghiệp khi Việt Nam gia nhập WTO
Một, nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường:
Việc gia nhập WTO không chỉ đem lại thuận lợi, cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mà còn đưa lại những thách thức, khó khăn rất lớn đối với các doanh nghiệp. Những cơ hội, những điều kiện có thể đem lại thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam thì ngược lại cũng có thể đem lại những cơ hội, điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó tạo ra những khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập WTO, đương nhiên các thành viên WTO cũng có thêm một thị trường mới và các thành viên này cũng có cơ hội thúc đẩy bán hàng, xuất khẩu hàng hoá của họ vào Việt Nam.
Thứ hai, khi gia nhập WTO, việc đầu tiên Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào muốn gia nhập WTO) phải làm chính là đàm phán với các thành viên của WTO về cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan nhằm tạo điều kiện cho hàng hoá của các thành viên WTO thâm nhập vào. Ðể thực hiện các cam kết khi đàm phán gia nhập WTO, hàng rào thuế quan phải hạ thấp xuống, đồng thời các biện pháp phi thuế như cấm nhập, hạn chế số lượng nhập khẩu, quy định phải có giấy phép...cũng không được áp dụng nữa. Lúc này, thị trường được "mở cửa", doanh nghiệp nước ngoài được tự do tham gia buôn bán, cung cấp hàng hoá như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử. Hàng hoá từ các nước khác sẽ vào Việt Nam dễ dàng. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp trong nước sẽ lâm vào tình trạng bị cạnh tranh bởi thị trường sẽ có thêm nhiều người cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Song điều đáng nói ở đây chính là những nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ nước ngoài thường có tiềm lực tài chính mạnh hơn, có hàng hoá chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, có công nghệ phân phối, tiếp thị tốt hơn. Do đó, trong cuộc cạnh tranh để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng, doanh nghiệp nước ngoài có sức mạnh hơn sẽ dễ "thắng" được các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường trong nước, "thua" ngay trên "sân nhà" là nguy cơ có thật. Tình trạng này xảy ra sớm hay muộn, xảy ra phổ biến hay không tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh, chống đỡ của doanh nghiệp trong nước.
Hai, nguy cơ bị thu hẹp sản xuất, chuyển đổi sang lĩnh vực khác, thậm chí nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản do không cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu:
Từ chỗ bị cạnh tranh bởi hàng ngoại nhập, các doanh nghiệp trong nước sẽ buộc phải sắp xếp lại, tổ chức lại sản xuất, thay đổi nhân sự để làm sao hàng hoá sản xuất ra có giá cả, chất lượng, mẫu mã tốt hơn, rẻ hơn trước để cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu.
Trong trường hợp tổ chức lại sản xuất rồi, thay đổi nhân sự rồi nhưng hàng hoá sản xuất ra vẫn không cạnh tranh được, thị phần ngày càng giảm đi, hàng hoá sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ thì đương nhiên doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, phải tính toán lại chiến lược sản xuất, kinh doanh, có thể phải chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, thậm chí nếu hàng hoá, dịch vụ sản xuất ra không tiêu thụ được, không trả được vốn vay ngân hàng thì doanh nghiệp có thể bị thua lỗ, phá sản.
Nguy cơ này cũng rất rõ ràng bởi vì các doanh nghiệp trong nước thường yếu kém hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài quản lý...về năng lực quản trị, trình độ tiếp thị. Nguy cơ này cũng xuất phát từ chỗ bản thân hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trong nước kém chất lượng hơn so với các doanh nghiệp nước ngoài về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã, về tên tuổi, thương hiệu...
Ba, nguy cơ bị các DN nước ngoài thôn tính, mua lại, chèn ép, "lấy" mất nhân viên, mua chuộc lãnh đạo cao cấp qua trả lương cao, hứa hẹn thăng tiến:
Vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, nắm giữ các bí quyết công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên họ có nhiều cơ hội để thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ so với các doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để tiếp tục mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp trong nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị truờng, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân đã có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ðể tiết kiệm tiền lương, tiết kiệm chi phí về ăn ở đối với công nhân, cán bộ quản lý, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ tìm cách thuê người Việt Nam hơn là đưa người nước ngoài sang Việt Nam. Các chuyên gia có tay nghề giỏi, các cán bộ quản lý có tài kinh doanh, tổ chức làm việc ở các doanh nghiệp nhà nước chính là mục tiêu "săn đầu người" của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Bằng cách trả lương cao, hứa hẹn sự thăng tiến, đãi ngộ (về đào tạo, về phúc lợi tham quan du lịch, nghỉ ngơi...), các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ bỏ tiền mua chuộc các cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của các doanh nghiệp trong nước chuyển sang làm việc ở các công ty có vốn nước ngoài, vừa đỡ tốn tiên thuê các vị trí tương đương là người nước ngoài, vừa làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước.
1.2.3. Các quy định pháp lý của WTO đối với sản phẩm gỗ của Việt Nam ảnh hưởng đến xuất khẩu sản phẩm gỗ
Gói thỏa thuận gia nhập WTO của Việt Nam bao gồm:
Các cam kết của Việt Nam về hàng hóa – danh mục (hay còn gọi là “biểu”- Sched - ule) thuế quan, hạn ngạch và mức trần trong trợ cấp nông sản dày 560 trang, kèm theo lộ trình cắt giảm thuế.
Các cam kết của Việt Nam về dịch vụ - tài liệu dày 60 trang mô tả các ngành dịch vụ mà Việt Nam sẽ mở cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài kèm theo các điều kiện bổ sung, bao gồm cả hạn chế đối với sở hữu của nước ngoài.
Báo cáo dày 260 trang của Ban Công tác – mô tả khung pháp lý và thể chế liên quan tới thương mại của Việt Nam cùng với các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong các lĩnh vực này.
Trong cam kết của Việt Nam về hàng hoá, các mức thuế suất cam kết của Việt Nam với WTO về gỗ và sản phẩm gỗ nằm trong Chương 44 của Biểu cam kết hàng phi nông sản. Theo đó, thuế nhập khẩu ngành hàng này thuộc diện các mặt hàng có mức cắt giảm thuế thấp nhất. Thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập WTO đối với ngành hàng gỗ là từ 0% đến 40%. Đối với các mặt hàng gỗ có thuế suất từ 5% đến 40% thì tuỳ từng mặt hàng mà thuế suất cam kết cắt giảm là từ 3% đến 25% và thời hạn thực hiện là từ năm 2008 đến năm 2012.
Như vậy, với thuế suất thấp như cam kết, nhiều sản phẩm gỗ sẽ được nhập khẩu ngược vào Việt Nam gây sức ép cho ngành hàng này ngay tại thị trường trong nước. Đó là một thách thức tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng bên cạnh đó lại đưa đến cơ hội nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp đồ gỗ của Việt Nam. Các doanh nghiệp đồ gỗ Việt Nam có cạnh tranh được ngay trong thị trường trong nước thì mới có thể vươn ra cạnh tranh với thế giới, mới có thể thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng.
Trong Báo cáo của Ban công tác, về hạn chế xuất khẩu, Việt Nam duy trì quản lý xuất khẩu đối với một số sản phẩm như gạo, khoáng sản và một số sản phẩm gỗ vì lý do môi trường. Việt Nam cam kết rằng các hạn chế đối với các sản phẩm này sẽ được áp dụng theo cách thức phù hợp với các hiệp định WTO. Gỗ tròn, gỗ xẻ, than từ gỗ và các sản phẩm gỗ thuộc nhóm IA và ván gỗ công nghiệp chất lượng cao thuộc nhóm IIA nằm trong danh mục hàng cấm xuất khẩu. Sản phẩm gỗ (ngoại trừ hàng thủ công mĩ nghệ, hàng sản xuất từ gỗ rừng trồng, từ gỗ nhập khẩu, từ ván nhân tạo thực hiện theo quy định của Thủ tướng tại Quyết định số 136/1998/QĐ- TTg ngày 31/07/1998) là hàng xuất khẩu chịu kiểm soát theo quy định riêng. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ cần nắm chắc các quy định về quản lý xuất khẩu của Chính phủ và các hiệp định của WTO để xuất khẩu sản phẩm gỗ theo đúng quy định. Ngoài sự quan tâm đến mặt hàng nào được phép xuất khẩu, các doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến xuất xứ của nguyên liệu gỗ đầu vào để sản xuất kinh doanh theo đúng quy định.
1.3. Tổng quan về thị trường Nhật Bản
1.3.1. Khái quát về nền kinh tế Nhật Bản
Với dân số là 127,74 triệu người, với tổng thu nhập quốc nội (GDP) năm 2006 đạt 4,899 tỷ USD, GDP bình quân đầu người khoảng 38.300 USD, Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ, với sức mua lớn, nhu cầu phong phú đa dạng, nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng của Nhật Bản đang ngày càng gia tăng và còn tiếp tục tăng cùng với xu hướng phục hồi nền kinh tế của Nhật Bản hiện nay.
Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế Nhật Bản:
1.3.1.1. Thời kỳ nền kinh tế phát triển thần kỳ
Trong những năm đầu bị chiếm đóng sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản chìm đắm trong lạm phát, thiếu thốn. Nhưng cùng với những cải cách về chính trị-xã hội, các chính sách ổn định và phát triển kinh tế năm 1949-50 đã đặt cơ sở cho sự trở lại thị trường thế giới của Nhật Bản. Tiếp đó, Nhật bước vào thời kỳ tăng trưởng cao kéo dài cho đến những năm đầu 1970. Tốc độ tăng trưởng trung bình ngày càng cao: giai đoạn 1955-1960 là 8,5%; giai đoạn 1960-1965 là 9,8%; và giai đoạn 1965-1971 đạt 11,2%.
GNP năm 1970 đạt 199,8 tỷ USD tăng hơn 8,3 lần so với 23,9 tỷ USD của năm 1955. Tổng kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần trong 20 năm (1950-70). Dự trữ ngoại tệ từ 1,8 tỷ USD năm 1960 tăng lên 15 tỷ USD năm 1971. Chính phủ duy trì được một ngân sách cân bằng cho đến giữa những năm 1960 với các chính sách thắt chặt tài chính và mở rộng tiền tệ. Lao động chuyển dịch mạnh từ nông thôn vào các ngành công nghiệp chế tạo. Năng suất lao động tăng nhanh: trung bình 11,5% trong khoảng 1963-73. Nhưng chính sự thần kỳ của nền kinh tế Nhật cũng làm nẩy sinh nhiều vấn đề lớn: phụ thuộc ngày càng tăng vào thị trường và nguồn nguyên nhiên liệu bên ngoài; ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt là mâu thuẫn thương mại với các bạn hàng, nhất là Mỹ, ngày càng gay gắt.
1.3.1.2. Thời kỳ những năm 70 - Các cuộc khủng hoảng dầu lửa và thời kỳ phát triển ổn định
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973-74 là nhân tố chủ yếu kết thúc sự thần kỳ Nhật Bản. Nhưng đây không phải là nhân tố duy nhất mà chỉ là đòn quyết định đánh vào kinh tế Nhật, làm bộc lộ những mâu thuẫn đã tích tụ sau kỷ nguyên tăng trưởng cao. Lạm phát đã bùng nổ ngay sau khi dầu mỏ tăng giá. Năm 1974 giá bán buôn tăng 37% và giá tiêu dùng tăng gần 25%. Tiền lương phải tăng theo càng thúc đẩy lạm phát. Mức giá năng lượng năm 1985 gấp 8 lần năm 1970. Người tiêu dùng đã có lúc hoảng sợ phải mua hàng để tích trữ.
Tình hình đã buộc Nhật phải đẩy mạnh cải cách cơ cấu kinh tế nhằm hạn chế tác động của các nhân tố tiêu cực, bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định và quốc tế hoá nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng trong những năm 1974-85 chỉ còn trung bình 4,3%, chưa bằng một nửa của thời kỳ trước đó nhưng vẫn cao nhất trong các nước OECD. Thời kỳ này Nhật chú trọng phát triển các ngành công nghệ mới, ít tiêu hao nguyên liệu, năng lượng; thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ. Chính vì vậy đã chủ động đối phó được với cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ hai (1979-80): kinh tế không hỗn loạn, lạm phát được kiểm soát, giá cả ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ được ở mức khoảng 3%.
1.3.1.3. Thời kỳ những năm 80 - Đồng Yên lên giá
Do xuất khẩu vẫn giữ vai trò trung tâm của sự phát triển, đồng Yên yếu càng thúc đẩy xuất khẩu. Thêm nữa, đầu những năm 1980 kinh tế toàn cầu suy thoái, nhu cầu dầu mỏ giảm xuống buộc OPEC từ năm 1983 phải giảm giá dầu. Các yếu tố này làm cho thặng dư mậu dịch của Nhật ngày càng lớn và mâu thuẫn với các bạn hàng nhất là Mỹ và EU càng gay gắt. Hiệp định Plaza tháng 9/1985 đã nhất trí thoả thuận giảm giá đồng đôla và đồng yên đã lên giá gấp đôi, từ chỗ 260 Yên/1USD năm 1985 lên 130 Yên/1USD năm 1987.
Đồng Yên lên giá có làm kinh tế Nhật suy thoái trong 2 năm 1985 và 1986 nhưng không làm giảm khả năng xuất khẩu của NB mà lại dẫn tới cạnh tranh quốc tế gay gắt hơn theo hướng giành hiệu quả cao. Nhật chuyển các cơ sở sản xuất có giá trị gia tăng thấp ra nước ngoài bằng đầu tư trực tiếp (1982: 7,7 tỷ USD; 1988: 44 tỷ USD; 1990: 56,9 tỷ USD), tạo ra những địa bàn sản xuất với giá thành thấp. Ở trong nước đổi mới kỹ thuật hơn nữa để chuyển sang sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Các biện pháp cải cách kinh tế theo hướng mở cửa thị trường, thúc đẩy nhập khẩu và kiềm chế xuất khẩu quá mức, giảm thuế thu nhập, kích cầu trong nước, tăng đầu tư công trình công cộng.... cũng đồng thời được thực hiện. Thành công về tổng thể của những cố gắng này đã giúp kinh tế Nhật phục hồi từ cuối năm 1987 và duy trì được mức phát triển trung bình 5,3% cho đến năm 1990.
1.3.1.4. Thời kỳ những năm 90 - Nền kinh tế bong bóng và thời kỳ suy thoái
"Kinh tế bong bóng" chính là nền kinh tế tăng trưởng cực nhanh của Nhật Bản vào cuối thập niên 80, song đó không phải là tăng trưởng thực sự từ sự phát triển các hoạt động sản xuất của cải vật chất như các thời kỳ trước đó, mà chủ yếu tăng trưởng giả tạo do sự đầu cơ vào mua bán bất động sản, trái phiếu, các hàng hoá nghệ thuật có giá trị lớn.
Đồng thời với hiện tượng đầu cơ này về phía Chính phủ Nhật Bản vào những năm đó để đối phó với sự lên giá mạnh của đồng yên sau Hiệp ước Plaza 1985, đã duy trì kéo dài một chính sách lãi suất cho vay thấp, khiến cho các hoạt động đầu tư buôn bán bất động sản, trái phiếu... càng gia tăng mạnh, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế cực nhanh vào cuối những năm 1980, từ 2,5% năm 1986 tăng lên đến 4,6% năm 1987, 4,7% năm 1988, 4,9% năm 1989 và đỉnh cao là 5,5% năm 1990.
Tình hình này khiến nhiều nhà đầu tư bị chi phối bởi ý nghĩa không tưởng là nhất định hàng hoá của thị trường tiền tệ sẽ tăng theo thời gian và do đó càng kích thích họ đầu tư mạnh vào thị trường hàng hoá này. Phần lớn nguồn vốn để mở rộng sản xuất của Nhật Bản vào cuối những năm 1980 là có được thông qua lạm phát tài sản trong các thị trường chứng khoán, ngân hàng và bất động sản mà người Nhật gọi là "Nền kinh tế bong bóng". Bong bóng này được tạo ra thông qua sự kết hợp của lãi xuất cho vay thấp của ngân hàng, việc nới lỏng từng phần các quy định tài chính, sự tăng giá trên thị trường chứng khoán Tokyo, và giá bất động sản tăng vọt phi lý.
Lo ngại trước hiện tượng khác thường này, ngân hàng Nhật Bản đã ban hành chính sách lãi suất cao vào năm 1990 và đầu năm 1991. Chính sách này có làm giảm cơn sốt vay tiền đầu tư vào bất động sản và mua cổ phiếu (giá cổ phiếu trung bình trên thị trường chứng khoán Nikkei giảm từ 40.000 cuối năm 1989 xuống gần 16.000 cuối năm 1992). Nhưng do có quá nhiều khoản vay lớn bị trói buộc vào kinh doanh bất động sản và chứng khoán nên lúc kinh tế bong bóng xẹp xuống cũng là lúc mà các ngân hàng Nhật Bản đứng trước một núi các khoản nợ khó đòi hay không đòi được. Hệ thống tài chính tiền tệ Nhật Bản rơi vào tình trạng khó khăn, không thực hiện được chức năng của nó đối với nền kinh tế, buộc chính phủ phải đưa ra các biện pháp cứu trợ.
Bước vào thập kỷ 1990, kinh tế Nhật Bản suy giảm triền miên, chuyển sang một thời kỳ ảm đạm chưa từng có, nhiều người còn cho rằng nó đang ở trong đường hầm không lối thoát.
Đến 3/2002 tổng mức nợ xấu là 440 tỷ USD. Số vụ phá sản hàng năm ở mức cao làm cho nạn thất nghiệp cũng tăng theo (5,4% ở năm 2003 so với trước đây chỉ khoảng 3%). Sự suy thoái của kinh tế Nhật có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng; sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng; sự già hoá của dân số với mức chi quá lớn của hệ thống phúc lợi xã hội; sự yếu kém của bộ máy nhà nước.... Đã đến lúc Nhật Bản phải có một cuộc cải cách sâu rộng để chuyển sang một thời kỳ mới. Không phải là thời kỳ học theo để đuổi kịp phương Tây mà là thời kỳ sáng tạo, tự vạch đường đi cho mình theo hướng toàn cầu hoá, trí thức hoá nền kinh tế.
1.3.1.5. Đầu thế kỷ XXI - Mặt trời lại mọc
Sau một thập niên bị suy thoái, năm 2003 kinh tế lại bắt đầu tăng trưởng. Năm 2003, kinh tế Nhật Bản đã tăng trưởng 2,7%; năm 2004 tăng 1,45%; năm 2005 tăng 2,5% và dự kiến năm 2006 sẽ tăng trưởng ở mức 2,1%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất của Nhật trong 14 năm gần đây.
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm
từ 1990 đến 2006 (Đơn vị %)
Tốc độ tăng trưởng của GDP những năm gần đây (% so năm trước)
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
5,3
2,9
0,4
0,3
1,0
1,6
3,5
1,8
-1,1
0,7
2,4
-0,2
0,9
2,7
1,45
2,5
2,1
(Nguồn: www.ncnb.org.vn)
Lượng hàng xuất khẩu sang Trung Quốc mạnh, hàng hóa tiêu dùng trong nước cũng tăng. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 4,3% năm 2005 thấp hơn so với 4,6% năm 2004, và thấp hơn so với 5,5% đầu năm 2003. Trong khi đó, theo số liệu của Bộ Nội vụ Nhật Bản, tỷ lệ thất nghiệp của nước này trong tháng 10/2005 là 4,5%, tăng so với mức 4,2% của tháng 9 và là mức cao nhất từ tháng 3 đến nay. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp trên chỉ là tạm thời, do ngày càng có nhiều người tìm được việc làm tốt hơn nhờ nền kinh tế phục hồi.
Kinh tế Nhật Bản đang ở trong giai đoạn hồi phục đầu tiên sau cuộc đại khủng hoảng tài chính và bất động sản; bởi sự tăng trưởng không còn phải nhờ vào tài trợ của Nhà nước như trong những năm trước đó nữa, mà trước hết xuất phát từ sự năng động mới giành lại được của khu vực kinh tế tư nhân - nền kinh tế trong thời gian qua đã rũ bỏ được những gánh nặng do cuộc đại khủng hoảng gây ra.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản dự kiến sẽ giảm đôi chút, còn 2,1% trong năm 2006 và năm 2007, so với mức 2,5% năm 2005. Điều đáng lưu ý là, tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản chủ yếu do nhân tố nhu cầu trong nước thúc đẩy. Vì vậy, các nhà kinh tế thế giới gọi là Nhật Bản "tự mình tăng trưởng”. Những nhân tố cản trở kinh tế Nhật Bản tăng trưởng năm 2005 cũng lần lượt được tháo gỡ, như khoản nợ khó đòi của các ngân hàng từ 8,4% năm 2002 xuống còn 2,9% năm 2005.
Theo đánh giá của OECD, sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản ngày càng vững chắc và có triển vọng sáng sủa trong 2 năm tới do các hoạt động kinh tế ngày càng được mở rộng vượt xa cả các khu vực phụ thuộc vào xuất khẩu, đầu tư tập thể bắt đầu tăng mạnh, giá bất động sản có chiều hướng giảm. Tuy vậy, bất chấp triển vọng kinh tế sáng sủa trong thời gian tới, OECD cảnh báo rằng Nhật Bản cần phải tiếp tục đối phó với tình trạng giảm phát. Ngân hàng Nhật Bản không nên thắt chặt chính sách tiền tệ cho tới khi ngăn chặn được tình trạng giảm phát này.
Còn IMF thì nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tiếp tục cải tổ và cải cách tại Nhật Bản. Ngân hàng trung ương Nhật Bản vừa cho biết: kinh tế Nhật Bản vẫn đang tiếp tục hồi phục nhanh nhờ sự tăng trưởng khả quan trong các lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng và thu nhập. Ông Toshihiko Fukui, Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản cho biết: lĩnh vực xuất khẩu và sản xuất công nghiệp của Nhật Bản đang tiếp tục tăng với mức lợi nhuận cao cho phép nhiều công ty gia tăng vốn đầu tư. Thu nhập của người dân cũng đang tăng lên nhờ ảnh hưởng tích cực từ việc cải tiến chế độ tiền lương và các điều kiện lao động của Chính phủ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản sẽ điều chỉnh chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện giá cả và tăng trưởng kinh tế để đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển ổn định.
Cùng với việc tạo dựng sức mạnh kinh tế, Nhật Bản đang điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng tăng cường tính độc lập, tự chủ, vươn lên thành cường quốc chính trị.
1.3.2. Một số đặc điểm về nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường mở qui mô lớn với số dân 127,74 triệu người có mức sống khá cao (GDP theo đầu người năm 2006 là 38.300 USD) và GDP năm 2006 là 4,899 tỷ USD. Nhật Bản được coi là một trong những thị trường đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản bắt nguồn từ truyền thống văn hoá và điều kiện kinh tế, nhìn chung họ có độ thẩm mỹ cao, tinh tế do có cơ hội tiếp xúc với nhiều loại hàng hóa dịch vụ trong và ngoài nước.
Xu hướng tiêu dùng và sính đồ ngoại của người Nhật Bản ngày càng gia tăng và sức tiêu thụ của thị trường này rất lớn, vào khoảng 3,000 tỷ Yên, bao gồm cả hàng gia dụng, trong đó hàng nhập khẩu chiếm tới 50%. Ví dụ: Một siêu thị lớn ở Tokyo bày bán 1,500 mặt hàng gia dụng và chỉ tính riêng lượng hàng hoá và khả năng tiêu thụ của một cửa hàng như vậy thôi đã thấy được tỷ trọng hàng nhập khẩu có mặt ở đây lớn đến như thế nào.
Đặc điểm của người tiêu dùng Nhật Bản là tính đồng nhất, 90% người tiêu dùng cho rằng họ thuộc về tầng lớp trung lưu. Nhìn chung người Nhật có những đặc điểm chung sau:
Một, đòi hỏi cao về chất lượng: xét về mặt chất lượng, người tiêu dùng Nhật Bản có yêu cầu khắt khe nhất. Sống trong môi trường có mức sống cao nên người tiêu dùng Nhật Bản đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn một chút cho những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu này còn bao gồm các dịch vụ hậu mãi như sự phân phối kịp thời của nhà sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc, khả năng và thời gian sửa chữa các sản phẩm đó. Những lỗi nhỏ do sơ ý trong khi vận chuyển, hay khâu hoàn thiện sản phẩm ví dụ như những vết xước nhỏ, mẩu chỉ cắt còn sót lại trên mặt sản phẩm, bao bì xô lệch v.v. cũng có thể dẫn đến tác hại lớn là làm lô hàng khó bán, ảnh hưởng đến kế hoạch xuất khẩu lâu dài. Bởi vậy cần có sự quan tâm đúng mức tới khâu hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm, bao gói và vận chuyển hàng.
Hai, nhạy cảm với giá cả tiêu dùng hàng ngày: Người tiêu dùng Nhật Bản không chỉ yêu cầu hàng chất lượng cao, bao bì đảm bảo, dịch vụ bán hàng và dịch vụ sau bán hàng tốt mà còn muốn mua hàng với giá cả hợp lý. Những năm 80, người Nhật sẵn sàng bỏ nhiều tiền để mua những hàng hoá cao cấp có nhãn mác nổi tiếng, nhưng từ sau khi nền “kinh tế bong bóng” sụp đổ năm 1991, nhu cầu hàng hoá rẻ hơn đã tăng lên. Tuy nhiên, người tiêu dùng Nhật Bản vẫn có thể trả tiền cho những sản phẩm sáng tạo, chất lượng tốt mang tính thời thượng hay loại hàng được gọi là “hàng xịn”. Tâm lý này cho đến nay vẫn không thay đổi nhiều lắm. Không giống như ở Châu Âu, các bà nội trợ Nhật Bản vẫn đi chợ hàng ngày theo thói quen, giống các bà nội trợ Việt Nam, để mua hàng tươi sống, họ là lực lượng quan trọng ảnh hưởng đến thị hiếu tiêu dùng, họ hay để ý đến biến động giá và các mẫu mã mới. Người Nhật sẽ trả tiền để mua các hàng hoá có nhãn hiệu nổi tiếng, có chất lượng cao và thể hiện địa vị. Khách hàng có xu hướng ngày càng quan tâm đến việc mua các nhãn hàng hoá có chất lượng và giá trị.
Ba, thời trang và thị hiếu về màu sắc: Có thời, người Nhật thích ăn mặc giống bạn bè hoặc thích sắm những đồ vật giống như đồ của các thành viên khác trong gia đình, trường họ, câu lạc bộ hay nơi làm việc. Nhưng gần đây mọi thứ trở nên đa dạng hơn, xu hướng bây giờ là mua các hàng hoá khác nhau nhưng có cùng công dụng. Các hàng hoá thời trang nhập khẩu được ưa chuộng là các nhãn hiệu nổi tiếng và có chất lượng. Tuy nhiên, trong khi ý thức về sự ưa chuộng các nhãn hiệu ở Nhật vẫn phổ biến thì giới thanh niên Nhật Bản ngày càng thiên về xu hướng căn cứ vào chất lượng và giá cả để mua hàng. Ở các gia đình truyền thống, người ta thích mầu nâu đất của nệm rơm và sàn nhà. Đối với thời trang của nữ thanh niên, màu sắc thay đổi tuỳ thuộc theo mùa.
Bốn, người Nhật rất nhạy cảm với những thay đổi theo mùa: Xuất phát từ yếu tố cạnh tranh, các nhà nhập khẩu Nhật Bản quan tâm nhiều hơn đến việc nhập được những sản phẩm hợp thời trang và hợp mùa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của các loại đối tượng khách hàng. Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông, mùa hè nóng và ẩm ướt, mùa đông lạnh và khô. Đặc điểm khí hậu ảnh hưởng đến khuynh hướng tiêu dùng. Quần áo, đồ dùng trong nhà, thực phẩm là những mặt hàng tiêu dùng có ảnh hưởng theo mùa. Việc bao gói sản phẩm cũng phải đảm bảo bảo vệ được sản phẩm trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhất. Cùng với tác động của khí hậu, yếu tố tập quán tiêu dùng cũng cần phải được nghiên cứu và tham khảo trong kế hoạch khuếch trương thị trường tại Nhật Bản. Ví dụ hầu như các gia đình Nhật không có hệ thống sưởi trung tâm và để bảo vệ môi trường, nhiệt độ điều hòa trong nhà luôn được khuyến khích không để ở mức quá ấm (nhiệt độ cao) hoặc quá mát, bởi vậy quần áo trong nhà mùa đông của người Nhật phải dầy hơn áo dùng trên thị trường Mỹ, hoặc áo có lót là không phù hợp trong mùa hè. Thời trang phải phù hợp với từng mùa cả về mặt chất liệu và kiểu dáng. Khi xây dựng kế hoạch bán hàng, các doanh nghiệp phải tính đến cả sự khác biệt về thời tiết.
Năm, người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng sự đa dạng của sản phẩm: Hàng hóa có mẫu mã đa dạng phong phú thu hút được người tiêu dùng Nhật Bản. Vào một siêu thị của Nhật Bản mới hình dung được tính đa dạng của sản phẩm đã phổ biến đến mức nào ở Nhật. Ví dụ một mặt hàng dầu gội đầu nhưng bạn không thể đếm xuể được các chủng loại: Khác nhau do thành phần, màu sắc, hương thơm. Bởi vậy nhãn hiệu hàng có kèm theo những thông tin hướng dẫn tiêu dùng là rất quan trọng để đưa hàng của bạn tới người tiêu dùng. Tuy vậy, người Nhật lại thường chỉ mua sản phẩm với số lượng ít vì không gian chỗ ở của họ tương đối nhỏ và còn để tiện thay đổi cho phù hợp mẫu mã mới. Vì vậy các lô hàng nhập khẩu hiện nay qui mô có xu hướng nhỏ hơn nhưng chủng loại lại phải phong._.ng nghiệp phụ trợ để nâng cao tỷ lệ sử dụng gỗ nguyên liệu. Gắn sử dụng nguyên liệu gỗ với các loại nguyên liệu khác trong sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu để giảm gỗ nguyên liệu, tăng tính đa dạng của sản phẩm.
Thứ sáu, “mua” rừng ở nước ngoài; khi trồng rừng trong nước cũng như gỗ nhập khẩu không dồi dào và ổn định, việc mua rừng ở nước ngoài cũng là phương án hữu dụng cho chiến lược phát triển lâu dài của ngành chế biến gỗ Việt Nam. Biện pháp này có lợi điểm là có thể khai thác hết nguồn nguyên liệu trên diện tích rừng được mua bất kể khi nào cần, với chi phí khá cạnh tranh so với nguyên liệu gỗ được khai thác từ diện tích đó. Doanh nghiệp có thể mua rừng của Nam Phi, Nga và cả Hoa Kỳ.
Ba là, nghiêm khắc với những hành vi buôn lậu, chặt phá rừng bừa bãi. Cần phải có chính sách và thực hiện tốt hơn việc tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ rừng cho mọi người nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Quản lý chặt chẽ để không xảy ra tình trạng đốt nương làm rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số.
Bốn là, lượng gỗ rừng trồng trong nước khó có thể đủ để đáp ứng nhu cầu về nguồn nguyên liệu gỗ cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ với xu hướng ngày càng gia tăng. Vì vậy, nhập khẩu nguyên liệu gỗ vẫn là một kênh cần thiết. Vấn đề là nhà nước cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu được nguyên liệu gỗ dễ dàng và với giá thành rẻ. Nhà nước cần có chính sách và biện pháp để quản lý và liên kết các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ, để có chính sách nhất quán và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu gỗ từ nước ngoài. Khâu nhập khẩu gỗ và chế biến gỗ nên được chuyên môn hoá, hỗ trợ hình thành các cụm công nghiệp chế biến gỗ. Cần liên kết các doanh nghiệp chế biến gỗ để cùng trao đổi về kỹ thuật, thiết bị phụ tùng, công nghệ, hỗ trợ nhau về nguyên liệu, chia sẻ đơn đặt hàng hoặc liên kết cùng thực hiện đơn đặt hàng.
3.2.1.4 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ đối với thị trường Nhật Bản
Như đã kết luận trong Chương II, hoạt động Xúc tiến xuất khẩu (XTXK) của cả Nhà nước và doanh nghiệp đối với thị trường Nhật Bản còn yếu là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến những hạn chế trong xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Để khắc phục tình trạng này, nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản cần đẩy mạnh hoạt động XTXK của Chính phủ đối với thị trường Nhật Bản.
Một là, tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thông tin thương mại và XTXK ở Việt Nam tiến hành thuận lợi vừa đảm bảo được sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với các công tác này đồng thời khuyến khích được các tổ chức dịch vụ thông tin và XTXK phát triển, đáp ứng tốt yêu cầu thông tin và XTXK của mọi đối tượng;
Hai là, đối với việc tổ chức kênh thông tin về thị trường Nhật Bản phục vụ cho các doanh nghiệp, các cơ quan của Chính phủ Việt Nam có thể hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp như sau: (1) Thông qua trang Web của Bộ thương mại, của các Bộ, ngành liên quan, các tổ chức XTXK,… giới thiệu về thị trường và các nhà nhập khẩu Nhật Bản đối với sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam. (2) Cục Xúc tiến thương mại (Vietrade) cần phối hợp chặt chẽ với Tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư của Nhật Bản (Jetro) để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thu thập và tìm kiếm các thông tin cần thiết về thị trường Nhật Bản, các nhà nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản,… (3) Cần tăng cường vai trò của Tham tán thương mại Việt Nam tại Nhật Bản đối với việc cung cấp thông tin có phí cho các doanh nghiệp theo yêu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường này. (4) Cần tranh thủ, khai thác tối đa sự hỗ trợ và giúp đỡ của Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam, Trung tâm phát triển nguồn nhân lực và đại diện của các doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam cho sự phát triển xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản.
Các doanh nghiệp Việt Nam tài chính nhỏ nên không đủ điều kiện để tìm hiểu nghiên cứu kỹ các thông tin v ề thị trường Nhật Bản nói chung và thị trường đồ gỗ Nhật Bản nói riêng. Do vậy, nhà nước cần phải có các biện pháp hỗ trợ về thông tin thị trường cho doanh nghiệp. Cần tiếp tục tăng cường và phát huy vai trò của cơ quan thương vụ tại Nhật Bản, cơ quan tham tán thương mại tại Nhật Bản, liên kết chặt chẽ với các tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư của Nhật Bản (JETRO) để khai thác tài nguyên thông tin về thị trường Nhật Bản. Ðể hoạt động của các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu đạt hiệu quả cao và ổn định, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản phải thật sự là "tai mắt" của các doanh nghiệp, cần thường xuyên thông báo trên mạng về những vấn đề liên quan như chính sách thuế quan, chính sách thương mại, thậm chí giúp các doanh nghiệp tìm được nhiều đại lý nhập khẩu lớn, tin cậy và bán hàng tại thị trường chiến lược này.
Đối với việc tham gia hội chợ, triển lãm tại Nhật Bản; Cục xúc tiến thương mại cần công bố danh mục các hội chợ thương mại hàng năm tổ chức tại Nhật Bản cho các doanh nghiệp, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký tham gia và đề xuất mức hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ tại Nhật Bản.
Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia cần hỗ trợ kinh phí thuê diện tích và giàn dựng gian hàng tham gia hội chợ này ổn định ít nhất là 3 đến 5 năm như đối với một số ngành hàng khác. Thành phần các công ty tham gia có thể thay đổi hàng năm. Các chi phí tham gia khác do doanh nghiệp tự trang trải hoặc được Nhà nước hỗ trợ một phần.
Các địa phương và hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cần xây dựng chương trình XTTM của riêng mình song song với chương trình XTTM quốc gia. Ðẩy nhanh tiến độ thành lập Trung tâm thương mại Việt Nam tại Tokyo và triển khai sớm hệ thống phòng trưng bày ở các thành phố lớn, thí dụ Tokyo hoặc Osaka, Kansai, Kyusu. Công tác XTTM cần lồng ghép chương trình xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam ở Nhật Bản. Ðể giảm chi phí quảng cáo, nên quảng cáo ở các cơ quan thông tin địa phương ở Nhật Bản. Cụ thể là trên các báo, đài địa phương, khu vực, nơi đang có hàng hóa của ta lưu thông. trong năm 2007, Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam sẽ chủ trì thực hiện 7 chương trình xúc tiến thương mại với kinh phí hỗ trợ của nhà nước xấp xỉ 5 tỷ đồng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập cho các doanh nghiệp chế biến gỗ và lâm sản sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Đối với việc tổ chức các đoàn tham quan, khảo sát thị trường Nhật Bản và đón tiếp các doanh nhân Nhật Bản tới Việt Nam: Cục xúc tiến thương mại là đơn vị đầu mối, phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại khác và các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch và mức dự trù mức hỗ trợ kinh phí đoàn sang thị trường Nhật Bản và đón tiếp đoàn Nhật Bản tại Việt Nam trong khuôn khổ kinh phí của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Nhà nước thiết lập hệ thống thông tin kịp thời, chuẩn xác, hỗ trợ Hiệp hội xây dựng trang Web, tiến đến việc mua bán trao đổi điện tử. Nhà nước nên nghiên cứu và triển khai xây dựng một số trung tâm thương mại Việt Nam tại Nhật Bản phục vụ như nơi trưng bày, giới thiệu và bán hàng của người Việt Nam cho người Nhật Bản. Tiền thuê mặt bằng sẽ do Nhà nước huy động và hỗ trợ một phần. Các trung tâm sẽ chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, thời gian đầu thương vụ có thể cử cán bộ biệt phái sang làm việc tại trung tâm, những cán bộ này sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn và đào tạo cho đại diện các doanh nghiệp trưng bày, giới thiệu sản phẩm tại trung tâm, hoặc giới thiệu, tuyển mộ lao động người Nhật Bản làm việc tại các trung tâm cho các doanh nghiệp vì họ am hiểu nhất văn hoá, phong tục tập quán tiêu dùng của họ sẽ thúc đẩy việc đưa sản phẩm gỗ Việt Nam đến với người tiêu dùng Nhật Bản.
3.2.1.5 Giải pháp về khuyến khích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
Lợi thế cạnh tranh nhờ giá nhân công rẻ ngày càng giảm dần, thay vào đó là xu hướng cạnh tranh bằng lao động lành nghề. Hiện nay, Việt Nam tuy có nhiều trường đào tạo công nhân song chưa có một trường nào đào tạo công nhân tay nghề cao trong lĩnh vực chế biến gỗ trong khi nhu cầu công nhân lành nghề trong lĩnh vực này ngày càng lớn. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ việc xây dựng và đào tạo công nhân lành nghề trong ngành công nghiệp chế biến gỗ. Có một số biện pháp sau:
Thứ nhất, ngân sách Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí đào tạo các laọi thợ cả trong sản xuất và chế biến gỗ; đây là cơ sở để tuyển chọn bồi dưỡng, phát triển thành nghệ nhân, một lực lượng quan trọng quyết định đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ.
Thứ hai, cần có hình thức đào tạo chuyên sâu về đồ gỗ, thiết kế đồ gỗ trong các khoa và trường mĩ thuật công nghiệp. Có hình thức thích hợp để kết hợp giữa đội ngũ nghệ nhân và các hoạ sĩ được đào tạo để hình thành đội ngũ thiết kế sản phẩm, phát triển mẫu mã sản phẩm gỗ.
Thứ ba, các cơ quan hữu quan của Nhà nước nên nghiên cứu và tập hợp nhu cầu về đào tạo tiếng Nhật cho kinh doanh sản xuất và xuất khẩu với thị trường Nhật Bản trong phạm vi cả nước và tham vấn cho các cơ sở đào tạo về quy mô, nội dung và phương pháp đào tạo về kinh doanh với thị trường Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và sản phẩm gỗ nói riêng sang thị trường Nhật Bản.
Thứ tư, các cơ quan hữu quan nhà nước đứng ra tổ chức (và hỗ trợ một phần kinh phí) các lớp đào tạo ngắn hạn hay dài hạn, tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học về xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản cho doanh nghiệp, mời các chuyên gia của Việt Nam, chuyên gia Nhật Bản hay quốc tế giảng dạy.
Thứ năm, nhà nước cần áp dụng các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản.
Thứ sáu, nhà nước nên khuyến khích các nhà đầu tư Nhật Bản chuyển giao công nghệ và đào tạo quản lý cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản thông qua các hợp đồng thầu phụ…
Thứ bảy, nhà nước cần khuyến khích các hình thức hợp tác đào tạo giữa các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ với các cơ sở đào tạo nghề của cả khu vực nhà nước và tư nhân, cả trong và ngoài nước.
3.2.2 Giải pháp đối với các doanh nghiệp
3.2.2.1 Cần nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản và các đặc điểm tiêu dùng của họ.
Nghiên cứu kỹ nhu cầu và thị hiếu của người Nhật Bản đối với các sản phẩm gỗ trên các phương diện như: yêu cầu chọn lựa kỹ càng đối với kiểu dáng, cấu trúc của sản phẩm, các yếu tố hoạ tiết, màu sắc để phù hợp với sở thích cá nhân và thị hiếu riêng biệt; sự hài hòa trong không gian chung, ví dụ như kích thước các sản phẩm phải gọn nhẹ để phù hợp với cấu trúc và không gian nhà nhỏ của người Nhật Bản. Tuy nhiên, các sản phẩm gỗ cũng cần phải có các kích thước khác nhau, đa dạng để người tiêu dùng có được nhiều sự lựa chọn.
Các doanh nghiệp cần nắm bắt tốt nhu cầu và sở thích của khách hàng để có thể cung ứng tốt, sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Người tiêu dùng Nhật Bản thường không thích gam màu chói, vì vậy, các sản phẩm gỗ nên tập trung vào các gam màu trầm. Các doanh nghiệp nên kết hợp sản xuất sản phẩm gỗ có thêm các nguyên liệu khác phụ thêm để tạo nên sự đa dạng về mẫu mã, chủng loại, đưa ra nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng.
3.2.2.2. Cần có sự định vị chính xác về sản phẩm của doanh nghiệp sang thị trường Nhật Bản
Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ cần thiết phải nắm bắt được sản phẩm của mình phục vụ cho những đối tượng thuộc phân đoạn thị trường nào để có thể đưa ra những sản phẩm phù hợp cả về văn hoá và đưa ra mức giá phù hợp với sức mua của thị trường đó.
Người tiêu dùng Nhật Bản có sức mua lớn và nhu cầu phong phú, đa dạng, tuy nhiên họ lại rất nhạy cảm về sự biến động của giá cả. Hơn thế, các sản phẩm gỗ Việt Nam hiện nay bị đánh giá là có mức giá cao hơn so với các sản phẩm của Trung Quốc và Đài Loan, Thái Lan,… Đây là những đối thủ cạnh tranh rất lớn của Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện các biện pháp để hạ giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp hiện nay đang phải nhập khẩu nguyên liệu gỗ riêng lẻ và bị mua với mức giá cao, hơm thế còn là các chi phí thêm cho dịch vụ sơ chế, đóng hàng và vận chuyển. Giá gỗ đã cao lại chịu thêm chi phí trung gian nên càng cao hơn. Do vậy, các doanh nghiệp cần kết hợp với nhau để mua gỗ tận gốc với khối lượng lớn.
Mặt khác, các doanh nghiệp có thể lập kho ngoại quan ở nước ngoài. Kho ngoại quan này bao gồm cả nơi tập trung hàng hoá, nơi sơ chế, chế biến hàng xuất khẩu. Nhờ kho ngoại quan này, các doanh nghiệp có khả năng chọn lọc gỗ theo yêu cầu, tập trung đủ lượng gỗ cần thiết trước khi chuyển về nước.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp khi hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh thì cũng cần phải tính kỹ lưỡng đến các biện pháp phòng bị đánh thuế chống bán phá giá.
3.2.2.3 Cần tiến hành hoạt động xúc tiến tổng hợp
Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ cần phải chủ động thực hiện các biện pháp xúc tiến, khuyếch trương sản phẩm thông qua các hội chợ, triển lãm,… Khi tham gia triển lãm, hội chợ,.. các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và cẩn thận về con người, sản phẩm, các logo, các hình thức quảng cáo,… để có thể tận dụng tối đa lợi ích mang lại từ hội chợ, triển lãm đó.
Cần phải phối hợp chặt chẽ và liên tục với các cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam cũng như của Nhật Bản, các đơn vị hữu quan để tiến hành các hoạt động xúc tiến mạnh mẽ trên thị trường Nhật Bản. Hơn thế, các doanh nghiệp cần xây dựng một đội ngũ cán bộ Marketing, PR chuyên nghiệp để có thể đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng cũng như các nhà nhập khẩu, các nhà bán lẻ,… của Nhật Bản thuận lợi nhất.
Các doanh nghiệp nên tích cực tham gia các trung tâm thương mại của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản để giới thiệu và khuyếch trương sản phẩm.
3.2.2.4. Xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất, phương thức kinh doanh linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn
Trước hết phải tìm ra được đối tác tiêu thụ sản phẩm. Các đối tác thu mua sản phẩm đồ gỗ nội thất tại Nhật có thể là cửa hàng chuyên doanh (thường là sản phẩm cao cấp), cửa hàng bách hóa, cửa hàng nội thất quy mô lớn; Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia là đối tác thường xuyên của loại cửa hàng này và luôn được bao tiêu sản phẩm, và hệ thống bán hàng qua catalogue, qua Internet.
Muốn tìm các đối tác này, doanh nghiệp trong nước phải biết khai thác các hội chợ, triển lãm tại Nhật, Trung Quốc (vì doanh nghiệp Nhật rất quan tâm đến các hội chợ đồ gỗ tại Trung Quốc và thường xuyên tham gia các hội chợ này), hoặc có kế hoạch trưng bày sản phẩm tại các showroom ở Nhật, hay đưa thông tin về sản phẩm lên mạng. Doanh nghiệp phải có đội ngũ nhân viên kinh doanh giỏi ngoại ngữ (tiếng Nhật hoặc tiếng Anh) và khi quan hệ với đối tác này không nên giao dịch với đối tác thứ hai trong cùng một khu vực.
Do thói quen và là tính cách riêng, đại diện các đơn vị thu mua Nhật thường rất khắt khe về mặt chất lượng hàng hóa. Doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu và thông cảm tính cách này trong quan hệ mua bán với người Nhật. Doanh nghiệp cũng nên đáp ứng nhanh về mẫu mã và giá cả khi đối tác yêu cầu (nhiều doanh nhân Nhật phàn nàn phía đối tác Việt Nam luôn chậm trễ trong 2 khâu này). Khi hợp đồng được ký kết, doanh nghiệp Việt Nam nên thường xuyên báo cáo tiến độ thực hiện hợp đồng cho khách hàng bằng thư điện tử, bằng hình ảnh... mục đích tạo cảm giác yên tâm cho đối tác (phong cách này đang phổ biến tại Nhật). Thời gian giao hàng đối với nhà nhập khẩu Nhật rất quan trọng, một phần do việc quý trọng thời gian, một phần do cao điểm để tung ra thị trường một chủng loại sản phẩm mới không dài. Hàng chỉ về chậm một vài tuần là có thể sẽ thành hàng “sold”, hoặc không tiêu thụ được. Để tạo uy tín và tin tưởng với nhà nhập khẩu Nhật, doanh nghiệp Việt Nam nên có trách nhiệm với hàng hư hỏng, hàng kém chất lượng (đổi lại hoặc chịu trách nhiệm sửa chữa).
Do tính cẩn trọng trong làm ăn, lần đầu bao giờ nhà nhập khẩu Nhật cũng đặt hàng số lượng nhỏ để thăm dò năng lực đối tác, sau đó mới tiến hành ký kết số lượng lớn. Dù đặt hàng số lượng không nhiều, người Nhật cũng muốn đến tận nơi sản xuất của đối tác để tham quan tìm hiểu. Đối với họ, một doanh nghiệp sản xuất đạt tiêu chuẩn là phải đáp ứng được năm điểm: ngăn nắp, gọn gàng, vệ sinh, sạch sẽ và kỷ luật.
Dù là quốc gia giàu, song đa phần người Nhật sống trong các chung cư cao tầng với các phòng nhỏ (khoảng 30 m2/người), nên hàng gỗ nội thất phải tương ứng với diện tích này. Dù nhỏ, nhưng cũng phải có bàn và ghế cho phòng ăn, salon cho phòng khách, hàng nội thất cho phòng ngủ. Điều này giải thích vì sao hàng gỗ nội thất vẫn tiếp tục có thị trường ở Nhật. Do có diện tích sử dụng nhỏ nên người Nhật ưa chuộng những sản phẩm gỗ có nhiều chức năng (vừa là ghế dài vừa là giường ngủ; vừa là chiếc ghế đẩu vừa là bục nhỏ để trang trí bình hoa, chậu cá cảnh, chụp đèn; cánh cửa tủ quần áo có thể thành nơi treo tranh trang trí; tủ đựng sách có thể làm vách ngăn...). Mùa hè người Nhật sử dụng máy lạnh, mùa đông dùng máy sưởi nên sản phẩm gỗ phải chịu được sự chênh lệnh nhiệt độ này, nghĩa là không bị nứt, bị xé...
Ngày nay người Nhật đã phân biệt được phong cách đồ gỗ nội thất Việt Nam (thường chịu ảnh hưởng của phong cách Pháp) với phong cách đồ gỗ Trung Quốc, Đài Loan (ảnh hưởng đồ gỗ thời phong kiến Trung Hoa) và thích phong cách Việt Nam hơn vì nó gần gũi, hiện đại. Người tiêu dùng đồ gỗ ở Nhật cho rằng, đây là phong cách mới sẽ vượt trội hơn trong tương lai.
Nhật Bản vốn là một thị trường khó tính, doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản thì trước tiên phải đưa ra và phải có quyết tâm thực hiện mục tiêu xuất khẩu của mình. Tiếp đến là ngoài đội ngũ lao động sản xuất lành nghề, cần phải có nguồn nhân lực cần thiết đáp ứng được những đòi hỏi kinh doanh quốc tế như: trình độ ngoại ngữ, am hiểu và thực hiện tốt các nghiệp vụ buôn bán quốc tế, có khả năng giao tiếp tốt, có khả năng sáng tạo,…
3.2.2.5. Đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu và tăng cường quảng bá sản phẩm
Các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam hiện thiếu thương hiệu uy tín trên thị trường nước ngoài do phần lớn là gia công xuất khẩu, mượn thương hiệu nước ngoài để xuất khẩu. Hơn thế, vấn đề về sở hữu công nghiệp, về đăng ký bản quyền cũng như vấn đề bảo hộ thương hiệu rất được coi trọng ở thị trường Nhật Bản nói riêng và thị trường quốc tế nói chung. Việt Nam cần phải nhận thấy được rõ tầm quan trọng của vấn đề này. Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu cho sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ góp phần rất lớn thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật vì người tiêu dùng Nhật Bản ưa dùng các sản phẩm có uy tín.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tăng cường quảng cáo, khuếch trương sản phẩm. Quảng cáo là công cụ của kinh doanh và cạnh tranh trong xuất khẩu, cần lựa chọn hình thức, phương tiện quảng cáo thích hợp để vừa tạo ra chương trình hấp dẫn, dễ nhớ và phù hợp với văn hóa Nhật Bản. Tăng cường quảng cáo trên Internet là rất phù hợp với Nhật Bản, đất nước có nền kinh tế tri thức và công nghệ thông tin rất phát triển.
3.2.2.6. Doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, đào tạo công nhân lành nghề,… để nâng cao năng lực sản xuất, thiết kế mẫu mã sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản
Công nghệ lạc hậu, nhất là công nghệ sấy khô và sơn phủ, khả năng thiết kế mẫu mã sản phẩm còn hạn chế, thiếu công nhân lành nghề ảnh hưởng rất lớn đến khả năng xuất khẩu của sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản. Công nghệ lạc hậu, thiếu công nhân lành nghề khiến sản phẩm của Việt Nam chất lượng chưa cao trong khi người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm hàng đầu là về chất lượng của sản phẩm. Các nhà nhập khẩu Nhật Bản thường có những đơn đặt hàng lớn, với công nghệ lạc hậu, các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam không đủ khả năng nhận những đơn dặt hàng này, gây mất lòng tin cho các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải chú trọng đầu tư vào công nghệ hiện đại, và có những chiến lược đào tạo nguồn lao động hợp lý cho doanh nghiệp. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhất vào việc đổi mới, nâng cao công nghệ.
Người tiêu dùng Nhật Bản ưa chuộng các sản phẩm có mẫu mã phong phú, đa dạng. Để thu hút hơn nữa người tiêu dùng Nhật Bản, các doanh nghiệp cần tăng cường thiết kế sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã. Các doanh nghiệp có thể tự mở các khoá đào tạo riêng cho cán bộ, công nhân của doanh nghiệp mình, tự tìm, tuyển dụng các tài năng thiết kế từ những cuộc thi hay từ trường Mỹ thuật công nghiệp, tự thuê các chuyên gia, tư vấn về thiết kế mẫu mã sản phẩm…
3.2.2.7. Xây dựng văn hóa trong kinh doanh xuất khẩu sang Nhật Bản
Thực hiện nề nếp trong kinh doanh chính là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm gỗ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu thành công sang thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng cần chú trọng xây dựng văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng tác phong kinh doanh mang tính chuyên nghiệp để xây dựng và duy trì lòng tin của khách hàng, lấy chữ tín làm đầu, có khả năng đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn một cách hoàn hảo và nhanh chóng.
Theo một số chuyên gia chuyên nghiên cứu về Nhật Bản, có một số bí quyết mà các doanh nghiệp Việt Nam nên tham khảo khi làm ăn với người Nhật:
Một là chữ tín: Đặc điểm nổi bật của các doanh nhân Nhật Bản là giữ chữ tín, đã hứa là thực hiện dù đó là những việc nhỏ nhất. Người Nhật rất coi trọng ấn tượng đầu tiên nên các doanh nghiệp cần chuẩn bị thật tốt cho các buổi họp mặt hay giao dịch đầu tiên.
Hai là nguyên tắc: Trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ, làm việc rất nguyên tắc. Cho dù chỉ là các dịch vụ thương mại đơn thuần. Hầu hết, khách hàng Nhật Bản luôn muốn được tham quan công ty, nơi sản xuất để tận mắt chứng kiến tổ chức, năng lực sản xuất của đối tác sản xuất hàng sẽ bán cho họ. Khi đã tin tưởng thì các công ty Nhật Bản lại nổi tiếng là ổn định và trung thành với bạn hàng.
Ba là kiên trì: Nên kiên trì trong các mối quan hệ kinh doanh với người Nhật. Thời gian đặt hàng thử, số lượng nhỏ kéo dài rất lâu, nếu cảm thất đạt tiêu chuẩn họ mới đặt hàng số lượng lớn. Nhiều khi, sau vài đơn hàng đầu tiên với số lượng ít, doanh nghiệp phía Việt Nam không đủ kiên trì để tiếp tục nên đã không nhiệt tình trong giao tiếp kinh doanh, dẫn đến mất khách hàng tốt trong tương lai.
Bốn là giao lưu: Tham gia hội chợ thương mại, hoặc các hoạt động giao lưu tại Nhật Bản sẽ khẳng định tính thường xuyên, ổn định trong kinh doanh với khách hàng cũ, đồng thời cũng tạo cơ hội mới trong việc tìm kiếm khách hàng mới.Tuy nhiên, nên có sự trao đổi và thống nhất trước với những khách hàng truyền thống của mình về những sản phẩm mẫu mã trưng bầy, tránh tình trạng vi phạm cam kết về mẫu mã trước đó bời vì tham gia hội chợ tại Nhật Bản thường rất tốn kém. Đặc biệt khi giới thiệu hay bán hàng tại hội chợ nhân viên phụ trách không được ăn, uống trước mặt khách hàng. Phải luôn đứng, tươi cười mời chào khách với thái độ thật niềm nở và nói lời cám ơn.
Năm là trân trọng – chu đáo: Người Nhật rất coi trọng chuyện gặp mặt trước khi bàn bạc hợp tác và rất chu đáo trong việc chăm sóc khách hàng. Việc mời ăn uống, đón, tiễn ở sân bay (đặc biệt là nếu vào được tận trong máy bay để đón thì sẽ gây được ấn tượng đặc biệt với bạn). Trong giao dịch thương mại, vấn đề quan hệ cá nhân là vô cùng quan trọng vì người Nhật cũng giống người Việt Nam, nên chủ động tiếp đồ uống cho cho khách, không để khách tự rót rượu cho họ trong suốt bữa ăn. Ngoài ra người Nhật Bản rất coi trọng giờ hẹn. Vì vậy, khi đi làm việc với khách Nhật, phải luôn luôn đúng giờ.
Sáu là văn hóa trao danh thiếp: Nhật Bản là một trong những nước hay sử dụng danh thiếp nhất thế giới. Việc không có hay hết danh thiếp khi giao dịch không bao giờ để lại ấn tượng tốt với khách hàng.
Bảy là tiếng Nhật: Người Nhật rất thích khi đối tác sử dụng được tiếng Nhật vì họ cảm thấy gần gũi hơn vì vậy bạn nên trang bị tiếng Nhật hoặc ít ra cũng chuẩn bị cho mình một số câu đơn giản.
Tám là bản ghi nhớ (MOU): Sau khi đàm phán hay thống nhất xong vấn đề gì đó dù là không quan trọng lắm thì bạn cũng nên làm bản tóm tắt nội dung đã thống nhất gửi lại cho đối tác. Điều này luôn được đánh giá cao. Bên cạnh đó một số chi tiết nhỏ như trực tổng đài công ty. Họ sẽ cảm thấy rất bất ổn về đối tác khi gọi điện thoại đến công ty mà không thấy có người trả lời hoặc trả lời không đúng mực.
Chín là tặng quà – Chúc mừng: Cũng giống như ở Việt Nam, người Nhật thích tặng quà cho nhau vào những dịp lễ tết như dịp Ô Bôn (tháng 7), dịp này nên gửi đồ ăn; dịp cuối năm dương lịch nên tặng đồ uống. Gửi thiếp chúc mừng nhân dịp đặ biệt như ngày thành lập công ty, Giáng sinh và năm mới (lưu ý thiếp chúc mừng phải được gửi tới tay đối tác trước ngày lễ diễn ra).
Mười là chất lượng – Hình thức - Vệ sinh: Hàng hóa, cho dù bất kỳ loại gì cũng phải có hình thức đẹp, sạch sẽ. Bao bì sản phẩm phải rất cẩn thận đúng tiêu chuẩn, hình thức đẹp, kích thước hợp tạo được sự lôi cuốn và tiện dụng cho người sử dụng. So với các thị trường khác, tại Nhật Bản đối với một số mặt hàng như hàng quà tặng, chi phí cho bao bì chiếm tỷ trọng cao hơn trong giá thành sản phẩm.
KẾT LUẬN
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới(WTO). Chúng ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Một số sản phẩm của Việt Nam đã có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Mặt hàng đồ gỗ là một trong sáu mặt hàng xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Với dân số là 127,46 triệu người và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam.
Với truyền thống và nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ rất lớn của người dân, thị trường Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng đối với sản phẩm gỗ. Đến nay, đồ gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản đã đứng ở vị trí thứ ba sau Trung Quốc và Đài Loan song cũng chỉ chiếm 8% thị phần. Với tiềm năng của ngành chế biến gỗ Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có khả năng vươn đến vị trí thứ nhất về xuất khẩu đồ gỗ sang thị trường Nhật Bản để góp phần đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nhằm phát triển kinh tế đất nước.
Bài viết đã đưa ra những thông tin và nhận định về thị trường Nhật Bản nói chung, thị trường đồ gỗ Nhật Bản nói riêng; về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản ; về xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam nói chung và xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản nói riêng từ năm 1999 đến nay; … để đưa ra một số giải pháp đối với Nhà nước và đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nhằm thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào thị trường này từ nay đến năm 2020.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình:
GS.TS. Đỗ Đức Bình – TS. Nguyễn Thường Lạng (2004) “Kinh tế quốc tế” – Nhà xuất bản Lao động xã hội
GS.PTS. Tô Xuân Dân (1998) “Chính sách Kinh tế đối ngoại” – Nhà xuất bản Thống kê
PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2003) “Kinh doanh quốc tế” – Nhà xuất bản Thống kê
GS.TS. Bùi Xuân Lưu (2002) “Kinh tế ngoại thương” – Nhà xuất bản Giáo Dục
Sách:
Ken Arakawa (2003) “Xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản các vấn đề về nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn” –– Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Ths. Nguyễn Thị Như Hoa – Ths. Nguyễn Anh Tuấn (2001) “Quan hệ kinh tế của Mỹ và Nhật Bản với Việt Nam từ năm 1995 đến nay” - Nhà xuất bản chính trị quốc gia
GS.TS Võ Thanh Thu (2003) “Quan hệ kinh tế quốc tế” – Nhà xuất bản Thống kê
GS.TS. Võ Thanh Thu (2002) “Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu” –– Nhà xuất bản thống kê
Báo, tạp chí:
Báo đầu tư
Báo thương mại
Tạp chí Kinh tế & Phát triển
Tạp chí nghiên cứu Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
Tập san Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế 2005 – 2006
Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Thời báo Kinh tế Việt Nam
Các trang Web:
www.vnn.vn
www.trade.hochiminhcity.gov.vn
www.saigonnews.vn
www.nciec.gov.vn
www.itpc.hochiminhcity.gov.vn
www.mof.gov.vn
www.toquoc.gov.vn
www.mpi.gov.vn
www.tienphongonline.com.vn
www.baothuongmai.com.vn
www.vietrade.gov.vn
www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn
www.vneconomy.com.vn
www.ebiz.dsp.com.vn
www.vinanet.com.vn
www.ncnb.org.vn
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Nội dung
Trang
Bảng 1
Tốc độ tăng trưởng GDP của Nhật Bản qua các năm từ 1990 đến 2006
25
Bảng 2.
Các quy định của Nhật Bản liên quan đến một số sản phẩm gỗ
42
Bảng 3
Kim ngạch xuất khẩu - nhập khẩu Việt Nam - Nhật Bản thời kỳ 1995 – 2006
58
Bảng 4
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nhật Bản (giai đoạn 2000 – 2006)
64
Bảng 5
Cơ cấu xuất khẩu sản phẩm gỗ sang EU tháng 11/2006
87
Bảng 6
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 1999 đến năm 2006
90
Bảng 7
Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản từ năm 2002 đến năm 2006
94
Biểu đồ 1
Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sang Nhật Bản giai đoạn 1995 – 2006
64
Biểu đồ 2
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản năm 2000
67
Biểu đồ 3
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản năm 2006
68
Biểu đồ 4
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam so với kim ngạch nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản (giai đoạn 1999-2006)
90
Biểu đồ 5
Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật Bản (giai đoạn 1999 – 2006)
91
Biểu đồ 6
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2002
95
Biểu đồ 7
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2003
96
Biểu đồ 8
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2004
97
Biểu đồ 9
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2005
98
Biểu đồ 10
Cơ cấu sản phẩm gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản năm 2006
99
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu nêu trong Chuyên đề là trung thực. Những kết luận khoa học của Chuyên đề chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả chuyên đề
Trần Thị Tuyết Nhung
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36709.doc