Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

MỞ ĐẦU Tính tất yếu của đề tài Được biết đến là một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Với dân số đông, diện tích địa lý trải rộng, môi trường đa văn hoá, đa chủng tộc. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 1750 tỷ USD chiếm » 20% tổng kim ngạch nhập khẩu toàn thế giới. Thị trường Hoa Kỳ thực sự hấp dẫn với bất kì doanh nghiệp nào: Thu nhập Quốc dân GDP luôn duy trì ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu tiêu dùng đối với các loại hàng hoá là rất đa dạng – Đây là thị trườ

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng khổng lồ đối với các loại hàng hoá mà trong đó chứa đựng hầu hết các loại hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu. Việt Nam là quốc gia đang bước trên tiến trình hội nhập Kinh tế quốc tế, chủ trương phát triển kinh tế theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, đa dạng hoá thị trường cũng như mặt hàng xuất khẩu. Và Hoa Kỳ là thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Quan hệ Việt - Hoa Kỳ đã được chính thức bình thường hoá từ năm 1995. Sau hơn mười năm tái thiết lập quan hê, việc bình thường hoá đã khép lại quá khứ và mở ra tương lai có lợi cho cả hai bên. Thực tế là kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng nhanh chóng qua các năm và tính đến tháng 2/2007 Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch là 1.339.565 nghìn USD tăng 35.41% so với cùng kì năm 2006. Năm 2006 đã đánh dấu bước phát triển cao hơn trong quan hệ hai nước khi quy chế PNTR cho Việt Nam đã được Hoa Kỳ thông qua. Bên cạnh đó do tác động của BTA mang lại, hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ được cạnh tranh bình đẳng hơn, mức thuế áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu của ta đã giảm xuống khiến cho sự cạnh tranh về giá cả phát huy được hiệu quả,…Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại với các đối tác Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn khi quy mô của các doanh nghiệp nội địa là nhỏ trong khi nhu cầu thị trường là lớn, các đơn đặt hàng từ phía Hoa Kỳ thường yêu cầu với số lượng lớn, thời gian giao hàng nhanh, điều này là vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Những trở ngại trong hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ (Việc ban hành thuế chống bán phá giá đối với hàng dệt may đang được xem xét); tính phức tạp trong hệ thống luật pháp Hoa Kỳ, cạnh tranh của hàng hoá Trung quốc,.. đang tạo ra những rào cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Năm 2006 là dấu mốc quan trọng khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, thị trường được mở rộng cùng với mức độ cạnh tranh gay gắt hơn buộc các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực hết mình để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập mới, doanh nghiệp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, vừa gia tăng sự ảnh hưởng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, mặt khác chúng ta có thể tiếp cận được những công nghệ hiện đại, những nguồn lực kỹ thuật quan trọng cần thiết cho phát triển kinh tế nội địa. Trong điều kiện mới hiện nay, để có được một vị trí ổn định vững chắc cũng như đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, phía Nhà nước, các doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn phải làm rất nhiều việc. Từ những vấn đề đó, em đã chọn: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” Chuyên đề gồm có 3 Chương chính: Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Đối tượng nghiên cứu Thị trường Hoa Kỳ với nhu cầu tiêu dùng, môi trường văn hoá kinh doanh, các đối tác Hoa Kỳ, các quy định đối với hàng hoá nhập khẩu vào thị trường này,…và hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này. Phạm vi nghiên cứu Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ từ khi hai nước chính thức bình thường hoá quan hệ thương mại từ năm 1995 đến nay. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu các số liệu thống kê và những phân tích thực tế những vấn đề liên quan, kết hợp với phân tích dự báo Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa 1.1.1.Khái niệm và vai trò 1.1.1.1.Khái niệm Thế giới đã bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hội nhập và phát triển. Để thành công trong nền kinh tế toàn cầu này đòi hỏi các quốc gia cũng như các nhà kinh doanh phải hiểu rõ về kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế là một lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều vấn đề: con người, văn hóa, kinh tế, chính trị và nhiều yếu tố khác liên quan đến môi trường xung quanh mà chủ thể trực tiếp của các hoạt động này là các công ty kinh doanh trên trường quốc tế, thực hiện giao dịch buôn bán với nhau. Trên thực tế các công ty có thể tiến hành giao dịch với nhau qua nhiều hình thức nhưng phổ biến nhất là thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Một cách cơ bản nhất có thể định nghĩa: Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hóa dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong chiến lược kinh doanh quốc tế, doanh nghiệp cần xác định được một trong những yếu tố quan trọng mang lại thành công cho chiến lược của mình đó là cách thức thâm nhập thị trường. Xuất khẩu được đánh giá là hình thức thâm nhập thị trường ít rủi ro với chi phí thấp so với các hình thức khác. Nếu xét dưới góc độ kinh doanh thì xuất khẩu là việc bán hàng hóa dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác, còn xét dưới góc độ phi kinh doanh (quà tặng, viện trợ) thì hoạt động xuất khẩu là việc lưu chuyển hàng hóa dịch vụ qua biên giới một quốc gia. 1.1.1.2.Vai trò của xuất khẩu Thứ nhất, xuất khẩu để tạo ra nguồn vốn quan trọng thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu và tích lũy sản xuất nhằm phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa đất nước. Trong hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia luôn diễn ra đồng thời hai hoạt động cơ bản là xuất khẩu và nhập khẩu, xuất khẩu luôn đi kèm nhập khẩu, hai mặt không thể tách rời nhau trong một quan hệ gắn bó hỗ trợ lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, nhập khẩu là mục đích còn xuất khẩu là phương tiện để đạt được mục đích đó. Mọi hoạt động xuất khẩu đều hướng tới cái đích cuối cùng là bán được nhiều nhất các loại hàng hóa dịch vụ mà quốc gia mình có khả năng để thu được một lượng ngoại tệ phục vụ trở lại cho việc nhập khẩu các thiết bị, công nghệ hiện đại, các dịch vụ, các mặt hàng mà quốc gia mình còn thiếu vừa để phục vụ nhu cầu tiêu dùng vừa để sản xuất đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế. Thứ hai, xuất khẩu là yếu tố quan trọng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xuất khẩu chính là việc tạo điều kiện thuận lợi để bán được nhiều nhất những hàng hóa mà một quốc gia có lợi thế. Khi doanh số bán hàng tăng lên, lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài nhiều hơn, nó sẽ tác động trở lại, đó là nhu cầu mở rộng sản xuất, đẩy nhanh quá trình tạo ra sản phẩm, quy mô sản xuất của từng mặt hàng, từng ngành nghề lĩnh vực cũng như quy mô toàn bộ nền kinh tế được mở rộng, khi đó xuất hiện hiệu ứng tính kinh tế nhờ quy mô. Khi quy mô sản xuất phát triển sẽ kéo theo sự ra đời của nhiều ngành hàng mới vừa để bổ trợ cho các ngành xuất khẩu chính, vừa để khai thác những tiềm năng của đất nước, GDP của nền kinh tế không ngừng được tăng lên, quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Thứ ba, xuất khẩu kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Xuất khẩu tăng, nhu cầu thị trường đối với sản phẩm nhiều hơn, doanh nghiệp khi đó phải tìm cách để nâng cao năng suất lao động sao cho tạo ra nhiều sản phẩm nhất có thể. Cách thức nhanh chóng và hiệu quả nhất để thực hiện mục tiêu đó là cải tiến các trang thiết bị máy móc, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như hoàn thiện dần quy trình sản xuất. Ngược lại, khi hoạt động xuất khẩu luôn duy trì ở mức cao tức là lượng hàng hóa bán ra liên tục tăng, làm tăng doanh số bán hàng, lợi nhuận tăng lên, khi đó doanh nghiệp có nhiều điều kiện để quan tâm, đầu tư nhiều hơn vào việc hiện đại hóa dây chuyền sản xuất của mình. Thứ tư, xuất khẩu tác động mạnh tới cơ cấu kinh tế của toàn bộ nền kinh tế cũng như tác động tới cơ cấu của ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh. Mỗi quốc gia đều có những ưu thế nhất định về một hoặc một vài chủng loại sản phẩm. Trong thương mại quốc tế, các quốc gia luôn phải cạnh tranh với nhau vì thế để thu được lợi ích cao nhất buộc mỗi quốc gia phải tìm một hướng đi đúng cho mình, phải tìm kiếm và khai thác tối đa những thế mạnh của riêng mình. Khi đã biết được mình có điểm mạnh gì, các quốc gia sẽ chuyên biệt hóa, đầu tư nhiều hơn tới việc phát triển thế mạnh của mình, nghĩa là cơ cầu của nền kinh tế dần chuyển đổi theo hướng ưu tiên cho các ngành, các mặt hàng mang lại giá trị và hiệu quả kinh tế tốt hơn. Thứ năm, xuất khẩu có tác động tích cực và trực tiếp tới việc nâng cao mức sống của người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Khi kim ngạch xuất khẩu của một mặt hàng, ngành hàng nào đó không ngừng tăng lên, quy mô sản xuất của ngành đó sẽ được mở rộng. Sản xuất mở rộng, nhu cầu về lao động tăng, số lượng việc làm nhiều hơn, điều đó đồng nghĩa là sẽ có thêm một bộ phận lao động trong xã hội có việc làm, thu nhập người dân ổn định hơn, cuộc sống của họ được đảm bảo, khi đó họ sẽ có nhiều điều kiện để nâng cao điều kiện sống cho gia đình, tỷ lệ đói nghèo sẽ dần giảm bớt. Thứ sáu, xuất khẩu giúp mở rộng và làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại lẫn nhau: xuất khẩu là một trong những lĩnh vực của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển như quan hệ về tín dụng, quan hệ đầu tư, quan hệ vận tải…Xuất khẩu tạo tiền đề cho hợp tác quốc tế trong những lĩnh vực này, ngược lại khi quan hệ quốc tế của những lĩnh vực này tốt đẹp sẽ kích thích cho xuất khẩu trao đổi buôn bán giữa các quốc gia phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Xét một cách tổng thể, trong quá trình phát triển của một quốc gia không thể không có hoạt động thương mại quốc tế, đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh lẫn nhau và trong cuộc cạnh tranh đó, quốc gia nào cũng muốn và cố gắng đến tối đa để hoạt động xuất khẩu mang lại hiệu quả cao nhất. Chỉ khi xuất khẩu phát triển, quốc gia mới có điều kiện để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và một phần cho tích lũy, điều đó có nghĩa là, xuất khẩu là chìa khóa quan trọng để phát triển kinh tế và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.1.2.Các hình thức xuất khẩu Trong thương mại quốc tế, xuất khẩu của một quốc gia thường diễn ra dưới hai hình thức cơ bản là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Đây là hai hình thức, đồng thời cũng là hai công cụ chủ yếu được các chủ thể kinh tế sử dụng trong quá trình thâm nhập thị trường nước ngoài qua con đường xuất khẩu hàng hóa. 1.1.2.1.Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một chủ thể kinh tế cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Hình thức này thường được các công ty có kinh nghiệm quốc tế sử dụng, khách hàng của họ không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng mà bao gồm tất cả những đối tượng có nhu cầu, đã, đang và sẽ tiêu dùng sản phẩm của công ty. Xuất khẩu trực tiếp thường được tiến hành qua hai hình thức cơ bản: Đại diện bán hàng Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị của khối lượng hàng hóa bán được. Xét về bản chất, hoạt động của đại diện bán hàng chính là hoạt động của nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài, thông qua hình thức này công ty sẽ tiến hành ký kết các hợp đồng trực tiếp với khách hàng tại thị trường mà người đại diện bán hàng đang hiện diện. Đại lý phân phối Đại diện phân phối là người đứng ra mua hàng của công ty để bán theo kênh tiêu thụ tại khu vực đã được quy định. Theo hình thức này, công ty là người khống chế phạm vi giới hạn hoạt động của người phân phối đồng thời đặt hoạt động của các kênh phân phối này trong sự kiểm soát của mình. Mặc dù nằm dưới sự kiểm soát của công ty ủy thác nhưng đại lý phân phối phải chịu trách nhiệm, chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng của công ty ủy thác trên thị trường đã được phân định và sẽ được hưởng phần lợi nhuận thu được từ chênh lệch giá mua và giá bán hàng hóa. 1.1.2.2.Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa, dịch vụ của công ty ra thị trường nước ngoài thông qua trung gian (qua người thứ ba). Nếu trong loại hình xuất khẩu trực tiếp thì người mua tìm tới người bán, người bán tìm gặp người mua, giữa hai bên tiến hành trao đổi gặp gỡ trao đổi thông tin hàng hóa cho nhau một cách trực tiếp thì trong loại hình xuất khẩu gián tiếp, việc thiết lập quan hệ người mua – người bán cũng như các điều kiện liên quan đến giao dịch mua bán hàng hóa được thực hiện thông qua người thứ ba được gọi là trung gian mua bán. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hóa của người ủy thác mà chỉ đóng vai trò người trợ giúp, là cầu nối đưa hàng hóa của người xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Xuất khẩu gián tiếp có các hình thức chủ yếu sau: Đại lý Đại lý là tự nhiên nhân hay pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều hành vi theo sự ủy thác của người ủy thác, quan hệ giữa người ủy thác và đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. Trên thực tế đại lý chỉ thực hiện một công việc nhất định nào đó cho người ủy thác và nhận được khoản thù lao của mình, đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa mà chỉ là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa người xuất khẩu và khách hàng ở thị trường nước ngoài. Công ty quản lý xuất khẩu Là công ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Công ty quản lý xuất khẩu hoạt động dựa trên danh nghĩa của người ủy thác với chức năng cơ bản là thực hiện các hoạt động cũng như hoàn thiện các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Xét về bản chất, các công ty quản lý xuất khẩu là trung gian thực hiện các dịch vụ đại lý cho người ủy thác và nhận được một khoản thù lao định mức từ các hoạt động của mình. c) Công ty kinh doanh xuất khẩu Là loại hình công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập với chức năng cơ bản là kết nối các khách hàng tại thị trường nước ngoài với công ty xuất khẩu của quốc gia mình, từ đó tạo điều kiện đưa các hàng hóa trong nước ra nước ngoài tiêu thụ. Hoạt động của các công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện tất cả các hoạt động dịch vụ xuất khẩu từ những hoạt động trực tiếp liên quan đến xuất khẩu cho tới các hoạt động gián tiếp liên quan như thiết lập và mở rộng kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư cho tới trực tiếp tham gia một công đoạn sản xuất bổ trợ nào đó cho quá trình sản xuất sản phẩm…Trên thực tế, các công ty kinh doanh xuất khẩu đều là những công ty có tiềm lực và sự đảm bảo về tài chính cũng như có kinh nghiệm chuyên sâu về một mảng thị trường nào đó với những chuyên gia làm dịch vụ xuất khẩu. Chi phí hoạt động của công ty kinh doanh xuất khẩu là nguồn vốn của công ty và thu hồi lại từ các dịch vụ xuất khẩu mà công ty thực hiện. d) Đại lý vận tải Là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa: khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý vận tải cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hàng thì các đơn vị này cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan đến hàng hóa của công ty. Như vây, thực chất hoạt động của các đại lý vận tải cũng chính là hoạt động của các công ty kinh doanh giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí nó còn đi sâu hơn khi bao gồm cả dịch vụ bao gói hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hóa xuất khẩu trong phạm vi hoạt động, quyền hạn của mình. 1.1.3.Nội dung xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu hàng hóa có hai khâu liên hệ mật thiết với nhau đó là thu mua, huy động hàng xuất khẩu từ các đơn vị kinh tế trong nước và tiến hành ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài. Trong hai khâu đó, thu mua hàng xuất khẩu là tiền đề vật chất của xuất khẩu hàng hóa. 1.1.3.1.Thu mua, cung ứng hàng xuất khẩu Khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu, trước hết doanh nghiệp phải có được nguồn hàng và phải biết được những quy định của Nhà nước đối với mặt hàng đó. Đối với các doanh nghiệp thương mại, để có nguồn hàng xuất khẩu doanh nghiệp phải tiến hành hoạt động thu mua. Để tổ chức tốt việc thu mua, bên cạnh việc quán triệt tốt quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thì doanh nghiệp còn phải làm tốt việc quản lý nguồn hàng xuất khẩu của mình một cách chủ động, có biện pháp phát triển nguồn hàng đó cũng như phương thức huy động thích hợp. Đối với phân loại nguồn hàng xuất khẩu, có ba chỉ tiêu phân loại: Thứ nhất theo chế độ phân cấp quản lý bao gồm nguồn hàng thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và nguồn hàng ngoài kế hoạch Thứ hai phân loại nguồn hàng theo đơn vị giao hàng gồm: từ các xí nghiệp, các cơ sở sản xuất, các hợp tác xã… Thứ ba phân loại theo phạm vi phân công của đơn vị kinh doanh xuất khẩu bao gồm nguồn hàng trong địa phương và nguồn hàng ngoài địa phương. Việc nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu, đây là công việc bắt buộc để doanh nghiệp có thể khai thác và phát triển nguồn hàng. Thông qua nghiên cứu nguồn hàng doanh nghiệp có thể nắm được khả năng cung cấp hàng xuất khẩu của từng đơn vị nguồn hàng đồng thời nó là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp tiến hành ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: Thứ nhất, lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu. Phương pháp này chủ yếu nghiên cứu tình hình và khả năng cung ứng cũng như tiêu thụ của một mặt hàng từ đó có quyết định kinh doanh xuất khẩu mặt hàng đó không. Thứ hai, lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu. Theo phương pháp này người ta theo dõi năng lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất thông qua các chỉ tiêu: số lượng và chất lượng hàng cung cấp hàng năm, giá thành, tình hình trang thiết bị, trình độ kỹ thuật, số lượng công nhân, trình độ tổ chức và quản lý. 1.1.3.2.Ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu Với tư cách là doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh hàng xuất khẩu, sau khi đã có được nguồn hàng xuất khẩu, doanh nghiệp tiến hành ký kết hợp đồng ngoại thương. Song song với ký hợp đồng ngoại, doanh nghiệp cũng phải tiến hành đồng thời việc lưu kho hàng xuất khẩu tiếp nhận từ các đơn vị nguồn hàng, việc lưu kho nhằm mục đích đóng gói bảo quản hàng hóa trong thời gian hoàn tất thủ tục xuất hàng và sau khi đã hoàn tất các thủ tục, trong thời gian thỏa thuận của hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành xuất kho hàng hóa cho người nhập khẩu. Việc xuất hàng cho đối tác phải dựa trên cơ sở hợp đồng đã ký kết, người xuất khẩu phải có trách nhiệm đóng gói, phân lô phân loại, bảo đảm về số lượng và chất lượng hàng hóa cho đến khi làm biên bản giao nhận với người nhập khẩu, khi đó người xuất khẩu mới hết trách nhiệm. Sau khi giao hàng, tùy theo thỏa thuận của hai bên mà hàng hóa có thể được bảo hành trong phạm nhất định của người xuất khẩu. Còn người nhập khẩu sau khi nhận hàng phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền hàng cũng như những chi phí được hai bên thỏa thuận. Sau khoảng thời gian được quy định trong hợp đồng mà hai bên không có bất cứ khiếu kiện nào thì hoạt động xuất khẩu được thực hiện hoàn tất. 1.1.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 1.1.3.1.Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh Thứ nhất, môi trường văn hóa. Văn hóa nói chung có thể được coi là tổng thể của đức tin, các giá trị, niềm tin, thông lệ, ngôn ngữ và tôn giáo. Văn hóa của mỗi quốc gia có những nét đặc thù khác biệt. Chính sự khác biệt về văn hóa sẽ kéo theo sự khác biệt về nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng, sự lựa chọn sản phẩm tiêu dùng theo đó cũng có sự khác biệt lớn, người ta không thể xuất khẩu thịt lợn sang các quốc gia đạo hồi. Như vậy yếu tố văn hóa tại một thị trường nào đó là cơ sở để doanh nghiệp đưa ra quyết định lựa chọn hàng hóa nào để xuất khẩu và thị hiếu của thị trường đó đối với sản phẩm ra sao để có những điều chỉnh nhất định đối với sản phẩm. Sự khác nhau về yếu tố văn hóa của một quốc gia sẽ tạo ra sự khác nhau về mặt hàng xuất khẩu sang thị trường đó. Thứ hai, môi trường chính trị luật pháp. Không một doanh nghiệp xuất khẩu nào muốn bán sản phẩm của mình sang thị trường có thể chế chính trị bất ổn với tâm lý lo ngại sự mất ổn định chính trị sẽ khiến cho các doanh nghiệp nhập khẩu trong trường hợp xấu không thể thanh toán mọi chi phí tiền hàng. Yếu tố luật pháp cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông qua tác động của hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Nếu mức thuế suất đối với các sản phẩm nhập khẩu cao hoặc mức độ bảo hộ sản xuất trong nước của quốc gia đó lớn sẽ làm giảm kim ngạch xuất khẩu của các quốc gia khác sang thị trường nước đó, ngược lại mức thuế mà một quốc gia áp dụng cho sản phẩm nhập khẩu ở mức trung bình cũng như các hàng rào yêu cầu kỹ thuật không quá khắt khe, sản phẩm của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận thị trường và từ đó sẽ làm tăng lượng hàng hóa xuất khẩu sang những thị trường dễ tính Thứ ba, môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế của một quốc gia bao gồm tốc độ tăng trưởng kinh tế, quy mô của nền kinh tế và quy mô thị trường, cơ cấu của nền kinh tế… Một quốc gia luôn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định tức là tổng thu nhập quốc dân cao, theo đó thu nhập bình quân đầu người cũng ở mức cao, đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng của người dân và toàn nền kinh tế sẽ tăng lên, lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ nhiều hơn, điều này sẽ kích thích hoạt động xuất khẩu từ các công ty nước ngoài vì họ nhìn thấy tiềm năng thị trường lớn của quốc gia. Quy mô của nền kinh tế lớn cũng khiến cho nhu cầu nhập khẩu tăng lên, và cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu. Cơ cấu của nền kinh tế ảnh hưởng đến cơ cấu xuất khẩu vào một quốc gia. Các nhà xuất khẩu khi lựa chọn thị trường xuất khẩu thường phải có những đánh giá xem thị trường nội địa của quốc gia đó đang sản xuất được cái gì, chủng loại ra sao để từ đó sẽ quyết định đưa mặt hàng nào xuất khẩu, khi lựa chọn mặt hàng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải đánh giá yếu tố thị trường, thị trường nào đang có nhu cầu về mặt hàng mà doanh nghiệp có khả năng cung cấp thì doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn thị trường đó. 1.1.3.2.Nhân tố thuộc về doanh nghiệp Trước hết phải đề cập tới chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đặt ra một mức tăng trưởng cao trong kim ngạch xuất khẩu trong một khoảng thời gian nhất định, khi đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải hướng tới đạt được mục tiêu đó, hoạt động xuất khẩu được đặt lên hàng đầu, doanh nghiệp sẽ nỗ lực trong việc tìm kiếm thị trường, xây dựng quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp cũng như sản phẩm với mong muốn người tiêu dùng tại thị trường nước ngoài sẽ ưu thích sản phẩm của mình tạo cơ hội cho doanh nghiệp xuất khẩu nhiều hàng hóa hơn. Thứ hai, chi phí sản xuất. Chi phí sản xuất sẽ quyết định một phần quan trọng giá cả của hàng hóa. Bằng cách kiểm soát tổng chi phí sẽ kiểm soát được giá cả hàng hóa ở mức thấp, giá cả thấp khiến cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Ngoài ra chi phí sản xuất thấp cũng mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp vì cùng một điều kiện thương mại bình thường, mức giá của một loại sản phẩm trên 1 thị trường là như nhau trong khi chi phí sản xuất ra sản phẩm lại thấp hơn các đối thủ, như vậy doanh thu của doanh nghiệp tăng lên, từ đó doanh nghiệp có điều kiện đầu tư khoa học công nghệ tăng cường sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chi phí vận chuyển cũng là một nhân tố tác động tới giá cả hàng hóa, chi phí vận chuyển cao làm tăng giá thành sản phẩm, chi phí thấp, giá cả hàng hóa sẽ thấp. 1.1.3.3.Yếu tố sản phẩm Sản phẩm là cái liên quan trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Do đặc tính của mỗi loại sản phẩm khác nhau nên thị trường xuất khẩu sản phẩm cũng khác nhau. Căn cứ vào những tính chất và điều kiện của sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn hình thức xuất khẩu phù hợp, như các sản phẩm rau quả, các loại hải sản tươi sống trước khi xuất khẩu phải qua khâu bảo quản sản phẩm… Những chi tiết kiểu dáng cũng như tính chất công dụng của cùng một loại sản phẩm có sự khác nhau ở từng thị trường tiêu dùng, trong đó giá cả và chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng lớn nhất tới quyết định mua hàng, nhưng sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế việc đánh giá một sản phẩm là khác nhau giữa các thị trường: thị trường EU đánh giá và lựa chọn sản phẩm dựa trên kiểu dáng mẫu mã tức là tính thẩm Hoa Kỳ sản phẩm, dựa trên thương hiệu của sản phẩm; trong khi đó thị trường Hoa Kỳ lại đánh giá sản phẩm trên góc độ giá cả và chất lượng , trong xu hướng tiêu dùng của mình, người Hoa Kỳ không quá đòi hỏi cầu kỳ, chỉ cần một chất lượng đảm bảo với giá cả hợp lý là có thể chính phục thị trường Hoa Kỳ… Như vậy yếu tố sản phẩm có ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.2.Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập KTQT Sau hơn 1 năm kể từ khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, ngày 11/7/1995, tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ thương mại, ngoại giao với Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng ghi nhận những nỗ lực không ngừng của cả hai quốc gia trong tiến trình cải thiện mối quan hệ phức tạp. Với chiến lược hướng mạnh vào xuất khẩu, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chính phủ Việt Nam đã chủ trương mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại trong đó Hoa Kỳ là thị trường trọng điểm. Quan hệ Việt Hoa Kỳ trong những năm qua được xây dựng trên tinh thần tự nguyện hợp tác hữu nghị, hai bên đều có nhu cầu hướng tới mối quan hệ hợp tác kinh tế, mở rộng xuất nhập khẩu các mặt hàng mang tính bổ sung lẫn nhau. Hoa Kỳ đang hướng tới Việt Nam như một thị trường đông dân đầy tiềm năng, một thị trường sản xuất hàng nông, thủy sản đầy tiềm năng của châu Á. Còn Việt Nam hướng tới thị trường Hoa Kỳ như một thị trường tiêu thụ khổng lồ có nền công nghệ kỹ thuật hiện đại và có nguồn vốn dồi dào vào bậc nhất thể giới. Có thể thấy tính quy mô của thị trường này qua bảng 1.1 dưới đây: Bảng 1.1.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ và xuất khẩu của Việt Nam trong một số mặt hàng Đơn vị: Triệu USD Nhóm hàng Tổng nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2005 Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 2005 % của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Hoa Kỳ Thủy sản 12.000 630 5,25 % Cà phê 2.775 150 5,405 % Dệt may 100.500 3.000 2,985 % Giày dép 17.830 717 4,021 % Đồ nội thất 24.300 684 2,815 % (Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ) Việt Nam đã và đang đạt được những bước phát triển qua trọng trên tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của mình, thực hiện đường lối tự do hóa thương mại trên cơ sở hợp tác đa phương. Việt Nam muốn làm bạn với các quốc gia trên thế giới, vì vậy trong mọi đường lối chính sách của mình, Đảng và Nhà nước luôn thể hiện tinh thần hòa bình hữu nghị, không chỉ trong văn hóa xã hội mà trên mọi mặt kinh tế. Nằm trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam không thể phát triển một cách cô lập đóng cửa với bên ngoài, chúng ta phải mở cửa, chủ động bắt tay hợp tác với nhiều nền kinh tế khác nhau, và thực tế là chúng ta đang thực hiện thành công quan chính sách đa dạng hóa các quan hệ kinh tế trên tinh thần hợp tác cùng có lợi. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) của Việt Nam diễn ra chủ động và tích cực với việc tham gia các tổ chức, các liên kết và các định chế KTQT ở nhiều cấp độ khác nhau: gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), gia nhập APEC (1998) và việc ký kết BTA là cơ sở cho việc gia nhập WTO năm 2006 – bước phát triển quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Gia nhập WTO, cơ hội xuất khẩu cho hàng hóa Việt Nam là rất lớn, chúng ta sẽ được cạnh tranh bình đẳng, thị trường tiêu thụ được mở rộng. Trong sân chơi thương mại toàn cầu đó, Hoa Kỳ là quốc gia có tầm ảnh hưởng lớn tới các chính sách thương mại quốc tế của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO, chúng ta sẽ được hưởng sự đãi ngộ như các quốc gia thành viên khác vì thế các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải biết khai thác mọi lợi thế để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của mình sang thị trường này, xuất khẩu sang Hoa Kỳ thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu sang các thị trường khác. Và phát triển quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ không chỉ đơn thuần là hợp tác kinh tế để khai thác lợi ích lẫn nhau, mà phát triển quan hệ thương mại là cơ sở đảm bảo cho phát triển các quan hệ trên mọi lĩnh vực khác nhau mà nhất là quan hệ đối ngoại giữa hai Chính phủ. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn rất coi trọng việc phát triển quan hệ mọi mặt với Hoa Kỳ vì lợi ích của nền kinh tế, lợi ích quốc gia của cả hai nước. 1.3.Kinh nghiệm của Trung Quốc trong đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ Năm 2006 đánh dấu việc Trung Quốc tròn 5 năm gia nhập WTO, đánh giá chung của các tập đoàn, các tổ chức quốc tế như WB hay IMF đối với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc trong những năm trước và cho tới thời điểm hiện tại đều rất tích cực với tốc độ tăng trưởng nhanh, hiệu suất cao và lạm phát thấp. Với tốc độ tăng trưởng 2 con số liên tục giúp Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trên thế giới. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu năm 2006 của Trung Quốc đạt 960 tỷ USD tăng 26,8% so với mức trung bình hàng năm, thặng dư thương mại đạt 150 tỷ USD và Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Trung Quốc (sau EU) với kim ngạch thương mại đạt 142,16 tỷ USD. Có thể nói không chỉ gia tăng về lượng xuất khẩu một cách nhanh chóng mà điểm cần nhấn mạnh trong xuất khẩu của Trung Quốc đó là cơ cấu xuất khẩu ngày một hoàn thiện hơn theo hướng xuất khẩu các sản phẩm máy móc điện tử và hàng công nghệ cao: trong 4 tháng đầu năm 2006, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu là 25,8% trong đó tăng trưởng của các mặt hà._.ng truyền thống như dệt may chỉ khoảng 24%, giày dép là 19% trong khi đó mức tăng của các ngành công nghiệp nặng và khoa học công nghệ cao lại khá nhiều (đồng hồ điện tử là 46%, xe ô tô và linh kiện tăng 43%…) trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Trung Quốc cũng đạt được những hiệu quả mà Việt Nam cần tham khảo. Trước hết là đối với ngành hàng dệt may. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào Hoa Kỳ không những lớn mà còn có tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2005 Trung Quốc xuất sang Hoa Kỳ khoảng 27 tỷ USD tăng 42,5% so với năm 2004 và chiếm khoảng 27% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may của Hoa Kỳ. Sức mạnh cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc là nhờ vào các nhân tố: chi phí lao động trên mỗi sản phẩm thấp do mức lương thấp và năng suất lao động cao; Trung Quốc có thể sản xuất vải, phụ kiện trang trí, bao bì và hầu hết các phụ kiện khác dùng để sản xuất hàng dệt may và các sản phẩm khác; Trung Quốc được giới chuyên môn đánh giá là một nơi tốt nhất về sản xuất quần áo và các sản phẩm dệt may khác với bất kỳ chất lượng nào hay với bất kỳ mức giá nào; Trung Quốc có thể cung cấp hàng dệt may với số lượng lớn trong thời gian ngắn, tạo tâm lý an tâm với người nhập khẩu. Là một ngành truyền thống, lợi thế Trung Quốc có một lực lượng lao động có kỷ luật và lành nghề, đây cũng là quốc gia tự đảm bảo được nhu cầu về sợi tổng hợp và tự nhiên. Ngành dệt may Trung Quốc là ngành đầu tiên sử dụng Internet để tiến hàng giao dịch trực tuyến. Một điểm nổi bật nữa là Trung Quốc hiện đang sử dụng có hiệu quả phương cách one – stop – shopping, theo đó các nhà máy kết nối với nhau, sử dụng nguyên liệu có sẵn để thực hiện tất cả các khâu: kéo sợi, dệt, nhuộm, cắt và may. Một kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu của Trung Quốc là giao hàng đúng hạn với chất lượng tốt, điều này có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của ngành dệt may và thực tế Trung Quốc luôn là người giao hàng đầu tiên và tốt nhất… Với những lợi thế vốn có cũng như những cố gắng nỗ lực của chính mình, Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu, một đối thủ cạnh tranh nặng ký mà không một ai muốn đối đối đầu. Qua những kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam có thể học tập ở cách thức sản xuất hiện đại, việc cung ứng sản phẩm đảm bảo một giá trị nội địa lớn, phương cách one – stop – shopping. Ngoài ra chúng ta cũng cần học hỏi cách làm sao đảm bảo chữ tín trong quan hệ thương mại quốc tế. Mặt hàng thứ hai mà Trung Quốc vẫn luôn đạt được sự tăng trưởng trong xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, đó là các sản phẩm gia dụng, nội thất. Trung Quốc là quốc gia xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất vào Hoa Kỳ, năm 2005 đạt 11,7 tỷ USD tăng 2 tỷ so với năm 2004 và chiếm 48% thị phần nhập khẩu mặt hàng này của Hoa Kỳ. Nguyên nhân của điều này là: giá thành của các sản phẩm của Trung Quốc ngày một thấp trong khi chất lượng lại ngày càng nâng cao; nhiều công ty nước ngoài thậm chí kể cả một số công ty hàng đầu của Hoa Kỳ đã di chuyển sản xuất sang Trung Quốc để tận dụng giá lao động rẻ làm tăng khả năng cung của nước này; chi phí vận tải thấp; quan hệ giữa nhà sản xuất ở Trung Quốc với các nhà bán lẻ của Hoa Kỳ ngày càng chặt chẽ. Với những phân tích trên, Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư sản xuất từ các nhà đầu tư nước ngoài mà nhất là nhà đầu tư Hoa Kỳ vào những ngành mà chúng ta có lợi thế, đồng thời cần gia tăng củng cố quan hệ với hệ thống bán lẻ của Hoa Kỳ, đây là cầu nối quan trọng cho hàng hóa Việt Nam đến được với người tiêu dùng. Đối với các mặt hàng công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, Trung Quốc cũng là nhà cung cấp lớn cho thị trường Hoa Kỳ. Hiện nay Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất hàng điện tử vào Hoa Kỳ, năm 2005 giá trị xuất khẩu của ngành này là 86,7 tỷ USD tăng 25,4% so với năm 2004 chiếm 28,5% tổng nhập khẩu hàng điện tử của Trung Quốc. Còn xuất khẩu máy tính và phụ kiện của Trung Quốc vào Hoa Kỳ cũng chiếm thị phần lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao nhất, năm 2005 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt khoảng 40,3 tỷ USD tăng 18,6 % so với năm 2004 chiếm 43% thị phần của Hoa Kỳ. Nguyên nhân chủ yếu của sự tăng trưởng xuất khẩu cao các mặt hàng này là do nhiều nhà sản xuất lớn trên thế giới đã chuyển vào đầu tư sản xuất tại Trung Quốc do giá nhân công rẻ. Việt Nam cũng là quốc gia có một đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, chi phí lao động của nước ta không cao vì thế chúng ta nên học hỏi kinh nghiệm của Trung Quốc để thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư sản xuất trong nước, mà trước hết cần phải xây dựng hệ thống các khu công nghệ cao, các khu chế xuất và hoàn thiện các chế tài tạo môi trường thuận lợi và tâm lý an toàn cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 2.1.Thị trường Hoa Kỳ 2.1.1.Những đặc điểm cơ bản của thị trường Hoa Kỳ Tên nước: Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ (The United State of America) Vị trí địa lý: Nằm ở Bắc Hoa Kỳ, phía đông là Bắc Đại Tây Dương, phía Tây là Bắc Thái Bình Dương, phía Bắc giáp với Canada và phía Nam giáp với Meehico. Diện tích: 9.629.091 km2 chiếm 6,2% diện tích toàn cầu trong đó diện tích đất liền là 9.158.960 km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2. Dân số Hoa Kỳ tính đến tháng 7/2005 là 295.734.134 người trong đó độ tuổi 0 – 14 chiếm 21%; có 66,4% dân số trong độ tuổi 15 – 64 và có 12,6% dân số ở độ tuổi trên 65. Tuổi thọ trung bình của người dân Hoa Kỳ là 77,4 tuổi trong đó nam trung bình là 75,5 tuổi và nữ là 80,2 tuổi. Đây là một quốc gia đa sắc tộc với người da trắng chiếm 77,1%; người da đen chiếm 12,9%; người châu Á chiếm 4,2% còn lại là thổ dân và các dân tộc khác. Có khoảng 30% dân số Hoa Kỳ hiện nay là người nhập cư và trung bình hàng năm có khoảng một triệu người nhập cư vào Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là quốc gia theo thể chế Cộng hòa Tổng thống, chế độ lưỡng viện (từ năm 1789). Hiện nay Hoa Kỳ có 50 bang, 1 quận (Washington DC – District of Columbia) và 13 lãnh thổ quốc đảo phụ thuộc khác. Thủ đô của Hoa Kỳ là Washington DC với diện tích 176 km2 và khoàng 600 nghìn dân. Các thành phố chính: New York, Los Angeles, Chicago, San Prancisco, Philadelphia và Boston. Người ta biết đến Hoa Kỳ là một quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh nhất, một nền kinh tế phát triển năng động với cơ cấu kinh tế: công nghiệp chiếm 18% GDP, 2% nông nghiệp và 80% là ngành dịch vụ. Mặc dù nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ nhưng quốc gia này lại đứng đầu thế giới về sản lượng ngũ cốc, nông nghiệp đã có những thay đổi nhanh chóng và giữ vị trí bất biến trong đời sống hàng ngày, các sản phẩm nông nghiệp, lương thực thực phẩm của quốc gia này được sản xuất rất an toàn, phong phú và giá cả phù hợp. Với ngành công nghiệp, Hoa Kỳ là quốc gia phát triển hàng đầu thế giới về những sản phẩm tiên tiến và có tính cạnh tranh cao. Lợi thế của Hoa Kỳ là có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú như than đá, đồng chì…đã khiến cho trong giai đoạn những năm 1880 và 1900, thậm chí tới tận ngày nay Hoa Kỳ vẫn nổi lên là một quốc gia phát triển mạnh về công nghiệp với các ngành chủ chốt là sản xuất thép, xe hơi, cơ khí điện và điện tử, ô tô, hàng không, viễn thông, chế biến thực phẩm, hóa chất…trong đó riêng ngành công nghiệp chế tạo chiếm trên 80% giá trị toàn ngành. 2.1.1.1.Hoa Kỳ là thị trường có tính mở cao Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong trong việc ủng hộ tự do hóa thương mại vì vậy các quy chế xuất nhập khẩu mà quốc gia này đã và đang áp dụng đều phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của WTO, đây là quốc gia nhập khẩu với khối lượng lớn các mặt hàng có hàm lượng lao động cao: dệt may, giày dép…trong đó có nhiều mặt hàng tiêu dùng thông thường mà Hoa Kỳ hầu như không sản xuất. Một thực tế là sự phát triển của nền kinh tế Hoa Kỳ đã liên tục đóng góp cho sự phát triển toàn cầu nhờ duy trì chính sách mở cửa thị trường. Thông qua chính sách mở cửa của mình, các nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng Hoa Kỳ có thể tiếp cận với hàng hóa dịch vụ từ nước ngoài với những điều kiện ưu đãi nhất. Trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế, Hoa Kỳ luôn chủ trương đặt hệ thống thương mại đa phương vào trung tâm của các quan hệ thương mại quốc tế của mình, luôn có xu hướng mở cửa thị trường một cách cao độ thông qua các cuộc đàm phán từ song phương cho tới khu vực để đạt tới một chiến lược tự do hóa thương mại mang lại nhiều lợi ích quốc gia nhất. Tính mở của thị trường còn được thể hiện ở nhu cầu thị hiếu cũng như những yêu cầu trong tiêu dùng của người Hoa Kỳ không quá khắt khe, nhu cầu tiêu dùng nhiều nhưng họ không quá kỹ tính như những người tiêu dùng châu Âu hay Nhật Bản. Mặt khác, là đất nước đa sắc tộc, các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng có sự phân hóa nhất định vì vậy nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp khác nhau thì cũng khác nhau, hàng hóa bán trên thị trường Hoa Kỳ cũng sẽ đa dạng phong phú hơn cả về chủng loại lẫn chất lượng. Sức tiêu thụ hàng hóa trên thị trường Hoa Kỳ là vô cùng hấp dẫn với bất kỳ nhà xuất khẩu nước ngoài nào. Theo một khảo sát mới đây thì bình quân một năm, một người phụ nữ Hoa Kỳ mua khoảng 54 bộ quần áo và 6 đôi giày, và người tiêu dùng chủ yếu hiện nay là phụ nữ sau đó đến giới trẻ. Thị trường đồ gỗ cũng hấp dẫn không kém khi kim ngạch nhập khẩu gỗ, các sản phẩm gỗ và đồ nội thất là trên 40 tỷ USD/ năm, nhu cầu tiêu dùng đối với mặt hàng này hàng năm không ngừng tăng lên. Với mặt hàng thủy sản thì trung bình một người Hoa Kỳ tiêu dùng khoảng 16,3 pound/ người/ năm, tức là họ đã tiêu thụ khoảng 8 % tổng sản lượng thủy sản thế giới… Có thể thấy, những mặt hàng mà thị trường Hoa Kỳ có kim ngạch nhập khẩu lớn và có nhu cầu cao đều là những hàng hóa Việt Nam hoàn toàn có khả năng cung ứng tốt, điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội kinh doanh tại thị trường này. 2.1.1.2.Tính quy chuẩn và thống nhất cao độ đối với các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ Là thị trường rộng, sức mua lớn, nhu cầu đa dạng nhưng đồng thời cũng là thị trường có những quy định tương đối chặt chẽ đối với hàng hóa nhập khẩu. Thông thường, hàng hóa được các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhập về phải có khối lượng lớn, phải đảm bảo đúng quy chuẩn, đúng thời hạn và đặc biệt là không được phương hại đến lợi ích quốc gia cũng như lợi ích của các công ty nhập khẩu. Hàng hóa trước khi đưa vào phân phối đến tay người tiêu dùng đều phải được kiểm nghiệm chặt chẽ, chỉ khi đã đáp ứng được các chuẩn mực nhất định mới được phép đưa vào lưu thông tới người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra, trong quá trình nhập khẩu hàng hóa vào thị trường nội địa, Hoa Kỳ cũng đưa ra những quy định chung về cách tính trị giá hải quan, về nội dung hình thức của một hóa đơn thương mại đặc biệt vấn đề xuất xứ sản phẩm rất được coi trọng. Mức thuế nhập khẩu được áp dụng khác nhau cho các hàng hóa đến từ các nhóm nước khác nhau và một số mặt hàng còn chịu sự quản lý bằng hạn ngạch phân bổ theo quốc gia do đó việc xác định được xuất xứ hàng hóa là hết sức quan trọng. 2.1.1.3.Thị trường Hoa Kỳ có hệ thống phân phối thống nhất và ổn định Do đặc tính là thị trường lớn, thị hiếu tiêu dùng đa dạng nên việc cung ứng các loại hàng hóa tới người tiêu dùng cũng phải có quy mô tương ứng. Thực tế đã cho thấy hệ thống phân phối hàng hóa ở Hoa Kỳ phát triển ở trình độ cao và có một tổ chức hoàn chỉnh. Tại Hoa Kỳ hiện nay có nhiều loại công ty lớn, vừa và nhỏ sử dụng các kênh phân phối sản phẩm khác nhau. Các công ty lớn thường có hệ thống phân phối riêng và tự mình thực hiện các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu. Còn đối với các công ty vừa và nhỏ thì vận động xung quanh hệ thống thị trường và được sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Các công ty vừa và nhỏ của Hoa Kỳ tiến hành nhập khẩu hàng hóa về và bán tại thị trường trong nước thông qua nhiều cách khác nhau: bán cho các cửa hàng bán lẻ, bán cho các nhà phân phối, tiến hành bán lẻ trực tiếp…Khi nói tới các kênh phân phối trên thị trường Hoa Kỳ không thể không nhắc tới vai trò của hệ thống bán lẻ. Hiện nay Hoa Kỳ có trên 1 triệu doanh nghiệp bán lẻ chiếm khoảng 11,7% tổng số việc làm tại Hoa Kỳ, riêng trong ngành may mặc đã có hàng trăm cửa hàng bán lẻ quần áo với doanh thu khoảng 93 tỷ USD/ năm. Với mặt hàng thủy sản, việc cung ứng cũng rất tiện lợi với hệ thống các nhà hàng, hệ thống cung cấp cho các cơ sở ăn uống công cộng như trường học, hộ gia đinh; hệ thống bán lẻ là các chuỗi siêu thị, các cửa hàng bán lẻ, các chợ, các cửa hàng… 2.1.1.4.Hoa Kỳ là thị trường có cường độ cạnh tranh cao Như đã biết, nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ hàng năm là lớn nhất thế giới, đây là cái đích hướng tới của nhiều nhà xuất khẩu. Do đó trên thị trường này luôn có mặt của rất nhiều nhà cung cấp lớn nhỏ từ khắp nơi trên thế giới, đó chính là nguyên nhân cơ bản của sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà xuất khẩu với nhau, giữa nhà xuất khẩu với nhà sản xuất nội địa, và trong những chiến lược cạnh tranh đó, giá cả và chất lượng là hai yếu tố cơ bản nhất giữ vai trò quan trọng cần được các doanh nghiệp xuất khẩu lưu tâm. Trong hai yếu tố đó, giá cả đôi khi có sức cạnh tranh hơn so với chất lượng sản phẩm bởi người tiêu dùng Hoa Kỳ thường không muốn trả tiền theo giá niêm yết, hàng hóa bán tại trị trường Hoa Kỳ phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng, số lượng và chất lượng của những dịch vụ này có ý nghĩa quan trọng trong sự lựa chọn mua hàng của họ. Nắm được đặc điểm này mà các doanh nghiệp thường tập trung cao vào phục vụ tốt các dịch vụ sau bán hàng cũng như tìm cách để hạ thấp giá thành sản phẩm đến mức tối thiểu có thể. Các nhà kinh doanh tại thị trường Hoa Kỳ phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt và cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn. 2.1.1.5.Vai trò của các Hiệp hội kinh doanh và hệ thống tư vấn rất được đề cao Mặc dù là thị trường có tính mở khá cao nhưng trên thực tế các chính sách thương mại của quốc gia này vẫn mang xu hướng bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong nước tương đối chặt chẽ và nghiêm ngặt. Điều này được thể hiện ở một số lượng lớn các Hiệp hội, các tổ chức của các nhà kinh doanh giữ vai trò hướng dẫn, phối hợp hoạt động và bảo vệ lợi ích các doanh nghiệp trong nước trước sự thâm nhập mạnh mẽ của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này vừa tạo ra những thách thức và những cơ hội mà nếu doanh nghiệp nước ngoài khai thác được thì sẽ có được một sự đảm bảo vững chắc cho xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Hoa Kỳ là: thông qua thiết lập mối quan hệ tốt đẹp bình đẳng với các tổ chức Hiệp hội ngành hàng của Hoa Kỳ, nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ có thể dễ dàng tìm cho mình những đối tác làm ăn là các doanh nghiệp nội địa phù hợp nhất từ đó thiết lập quan hệ thương mại, cơ sở cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đây là cách tiếp cận thị trường hiệu quả cao và đảm bảo được sự tin cậy. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ vốn phức tạp nên để có thể hiểu được những vấn đề liên quan đến pháp luật cũng như có một sự đảm bảo pháp lý vững chắc cho hoạt động kinh doanh của mình, nhà xuất khẩu thường lựa chọn cho mình những cố vấn luật pháp riêng. Các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ rất đề cao vai trò của các dịch vụ tư vấn đặc biệt là dịch vụ tư vấn luật, họ rất sợ trong hợp đồng của mình có bất cứ điều gì không rõ ràng hay không đúng với quy định của pháp luật, và họ cũng muốn các đối tác làm ăn của mình nắm vững cơ sở pháp lý cho các điều khoản hợp đồng. Các nhà xuất khẩu, doanh nghiệp nước ngoài luôn cần phải có sự hỗ trợ của các loại hình dịch vụ này cho quá trình hoạt động của mình trong quan hệ làm ăn với thương nhân Hoa Kỳ, tuy nhiên cũng cần phải tính toán cụ thể vì giá của những dịch vụ này tại Hoa Kỳ là tương đối cao. Với người Hoa Kỳ, “thời gian là tiền bạc”, họ cũng coi thời gian là một loại hàng hóa như tất cả các loại hàng hóa khác, người Hoa Kỳ tiết kiệm thời gian như tiết kiệm tiền bạc đặc biệt là những người làm dịch vụ tư vấn, luật sư…thường tính phí hoặc tiền công dựa trên số giờ làm việc với khách hàng. Vì vậy, các nhà kinh doanh nước ngoài khi cần phải sử dụng các dịch vụ này phải hết sức lưu ý: chuẩn bị đầy đủ và chu đáo mọi câu hỏi cần giải đáp cũng như nội dung cần tư vấn để đi thẳng vào vấn đề, tiết kiệm tối đa thời gian sử dụng các dịch vụ này. Cũng chính vì tiết kiệm thời gian mà các nhà kinh doanh Hoa Kỳ không có nhiều thời gian cho những câu chuyện rông dài hoặc đọc những bức thư dài hoặc phải chờ đợi sự trả lời chậm trễ. Do đó, các bức thư chào hàng hoặc giao dịch trước hết phải đảm bảo được sự ngắn gọn súc tích thu hút được sự chú ý của đối tác, nội dung phải rõ ràng và trả lời thẳng vào vấn đề mà đối tác quan tâm. Sự chậm trễ trả lời các thư hỏi hàng sẽ làm mất cơ hội kinh doanh. 2.1.2.Rào cản thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ Là một quốc gia theo thể chế Cộng hòa Liên bang do đó ngoài hệ thống pháp luật liên bang thì mỗi bang đều có hệ thống pháp luật riêng nhưng không được trái với Hiến pháp chung của quốc gia, trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa luật liên bang, luật của bang hoặc luật địa phương thì luật liên bang sẽ có hiệu lực. Tất cả các bang của Hoa Kỳ (trừ bang Luoisiana theo hệ thống Luật châu Âu) đều theo hệ thống Luật Anh – Hoa Kỳ. Theo hệ thống Luật pháp này thì những giải thích luật của Tòa án sẽ trở thành luật áp dụng trong các trường hợp sau và tương tự do đó với các nhà xuất khẩu nước ngoài khi tìm hiểu luật pháp Hoa Kỳ cũng cần phải nghiên cứu tìm hiểu các phán quyết của Tòa án. Hệ thống luật pháp Hoa Kỳ phức tạp nhưng về cơ bản nó bao gồm: Thứ nhất, Luật bồi thường thương mại được sử dụng với mục đích chống lại sự cạnh tranh không công bằng của hàng nhập khẩu với hàng hóa được sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp trong nước. Luật bồi thường thương mại bao gồm 2 phân nhánh là Luật chống trợ giá và Luật chống bán phá giá. Thứ hai, Luật hạn chế nhập khẩu bao gồm: Hạn chế nhập khẩu nông sản và hàng dệt; Hiệp định đa sợi/ Hiệp định hàng dệt may; Nông nghiệp và Luật thực hiện các Hiệp định vòng đàm phán Urugoay; Hạn ngạch thuế quan đối với sản phẩm đường; Hạn ngạch thuế quan đối với thịt; và Luật cấm nhập khẩu một số loại rau quả nếu không đáp ứng được phẩm cấp tiêu thụ Thứ ba, các điều Luật hạn chế nhập khẩu căn cứ theo các Luật môi trường: Luật bảo vệ động vật biển có vú 1972 (MMPA); Luật thực thi lệnh cấm đánh cá ngoài khơi xa bờ bằng lưới quét; Luật bảo tồn chim rừng năm 1992… Thứ tư, Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm Thứ năm, Luật bảo vệ người tiêu dùng bao gồm: Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng; Luật liên bang về các chất nguy hiểm; Luật về vải dễ cháy; Luật về an toàn tủ lạnh gia đình; Luật về đóng gói phòng ngộ độc. 2.1.2.1.Hệ thống thuế và biểu thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ Biểu thuế nhập khẩu (biểu thuế quan) HTS hiện hành của Hoa Kỳ được ban hành trong Luật thương mại và cạnh tranh Omnibus năm 1988 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1989. Hệ thống thuế quan của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan HS của Hội đồng Hợp tác Hải quan – một tổ chức liên Chính phủ có trụ sở tại Bruxen. Theo biểu thuế này thì mức thuế với các hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ có thể thay đổi và được công bố hàng năm. Các loại thuế Mặc dù có rất nhiều loại thuế khác nhau được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ nhưng về cơ bản hiện nay quốc gia này đang áp dụng các loại thuế sau, cách phân chia này được dựa trên phương thức tính thuế: Thứ nhất, thuế theo giá trị. Đây là thuế được đánh theo tỷ lệ trên giá trị, tức là bằng một tỷ lệ % trị giá giao dịch của hàng hóa nhập khẩu. Thứ hai, thuế theo trọng lượng/ khối lượng. Loại thuế này được áp dụng chủ yếu cho hàng nông sản và hàng sơ chế, nó chiếm khoảng 12% số dòng thuế trong biểu thuế HTS của Hoa Kỳ. Thứ ba, thuế gộp. Thuế gộp được áp dụng cho hàng nông sản, theo cách tính thuế này hàng hóa nhập khẩu sẽ phải chịu gộp cả thuế theo giá trị và thuế theo số lượng/ khối lượng. Thứ tư, thuế theo hạn ngạch. Hàng hóa nằm trong phạm vi hạn ngạch cho phép sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn, còn đối với những hàng hóa nhập khẩu vượt quá hạn ngạch sẽ phải chịu mức thuế cao hơn và có nhiều trường hợp còn bị trừng phạt bằng biện pháp cấm nhập khẩu. Thuế này áp dụng với các sản phẩm thịt bò, sản phẩm sữa, đường, các sản phẩm đường. Thứ năm, thuế theo thời vụ. Theo những quy định của loại thuế này thì mức thuế đối với một loại nông sản có thể thay đổi tùy theo thời điểm nhập khẩu vào Hoa Kỳ do đó nó áp dụng chủ yếu cho các loại nông sản có tính chất mùa vụ. Thứ sáu, thuế leo thang. Thuế leo thang được tính trên cơ sở mức độ chế biến của sản phẩm, các mặt hàng có tỷ lệ chế biến cao thì thuế suất nhập khẩu càng cao. Loại thuế này còn được gọi là thuế lũy tiến: thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm thô là rất thấp trong khi thuế đối với sản phẩm chế biến là rất cao. Chính vì vậy mà thuế leo thang được sử dụng với mục đích khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế thay vì nhập khẩu thành phẩm. Các mức thuế Theo một cách phân chia khác, trong từng loại thuế, hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ còn được điều chỉnh theo các mức thuế suất khác nhau mà cơ sở để điều chỉnh được dựa trên nguồn gốc của sản phẩm: Thứ nhất, mức thuế tối huệ quốc (MFN) hay còn được gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường (NTR). Mức thuế này được áp dụng cho các nước thành viên WTO và những nước tuy chưa phải là thành viên WTO nhưng đã ký Hiệp định thương mại song phương. Theo quy định của Hoa Kỳ, mức thuế MFN nằm trong phạm vi giới hạn từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng đều chịu mức thuế từ 2% - 7% và theo giá trị bình quân là khoảng 4%. Thứ hai, mức thuế phi tối huệ quốc (Non – MFN) được áp dụng với những quốc gia chưa phải là thành viên của WTO và chưa ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, mức thuế suất nằm trong khoảng 20% - 110%. Thứ ba, mức thuế áp dụng với khu vực mậu dịch tự do NAFTA: hàng hóa được nhập khẩu từ Mexico và Canada sẽ được miễn thuế nhập khẩu hoặc được hưởng mức thuế suất ưu đãi thấp hơn mức thuế MFN. Thứ tư, chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP): Một số hàng hóa xuất khẩu từ một số quốc gia đang phát triển được Hoa Kỳ cho hưởng GSP sẽ được miễn thuế nhập khẩu. Hiện nay có khoảng 3500 sản phẩm từ trên 140 quốc gia và vùng lãnh thổ được hưởng ưu đãi này, trong đó có Việt Nam. Những hàng hóa được hưởng GSP là những sản phẩm công nghiệp và bán công nghiệp, một số mặt hàng nông thủy sản và các nguyên liệu công nghiệp. Chương trình GSP của Hoa Kỳ thực sự được thực hiện từ ngày 01/01/1976 với thời hạn ban đầu là 10 năm. Từ đó đến nay, chương trình này đã được gia hạn nhiều lần cùng với một số sửa đổi. Thứ năm, sáng kiến khu vực lòng chảo Caribe (CBI) quy định rằng tổng thống có quyền đơn phương dành ưu đãi thương mại cho hàng nhập khẩu từ các nước và lãnh thổ nằm trong khu vực lòng chảo Caribe. Hiện nay có 24 quốc gia và vùng lãnh thổ được hưởng lợi của CBI theo đó hàng hóa xuất khẩu từ các quốc gia này vào Hoa Kỳ không bị hạn chế về số lượng và được miễn thuế. Thứ sáu, các Hiệp định thương mại tự do song phương. Theo thỏa thuận trong các hiệp định này thì hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ nằm trong phạm vi Hiệp định giữa Hoa Kỳ và một quốc gia nào đó sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn mức thuế MFN. Thứ bảy, các ưu đãi thuế quan khác. Đây là những ưu đãi đối với các loại hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ thuộc diện hưởng lợi của Luật Thương mại các sản phẩm ô tô, Hiệp định Thương mại máy bay dân dụng, Hiệp định thương mại các sản phẩm Dược và những cam kết giảm thuế của vòng Uruguay đối với hóa chất nguyên liệu trực tiếp của thuốc nhuộm. Đối với các mặt hàng kim loại chế biến ở nước ngoài từ kim loại mua của Hoa Kỳ khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ được miễn thuế nhập khẩu đối với phần giá trị mua của Hoa Kỳ. Với hàng lắp ráp từ các bộ phận mua của Hoa Kỳ khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ được miễn thuế nhập khẩu đối với phần trị giá mua của Hoa Kỳ. 2.1.2.2.Hàng rào phi thuế quan Hệ thống rào cản phi thuế quan trong thương mại cũng như các rào cản kỹ thuật là công cụ phổ biến được Hoa Kỳ sử dụng để bảo vệ thị trường nội địa trước hàng hóa nhập khẩu nhưng quan trọng là bảo vệ các doanh nghiệp, bảo hộ nền sản xuất trong nước. Các biện pháp cản trở phi thuế quan được Hoa Kỳ sử dụng trong quản lý hoạt động nhập khẩu: Quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm Bất cứ hàng hóa nào khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải đảm bảo các tiêu chuẩn giống như các sản phẩm nội địa cùng loại. Nhà nhập khẩu và chế biến đều phải tuân theo các quy định trong Bộ luật Liên bang Hoa Kỳ (CFR) để đảm bảo rằng sản phẩm đó không có độc tố, an toàn trong sử dụng và được sản xuất trong điều kiện vệ sinh. Cũng theo Bộ luật này quy định từ ngày 18/12/1997, chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài đã thực hiện kế hoạch HACCP có hiệu quả mới được đưa hàng hóa vào Hoa Kỳ. HACCP là kế hoạch quản lý chất lượng theo cách tiếp cận mang tính phòng ngừa nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng thực phẩm thông qua việc phân tích mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm soát tại các điểm kiểm soát tới hạn. Kế hoạch HACCP nhấn mạnh vai trò của nhà sản xuất, thường xuyên ngăn ngừa và xử lý kịp thời những mối nguy có thể xâm nhập vào sản phẩm từ khâu nguyên liệu tới sản phẩm cuối cùng. HACCP yêu cầu phải phân tích, kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất tại các điểm kiểm soát trong suốt quá trình để đảm bảo sản phẩm an toàn, vệ sinh. US FDA là cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ có quyền kiểm tra chương trình HACCP. Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa muốn xuất hàng sang Hoa Kỳ cần phải lập kế hoạch HACCP cho sản phẩm xuất khẩu của mình và gửi cho cơ quan FDA trước mỗi chuyến hàng thông qua nhà nhập khẩu. Một điều cần lưu ý đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là để đảm bảo đúng tiêu chuẩn HACCP thì nhà sản xuất phải có cơ sở sản xuất theo các quy chuẩn về an toàn vệ sinh phổ biến trên thế giới như GMP hay SSOP. Tiêu chuẩn HACCP được áp dụng các thực phẩm đóng hộp, dược phẩm và hóa Hoa Kỳ phẩm. Quy định về trách nhiệm xã hội Với mỗi sản phẩm được nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải chứng minh được sản phẩm đó không vi phạm các quy định về trách nhiệm xã hội trong SA8000, đó là: Không được sử dụng lao động trẻ em (vị thành niên) Không được sử dụng lao động khi không đảm bảo các điều kiện sức khỏe cho người lao động Tôn trọng quyền tự do hiệp hội và quyền thỏa ước tập thể Không phân biệt đối xử lao động về: tuyển dụng, lương bổng, đào tạo… Không áp dụng hình phạt thể xác, tinh thần, không vi phạm tiêu chuẩn làm việc Đảm bảo tiền lương và thời gian làm việc theo quy định của pháp luật Bảo đảm an toàn lao động và đền bù cho lao động khi xảy ra tai nạn… Quy định về nhãn mác sản phẩm Luật pháp Hoa Kỳ quy định các nhãn hiệu hàng hóa phải được đăng ký tại Cục Hải quan Hoa Kỳ. Đạo luật về nhãn hiệu năm 1946 cấm nhập khẩu những sản phẩm làm nhái theo những thương hiệu đã được đăng ký tại Hoa Kỳ, hoặc những nhãn hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn. Với những hàng hóa nhập khẩu không đáp ứng được yêu cầu về ghi mác sẽ bị giữ ở khu vực hải quan Hoa Kỳ cho tới khi người nhập khẩu hoàn tất thủ tục để tái xuất trở lại hoặc phá hủy. Nếu nhãn hàng hóa có ghi bằng tiếng nước ngoài thì trên nhãn đó bắt buộc phải ghi cả bằng tiếng anh tất cả những thông tin theo quy định đặc biệt là tên nước xuất xứ. Với tên nước xuất xứ, Luật hải quan của Hoa Kỳ quy định mọi hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải ghi vào một vị trí dễ thấy, bằng cách không thể phai mờ và tùy theo bản chất hàng hóa cho phép, tên nước xuất xứ phải ghi bằng tiếng anh – trừ một số mặt hàng theo danh sách riêng được miễn ghi tên nước xuất xứ…Tất cả những quy định chi tiết về ghi nhãn mác sản phẩm đều tuân theo điều Luật 21CFR – 101. d) Quy định về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm Trong điều Luật 21CFR 103 – 169 đã nêu chi tiết các tiêu chuẩn thực phẩm của FDA. Tiêu chuẩn về nhận diện sản phẩm định nghĩa các loại thực phẩm, xác định tên gọi, các thành phần và các yêu cầu về nhãn mác. Còn tiêu chuẩn về chất lượng là các tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng trên mức yêu cầu theo luật FDCA…Một cách khái quát, các sản phẩm hàng hóa khi muốn được chấp nhận tại thị trường Hoa Kỳ thì trước hết phải đáp ứng được các yêu cầu tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ đưa ra. Ngoài các quy định tiêu chuẩn cơ bản, luật pháp Hoa Kỳ còn đưa ra những quy định về kiểm dịch hàng hóa nhập khẩu, quy định về truy xuất nguồn gốc sản phẩm…Với những kiểm soát chặt chẽ mọi mặt như thế buộc nhà xuất khẩu nước ngoài phải nghiên cứu rất kỹ và tuyệt đối nghiêm chỉnh chấp hành. 2.2.Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được chính thức thiết lập với một thời gian ngắn, tuy nhiên nền tảng của quan hệ thương mại hiện tại mới là quan hệ buôn bán hàng hóa giữa hai quốc gia đã tồn tại từ lâu – vào khoảng thế kỷ XIX – khi các tàu buôn của Hoa Kỳ đưa hàng vào bán tại Việt Nam, đó là các mặt hàng dầu hỏa và đèn thắp bằng dầu hỏa (đèn Hoa Kỳ). Cho đến sau Cách mạng tháng 8 và trong cả thời kỳ kháng chiến chống Pháp, thông qua con đường viện trợ và cung ứng của Hoa Kỳ cho thực dân Pháp mà hàng hóa của Hoa Kỳ đã được tiêu dùng rất nhiều bao gồm cả quân dụng và dân dụng, hàng tiêu dùng, vũ khí và các phương tiện chiến tranh khác. Năm 1954, sau Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc được giải phóng, Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến tại miền Nam Việt Nam, theo đó, Hoa Kỳ thực hiện viện trợ hàng hóa cho ngụy quyền chính vì thế trong giai đoạn này có khoảng 90% hàng hóa lưu thông ở miền Nam là hàng hóa Hoa Kỳ. Sau ngày 30/04/1975, Hoa Kỳ đã chấm dứt quan hệ mọi mặt với Việt Nam, thực hiện cấm vận kinh tế và cô lập nước ta kéo dài gần 20 năm. Trong thời gian này, mặc dù Chính phủ Hoa Kỳ ngăn cản quan hệ thương mại giữa hai nước nhưng trên thực tế hàng hóa của Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn được lưu thông với nhau một cách không chính thức thông qua các cầu nối trung gian. Năm 1990 kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ là 0,61 triệu USD, đến năm 1993 là 4 triệu USD Đến năm 1993, sau gần 20 năm cấm vận, tổng thống B.Clinton tuyên bố bắt đầu thực hiện lộ trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam với các dấu mốc quan trọng: Ngày 3/2/1994 Chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam Ngày 11/7/1995 Hoa Kỳ tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, quan hệ ngoại giao giữa hai n._.ấp nhất những tác động tiêu cực của khó khăn trở ngại, bản thân mỗi doanh nghiệp phải tự mình và dưới sự chỉ đạo của các cơ quan Nhà nước tạo ra những chương trình hành động cụ thể, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp cũng là của nền kinh tế là tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ hiệu quả nhất. 3.3.1.Giải pháp từ phía Nhà nước Trong mọi trường hợp, vai trò của các chính sách của Nhà nước là phải luôn đảm bảo vai trò định hướng, kim chỉ nam hướng dẫn mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chiến lược của toàn nền kinh tế là khung pháp lý cho các chính sách và chiến lược hoạt động của công ty vì thế nó phải luôn đảm bảo nguyên tắc toàn diện, thống nhất và khoa học nhất. 3.3.1.1.Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu Bên cạnh việc đa dạng hoá các công cụ để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, Nhà nước vẫn cần phải ưu tiên cho việc hoàn thiện những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu truyền thống được sử dụng từ trước: Thứ nhất, tiếp tục hoàn chỉnh và bổ sung danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Với những mặt hàng mà Việt Nam đã xuất khẩu với số lượng lớn từ trước như dệt may, giày dép, đồ gỗ, rau quả… Nhà nước tiếp tục đưa ra các cơ chế chính sách để gia tăng lượng và chất, đồng thời trong mỗi mặt hàng truyền thống đó cần tìm ra và khuyến khích mở rộng chủng loại sản phẩm xuất khẩu như với hàng dệt may sẽ xuất khẩu thêm các mặt hàng như quần áo trẻ em, sơ mi nữ bên cạnh những chủng loại truyền thống là sơ mi nam, quần dài… Với ngành hàng xuất khẩu cũng cần mở rộng các mặt hàng chủ lực như cà phê, hạt điều, các sản phẩm điện tử... Nếu chúng ta thực hiện được việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu chủ lực sẽ tránh được việc quá tập trung phát triển một số mặt hàng nhất định, phát triển không đồng đều. Điều này đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp Hoa Kỳ gây khó khăn cho xuất khẩu một mặt hàng nào đó của Việt Nam sẽ làm ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế. Thứ hai, vấn đề gia công xuất khẩu cần được quản lý hiệu quả hơn. Các sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng may mặc và giày dép khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là các sản phẩm gia công cho các đơn đặt hàng từ doanh nghiệp Hoa Kỳ. Mặc dù trên thực tế nếu xuất khẩu hàng hoá thông qua hình thức gia công thì hàng hoá của ta có thể dễ dàng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ hơn, nhưng nếu chỉ xuất khẩu gia công thì người tiêu dùng không thể biết được hàng hoá đó được sản xuất tại Việt Nam, như thế vô tình chính các doanh nghiệp Việt Nam đã giúp doanh nghiệp nước ngoài quảng bá tên tuổi của họ. Chính vì vậy, giảm tỷ lệ xuất khẩu gia công là việc cần phải làm, Nhà nước thực hiện hướng dẫn doanh nghiệp nghiên cứu tìm kiếm đối tác để thực hiện xuất khẩu trực tiếp sản phẩm, áp dụng các hình thức khuyến khích xuất khẩu như hỗ trợ cho các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam được người tiêu dùng Hoa Kỳ tin dùng, bình chọn đối với các thương hiệu hàng hoá Việt Nam, có những ưu tiên cho doanh nghiệp lần đầu xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ mang nhãn hiệu hàng hoá Việt Nam nhưng đạt kim ngạch lớn, áp dụng các hình thức hỗ trợ cho doanh nghiệp có nhiều mặt hàng được thị trường Hoa Kỳ tiêu dung… tuy nhiên tất cả các hình thức hỗ trợ này phải đảm bảo phù hợp với nguyên tắc thương mại của WTO. Đối với mặt hàng nông sản, tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thô của Việt Nam còn cao, cũng giống như hàng dệt may, Nhà nước đưa ra những biện pháp để tăng tỷ lệ chế biến trên một đơn vị sản phẩm, phát triển công nghiệp chế biến là cách để nâng cao giá trị sản phẩm. Những biện pháp mà Nhà nước có thể áp dụng: quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung với quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu, đầu tư nhiều hơn vào phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần vùng nguyên liệu, thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa bên sản xuất nguyên liệu và bên nhận chế biến nguyên liệu… Nhà nước có thể khuyến khích việc đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đặc biệt là ưu tiên cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp này phát triển. Thứ ba, tăng cường đầu tư cho xuất khẩu. Đầu tư cho xuất khẩu được hiểu là Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất các sản phẩm xuất khẩu thông qua: đầu tư vào mặt tài chính (chủ yếu là thuế), đầu tư tạo nguồn vốn sản xuất, đầu tư tín dụng, đầu tư vào các khu công nghệ cao, khu chế xuất…Với chính sách tín dụng tạo nguồn vốn, các ngân hàng cho vay thực hiện những ưu đãi với các doanh nghiệp vay vốn phục vụ các hoạt động liên quan đến xuất khẩu hàng hoá như vay với lãi suất phù hợp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu đặc biệt là những mặt hàng nằm trong danh mục ưu tiên xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, cơ sở để đưa ra mức lãi suất ưu đãi có thể căn cứ vào tỷ lệ doanh thu/ tổng kim ngach xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường Hoa Kỳ, hoặc ngân hàng có thể đưa ra một ngưỡng mà doanh nghiệp được hưởng lãi suất vay ưu đãi khi xuất khẩu có hiệu quả. 3.3.1.2.Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Giá cả và chất lượng là hai nhân tố cạnh tranh cơ bản và quan trọng đối với bất kỳ mặt hàng nào xuất hiện tại thị trường Hoa Kỳ do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, vấn đề cần quan tâm nhất đó là làm sao hạ thấp giá thành sản phẩm và đưa chất lượng sản phẩm lên cao hơn. Với cả hai vấn đề này, Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ gián tiếp cho doanh nghiệp thông qua việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như những điều kiện sản xuất khác: chuyên môn hóa sản xuất các mặt hàng xuất khẩu tại các khu công nghiệp và khu chế xuất; đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông từ vùng nguyên liệu đến nơi chế biến, từ nơi sản xuất đến nơi giao hàng… Một trở ngại lớn trong vận tải hàng hóa giữa hai nước là khoảng cách địa lý, trong thời gian tới, Chính phủ Việt Nam có thể đàm phán với Chính phủ Hoa Kỳ về việc thiết lập tuyến đường bay thẳng giữa hai quốc gia. Ngoài ra Nhà nước cũng cần xem xét giải pháp xây dựng hệ thống kho bãi bảo quản hàng hoá chờ vận tải để xuất khẩu, điều này đặc biệt cần thiết đối với các mặt hàng nông thuỷ hải sản vì nếu phải chờ đợi phương tiện trong một thời gian quá lâu sẽ làm sản phẩm bị hỏng hoặc chất lượng không đảm bảo theo yêu cầu của thị trường và khách hàng. Để thực hiện giải pháp này, Nhà nước có thể quy hoạch đầu tư xây dựng một số kho hàng miễn phí tại những địa bàn sản lượng thu hoạch nhiều mà chưa thể xuất khẩu được ngay, với những mặt hàng rau quả, thuỷ hải sản thì những kho hàng này đóng vai trò là nơi cất trữ bảo quản sản phẩm chờ xuất khẩu. Để tránh việc bị kiện phá giá hay bất cứ trở ngại nào liên quan đến hỗ trợ xuất khẩu từ phía thị trường Hoa Kỳ, trong thời gian đầu Nhà nước có thể cho doanh nghiệp sử dụng miễn phí những kho hàng này, nhưng sau một thời gian nhất định Nhà nước nên cho thuê với mức giá ưu đãi. Khi đưa ra những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, Nhà nước cần phải xác định được những vấn đề cốt lõi cơ bản, những nguyên nhân chủ yếu làm cho giá cả một số hàng hoá của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ lại cao hơn so với những sản phẩm cùng loại từ các quốc gia khác (chủ yếu là hàng công nghiệp chế biến) đó là: Giá nguyên liệu đầu vào cao do các mức thuế chưa hợp lý Thời gian giao hàng (chậm hơn các nước khác từ 5 -10 ngày) Cước phí vận tải (cao hơn 10%) mà nguyên nhân là do cước phí nội địa cao (cước 1 tấn gạo từ đồng bằng Sông Cửu Long đến cảng Sài Gòn là 4USD trong khi cước 1 tấn ngũ cốc từ bờ Tây Hoa Kỳ sang bờ đông châu Á chỉ có 10USD Cảng phí cao do sự độc quyền của một số hãng lớn Giá thuê đất cao cùng với thủ tục thuê đất phức tạp làm tăng chi phí cố định Mức lãi suất vay vốn bình quân cao kèm theo thủ tục vay rườm rà khiến cho nhiều doanh nghiệp không có hoặc không muốn vay vốn mở rộng sản xuất… Khi đã tìm được nguồn gốc của vấn đề, Nhà nước sẽ xem xét điều chỉnh những chính sách khắc phục những trở ngại trên từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ thấp chi phí sản xuất và giảm giá thành sản phẩm. 3.3.1.3.Tăng cường xúc tiến thương mại tại thị trường Hoa Kỳ Với vai trò của người dẫn đường, những chương trình xúc tiến thương mại của Chính phủ tại thị trường Hoa Kỳ cần thể hiện được định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc giải đáp thắc mắc của doanh nghiệp xung quanh cơ chế chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu, những thông tin về thị trường Hoa Kỳ: Thứ nhất, Chính phủ nhanh chóng hoàn thiện dự thảo Luật thương mại điện tử. Phát triển thương mại điện tử và hệ thống công nghệ thông tin là đòi hỏi tất yếu trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Trong chương trình phát triển công nghệ thông tin, vấn đề xây dựng và kiện toàn hệ thống mạng quốc tế, mạng nội bộ cũng như nâng cao chất lượng các webside của Chính phủ cần được quan tâm nhiều hơn. Thực tế là Chính phủ đã có những trang thông tin điện tử cho các chuyên ngành khác nhau, nhưng chất lượng của chúng cần được xem xét lại khi mà thông tin trong nhiều trang web không được cập nhập thường xuyên nhất là thông tin về các văn bản mới về xuất khẩu, thông tin về thị trường xuất khẩu chung chung… Vai trò kết nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước của các trang thông tin điện tử chưa phát huy được tác dụng. Vì thế vấn đề đặt ra đối với bộ phận chuyên môn về phát triển thương mại điện tử của Chính phủ là làm sao để công nghệ thông tin trở thành công cụ hữu hiệu giúp các nhà lãnh đạo kiểm soát các doanh nghiệp cũng như hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, còn với doanh nghiệp đây là cơ sở để mở rộng thị trường gia tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. Thứ hai, Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá giới thiệu sản phẩm tại thị trường Hoa Kỳ thông qua các hội chợ triển lãm, thiết lập các kênh phân phối hiệu quả tại Hoa Kỳ. Các Bộ chủ quản của doanh nghiệp cung cấp những thông tin mới nhất về các hội trợ có uy tín tại Hoa Kỳ sẽ diễn ra vào một thời điểm cụ thể, giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn về những quy định liên quan đến hoạt động hội chợ sắp diễn ra. Việc liên hệ đặt chỗ tại hội chợ mà nhất là những hội chợ có uy tín tại Hoa Kỳ rất khó, đôi khi tự doanh nghiệp không thể liên hệ được, khi đó các cơ quan chức năng có thể giúp doanh nghiệp đặt chỗ trước, tìm những gian hàng phù hợp, tránh đặt chỗ quá muôn vì như thế doanh nghiệp sẽ bị bố trí ở những khu vực không thuận lợi ít được chú ý, khó cho việc quảng bá các mặt hàng của doanh nghiệp. Các gian hàng trưng bày cần được sắp xếp tập trung vào một khu vực tránh sự dàn trải sẽ không gây được chú ý của người tham quan. Nguồn kinh phí Nhà nước cho hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại nên được dành một phần để quảng bá về sự có mặt của Việt Nam tại hội chợ và một trong những cách quảng bá hiệu quả là đăng tin, quảng cáo trên danh bạ hội chợ hoặc các tạp chí chuyên ngành gắn với hoạt động của hội chợ. Ngoài ra, để tham gia có hiệu quả, các cơ quan chức năng tham gia tư vấn cho doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp lần đầu tham gia hội chợ về cách thức lựa chọn hàng mẫu tham dự, cách thiết kế gian hàng sao cho phù hợp nhất, việc sử dụng catalogue, quà tặng hay các tài liệu liên quan… Thứ ba, củng cố và phát huy vai trò của cơ quan thương vụ tại Hoa Kỳ, đại diện của các hiệp hội ngành hàng. Cơ quan thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ đã được thành lập một thời gian nhưng hoạt động của cơ quan này chủ yếu là cung cấp các thông tin đơn thuần về thị trường cho doanh nghiệp trong khi chức năng liên kết thị trường chưa thực sự được chú trọng. Vì vậy, trong thời gian tới đây, cơ quan thương vụ cần phát huy vai trò cầu nối giữa các chủ thể kinh tế, thực hiện điều tiết các mối quan hệ. Với tư cách là đại diện các doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ, cơ quan thương vụ cần liên hệ thường xuyên với chính quyền địa phương cũng như các cơ quan chức năng của Hoa Kỳ để hiểu hơn về những quy định đối với từng mặt hàng nhập khẩu, từ đó truyền đạt lại cho doanh nghiệp trong nước nắm rõ, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đúng những quy định và quy trình xuất khẩu hàng hoá vào Hoa Kỳ. Với các cơ quan Nhà nước cấp cao, cơ quan thương vụ có trách nhiệm báo cáo những phân tích thị trường cũng như những thay đổi về chính sách của Chính phủ Hoa Kỳ vì vậy thông tin báo cáo phải đảm bảo tính khách quan xác thực làm cơ sở cho việc ra quyết định. Với các cơ quan chức năng của Hoa Kỳ thì cơ quan thương vụ Việt Nam là người truyền đạt những chủ trương chính sách, quan điểm cũng như đường lối về hoạt động thương mại cũng như mọi lĩnh vực khác của Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh hoạt động của cơ quan thương vụ cũng cần mở rộng thêm các cơ quan đại diện chức năng cho từng ngành hàng xuất khẩu, vừa hỗ trợ doanh nghiệp, vừa giúp cho cơ quan thương vụ nắm bắt được thị trường và đưa ra những dự báo kịp thời cho các quyết định quan trọng. 3.3.2.Giải pháp từ phía doanh nghiệp Bên cạnh sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, bản thân mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần phải xây dựng cho mình những bước đi cụ thể để gia tăng sản lượng xuất khẩu, thiết lập và phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác với các đối tác Hoa Kỳ thông qua: 3.3.2.1.Lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường thích hợp Có nhiều cách khác nhau để một doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường một quốc gia, tuy nhiên không phải cách thức nào cũng mang lại hiệu quả như mong đợi vì nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Với thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện theo phương châm chậm và chắc, việc tiếp cận phải tiến hành từng bước đảm bảo sự chắc chắn. Trước khi vào thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp phải có sẵn cho mình một chiến lược hoặc kế hoạch, doanh nghiệp phải giải đáp được các câu hỏi: doanh nghiệp bán sản phẩm nào tại Hoa Kỳ và khả năng sản xuất hiện tại của doanh nghiệp có đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ hiện tại và tương lai của thị trường này hay không? Trong kế hoạch phát triển thị trường của mình, doanh nghiệp phải tính tới các chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động. Thông thường có hai cách để tiếp cận thị trường Hoa Kỳ là bán hàng trực tiếp cho người mua hoặc bán hàng thông qua đại lý. Việc lựa chọn cách thức nào là tuỳ thuộc vào tiềm lực cũng như kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản trong điều kiện mới hiện nay, bên cạnh hai cách thức thâm nhập truyền thống, có thể tiếp cận thị trường theo cách thức thành lập công ty con tại thị trường Hoa Kỳ để trực tiếp nhập khẩu và tham gia vào hệ thống phân phối của thị trường này. Thông qua việc thành lập công ty con, doanh nghiệp Việt Nam vừa kiểm soát ổn định thị trường vừa có thể bình ổn giá cả sản phẩm xuất khẩu của mình, điều này đặc biệt có ý nghĩa với doanh nghiệp tại thị trường đầy cạnh tranh như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi lựa chọn cách thức này doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ trên cơ sở đánh giá đúng tiềm lực tài chính của mình, trong trường hợp không đủ khả năng đặt cọc cho việc thành lập, doanh nghiệp nên kêu gọi đầu tư hỗ trợ từ phía Chính phủ hoặc tìm kiếm các doanh nghiệp có điều kiện tương đồng và cùng định hướng chiến lược để tiến hành góp vốn thành lập mô hình công ty con cổ phần tại thị trường Hoa Kỳ. Khi đã lựa chọn được cách thức thâm nhập thị trường, doanh nghiệp cần tiến hành tìm kiếm thông tin thị trường (nếu doanh nghiệp quyết định bán hàng trực tiếp) hoặc tìm hiểu đối tác của mình (nếu bán hàng qua đại lý), điều này giúp doanh nghiệp biết được mình đang hợp tác với ai và họ như thế nào, và chiến lược phát triển cung ứng sản phẩm của doanh nghiệp tại thị trường Hoa Kỳ như thế nào cho phù hợp. Sau khi lựa chọn hình thức thâm nhập phù hợp, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến nhiều yếu tố khác trong đó quan trọng là tư vấn pháp luật và bảo hiểm doanh nghiệp. Với mọi doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường Hoa Kỳ, sử dụng các dịch vụ tư vấn đặc biệt là tư vấn pháp luật là điều cần thiết bởi hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ là quá phức tạp. Cùng với sử dụng dịch vụ tư vấn, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần mua bảo hiểm bởi “biện pháp thiết thực và khôn ngoan nhất mà doanh nghiệp Việt Nam nên tiến hành trước khi bước vào thị trường Hoa Kỳ là mua bảo hiểm cho những thiệt hại về trách nhiệm sản phẩm, làm ăn ở thị trường Hoa Kỳ mà không mua bảo hiểm giống như sự tự vẫn”. 3.3.2.2. Đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý nguồn hàng phù hợp với thị trường Thực tế hiện nay là trình độ công nghệ sản xuất của nước ta quá cũ và lạc hậu, những máy móc đang sử dụng hiện nay đều là những sản phẩm đã cũ của các quốc gia phát triển khác được nước ta nhập khẩu về, nhiều thiết bị đã hết thời gian khấu hao từ lâu nhưng vẫn được sử dụng. Điều này đã làm hạn chế rất nhiều chất lượng của sản phẩm xuất khẩu. Hàng rào phi thuế quan với những quy định nghiêm ngặt đối với chất lượng sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ đang được nâng cao hơn, vì thế để vượt qua những trở ngại này đòi hỏi chất lượng sản phẩm củaViệt Nam nhất là các mặt hàng thực phẩm phải được nâng lên. Doanh nghiệp nên trích một phần nguồn vốn từ quỹ đầu tư phát triển doanh nghiệp để tiến hành đổi mới công nghệ, tăng cường nhập khẩu phục vụ cho xuất khẩu hiệu quả tức là tăng cường nhập khẩu những trang thiết bị hiện đại. Công nghệ sản xuất bao gồm cả công nghệ máy móc, công nghệ sinh học… Với các sản phẩm công nghiệp để tăng sản lượng và chất lượng cần đổi mới dây chuyền công nghệ, còn đối với mặt hàng nông sản thì nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lại là yếu tố then chốt. Các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm nông sản phải đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học ngay từ khâu nguyên liệu đầu vào, thực hiện hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy, tìm ra các phương pháp mới trong việc bảo quản rau quả, các sản phẩm sau thu hoạch để đáp ứng nhu cầu thị trường Hoa Kỳ với những chủng loại sản phẩm này. Vấn đề quản lý các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ cũng cần được doanh nghiệp quan tâm. Thông qua việc phân tích thông tin phản hồi từ phía khách hàng, doanh nghiệp sẽ biết được nhu cầu thị trường hiện nay đối với từng loại sản phẩm là như thế nào để lên kế hoạch điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu của doanh nghiệp mình: tiếp tục gia tăng sản lượng các sản phẩm được ưa chuộng, còn đối với sản phẩm có sức tiêu thụ kém doanh nghiệp cần điều tra tại sao doanh số sản phẩm thấp và người tiêu dùng không lựa chọn sản phẩm đó vì nguyên nhân nào, và quyết định của doanh nghiệp hoặc là loại bỏ sản phẩm đó ra khỏi danh sách hàng xuất khẩu hoặc tìm cách thay đổi sản phẩm theo thị hiếu người tiêu dùng. 3.3.2.3.Xây dựng thương hiệu và nâng cao sức cạnh tranh Đối với vấn đề thương hiệu, theo khuyến cáo của ông Tony Vũ – Giám đốc công ty Trade Sia Coproration (chuyên nghiên cứu về thị trường Hoa Kỳ) thì doanh nghiệp không cần quảng cáo nhiều khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ bởi nếu chú ý quá nhiều vào quảng cáo mà không biết cách phân phối thì cũng không mang lại kết quả gì. Chính vì vậy doanh nghiệp cần cân nhắc mức độ quảng cáo như thế nào cho phù hợp vừa hiệu quả vừa tiết kiệm. Quảng cáo để tạo dấu ấn nhưng quan trọng là thương hiệu của sản phẩm ở vị trí nào trong suy nghĩ của người tiêu dung. Thương hiệu của một sản phẩm, của một doanh nghiệp liên quan đến nhiều yếu tố vì vậy để có thể tạo dựng được một thương hiệu tốt doanh nghiệp không thể nóng vội mà phải tiến hành từng bước, từ khâu nghiên cứu thiết kế mẫu mã sản phẩm phải đáp ứng được những tiêu chuẩn về mẫu mã, bao bì và chất lượng, đặc biệt là luôn thể hiện được tính mới của sản phẩm. Để tạo dựng được thương hiệu tốt, cái cốt lõi là doanh nghiệp phải tạo ra được giá trị vô hình của thương hiệu đó, điều này liên quan nhiều đến việc cảm nhận của khách hàng đối với sản phẩm ra sao, đặc tính nổi bật của sản phẩm là gì, chất văn hoá trong sản phẩm như thế nào, yếu tố truyền thống trong sản phẩm được thể hiện như thế nào, các dịch vụ liên quan đến sản phẩm có tốt không… doanh nghiệp cần phân tích được những yếu tố đó để làm cơ sở xây dựng một thương hiệu uy tín tại thị trường Hoa Kỳ. Đối với việc nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hoá trên thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp nên tập trung vào việc tạo ra lợi thế cạnh tranh về giá cả và chất lượng. Khai thác lợi thế nguồn lao động rẻ là cách thức truyền thống, nhưng vấn đề đặt ra là làm sao vừa có lao động rẻ lại vừa có tay nghề. Doanh nghiệp phải có được những chính sách nhân sự phù hợp để “giữ chân” những lao động có tay nghề đang làm việc cho mình đồng thời tìm kiếm đào tạo thêm những lao động mới có trình độ nhất định từ các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề. Hạn chế hiện tượng lao động dời bỏ công ty để tìm công việc khác. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm luôn đi kèm với nâng cao năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp, cần xây dựng một chiến lược phát triển qua các giai đoạn khác nhau đi kèm với những mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn cũng như cách thức nào để đạt được mục tiêu đó. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có lộ trình phát triển của mình một cách chủ động trên nền tảng những định hướng chính sách của Nhà nước. 3.3.2.4.Liên kết sản xuất trong nước và quốc tế Trong thời gian qua, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ đều là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, năng lực sản xuất thấp, chưa có khả năng đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn từ phía Hoa Kỳ. Để có thể thực hiện được mục tiêu đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường chiến lược ổn định lâu dài của xuất khẩu Việt Nam, các doanh nghiệp cần hình thành đội ngũ đông đảo các doanh nghiệp có tầm cỡ quốc tế đan xen hoạt động với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tự mình hình thành những chuỗi liên kết để tăng tiềm lực tài chính cũng như tăng quy mô sản xuất, có thể đảm nhận được các đơn hàng lớn từ phía Hoa Kỳ. Việc hình thành chuỗi liên kết sản xuất trong nước sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt sức ép cạnh tranh từ thị trường nội địa giữa các doanh nghiệp với nhau, mặt khác doanh nghiệp tạo ra được sự hỗ trợ về vốn, công nghệ… từ phía các doanh nghiệp khác góp phần nâng cao vị thế của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế nhưng vẫn phát huy được lợi thế riêng của từng doanh nghiệp. Bên cạnh thực hiện liên kết sản xuất nội địa, doanh nghiệp nên mở rộng quan hệ hợp tác thực hiện liên kết hợp tác với không chỉ các đối tác đến từ các quốc gia khác mà với cả các đối tác doanh nghiệp Hoa Kỳ. Thị trường Hoa Kỳ có tính cạnh tranh cao độ và trong giai đoạn hiện nay, thương mại toàn cầu phát triển mạnh mẽ và sức ép cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ càng trở lên gay gắt. Luôn đặt nhiệm vụ nâng cao năng lực cạnh tranh lên hàng đầu nhưng sản phẩm của Việt Nam không thể cạnh tranh nếu dựa hoàn toàn vào lợi thế giá cả, càng không nên cạnh tranh theo thế đối đầu bằng bất kỳ giá nào. Trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp luôn phải linh hoạt sáng tạo, với những mặt hàng chúng ta đủ sức đối đầu thì mới lựa chọn cạnh tranh trực diện, còn những mặt hàng ở thế yếu hơn, chúng ta nên hợp tác với đối thủ cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng, chia sẻ một phần lợi ích hiện tại với họ, thực hiện hợp tác với các hãng phân phối nhằm học hỏi, tranh thủ chuyển giao công nghệ để tập trung vào các công đoạn có năng lực cạnh tranh cao. Doanh nghiệp có thể hợp tác với nhà cung cấp nguyên liệu của Hoa Kỳ để sử dụng nguyên liệu của chính nước họ và phù hợp với nhu cầu thị trường, phối hợp với các nhà bán buôn cũng như hệ thống bán lẻ. KẾT LUẬN Năm 2006 kim ngách xuất khẩu của hàng hoá Việt nam sang Hoa Kỳ đã tăng lên trên 35%. Trong đó năm 2007 có thêm nhiều thuận lới mới ho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt nam. Cơ hôi và thách thức cho hàng hoá và doanh nghiệp Việt nam tại thị trường Hoa Kỳ còn rất nhiều: Mục tiêu của xuất khẩu Việt nam là đưa Hoa Kỳ trở thành thàh thị trường chiến lược trong cơ cấu thị trường của mình. Để đạt được mục tiêu đó, doanh nghiệp cũng như các cơ quan nhà nước còn rất nhiều việc phải làm. Về phía Nhà nước, trước hết phải thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm dần những mặt hàng truyền thống tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào những mặt hàng này và thay thế bằng những ngành công nghiệp chế biến có giá trị gia tăng lớn như các ngành công nghiệp nặng, ngành có hàm lượng KHCN cao,…Song song cới phát triển cơ cấu mặt hàng là việc giảm tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến mang lại giá trị cao hơn. Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp trong chiến lược cạnh tranh về giá với các sản phẩm Trung Quốc một cách gián tiếp thông qua đầu tư xây dựng các dịch vụ hạ tầng phục vụ sản xuất và xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại cho hàng hoá Việt nam tại thị trường Hoa Kỳ,…Về phía doanh nghiệp cũng cần hoàn thiện chiến lược xuất của mình trên cơ sở chiến lược phát triển chung của ngành và của toàn nền kinh tế. Một giải pháp đối với doanh nghiệp Việt nam trong giai đoạn mới đó là cac doanh nghiệp cần coi trọng việc liên kết hoạt động khác tạo thành những đơn vị sản xuất có quy mô lơn hơn và khả năng tài chính ổn định. Việc liên kết sản xuất nội địa không những giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực cạnh tranh nội địa mà còn mở ra nhiều cơ hội kinh doanh khi doanh nghiệp có thể đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn từ phía Hoa Kỳ. Doanh nghiệp cũng nên xem xét vấn đề liên kết quốc tế tức là thiếp lập quan hệt với các đối tác nước ngoài thâm chị ngay cả các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp Hoa Kỳ, liên kết chặt chẽ với hệ thống bán lẻ để dễ dàng thâm nhập thị trường này và hạn chế thấp nhất cạnh tranh đối đầu,.. nếu có sự phối hợp thống nhất giữa doanh nghiệp và Nhà nước, xuất khẩu của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ trong những năm tới sẽ đạt được nhiều thành công mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng (2004), Giáo trình Kinh tế quốc tế, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội. 2.Bộ Ngoại giao - Học viện Quan hệ quốc tế (2005), Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3.Bộ Thương mại (2004), Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ và hàng thủ công mỹ nghệ. 4.Trần Văn Chu (2006), Doanh nghiệp Việt Nam với thị trường Hoa Kỳ, Nxb Thế giới, Hà Nội. 5.Đặng Đình Đào (2006), “Tổng quan về xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam năm 2006 và triển vọng năm 2007”, Thông tin & Dự báo KT – XH, 12 – 12/2006. 6.Trần Duy Đông (2007), “Quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ 2006 tiếp tục tăng trưởng cao”, Tạp chí Việt Mỹ, 10, tr.27 – 29. 7.Hữu Hạnh (2006), “Tiếp cận thị trường Hoa Kỳ - lối đi nào cho doanh nghiệp Việt Nam”, Thông tin & Dự báo KT – XH, 9 – 9/2006. 8.Phương Hoa – Thu Hà (2006), “Trung Quốc - hiện tượng kinh tế đầu thế kỷ”, Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, tr.72 – 76. 9.Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông (2002), Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Nxb Bưu điện, Hà Nội. 10.Nguyễn Thị Hường (2003), Giáo trình Kinh doanh quốc tế II, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội. 11.Vân Lê (2006), “Vào thị trường Hoa Kỳ dễ hay khó”, Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, 12/12/2006. 12. Đỗ Thị Diệu Ngọc (2006), “Quan hệ thương mại Trung Quốc – Hoa Kỳ và những ảnh hưởng đến Việt Nam”, Châu Mỹ ngày nay, 10 – 2006, tr.38 – 44. 13.Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2006), Cẩm nang xuất khẩu cho doanh nghiệp. 14.Nguyễn Thiết Sơn (2004), Việt Nam – Hoa Kỳ quan hệ thương mại và đầu tư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 15.Vũ Hữu Tửu (2006), Giáo trình Kỹ thuật Nghiệp vụ ngoại thương, Nxb Giáo dụ, Hà Nội. 16.Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2006), Sổ tay doanh nghiệp APEC và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 17.Các webside: Viet.vietnamembassy www.trade.hochiminhcity.gov.vn www.thongtinthuongmaivietnam.com.vn www.voanews.com www.fistenet.gov.vn www.vietnam-ustrade.org www.vietrade.gov.vn www.mofa.gov.vn www.itpc.hochiminhcity.gov.vn www.vneconomy.vn www.mof.gov.vn www.moi.gov.vn www.vietnamnet.vn DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt NAFTA North of American Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do Bắc Hoa Kỳ GSP Generalized System of Preferences Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập CBI Caribbean Basin Initiative Sáng kiến khu vực lòng chảo Caribê HACCP Hazard Analysis Control Critial Point Hệ thống phân tích nối nguy và điểm kiểm soát tới hạn CFR Code of Federal Regulations Bộ luật Liên Bang Hoa Kỳ GMP Good Manufacturing Practices Các thông lệ thực hiện sản xuất tốt hợp vệ sinh SSOP Sanitation Standard Operating Procedure Thủ tục thực hiện các tiêu chuẩn vệ sinh SA 8000 Social Accountability Hệ thống quản lý tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội MFN Most Favored Nations Nguyên tắc tối huệ quốc PNTR Permanent Normal Trade Relations Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn BTA Bilateral Trade Agreement Hiệp định thương mại song phương DANH MỤC CÁC BẢNG Tên Bảng Trang Bảng 1.1.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ và xuất khẩu của Việt Nam trong một số mặt hàng 15 Bảng 2.2.Quan hệ thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 1992 – 2001 33 Bảng 2.3.Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ 34 Bảng 2.4.Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ giai đoạn 2001 - 2006 37 Bảng 2.5.Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ 39 Lời cảm ơn! Quan hệ thương mại Việt Hoa Kỳ mới chính thức được bình thường hóa và phát triển trong vài năm trở lại đây. Hiện nay phát triển quan hệ thương mại song phương là mối quan tâm không chỉ từ phía các doanh nghiệp của hai nước mà còn từ phía hai Chính phủ và việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong tương lai không chỉ là mục tiêu mà còn là những thách thức đối với doanh nghiệp, Nhà nước và nền kinh tế. Chính vì thế, khi nghiên cứu vấn đề này, bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến nhận xét phê bình để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Ngô Thị Tuyết Mai – giáo viên trực tiếp hướng dẫn, giúp em định hướng và hoàn thiện bài viết; em xin gửi lời cảm ơn chú Phạm Nguyên Minh – Chánh Văn phòng Viện Nghiên cứu thương mại, đã giúp đỡ cho em trong quá trình thực tập cũng như tìm kiếm tài liệu phục vụ bài viết. Em xin gửi lời đồng cảm ơn tới các thầy cô trong Khoa và Bộ môn, các cô chú cán bộ nhân viên Viện Nghiên cứu thương mại đã tạo điều kiện cho em hoàn thành chương trình thực tập và chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Trần Thị Thu Hương MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5273.doc
Tài liệu liên quan