Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng

LỜI CẢM ƠN Trong thời gian thực tập ở Vụ Kinh tế Dịch vụ thuộc Bộ kế hoạch và Đầu tư, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của vụ trưởng và toàn thể đội ngũ CBCC tại Bộ cùng với sự hướng dẫn tận tâm của giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên khóa luận này của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp bổ sung để bài chuyên đề thực tập được hoàn thiện. Tôi xin chân thành cảm ơn Hà Nội, ngày 09 tháng 05 nă

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 2010 Sinh viên thực hiện Đỗ Thị Thanh Thuỷ LỜI CAM ĐOAN Họ và tên : Đỗ Thị Thanh Thuỷ MSV : CQ482872 Lớp : Kế hoạch 48A Khoa : Kế hoạch và phát triển Chuyên đề thực tập của em là: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng” Em xin cam đoan những gì em viết trong chuyên đề không sao chép từ bất kỳ một tài liệu nào. Những phần trích dẫn và tham khảo đều đúng theo quy định của Nhà trường. Nếu sai em xin chịu trách nhiệm. Sinh viên Đỗ Thị Thanh Thuỷ MỤC LỤC 1.2 Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế 11 1.3  Thuế quan và trợ cấp đến xuất khẩu 11 2.  Các yếu tố xã hội 13 3.   Các yếu tố chính trị và pháp luật 14 4.   Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ 15 5.   Các yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu 15 6.   Ảnh hưởng của tình hình kinh tế-xã hội và quan hệ quốc tế 15 7.    Nhu cầu và thị trường nước ngoài 16 8.    Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 16 8.1  Tiềm lực tài chính 16 8.2. Tiềm năng con người 16 8.3  Tiềm lực vô hình 16 8.4  Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp 17 8.5  Trình độ tổ chức quản lý 17 8.6 Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ và bí quyết công nghệ của doanh nghiệp 17 8.7  Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp 18 9.   Yếu tố cạnh tranh 18 III. SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY SAU KHỦNG HOẢNG 19 1. Khái niệm về hàng dệt may 19 2. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sau khủng hoảng 21 2.1.Xuất phát từ tác động cuộc khủng hoảng đến thị trường của ngành dệt may 21 2.2.Do sự tái cơ cấu lại thị trường dệt may 22 2.3 Do sự suy giảm của kim ngạch xuất khẩu dệt may 23 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 ĐẾN NAY 26 I.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 26 1. Lịch sử hình thành ngành dệt may 26 2. Tổng quan về dệt may Việt Nam từ năm 1990 đến nay. 27 2.1. Từ 1990- 1999: Sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN 27 2.2. Giai đoạn 2000 – 2006: Chuẩn bị cho quá trình gia nhậpWTO 29 2.3. Từ năm 2006 đến nay:Giai đoạn Việt Nam gia nhập WTO và chịu những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế. 29 3. Đánh giá năng lực và tiềm năng xuất khẩu của ngành Dệt May Việt Nam 30 3.1. Về năng lực các doanh nghiệp dệt may 30 3.2. Về tiềm năng xuất khẩu của ngành Dệt may 32 II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM. 33 1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường 33 1.1. Về kim ngạch xuất khẩu 33 1.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 36 1.3. Về cơ cấu hình thức xuất khẩu 38 1.4. Về cơ cấu thị trường 41 1.4.1. Thị trường EU: 42 1.4.2. Thị trường Nhật Bản 42 1.4.3. Thị trường Mỹ 44 1.4.4. Các thị trường khác. 45 1.5. Cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường 45 1.5.1. Bắc Phi: 45 1.5.2. Châu Mỹ Latinh : 46 1.5.3. Bangladesh 46 1.5.4. Indonesia 47 1.5.5.Trung Quốc 47 III. CÁC CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG 48 1. Về chính sách hỗ trợ, đẩy mạnh xuất khẩu 48 2. Về chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm và đào tạo nguồn nhân lực 48 3. Về chính sách tín dụng 49 4. Về chính sách thuế và hải quan 49 5. Về việc sử dụng tiền chuyển quyền sử dựng đất 49 6. Về việc lùi thời gian thanh tra 50 IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 50 1. Kết quả 50 2. Tồn tại 52 3. Nguyên nhân của tồn tại 53 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU KHỦNG HOẢNG 55 I.CƠ SỞ CHO VIỆC ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM SAU KHỦNG HOẢNG 55 1. Cơ hội và thách thức 55 1.1 Cơ hội 55 1.2 Thách thức 56 2. Dự báo nhu cầu về hàng dệt may Việt Nam trên thế giới 57 2.1.Đối với ngành Dệt 58 2.2.Đối với ngành May Mặc 58 3. Chiến lược phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020 61 II. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ SAU KHỦNG HOẢNG 61 1.1. Sản phẩm 61 1.2.  Đầu tư và phát triển sản xuất 62 1.3.  Bảo vệ môi trường 62 2. Mục tiêu phát triển của dệt may Việt Nam đến năm 2020 63 III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU KHỦNG HOẢNG 64 1. Nhóm giải pháp từ phía nhà nước 64 1.1. Phát triển nguyên phụ liệu cho ngành dệt may 64 1.2. Phát triển công nghệ 65 1.3 Đào tạo và phát triển nhân lực 66 1.4. Các giải pháp về vốn 67 1.5.Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm 67 1.6.Các chính sách ưu đãi về thuế 68 2.Nhóm giải pháp đối với ngành dệt may Việt Nam 69 2.1.Chủ động tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới. 69 2.2.Giải pháp về thiết kế: “Thực hiện chiến lược thời trang hoá ngành Dệt may” 69 2.3. Giải pháp cho mạng lưới phân phối và Marketing: “Thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu”. 70 2.4. Giải pháp tăng cường và phát triển nguồn nhân lực. 72 2.5. Nâng cao trình độ công nghệ. 74 3. Một số giải pháp khác 75 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77 DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Hình 1 : Quy trình sản xuất và hoàn tất sản phẩm dệt may 20 Hình 2: Thị phần xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2008 41 Bảng 1: Thị trường và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2009 35 Bảng 2: Chủng loại và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam tháng 11 &11 tháng đầu năm 2009 38 Bảng 3: Số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2013 59 Bảng 4: Cân đối nhu cầu đối với một số nguyên phụ liệu dệt may trong giai đoạn 2005-2020 60 Bảng 5: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015 với tầm nhìn đến năm 2020 64 LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn hai mươi năm đổi mới, kể từ năm 1986, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao…đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Đến nay, Việt Nam đã ký kết gần 70 hiệp định thương mại song phương, kim ngạch thương mại tăng ở mức kỷ lục.Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất  khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ USD, tăng 28,8%, thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu.Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh tế mở và hội nhập ở mức độ cao. Thành tựu này có được là do sự phối hợp, nỗ lực hết mình của toàn bộ nền kinh tế, và chính phủ trong việc phân bổ nguồn lực hợp lý, tập trung phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn, dẫn dắt nền kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp. Trong giai đoạn 2001- 2005, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp liên tục được duy trì ở tốc độ cao( năm 2001- 14,6%, năm 2002- 14.8%, năm 2005- 17.1%), các năm 2006, 2007 đều đạt tốc độ 10%. Trong đó, Dệt May được coi là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, chiếm trên 10% giá trị sản phẩm công nghiệp, đóng góp 8% vào GDP, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất trong cả nước. Phải nói rằng, ngành dệt may Việt Nam là ngành được Chính phủ rất quan tâm. Điều này không chỉ do tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu mà quan trọng hơn cả là đã tạo ra trên 2 triệu chỗ làm với 6 triệu người ăn theo. Những đóng góp cho xã hội đó đã nâng cao vị thế của ngành dệt may trong nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra đã làm kinh tế Việt Nam có những thay đổi đáng kể đặc biệt đối với cán cân xuất nhập khẩu.Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008.Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá đạt 68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008.Trước những bất lợi đó,Ngành Dệt may Việt Nam cũng chịu những ảnh hưởng không nhỏ. Hàng dệt may xuất khẩu sang thi trường chính là Mỹ đạt 4,9 tỷ USD, giảm 3% so với năm 2008; tiếp theo là EU đạt 1,7 tỷ USD, giảm 3,1%; Nhật Bản 930 triệu USD, tăng 12%.Sự giảm sút kim ngạch xuất khẩu đó là do ngành Dệt May hiện nay phụ thuộc rất lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, nguồn nhân lực thiếu trình độ,chưa am hiểu thị trường xuất khẩu và mới chỉ chủ yếu tham gia vào khâu gia công sản xuất sản phẩm cuối cùng, đây cũng là khâu có gíá trị gia tăng thấp nhất. Trong khi đó, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2020 là trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới; từng bước đưa ngành Dệt May thoát khỏi tình trạng gia công sản xuất. Do đó, để đạt được mục tiêu đã định, việc nghiên cứu thực trạng của ngành Dệt may cũng như giải pháp thúc đẩy xuất khẩu Dệt may là việc làm cần thiết và mang tính thực tiễn cao. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “ Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng” Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực tiễn ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam qua đó xem xét thực trạng xuất khẩu của Dệt May Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu Dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Trên cơ sở mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, nội dung của đề tài nghiên cứu được chia là ba chương, cụ thể như sau: Chương 1: Sự cần thiết thúc đẩy dệt may thời kỳ hậu khủng hoảng. Chương 2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam. Chương 3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp tôi hoàn thành bài nghiên cứu này. CHƯƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY DỆT MAY THỜI KỲ HẬU KHỦNG HOẢNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU 1. Khái niệm về xuất khẩu Xuất khẩu hay xuất cảng, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài. Xuất khẩu là hình thức xâm nhập nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp nhất.Với các nước có trình độ kinh tế thấp như các nước đang phát triển thì xuất khẩu đóng vai trò rất lớn đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Trong tính toán tổng cầu, xuất khẩu được coi là nhu cầu từ bên ngoài (ngoại nhu). Mức độ phụ thuộc của một nền kinh tế vào xuất khẩu được đo bằng tỷ lệ giữa giá trị nhập khẩu và tổng thu nhập quốc dân. Đối với những nền kinh tế mà cầu nội địa yếu, thì xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, nhiều nước đang phát triển theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, vì xuất khẩu phụ thuộc vào yếu tố nước ngoài, nên để đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, IMF thường khuyến nghị các nước phải dựa nhiều hơn nữa vào cầu nội địa 2. Các hình thức xuất khẩu 2.1. Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của công ty cho các khách hàng của mình ở nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất khẩu trực tiếp,công ty sẽ đáp ứng nhanh chóng và phù hợp với nhu cầu khách hàng ở trong nước và qua đó công ty cũng kiểm soát được yếu tố đầu ra của sản phẩm để điều chỉnh yếu tố đầu vào để mang lại lợi ích cao nhất. Hai hình thức chủ yếu mà công ty sử dụng để thâm nhập thị trường quốc tế thông qua xuất khẩu trực tiếp là: - Đại lý bán hàng : Là hình thức bán hàng mà người bán không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người khác( người ủy thác) nhằm nhận lương và một số hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hóa bán được.Do đó họ không phải chịu trách nhiệm chính về mặt pháp lý. Nhưng trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như một nhân viên bán hàng của công ty của thị trường nước ngoài. Công ty đã ký với khách hàng tại thị trường nước đó. - Đại lý phân phối là người mua hàng hóa, dịch vụ của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Còn đại lý phân phối sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. 2.2. Xuất khẩu gián tiếp Là hoạt động bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian (thông qua người thứ ba ).Các trung gian mua bán không chiếm hữu hàng hóa của công ty mà trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài. Các trung gian xuất khẩu như : Đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. 2.3. Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công Gia công quốc tế là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành hai loại hình chủ yếu tùy theo vai trò của bên đặt hàng và bên nhận gia công. Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp thường vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng khi trình độ phát triển ngày càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình. Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kỳ gia công thì rất ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi là một bộ phận của hoạt động ngoại thương 2.4. Tái xuất khẩu Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào sau đó lại tiến hành xuất khẩu qua một nước thứ ba. Như vậy ở đây có cả hoạt động mua và bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. 2.5. Xuất khẩu tại chỗ Trong trường hợp này hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt qua ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tụ như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế…Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu được ngoại tệ. 2.6. Xuất khẩu theo nghị định thư. Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hóa theo chương trình đã được ký kết theo nghị định thư của hai chính phủ và thường là chương trình trả nợ giữa hai chính phủ. Hình thức này đảm bảo khả năng thanh toán. 3. Nội dụng của hoạt động xuất khẩu 3.1. Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường bao gồm tất cả các phương pháp nhằm đánh giá xem thị trường nước ngoài nào mang nhiều tiềm năng nhất cho sản phẩm của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và tiền bạc. Nhiều công ty hiện vẫn thực hiện hoạt động xuất khẩu theo phương thức “tự trang trải”, nghĩa là , bắt đầu xuất khẩu sau đó sử dụng lợi nhuận thu được từ việc bán sản phẩm trên các thị trường này để tiến hành đầu tư lại. Điều này không thể áp dụng đối với nghiên cứu thị trường. Ở đây cần phải đầu tư một khoản tiền để nghiên cứu thị trường trước khi giới thiệu sản phẩm và điều đó sẽ giúp doanh nghiệp tránh phải trả giá đắt cho những sai lầm trên thị trường mục tiêu sau này. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu Lựa chọn mặt hàng là khâu quan trọng trong nội dung hoạt động xuất khẩu. Các doanh nghiệp cần định xem mình nên xuất khẩu mặt hàng gì để phát huy hết những lợi thế so sánh của mình để từ đó sản xuất ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao đáp ứng được nhu cầu trên thị trường xuất khẩu. 3.1.2  Lựa chọn thị trường xuất khẩu Lựa chọn thị trường là chìa khóa đề xác định khả năng  thành công của doanh nghiệp ở một thị trường xuất khẩu. Lựa chọn thị trường cần hướng tới ang tin tri thức về thị trường. Đó là những ang tin chiến lược được tồng hợp và phân tích bằng cách ang kết các xu hướng hoặc sự kiện trên thị trường đế giúp doanh nghiệp xác định các cơ hội thị trường mới. Mức độ sẵn sàng xuất khẩu của bạn cũng là một yếu tố xác định tiềm năng của bạn ở thị trường nước ngoài. Việc đánh giá chính xác liệu bạn đã sẵn sàng thâm nhập thị trường toàn cầu hay chưa về mặt nguồn lực và kiến thức sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian, nỗ lực và nguồn lực quý giá cho phát triển xuất khẩu. 3.1.3    Lựa chọn bạn hàng xuất khẩu Có lẽ đây là phần công việc khó khăn nhất trong các hoạt động chuẩn bị xuất khẩu. Một đối tác tốt có thể giúp doanh nghiệp thâm nhập thị trường thuận lợi và hiệu quả, trong khi một đối tác tồi có thể làm hỏng tất cả. Đó là giai đoạn quyết định trong hoạt động của doanh nghiệp. Các nhà xuất khẩu đều cho rằng nhiệm vụ này vô cùng quan trọng vì đó là một nhiệm vụ rất tinh tế. Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng bản liệt kê tiêu chí để mời tổ chức hỗ trợ kinh doanh (BSO) hoặc Đại sứ quán của họ tại thị trường mục tiêu giúp họ sàng lọc một danh sách sơ khảo các đối tác có tiềm năng. Đôi khi công việc đó diễn ra suôn sẻ, nhưng hầu như không được như ý muốn. Việc thuê các nhà tư vấn giúp doanh nghiệp lựa chọn đối tác có thể sẽ đem đến thành công hơn, nhưng các hiệp hội ngoại thương có thể sẽ giúp họ khi họ cũng có nhu cầu tìm các nhà cung cấp mới. Hoặc các tổ chức xúc tiến nhập khẩu như Tổ chức xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển của Hà Lan (CBI) có thể giúp các doanh nghiệp với điều kiện họ là thành viên tham gia chương trình phát triển xuất khẩu (EDP) của CBI. Việc cố gắng có được tên của các đối tác kinh doanh thường rất khó khăn và doanh nghiệp sẽ cần phải có sự sáng tạo và kiên nhẫn để có thể đi đến thành công. Nhưng ít nhất doanh nghiệp sẽ nhận biết được một đối tác tốt bằng cách so sánh họ với danh sách tiêu chí của doanh nghiệp. Có khi doanh nghiệp phải đàm phán với một đối tác thứ ba, không phải chỉ về lợi ích kinh doanh của các bên mà còn cần trách nhiệm và sự tin cậy giữa các bên. Lựa chọn phương thức giao dịch Phương thức là những cách thức doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Hiện nay có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như: giao dich thông thường, giao dich qua trung gian, giao dich thông qua hội trợ triển lãm. Tùy vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Đàm phán và ký kết hợp đồng Trong khi đàm phán, người mua và người bán phải thống nhất các điều kiện, điều đó sẽ phản ánh năng lực thương lượng trong đàm phán của mỗi bên. Thông thường, họ sẽ thống nhất ở điểm nào đó khi cân nhắc giữa chi phí và rủi ro, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người mua và người bán, có thể nghiêng nhiều hoặc ít về một bên. Họ sẽ tìm thấy sự cân bằng làm thoả mãn cả hai bên. Khi có thiệt hại xảy ra, hoặc người mua hoặc người bán phải chịu trách nhiệm (hoặc hãng vận chuyển, người đóng vai trò trong vận chuyển hàng hoá) hoặc bên thứ ba, thường là công ty bảo hiểm, người chi trả những rủi ro không kiểm soát được. Nếu người mua và người bán không thống nhất về trách nhiệm với thiệt hại đó, họ có thể giải quyết tranh chấp tại hội đồng trọng tài hoặc toà án. Thông thường, sự điều tra của bên thứ ba (giám định viên) sẽ cung cấp bằng chứng về thực trạng của hàng hoá ở những đầu mối trong mạng lưới phân phối. 3.3    Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương đã được ký kết, đơn vị kinh doanh XNK - với tư cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, đơn vị kinh doanh XNK phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc sau đây: Giục mở L/C và kiểm tra L/C (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương thức tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá, thuê tàu hoặc lưu cước, kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá, làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu nại (nếu có). Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công việc sau đây: Xin giấy phép nhập khẩu, mở L/C (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C), thuê tàu hoặc lưu cước, mua bảo hiểm, làm thủ tục hải quan, nhận hàng chở từ tàu chở hàng, kiểm tra hàng hoá (kiểm dịch và giám định), giao hàng cho đơn vị đặt hàng nhập khẩu, làm thủ tục thanh toán, khiếu nại (nếu có) về hàng hoá bị thiếu hụt hoặc tổn thất. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 4.1. Đối với Nhà nước Xuất khẩu là hàng hoá sản xuất trong nước được mang ra nước ngoài tiêu thụ. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Xuất khẩu có cai trò cực kỳ quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu: Để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, cần phải có một nguồn vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Nguồn vốn ngoại tệ chủ yếu từ các nguồn: xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, vay vốn,viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, các dịch vụ có thu ngoại tệ, xuất khẩu lao động... Xuất khẩu là nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế,thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khầu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển. Xuất khẩu không chỉ tác động làm gia tăng nguồn thu ngoại tệ mà còn giúp cho việc gia tăng nhu cầu sản xuất, kinh doanh ở những ngành liên quan khác. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ,giúp cho Sản xuất ổn định và kinh tế phát triển vì có nhiều thị trường=>Phân tán rủi ro do cạnh tranh. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Thông qua cạnh tranh trong xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản xuất, tìm ra những cách thức kinh doanh sao cho có hiệu quả, giảm chi phí và tăng năng suất Xuất khẩu tích cực giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống người dân. Xuất khẩu làm tăng GDP, làm gia tăng nguồn thu nhập quốc dân, từ đó có tác động làm tăng tiêu dùng nội địa->nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng. Xuất khẩu gia tăng sẽ tạo thêm công ăn việc làm trong nền kinh tế, nhất là trong ngành sản xuất cho hàng hoá xuất khẩu, xuất khẩu làm gia tăng đầu tư trong ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu ->Là nhân tố kích thích nền kinh tế tăng trưởng Xuất khẩu tạo ra khả năng thị trường tiêu thụ cũng như cung cấp đầu vào cho sản xuất nhằm phát huy tối đa năng lực sản xuất trong nước phục vụ thị trường. Ngoài ra,xuất khẩu còn tạo điều kiện cho các ngành liên quan phát triển.Vì sản xuất là chuỗi hoạt động tính móc xích với nhau cho nền phát triển của ngành này sẽ kéo theo sự phát triển của ngành khác. Xuất khẩu làm tăng dự trữ ngoại tệ. Nguồn ngoại tệ thu về lớn hơn ( cán cân thanh toán thăng dư ) là điều kiện để duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái theo hướng có lợi cho xuất khẩu nhưng lại không tổn hao đến nhập khẩu vì vậy sẽ tạo điều kiện phát triển kinh tế. Xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy các quan hệ đối ngoại của đất nước. Xuất khẩu là hoạt động ra đời sớm nhất trong các hoạt động kinh tế, khi có hoạt động xuất khẩu thì các nước có quan hệ với nhau trên cơ sở các bên đều có lợi. Do vậy các quốc gia sẽ xây dựng quan hệ kinh tế nhằm đẩy mạnh hoạt động này. Hai hoạt động này có mối quan hệ qua lại với nhau và dựa vào nhau để phát triển. Do đó,các quốc gia sẽ chú trọng phát triển đồng thời để đảm bảo sự cân xứng tạo điều kiện để phát triển nhanh nhất. Nói chung, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong sụ phát triển của các quốc gia,do vậy các quốc gia đều đẩy mạnh xuất khẩu để khai thác tối đa lợi ích của hoạt động này trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 4.2. Đối với doanh nghiệp Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty. Mục đích của các công ty khi thực hiện xuất khẩu là: Tăng doanh số bán hàng: Khi thị trường trong nước trở nên bão hòa thì xuất khẩu là hoạt động tăng doanh số bán hàng của các công ty khi mở rộng thị trường quốc tế. Đa dạng hóa thị trường đầu ra: Đa dạng hóa thị trường đầu ra sẽ giúp cho các công ty có thể ổn định luồng tiền thanh toán cho các nhà cung cấp.Việc đa dạng hóa thị trường sẽ tạo ra nguồn thu cho công ty và nguồn thu này công ty có thể đầu tư tiếp tục đa dạng hóa thị trường nào đó hay tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường đầu vào của doanh nghiệp. Thu được các kinh nghiệm quốc tế: Các nhà doanh nghiệp và các nhà quản lý sẽ tham gia kinh doanh quốc tế, các nhà kinh doanh và các nhà quản lý hoạt động trong các môi trường kinh tế xã hội, kinh tế chính trị khác nhau. Điều nay đòi hỏi các nhà kinh doanh quản lý phải học hỏi,do đó kiến thức của họ cũng phong phú hơn và qua quá trình hoạt động lý luận sẽ được kiểm chứng trong thực tế. Do đó họ sẽ tích lũy được kiến thức và kinh nghiệm hoạt động của mình trong quá trình kinh doanh quốc tế. Trong đó hoạt động xuất khẩu là hoạt động mang lại kinh nghiệm với chi phí và rủi ro thấp nhất. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh tế quốc tế ra đời sớm nhất và có kinh phí cũng như rủi ro thấp nhất. Do đó,đây là hoạt động của các quốc gia kinh doanh quốc tế chủ yếu của các công ty ở các quốc gia đang phát triển (vì yếu tố về vốn,về công nghệ, về con người còn yếu kém nên xuất khẩu là biện pháp hữu hiệu nhất trong các hoạt động kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh đơn giản nhất trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Do đó các giao dich và rủi ro khi có sự biến động về môi trường chính trị, kinh tế,văn hóa xã hội…sẽ thấp nhất so với hoạt động khác. II. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU 1.   Các yếu tố kinh tế Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến kinh doanh xuất khẩu,hơn nữa các yếu tố này rất rộng nên các doanh nghiệp có thể lựa chọn và phân tích các yếu tố thiết thực nhất để đưa ra các biện pháp tác động cụ thể. 1.1. Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh về mặt giá trị tương đối giữa các ngoại tệ và từ đó có tác động như một công cụ trong cạnh tranh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Một nền kinh tế càng mở ra bên ngoài bao nhiêu, quy mô và vị trí của nền kinh tế đó càng mở rộng và tăng trưởng trong phân công lao động quốc tế bao nhiêu thì vai trò của đồng tiền nước đó, sức mua của nó so với các đồng tiền khác trong quan hệ kinh tế quốc tế càng lớn bấy nhiêu. Khi tỷ giá hối đoái tăng lên,có nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ,trong điều kiện các nhân tố khác không đổi,sẽ có tác động bất lợi cho nhập khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu.Trong trường hợp này,tỷ giá tăng lên có tác động khuyến khích xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có thể đổi lại được nhiều hơn đồng nội tệ,hàng xuất khẩu rẻ hơn,để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên khi tỷ giá hối đoái tăng lên,hàng nhập khẩu đắt hơn,nên các nhà nhập khẩu hạn chế kinh doanh hàng nhập,gây nên tình trạng khan hiếm nguyên liệu,vật tư,hàng hóa ngoại nhập,làm tăng giá các mặt hàng này, gây khó khăn cho các nhà sản xuất trong nước, nhất là những cơ sở chỉ sử dụng nguyên vật liệu nhập. Đồng thời lưu thông ngoại tệ vận chuyển vào trong nước có xu hướng tăng lên, khối lượng dụ trữ ngoại tệ dồi dào, tạo điều kiện cho sự ổn định cán cân thương mại quốc tế. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn đồng nội tệ. Tuy nhiên,đây là cơ hội tốt cho các nhà nhập khẩu, nhất là nhập khẩu nguyên liệu,máy móc để phuc vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước. Đồng thời lưu thông ngoại tệ chuyển vào trong nước có xu hướng giảm xuống làm cho khối lượng dự trữ ngoại tệ ngày càng bị xói mòn vì khuynh hướng gia tăng nhập khẩu để có lợi nhuận,có thể gây lên tình trạng mất cân đối cán cân thương mại quốc tế. 1.2 Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất khẩu. Chẳng hạn như chiến lược phát triển kinh tế theo hướng CNH-HĐH đòi hỏi phải xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất,mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra cùng các chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng… 1.3.  Thuế quan và trợ cấp đến xuất khẩu Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho nước đánh thuế. Nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan lại làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế thế giới. Nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ. Thuế quan cao cũng sẽ kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan càng cao, buôn lậu càng phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản xu._.ất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu. Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập: Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế quan đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa các nước thuộc liên minh trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi ích thương mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những sản phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên. Trợ cấp xuất khẩu là sự ưu đãi về tài chính hay cung cấp tiền bổ trợ của Chính phủ một nước, công đoàn cùng nghề hay tổ chức độc quyền quốc tế cho doang nghiệp xuất khẩu nhằm giảm giá hàng hoá xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới. Có hai phương thức trợ cấp: một loại là trực tiếp bổ trợ, tức là trực tiếp chi tiền bổ trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu, một loại khác là gián tiếp bổ trợ, tức là ưu đãi về tài chính cho người doanh nghiệp xuất khẩu một số hàng hoá xuất khẩu nào đó (vd: hoàn lại hay miễn giảm thuế trong nước, miễn giảm thuế xuất khẩu cho một số hàng hoá xuất khẩu). TCXK là biện pháp khuyến khích xuất khẩu cổ xưa nhất, bắt đầu từ thời kỳ chủ nghĩa trọng thương cho đến nay. Sau chiến tranh thế giới thứ II, thì nó trở thành thủ đoạn trọng yếu của tư bản độc quyền nhằm chiếm đoạt thị trường thế giới, tiến hành bán tháo hàng hoá. Hiện nay, các nước đang phát triển hay thông qua TCXK nhằm nâng đỡ một số ngành sản xuất để phát triển nền kinh tế dân tộc. WTO quy định, trợ cấp là "những lợi ích mà Chính phủ đem lại cho một đối tượng nhất định và có thể lượng hoá về mặt tài chính". WTO có hai bộ tiêu chuẩn về trợ cấp. Một bộ áp dụng cho nông sản, được đề cập trong Hiệp định Nông nghiệp (AoA – agreement on agriculturer). Một bộ áp dụng cho sản phẩm phi nông nghiệp, được quy định trong Hiệp định về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng (SCM - Subsidies Countervailing Measures). 2.  Các yếu tố xã hội Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là đối tượng rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng Nền văn hóa tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thú tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thỏa mãn và cách thỏa mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy văn hóa là yếu tố chi phối lối sống nên nhà xuất khẩu luôn luôn phải tìm hiểu quan tâm đến yếu tố văn hóa ở thị trường mình xuất khẩu. 3.   Các yếu tố chính trị và pháp luật Một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường quốc tế phải đối mặt với vô số những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. Một trong những yếu tố nan giải nhất là pháp luật và chính trị. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong kinh doanh quốc tế phụ thuộc phần lớn vào doanh nghiệp có am hiểu các chính sách, các luật lệ của nước sở tại hay không. Cho dù doanh nghiệp đóng ở đâu cũng bị ảnh hưởng của hệ thống luật pháp, thể chế chính trị và các chính sách của chính phủ nước đó. Thất bại trong việc nghiên cứu yếu tố môi trường pháp luật, chính trị và các ảnh hưởng của nó đến các hoạt động kinh doanh của mình sẽ dẫn đến những hậu quả không lường trên thị trường quốc tế. Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu.Các công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải thực hiện đúng qui định mà chính phủ tham gia vào các tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới cũng như các thông lệ quốc tế: - Các quy định của luật pháp đến hoạt động xuất khẩu :( thuế,qui định về mặt hàng xuất khẩu,qui định quản lý về ngoại tệ…) - Các hiệp ước,hiệp định thương mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất khẩu tham gia. - Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn. - Các vấn đề về pháp luật và tập quán quốc tế có liên quan đến xuất khẩu(công ước viên 1980,Incoterm 2000…) - Qui định về giao dịch hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả,quyền sở hữu trí tuệ. - Qui định về cạnh tranh độc quyền, về các loại thuế. - Qui định về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng, giao hàng, thực hiện hợp động. Ngoài các vấn đề nói trên chính phủ còn thực hiện còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như : Hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan… Chính sách ngoại thương của chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu.Vì vậy họ phải nắm bắt được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước dể biết được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước. 4.   Các yếu tố về tự nhiên và công nghệ Khoảng cách địa lý giữa các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải,tới thời gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng,do vậy nó ảnh hưởng tới lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, hợp đồng xuất khẩu… Sự phát triển của khoa học công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà doanh nghiệp nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho việc theo dõi, điều khiển hàng hóa xuất khẩu,tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất,gia công chế biến hàng xuất khẩu,các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng,… 5.   Các yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu Các yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu như Hệ thống giao thông,đặc biệt là hệ thống cảng biển: Mức độ trang bị,hệ thống xếp dỡ,kho hàng,…hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ,thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toan cho hàng hóa xuất khẩu. Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép cá nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán,huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Hệ thông bảo hiểm kiểm tra hàng hóa cho phép các hoạt động sản xuất được thực hiện một cách an toàn hơn,đồng thời giảm bớt được thiệt hại khi rủi ro xảy ra… 6.   Ảnh hưởng của tình hình kinh tế-xã hội và quan hệ quốc tế Trong xu thế khu vực hóa,toàn cầu hóa thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì thế mà mỗi biến động của tình hình kinh tế xã hội trên thế giới đều ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế trong nước.Lĩnh vực xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất,ở đây cũng do một phần tác động của mối quan hệ kinh tế quốc tế. Khi xuất khẩu hàng hóa từ nước này sang nước khác,người xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan,phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu. Ngày nay đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế với các mức độ khác nhau,nhiều hiệp định song phương và đa phương được ký kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào liên minh kinh tế này hoặc ký kết các hiệp định thương mại thì sẽ có nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của mình. Ngược lại,đó cũng là rào cản cho xuất khẩu vào thị trường khu vực đó. 7.    Nhu cầu và thị trường nước ngoài Do khả năng sản xuất của các nước nhập khẩu không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước,hoặc do các mặt hàng trong nước sản xuất không đa dạng nên không thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng nên nhu cầu và thị trường nước ngoài cũng là một nhân tố để thúc đẩy xuất khẩu của các nước có khả năng đáp ứng được của cả nhu cầu trong nước và nhu cầu nước ngoài 8.    Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 8.1    Tiềm lực tài chính Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh,khả năng phân phối ( đầu tư ) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có hiệu quả cá nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu Vốn chủ sở hữu Vốn huy động Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn Các tỷ lệ về khả năng sinh lời Tiềm năng con người Trong kinh doanh đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ,hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu,con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thực sự của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng súc mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ,…Một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. 8.3    Tiềm lực vô hình Chúng ta thường coi là có 5 loại tài sản vô hình được định danh và loại 6 là những tài sản vô hình khác. Đó là: 1. Các sáng chế, phát minh, công thức, quy trình, mô hình, kỹ năng; 2. Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật; 3. Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá; 4. Quyền kinh doanh, giấy phép, hợp đồng; 5. Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, khảo sát, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật; 6. Các loại tài sản vô hình khác (như đội ngũ nhân lực, vị trí kinh doanh...). 8.4    Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hoá và dự trữ hợp lý hàng hoá của doanh nghiệp Yếu tố này ảnh hưởng đến đầu vào của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Không kiểm soát hoặc không đảm bảo được sụ ổn định,chủ động về nguồn cung ứng hàng hóa cho doanh nghiệp thì việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu không thể đảm bảo,có thể phá vỡ hoặc làm hỏng hoàn toàn kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. 8.5    Trình độ tổ chức quản lý Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Bất kỳ một doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh nào đều phải lựa chọn cho doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh của mình một cơ cấu tổ chức quản lý riêng. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp, tổ chức làm ăn thua lỗ, phá sản, phát triển chậm đều là do cơ cấu tổ chức quản lý chưa hợp lý, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp, tổ chức là làm sao tìm cho mình một cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý(tối ưu). Bởi lẽ khi có một cơ cấu tổ chức quản lý hợp lý thì mới cho phép sử dụng tốt các nguồn lực, giúp cho việc ra các quyết định đúng đắn và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quyết định đó, điều hoà phối hợp các hoạt động nhằm đạt được mục đích chung đề ra. 8.6    Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ và bí quyết công nghệ của doanh nghiệp Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ và bí quyết công nghệ của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hóa được đưa ra đáp ứng khách hàng trong và ngoài nước. Nếu doanh nghiệp có trang thiết bị công nghệ tốt và hiện đại thì sẽ làm giảm được năng suất lao động, chi phí giá thành, không những thế nó còn tăng được chất lượng của hàng hóa. Bên cạnh đó, bí quyết công nghệ lại giúp cho doanh nghiệp sản xuất ra được những sản phẩm mang tính khác biệt, có tính cạnh tranh cao. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không có được trang thiết bị công nghệ hiện đại cũng như không có trong tay những bí quyết công nghệ thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ khó có thể phát triển lâu dài được. 8.7    Cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xưởng,…Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận lợi và có hiệu quả. Cơ sở vất chất kỹ thuật cũng đóng vai trò khá quan trọng trong việt ký kết hợp đồng bởi một số công ty khi chấp nhận ký kết hợp đồng họ sẽ xem xét đến cả yếu tố này để đi đến việc ký kết. 9.   Yếu tố cạnh tranh Tùy thuộc vào sản phẩm mà các yếu tố cạnh tranh sẽ khác nhau. Ngành kinh doanh khác nhau có yếu tố cạnh tranh khác nhau. Trong một số các lĩnh vực giá là yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất. Cạnh tranh một mặt thúc đẩy cho doanh nghiệp đàu tư máy móc thiết bị,nâng cấp chất luongj và hạ giá thành sản phẩm…Nhưng một mặt nó dễ dàng đẩy lùi các doanh nghiệp không có khả năng phản ứng hoặc chậm phản ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Các yếu tố cạnh tranh có thể kể đến là: Đối thủ mới tiềm năng Nhà cung cấp Người mua Các mặt hàng và các dịch vụ thay thế Cạnh tranh giữa các công ty hiện tại Từ đây các doanh nghiệp có thể thấy được các mối đe dọa hay thách thức với cạnh tranh với các doanh nghiệp trong ngành là trung tâm. Xuất phát từ đây doanh nghiệp có thể đề ra các chiến lược hợp lý nhằm hạn chế đe dọa và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình. - Sự đe dọa của các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng: các đối thủ này chưa có kinh nghiệm trong việc xâm nhập vào thị trường quốc tế song nó có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, lao động và lợi thế của người đi sau, do đó dễ khắc phục được nhũng điểm yếu của các doanh nghiệp hiện tại để có khả năng chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy một doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư vốn, trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm nhưng mặt khác phải tăng cường quảng cáo, áp dụng các biện pháp hỗ trợ và khuếch trương sản phẩm giữ gìn thị trường hiện tại, đảm bảo lợi nhuận dự kiến. - Sức ép của người cung cấp: nhân tố này có khả năng mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng vật tư đầu vào,thay đổi cơ cấu sản phẩm, hoặc sẵn sàng liên kết với nhau để chi phối thị trường nhằm hạn chế khả năng của doanh nghiệp hoặc làm giảm lợi nhuận dự kiến, gây ra rủi ro khó lường trước cho doanh nghiệp.Vì thế hoạt động xuất khẩu có nguy cơ gián đoạn. - Sức ép người tiêu dùng : Trong cơ chế thị trường, khách hàng được coi là “thượng đế”. Khách hàng có khả năng mở rộng qui mô hoặc hay thu hẹp chất lượng sản phẩm mà không được nâng giá bán sản phẩm. Một khi nhu cầu của khách hàng thay đổi thì hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cũng phải thay đổi theo sao cho phù hợp. - Các yếu tố cạnh tranh trong nội bộ ngành: Khi hoạt động trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp thường khó có cơ hội giành được vị trí độc tôn trên thị trường mà thường bị chính các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các sản phẩm tương tự cạnh tranh gay gắt. Các doanh nghiệp này có thể là doanh nghiệp của quốc gia các nước sở tại, quốc gia chủ nhà hoặc quôc gia thứ ba cùng tham gia xuất khẩu mặt hàng đó. Trong một số trường hợp các doanh nghiệp sở tại này được chính phủ bảo hộ do đó doanh nghiệp khó có thể cạnh tranh được với họ. III. SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY SAU KHỦNG HOẢNG 1. Khái niệm về hàng dệt may Dệt may là ngành đáp ứng các nhu cầu về sản phẩm tiêu dùng bao gồm các loại quần áo, chăn ga, gối đệm, các loại đồ dùng sinh hoạt trong gia đình như: rèm cửa, vải bọc đồ dùng, khăn các loại…Mặt khác, sản phẩm của ngành dệt may cũng được sử dụng trong ngành kinh tế khác như vải kỹ thuật dùng để lót đường, thi công đê điều, các loại vải làm bọc đệm ô tô, làm vật liệu lọc vật liệu chống thấm. Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều, buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải), vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng Để có được một sản phẩm dệt may cuối cùng cần trải qua một chuỗi các hoạt động tạo ra giá trị. Thể hiện trong hình 3. Theo hình trên ta thấy chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm rất nhiều công đoạn khác nhau từ sản xuất xơ đến khéo sợi dệt vải nhuộm in hoa ,hoàn tất cắt và may. Trong xu hướng toàn cầu hóa các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu sẽ được phân bổ đến những nơi tạo ra giá trị gia tăng cao nhất và hoạt động hiệu quả nhất Hình 1 : Quy trình sản xuất và hoàn tất sản phẩm dệt may Nguồn: Quy hoạch phát triển dệt may Việt Nam đến năm 2020 2. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sau khủng hoảng 2.1.Xuất phát từ tác động cuộc khủng hoảng đến thị trường của ngành dệt may Trước đây, các nước Nam Á và Đông Nam Á nổi lên như một nguồn cung quan trọng với khách hàng Âu- Mỹ. Nhập khẩu hàng dệt may của cả Mỹ, EU từ các nước sản xuất hàng giá rẻ ở châu Á đều tăng trưởng khá mạnh, và mang lại sự khởi sắc của không ít nền kinh tế. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm thay đổi vị thế của nhiều nền kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực tăng trưởng, thậm chí có trường hợp đã đẩy một vài nền kinh tế theo xu hướng đó xuống tình trạng trượt dốc. Cămpuchia là một vị dụ đáng quan tâm. Trước khủng hoảng kinh tế, Cămpuchia tăng trưởng mạnh nhờ 80% kim ngạch thu được từ xuất khẩu quần áo giá rẻ sang Mỹ. Nhưng khi kinh tế Mỹ suy thoái, chỉ trong mấy tháng (từ tháng 9/2008 đến đầu năm 2009), 50.000 công nhân may (tức 17% lao động) mất việc làm. Nền kinh tế Cămpuchia đã từng tăng trưởng 10% năm 2007, đến nay, theo dự báo của WB chỉ còn 1%. Nêu ví dụ này để thấy, riêng trong ngành dệt may, tác động của cuộc khủng hoảng là rất lớn. Việc thu hẹp tiêu dùng và dựng lên những rào cản kỹ thuật ở cac thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản… đã khiến ngành dệt may Việt Nam gặp không ít khó khăn. Thị trường Mỹ là thị trường số 1 của Việt Nam, với thị phần tới 55% kim ngạch. Nhưng từ tháng 8/2008, Quốc hôi Mỹ đã thông qua luật mới về an toàn đối với sản phẩm nhập khẩu vào nước này. Theo đó, tất cả các sản phẩm dệt may vào Mỹ sẽ phải tuân thủ các quy định mới từ tháng 2/2009. Ủy ban giám sát của Mỹ sẽ tăng cường giám sát nghiêm ngặt hơn nữa các quy định an toàn sản phẩm như tính dễ cháy của vải. Cấm tuyệt đối các sản phẩm có dây thắt ở vùng cổ áo, đặt biệt là áo cho trẻ em. Mức phạt đối với nhà nhập khẩu hàng dệt may vi phạm sẽ tăng lên đến 15 triệu USD so với tối đa 3 triệu USD trước đây. Trong tình thế như vậy, các nhà nhập khẩu Mỹ sẽ đặt ra những yêu cầu cao hơn về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm. Trong khi đó, sự biến động giá hàng hóa thế giới theo chiều hướng giảm đã ảnh hưởng tới việc sản xuất và xuất khẩu của ngành dệt may các nước. Hơn thế, các cuộc cạnh tranh giữa các nước này sẽ càng gay gắt. Mặt khác, sự sụt giá của đồng USD khiến cho thị trường Mỹ tăng trưởng chậm hơn các năm trước. Năm 2004, trị giá hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ dạt 46,93 tỷ USD, đến năm 2007 đã tăng lên 53,12 tỷ USD. Nhưng trong thời khủng hoảng, 6 tháng đầu năm 2008, Mỹ chỉ còn nhập 23,7 tỷ USD hàng dệt may, giảm hơn 2 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước đó. Xu thế thứ 2 là thị trường dệt may Trung Quốc đang mất dần uy lực, mất dần sức cạnh tranh so với các nước lân cận. Nguyên nhân do thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, do chính sách mới khiến chi phí lao động tăng tới 20% và đồng Nhân dân tệ tăng giá so với đồng USD. Điều này khiến các doanh nghiệp Trung Quốc phải chuyển sang làm các sản phẩm chất lượng hơn với giá cao hơn… Tình trạng sử dụng các nguyên liệu có hàm lượng chất độc hại cao khiến sản phẩm dệt may cũng như nhiều sản phẩm khác của Trung Quốc bị tẩy chay ở nhiều quốc gia, khiến kim ngạch và thị trường tiêu thụ bị giảm sút mạnh. Kim ngạch XK quần áo trong 8 tháng đầu năm 2008 của Trung Quốc chỉ tăng 2,6%, thấp xa mức tăng 19,7% cùng kỳ năm trước. Người ta cũng dự báo năm 2009, tăng trưởng XK hàng dệt may Trung Quốc chỉ đạt 4,26% so với mức hai con số của những năm trước. Trong khi hàng dệt may Trung Quốc mất dần uy tín và uy lực, thì một hệ quả tất yếu là sự chuyển dịch đầu tư dệt may vào Trung Quốc sẽ chuyển sang các nước có ưu thế hơn. Trong đó Việt Nam là một địa chỉ hấp dẫn. Trong khối ASEAN, mức lương trả cho lao động Việt Nam cao hơn Cămpuchia, Lào, Mianma, bằng Indonesia nhưng thấp hơn Thái Lan, Malaysia. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn là sự lựa chọn ưu tiên vì năng suất trong ngành may Việt Nam cao hơn các nước kia và hàng có chất lượng khá. Vấn đề là Việt Nam làm gì để chớp được cơ hội này. 2.2.Do sự tái cơ cấu lại thị trường dệt may Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm mạnh, các nhà nhập khẩu đã giảm, nhưng ngành dệt may vẫn đạt được kết quả trên phải kể đến vai trò chuyển dịch cơ cấu thị trường của các DN dệt may đã có bước phát triển nhanh. Hiện nay, các DN đã có số lượng đơn hàng gia tăng từ các nhà nhập khẩu. Mặc dù có sự sụt giảm sản phẩm XK của nước ta vào một số thị trường lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật... nhưng bù lại, ngành dệt may đã tìm được một số thị trường mới như Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và các nước Trung Đông... Hiện tại, các DN dệt may không chỉ XK một số mặt hàng truyền thống là sản phẩm may, mà còn XK sản phẩm sợi, vải và phụ liệu. Đây là những sản phẩm dệt may chủ lực có sức tăng trưởng nhanh, trước đây Việt Nam phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản.. thì nay đã XK sang chính các nước đó. Qua đó khẳng định những lợi thế cạnh tranh của ngành đang được phát huy, tạo niềm tin vào hướng đi đúng đắn cho ngành dệt may trong thời kỳ khó khăn. 2.3 Do sự suy giảm của kim ngạch xuất khẩu dệt may Do chịu những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế mà kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam năm 2009 đạt 9,07 tỷ USD (giảm nhẹ 0,6% so năm 2008) . Thị trường Hoa Kỳ, Nhật bản vẫn là thị trường chủ đạo cho xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Hoa Kỳ vẫn đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu tháng 12 là 490,4 triệu USD, cả năm đạt gần 5 tỷ USD, chiếm 55,1% tổng kim ngạch; đứng thứ 2 là kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản tháng 12 đạt gần 96 triệu USD, tính chung cả năm đạt 954,1 triệu USD, chiếm 10,52%.  Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường trong năm 2009 hầu hết đều giảm hoặc chỉ tăng nhẹ so với năm 2008, chỉ có môt số thị trường có mức tăng đáng kể như: Hàn Quốc tăng 74,03%, đạt 242,5 triệu USD; Singapore tăng 63,73%, đạt 45,5 triệu USD; Philippines tăng 52,11%, đạt 17,34 triệu USD; Ấn Độ tăng 49,43%, đạt 14,1 triệu USD. Dẫn đầu về mức sụt giảm kimngạch so với năm 2008 đó là kim ngạch xuất sang Ucraina giảm 65,07%, chỉ đạt 12,4 triệu USD; Xếp thứ 2 về mức độ sụt giảm là kim ngạch xuất sang Nga giảm 41,15%, đạt 56 triệu USD; tiếp theo là kimngạch xuất sang Hungary giảm 40,89%, đạt 11,9 triệu USD. Năm 2009 Việt Nam mất 8 thị trường xuất khẩu hàng dệt may, nhưng mở rộng thêm được 4 thị trường mới đó là: Mêhicô, Cuba, Ai cập, Panama. Bài học rút ra đối với Dệt may Việt Nam Quý I/2009, hàng loạt xí nghiệp may đóng cửa vì không có đơn hàng, công nhân bị nợ lương rồi thất nghiệp. Đây có lẽ là những hình ảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế mà người Việt nhìn thấy tận mắt. Trong bối cảnh đó, ngành dệt may đã có những quyết sách đúng đắn để vượt qua khó khăn và cán đích thành công: Năm 2009 toàn ngành xuất khẩu 9,2 tỷ USD sản phẩm, tăng hơn 2% so với năm 2008 và trở thành ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, vượt qua cả dầu thô. Từ thành công của ngành dệt may năm 2009 có thể rút ra nhiều bài học quý báu trong kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp cần suy ngẫm. Thứ nhất, kiên trì bám chắc thị trường truyền thống và tích cực tìm kiếm những thị trường ngách để thực hiện chiến lược “người không ta có”. Cuộc suy thoái kinh tế phủ bóng đen lên khắp châu lục khiến cho nhiều thị trường chủ chốt của dệt may Việt Nam bị giảm sút. Trong 10 tháng đầu năm tính ra thị trường Hoa Kỳ giảm tới 4,59%, thị trường EU giảm 4,36% mà 2 thị trường này chiếm tới 5,5 tỷ USD trong 7,4 tỷ USD kim ngạch dệt may nói chung. Tuy nhiên, nói EU không có nghĩa là mọi quốc gia đều giảm. Trong EU có thị trường vẫn nhập nhiều sản phẩm dệt may Việt Nam. Trong 10 tháng toàn EU giảm như đã nêu nhưng có những thị trường địa phương vẫn tăng như Italia tăng 1,17%, Tây Ban Nha tăng 23,5%. Hoặc ngay ở thị trường Hoa Kỳ giảm chung là như thế nhưng vẫn có những mặt hàng tăng... Vấn đề chính là nhiều doanh nghiệp bám sát thị trường truyền thống này đã phát hiện và tìm cách gia tăng thị phần ở từng mặt hàng cụ thể, từng là thị trường cụ thể. Ngoài thị trường truyền thống, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn chú tâm tìm những thị trường ngách để thừa lúc các đối thủ chưa tìm đến thì mình đã có mặt như thị trường Châu Phi, Trung Phi, Đông Âu... Thứ hai, gia tăng chủng loại sản phẩm xuất khẩu, ngoài sản phẩm dệt may còn chú trọng xuất khẩu cả các loại khăn bông, vải, và các nguyên phụ liệu khác. Các doanh nghiệp đã tìm các thị trường cho không chỉ sản phẩm mà cả nguyên phụ liệu. Ví dụ Việt Nam đã xuất cả vải, khăn bông, phụ liệu sang các Tiểu vương quốc Ả Rập, Ai Cập, Nam Phi, sợi sang Thổ Nhĩ Kỳ. Công ty Hanosimex đã xuất khẩu tới 38% lượng sợi sản xuất được. Năm 2009 Việt Nam xuất sợi tăng 70% so với năm trước. Phải nói rằng sợi, vải và khăn bông Việt Nam đã đạt chất lượng cao nên rất được thị trường quốc tế chú ý, nhờ đó lượng xuất khẩu tăng. Trong đó đặc biệt khăn bông xuất khẩu đòi hỏi kỹ thuật rất cao và khăn bông Việt Nam đã vượt qua nhiều hàng rào kỹ thuật để vào được các thị trường khó tính. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu khăn bông vào thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Đây cũng là một thành công của dệt may Việt Nam.   Thứ ba, dệt may nước ta đã khai thác tốt cơ hội từ Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản. Theo đó, từ 1/10/2009, 90% mặt hàng xuất vào Nhật được hưởng thuế suất bằng 0%. Nhờ vận dụng hợp lý quy định doanh nghiêp sử dụng nguyên liệu vải từ các nước có hiệp định thương mại với Nhật được hưởng thuế suất 0% thay vì 5-10% trước đó nên chỉ trong 3 tháng cuối năm hàng dệt may vào Nhật tăng vọt. Tính ra cả năm hàng dệt may xuất sang Nhật tăng từ 23-25%. Đây là điều mà ít ngành hàng xuất khẩu Việt Nam khai thác được. Đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp dệt may có quan hệ làm ăn lâu dài với doanh nghiệp Nhật đã chớp thời cơ này tăng cường hơn quan hệ bạn hàng và xuất hàng vào Nhật. Ví dụ Dệt kim Đông Xuân, vốn có quan hệ hợp tác 20 năm qua với doanh nghiệp Nhật, năm nay đã ký thỏa thuận tiếp tục hợp tác trong 10 năm nữa và đã xuất sang Nhật lượng hàng tăng gấp 2 lần năm trước.  Thứ tư, dệt may là ngành sớm chuyển hướng tìm về thị trường nội địa và xây dựng thành một định hướng chiến lược lâu dài. Nhờ vậy doanh thu từ thị trường nội địa của Tập đoàn Dệt may đã tăng 26% so với năm 2008. Nhiều doanh nghiệp dệt may cũng có doanh thu cao từ thị trường nội địa như: May Việt Tiến đạt trên 600 tỷ đồng, tăng 180 tỷ đồng so 2008; May Nhà Bè đạt gần 300 tỷ đồng, May 10 đạt trên 100 tỷ đồng…   Thứ năm, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, dệt may Việt Nam chịu ảnh hưởng trên nhiều phương diện nhưng ngành đã sắp xếp lại lao động, đổi mới quy trình sản xuất theo hướng tinh gọn, hiệu qua, năng suất lao động Tập đoàn dệt may tăng 20-30%, đáp ứng được thời gian giao hàng, giảm chi phí đầu vào nên dù giá xuất khẩu giảm 15-17% do suy thoái nhưng tổng sản lượng xuất khẩu vẫn tăng 20-40%. Cuối năm, nhiều doanh nghiệp dệt may treo bảng tuyển lao động cho thấy sản xuất đã ổn định và phát triển.   Thứ sáu, ngành dệt may đã chú trọng xây dựng được nhiều thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường quốc tế. Nhiều thương hiệu được thế giới biết đến như May Việt Tiến, An Phước, Nhà Bè, May 10, Thăng Long, Sài Gòn… Hàng của Việt Tiến đã xuất sang nhiều quốc gia theo hệ thống đại lý bán hàng rất có uy tín.   Có thể tóm lại những bài học chiến lược thị trường, chiến lược sản phẩm của dệt may Việt Nam từ thành công của năm 2009 rất đáng để nhiều ngành sản xuất, doanh nghiệp nghiên cứu vận dụng trên thương trường. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1990 ĐẾN NAY I.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1. Lịch sử hình thành ngành dệt may Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người. Sau thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài người đã bắt chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên liệu. Theo các nhà khảo cổ thì sợi lanh là nguyên liệu dệt may đầu tiên của con người. Sau đó sợi len xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà và sợi bông ở ven sông Indus. Trong thời kỳ cổ đại, may dệt cũng tuỳ thuộc vào thổ nhưỡng và sinh hoạt kinh tế: các dân tộc sống về chăn nuôi dùng len (Lưỡng Hà, Trung Đông và Trung Á), vải lanh phổ biến tại Ai Cập và miền Trung Mỹ, vải bông tại Ấn Độ và lụa (tơ tằm) tại Trung Quốc. Các dân tộc Inca, Maya, Tolteca, v.v. tại châu Mỹ thì dùng các sợi chuối và sợi thùa. Theo Kinh Thi của Khổng Tử, tơ tằm được tì._.ối với các doanh nghiệp may: Từng bước di dời các cơ sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao động nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Xây dựng các trung tâm thời trang, các đơn vị nghiên cứu thiết kế mẫu, các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu và thương mại tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn. b) Đối với các doanh nghiệp sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất vải: Xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt may có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường theo quy định của Nhà nước. Thực hiện di dời và xây dựng mới các cơ sở dệt nhuộm tại các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để có điều kiện xử lý nước thải và giải quyết tốt việc ô nhiễm môi trường. c) Xây dựng các vùng chuyên canh bông có tưới tại các địa bàn có đủ điều kiện về đất đai, thổ nhưỡng và khí hậu nhằm nâng cao sản lượng, năng suất và chất lượng bông xơ. 1.3.  Bảo vệ môi trường a) Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường. b) Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp. c) Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000. d) Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường. e) Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. g) Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Mục tiêu phát triển của dệt may Việt Nam đến năm 2020 Nhằm tạo được bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm,ngành dệt may Việt Nam đã có chiến lược phát triển đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa. Trong đó, mục tiêu phát triển ngành dệt may thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu ; thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước,tạo nhiều việc làm cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp dệt may cố gắng phát triển bền vững, đạt hiệu quả cao trên cơ sở công nghệ hiện đại, hệ thống quản lý chất lượng, quản lý lao động, quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Từ đó, ngành đề ra các mục tiêu tăng trưởng sản xuất bình quân :đạt 16% đến 18% (2008 -2010); 12% đến 14% (2011- 2015); 12% đến 14% (2016 - 2020) Bên cạnh việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển cho ngành dệt may, toàn ngành cố gắng mở rộng việc xuất khẩu trong đó phấn đấu : Giai đoạn 2008 – 2010: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 20% và kim ngạch xuất khẩu đạt 12,0 tỷ USD vào năm 2010. Giai đoạn 2011 đến 2015: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 18 tỷ USD vào năm 2015. Giai đoạn 2016 đến 2020: tăng trưởng xuất khẩu bình quân đạt 15% và kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD vào năm 2020. Ngoài ra ngành dệt may sẽ tập trung phát triển và nâng cao năng lực về nguồn nhân lực, nguồn nguyên, phụ liệu để có nguồn nhân lực chuyên môn cao, tạo nên sản phẩm chất lượng cao gắn với thương hiệu uy tín; có thể phát triển được khoa học kĩ thuật đồng thời bảo vệ được môi trường; đầu tư để sản xuất và nguyên phụ liệu gắn liền với hợp tác quốc tế; cung ứng nguyên phụ liệu bằng việc xây các trung tâm cung ứng tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn, thu hút đầu tư nước ngoài và nội địa để đầu tư sản xuất các sản phẩm hoá chất (xơ, sợi, hóa chất…). Bảng 5: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015 với tầm nhìn đến năm 2020 Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 1. Kim ngạch XK Triệu USD 12.000 18.000 25.000 2. Sử dụng lao động 1000 người 2.500 2.750 3.000 3. Sản phẩm chủ yếu - Bông xơ 1000 Tấn 20 40 60 - Xơ, sợi tổng hợp 1000 Tấn 120 210 300 - Sợi các loại 1000 Tấn 350 500 650 - Vải các loại Triệu m2 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may Triệu sản phẩm 1.800 2.850 4.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 50 60 70 Nguồn: Bộ Công Thương III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU DỆT MAY VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU KHỦNG HOẢNG 1. Nhóm giải pháp từ phía nhà nước Để thúc đẩy xuất khẩu dệt may việt Nam thì nhà nước càn có các giải pháp sau đây: 1.1. Phát triển nguyên phụ liệu cho ngành dệt may Một điểm bất lợi cho dệt may Việt Nam là không có sẵn nguồn nguyên phụ liệu. Theo thống kê, hàng năm dệt may Việt Nam phải nhập 70% Nguyên phụ liệu dệt may để phục vụ cho sản xuất dệt may xuất khẩu. Chính vì phải nhập khẩu quá lớn nên giá thành sẽ bị đẩy lên cao, so với Trung Quốc, giá thành sản phẩm cùng loại của ta đắt hơn từ 20-30%. Thêm nữa, do việc nhập khẩu là quá lớn nên các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chịu sức ép của các nhà cung cấp nguyên phụ liệu và gặp khó khăn khi thực hiện những đơn giá đặt hàng. Tình trạng thiếu hụt nguyên phụ liệu này một phần là do sự phát triển không cân đối giữa ngành dệt và ngành may. Hiện nay,chỉ có khoảng 30% sản phẩm ngành dệt đủ đáp ứng nhu cầu cho hàng may xuất khẩu. So với các nước trong khu vực thì năng suất lao động của ngành dệt chỉ bằng 30-50% Với thực trạng trên, nhà nước cần có chiến lược quy hoạch nhằm phát triển vùng phụ liệu trong nước. Ngành dệt may cần kết hợp với ngành nông nghiệp để phát tiển các vùng trồng bông, tăng diện tích trồng bông ở khu vực Tây Nguyên và các vùng khác. Cần mời chuyên gia giỏi ở các nước nổi tiếng trên thế giới như Hoa kỳ, Úc tư vấn, giám sát về kỹ thuật trồng bông để tạo ra bông có chất lượng cao đấp ứng tiêu chuẩn để sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. Phát triển ngành dệt để theo kịp ngành may, cần tạo ra các sản phẩm sợi, vải đủ tiêu chuẩn cho hàng dệt may xuất khẩu hay đảm bảo cho mặt hàng dệt. Muốn vậy nhà nước cần có quy hoạch cụ thể về việc phát triển nguyên phụ liệu cho ngành tơ phát triển, có các chính sách ưu đãi cho phát triển ngành này. Và để đảm bảo đầu ra cho nguyên phụ liệu sản xuất trong nước, nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nâng tỷ lệ nội địa hóa thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. 1.2. Phát triển công nghệ Phát triển công nghẹ là khâu trọng yếu trong chiến lược tăng tốc của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010. Phát triển công nghệ giúp năng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Thực tế,Việt Nam chủ yếu nhận chuyển giao công nghệ có khi còn nhập khẩu cả những công nghệ từ thập niện 70. Sự hạn chế trong công nghệ đã làm hạn chế đến năng suất và chất lượng của sản phẩm dệt may. Do đó nhà nước cần có những biện pháp phát triển công nghệ cho ngành dệt may Trước mắt là vẫn phát triển qua con đường chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên nhà nước cần phát triển hoạt động của bộ phận đánh giá công nghệ nhằm giúp các doanh nghiệp trong khâu đánh giá công nghệ. Với góc độ của nhà nước, việc đánh giá công nghệ sẽ có tầm nhìn rộng hơn, bao quát hơn. Đánh gía công nghệ phải xác định được công nghệ nào là hiện đại, là phù hợp với trình độ sản xuất của đất nước tránh tình trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu, hay công nghệ quá hiện đại mà không sử dụng được. Về lâu dài, nhà nước cần phát triển các trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp dệt may tự nghiên cứu và phát triển công nghệ của chính mình nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của dệt may Việt Nam. 1.3 Đào tạo và phát triển nhân lực Nguồn nhân lực của ngành dệt may Việt Nam còn yếu và thiếu cả đội ngũ lao động có trình độ cao và cả đội ngũ lao động sản xuất trực tiếp. Với đội ngũ lao động có trình độ cao, ngành dêt may thiếu những nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ cao, có khả năng tạo ra các mẫu mã phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng, thiếu đội ngũ cán bộ quản lý tốt thậm chí thiếu cả những cán bộ nhân viên am hiểu thị trường Với đội ngũ lao động trực tiếp,theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70% trong khi các nươc tỏng khu vực là 90% Trước tình hình đó, nhà nước cần đẩy mạh công tác giáo dục, đào tạo, chú trọng đến đội ngũ thiết kế, đội ngũ quản lý và đội ngũ nhân viên kinh doanh am hiểu thị trường thông qua việc - Đầu tư cho các trường đại học Công Nghiệp, đại học Bách Khoa hay đại học Kiến Trúc phát triển khoa thiết kế thời Trang - Khuyến khích các sinh viên theo học thiết kế thời Trang - Tổ chức các buổ biểu diễn thời trang và các cuộc thi thời trang để tạo điều kiện cho các nhà thiết kế có điều kiện thử sức và khẳng định mình - Tạo điều kiện cho các sinh viên học ở các trường kinh tế có điều kiện tiếp xúc với thực tế để rèn luyện kinh nghiệm thực tế ngay khi còn là sinh viên. Còn đối với đội ngũ lao động trực tiếp thì nhà nước cần đầu tư cho các trường đào tạo công nhân ngành may nhằm tiêu chuẩn hóa các thao tác và từ đó nâng cao năng suất lao động 1.4. Các giải pháp về vốn Vốn là nguồn lực hạn chế của các công ty khi muốn mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Theo như dụ kiến của các doanh nghiệp dệt may cần 6-7 tỷ USD vào năm 2010 để đầu tư cho chiều sâu, phát triển sản xuất và thúc đẩy sản xuất. Do đó,nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn được dễ dàng và được hưởng ưu đãi thông qua - Phát triển hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng trong nước và quốc tế để tạo nguồn cung vốn phong phú. - Nới lỏng các quy định về vay vốn như tỷ lệ thế chấp, ký quỹ… - Có các ưu đãi về lãi suất - Thu hút nguồn vốn nước ngoài thông qua thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho ngành dệt may. 1.5.Giúp đỡ các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm Sự hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp trong công tác này được thể hiện thông qua xúc tiến thương mại - Bộ Thương mại nên tăng cường tổ chức hoặc liên hệ cho các doanh nghiệp dệt may tham gia các hộ chợ chuyện ngành dệt may, hội chợ hàng tiêu dùng và hỗ trợ các doanh nghiệp chi phí tham gia hội chợ - Thương vụ Việt Nam chịu trách nhiệm cung cấp các thông tin chung về thị trường như quy mô, tốc độ tăng trưởng, xu hướng tiêu dùng, sức mua…của hàng dệt may và các thông tin của các đối thủ cạnh tranh hay quan trọng hơn đối với doanh nghiệp xuất khẩu dệt may là thông tin về nhà nhập khẩu - Các cơ quan thuộc chính phủ sẽ đóng vai trò là cầu nối cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam với các nhà nhập khẩu có nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam. Việc gắn kết này sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giảm được các chi phí tìm kiếm bạn hàng và có được các thông tin xác thực về nhu cầu nhập khẩu hàng của các nhà nhập khẩu. - Tư vấn cho các nhà doanh nghiệp về cách điều tra thông tin hiệu quả nhất - Giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tìm kiếm nguồn thông tin đáng tin cậy từ các dịch vụ cung cấp tin Với sự giúp đỡ trên của nhà nước,các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sẽ được thuận lợi hơn rất nhiều trong qua trình thực hiện công tác nghiên cứu mở rộng thị trường, xúc tiến và quảng bá sản phẩm, giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí tài chính và rút ngắn được thời gian, tận dụng được cơ hội kinh doanh. 1.6.Các chính sách ưu đãi về thuế Thuế quan sẽ tác động đến giá cả hàng hóa và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Để giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh. Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về thuế Giảm thuế quan là biện pháp mà các công ty trông đợi nhất ở chính sách thuế. Ngành dệt may là ngành phải nhập khẩu 70% nguyên phụ liệu để sản xuất sản phẩm cho nên nhà nước nên giảm thuế hoặc miễn thuế nhập khẩu cho các nguyên phụ liệu chính như bông, vải, sợi giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, nhà nước cũng cần giảm thuế VAT, thuế xuất khẩu giúp hạ giá thành sản phẩm. Nhà nươc phải có các văn bản hướng dẫn các doanh nghiệp về việc thực thi luật thuế hay thông báo cho các doanh nghiệp khi có sự thay đổi Hoàn thiện các quy định về thuế giúp các doanh nghiệp dễ dàng trong việc khai thuế và nộp thuế Ngoài các chính sách trên nhà nước cần cải cách các thủ tục Hải quan theo hướng đơn giản hóa nhằm tiết kiệm thời gian cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu Hỗ trợ cho các doanh nghiệp bằng việc lập các quỹ hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường Hay cập nhập các thông tin về luật pháp của các thị trường nhập khẩu. Xây dựng chế độ quản lý hạn ngạch minh bạch tránh tinh trạng mua bán chuyển nhượng hạn ngạch trái phép, có kế hoạch phân bổ hạn ngạch sớm để giúp các doanh nghiệp có định hướng khi sản xuất hàng xuất khẩu vào thị trường nhập khẩu, giảm chi phí hạn ngạch giúp các doanh nghiệp giảm thêm khoản chi phí. Trên đây là các biện pháp nhà nước cần thực hiện để thúc đẩy xuất khẩu dệt may Việt Nam. 2.Nhóm giải pháp đối với ngành dệt may Việt Nam 2.1.Chủ động tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các nước nhập khẩu lớn của hàng dệt may Việt Nam đều cắt giảm sản lượng, như thị trường Mỹ giảm 4,4%, EU giảm 3,8%...Đó là những thị trường xuất khẩu lớn của dệt may Viêt Nam, cho nên việc giảm kim ngạch vào các thị trường này gây bất lợi rất lớn đối với ngành dệt may. Trước thực trạng đó, việc mở rộng và xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường mới là việc làm cần thiết của dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp dệt may cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến nghiên cứu thị trường ngoài nước, phân tích đến dự báo để có biện pháp kịp thời ứng phó và đặc biệt quan tâm tổ chức mời khách hàng tiềm năng vào thương lượng tại Việt Nam. Ngoài ra doanh nghiệp dệt may cần có những sản phẩm mang tính khác biệt hóa, ít cạnh tranh. Bên cạnh đó,doanh nghiệp dệt may VIệt Nam cần có chiến lược tiếp cận với thị trường Nhật Bản để khai thác tốt Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản, đồng thời khai thác thị trường mới đầy tiềm năng tại Trung Ðông, Nam Phi, Nga…Những thị này này là vô cùng mới mẻ đối với ngành dệt may nhưng chắc chắn sẽ không phải là những thị trường quá khó tính và nhiều hạn ngạch như thị trường Mỹ hay EU. Khi lập được mối làm ăn với thị trường mới, ngành dệt may sẽ ít bị phụ thuộc hơn vào các thị trường xuất khẩu truyền thống. 2.2.Giải pháp về thiết kế: “Thực hiện chiến lược thời trang hoá ngành Dệt may” Những năm qua, công nghiệp thời trang Việt Nam đã phát triển ngược, thay vì phải bắt đầu từ thiết kế, kế đến là sản xuất và phân phối thì ngành lại bắt đầu đi từ phân phối (xuất khẩu sang các nước) rồi mới quay lại khâu thiết kế. sản phẩm công nghiệp thời trang Việt Nam trong các đơn hàng xuất khẩu chỉ chứa 30% hàm lượng sáng tạo nội địa; trong khi 70% còn lại là sao chép từ nước ngoài.Do đó ngành dệt may chỉ đóng vai trò ở khâu cung cấp sản phẩm thô. Đây là khâu ít lợi nhuận nhất. Vì thế dệt may Việt Nam cần chuyển hướng phát triển sang các vị trí khác và phát triển theo chủ trương “thời trang hoá” ngành dệt may là một trong những hướng phát triển quan trọng. Thời trang hóa sẽ tạo ra thương hiệu cho dệt may Việt Nam. Đây cũng là xu hướng tất yếu và lâu dài của ngành công nghiệp dệt may thế giới, vì nó mang lại nhiều lợi ích và giá trị hơn so với làm gia công. Dệt may nước ta cũng sẽ trải qua các giai đọan từ sản xuất gia công, tiến đến sản xuất hàng thời trang tại thị trường trong nước và vươn ra thế giới . Các doanh nghiệp Việt Nam cần dùng thiết kế để tạo cho sản phẩm có sự khác biệt, nhiều ưu điểm hơn sản phẩm thông dụng để tìm đến các thị trường tiêu thụ mới . Thành lập trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá, tổ trưởng - chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu. Các công ty tìm hiểu thị trường, đưa các thiết kế mới thăm dò nhu cầu khách hàng; từ đó tổ chức đội ngũ thiết kế thời trang chuyên nghiệp hơn. Để làm được điều này, các công ty phải đầu tư nguồn vốn khá lớn. Việc nâng cấp có thể được tiến hành bằng nhiều con đường khác nhau, như phát triển năng lực thầu trọn vẹn, tích hợp dọc, đa dạng hoá mạng lưới xuất khẩu, hoặc dịch chuyển tới khâu thiết kế và marketing. Tuy nhiên, chính sự linh động và thích nghi trong thay đổi điều kiện kinh tế và chính sách mới thực sự cần thiết cho cạnh tranh vững vàng. Để có được điều đó ngành dệt may Việt nam cần xác định phải đầu tư cho nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực thiết kế , marketing và kinh doanh. è Quá trình thời trang hóa ngành dệt may có thể sẽ phải tốn công sức và thời gian nhiều hơn. 2.3. Giải pháp cho mạng lưới phân phối và Marketing: “Thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu”. Hàng dệt may Việt Nam đang phải đối đầu với những nước có khả năng cạnh tranh cao, có nhiều thuận lợi và kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị trường về các mặt như: vật tư, thiết bị, quản lý, tài chính, tiếp thị, nghiên cứu và phát triển. Vì vậy, để ngành dệt may đạt được mục tiêu xuất khẩu năm 2020 ngành dệt may cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp đồng bộ mang tính chiến lược sau đây: Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh vào các cụm công nghiệp dệt may theo hướng tập trung vào lĩnh vực dệt - nhuộm, đầu tư hoàn tất khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%, giảm dần tỷ lệ hàng gia công. Bên cạnh đó, đầu tư mở rộng sản xuất tại các địa phương có tiềm năng, có nguồn nhân lực dồi dào; phối hợp liên doanh - liên kết và giúp đỡ các địa phương phát triển ngành dệt may và cùng thực hiện các đơn hàng lớn; hỗ trợ các doanh nghiệp may địa phương đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm năng khác. Thực hiện chuyên môn hoá các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” đủ mạnh về tài chính, công nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ, ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cần cố gắng giảm giá thành sản phẩm thông qua các biện pháp nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí cố định trong quản lý, giảm tiêu hao năng lượng điện trong sản xuất (ở Việt Nam thường cao hơn 2,4 đến 3,6 lần so với các nước trong khu vực), chia sẻ giữa các doanh nghiệp chi phí tiếp thị, chi phí thông tin thị trường. Triệt để thực hiện chủ trương tiết kiệm 10% chi phí của các doanh nghiệp, coi đó như là cơ sở để tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với hàng dệt may Trung Quốc. Chỉ có làm như vậy, các doanh nghiệp dệt may mới tạo được giá cả sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường và được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam thông qua việc: áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO 14000, SA 8000; tham gia các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế; xác định cấp tiêu chuẩn sản phẩm trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính. Qua đó, xác định cơ cấu mặt hàng và định hướng cho các doanh nghiệp. Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng. Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường. Nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình hình thị trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài... 2.4. Giải pháp tăng cường và phát triển nguồn nhân lực. Để phát triển và tăng khả năng cạnh tranh, ngành Dệt May Việt Nam đang xác định hướng dịch chuyển của ngành theo hướng thời trang – công nghệ - thương hiệu. Để đáp ứng yêu cầu dịch chuyển và mục tiêu phát triển bền vững, ngành Dệt May cần có nguồn nhân lực chất lượng cao  Với cán bộ quản lý: cần đào tạo cho họ một hệ thống kiến thức đầy đủ, bài bản về nền kinh tế thị trường, kiến thức về quản lý và các kỹ năng quản lý, kinh doanh. Bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ quản lý về quan điểm tư tưởng kinh doanh trong giai đoạn mới.  Nhà quản lý biết cách tiếp cận và sử lý thông tin, để kinh doanh có hiệu quả, biết cách đánh giá thị trường và lĩnh vực doanh nghiệp đang kinh doanh, có kiến thức toàn diện về tâm lý-xã hội để làm việc tốt với con người. Đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn cần có đội ngũ  thiết kế mẫu và thời trang chuyên nghiệp, có khả năng gắn kết thời trang với sản xuất, đạt trình độ quốc tế. Đối với công nhân lao động cần đào tạo cho người công nhân có tay nghề vững vàng, nắm vững khoa học- công nghệ tiên tiến. Với yêu cầu như vậy cần có quan điểm: Đào tạo giữ vị trí ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng nguồn nhân lực; Đào tạo nguồn nhân lực của ngành Dệt May cần gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, của ngành, gắn với tiến bộ của khoa học - công nghệ; Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May là công việc chung của chính quyền, của các cơ sở đào tạo, của doanh nghiệp và của chính bản thân người lao động. Để hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của ngành Dệt May hướng đến sự phát triển bền vững của ngành cần: Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với đặc điểm nguồn nhân lực của ngành Dệt May. Chương trình đào tạo –phát triển cần được tính toán từ hai phía: kế hoạch đào tạo-phát triển của doanh nghiệp và một hệ thống cơ sở đào tạo  đủ sức đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp. Từng doanh nghiệp Dệt may chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo theo các bước: (1) Dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của doanh nghiệp; (2) Xác định kế hoạch đào tạo; (3) Tổ chức thực hiện; (4) Xác định nguồn kinh phí cho đào tạo; (5) Đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt việc đánh giá hiệu quả hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp dệt may  cần xEM xét như đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, để giúp doanh nghiệp có thể mạnh dạn bỏ những khoản tiền lớn cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra doanh nghiệp cũng xây dựng các chính sách hỗ trợ để kích thích công nhân tự nâng cao tay nghề như chế độ tiền lương, tiền thưởng vượt định mức, chính sách thưởng, phạt trong doanh nghiệp, nâng cao chất lượng đối với khâu tuyển dụng đầu vào:   Các chương trình đào tạo xây dựng phải phù hợp với nguồn nhân lực của ngành Dệt May:   Đào tạo cán bộ quản lý sẽ kết hợp ngắn hạn với dài hạn, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài, kết hợp đào tạo chính qui, tại chức, bằng 2...với các lớp không chính qui như các lớp cập nhật lại, đào tạo lại, chuyên đề. Liên tục mở các lớp đào tạo cán bộ công nghệ trình độ Đại học và cao đẳng. Thường xuyên mở các lớp cập nhật kiến thức. Đối với công nhân trong doanh nghiệp ưu tiên cho phương pháp đào tạo tại nơi làm việc, kết hợp với các phương tiện hỗ trợ để đào tạo trong thời gian nghỉ của công nhân và thời gian rỗi việc.   Đối với nguồn công nhân đào tạo mới để cung cấp cho doanh nghiệp cần xây dựng hệ thống đào tạo nghề có sự liên kết bền vững với doanh nghiệp.   Thứ hai, đầu tư củng cố và phát triển hệ thống các trường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May. Chính phủ hoàn thiện hệ thống đào tạo nghề cho ngành Dệt-May để đảm bảo cho các doanh nghiệp có thể gửi CBCNV đến học tập nâng cao trình độ, tay nghề. Các cơ sở đào tạo cần có khả năng cung ứng chất lượng, hiệu quả và linh hoạt để đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp dệt may. Thứ ba, về lâu dài song song với sự phát triển bền vững của ngành dệt may sẽ hướng đến xây dựng mô hình liên kết bền vững giữa doanh nghiệp dệt may và các cơ sở đào tạo Dệt May. Đó là liên kết phải giải quyết được các vấn đề như: đảm bảo hoạt động đào tạo bền vững của cơ sở đào tạo; đảm bảo hoạt động kinh doanh bền vững của doanh nghiệp thông qua việc có được nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu; các mối liên kết phù hợp với luật pháp và xã hội, góp phần tạo ổn định xã hội; thỏa mãn nhu cầu của người học và người lao động để họ gắn bó lâu dài với ngành dệt may. 2.5. Nâng cao trình độ công nghệ. Cũng như nhiều ngành công nghiệp khác, trình độ công nghệ có ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may. Thực tế, trình độ công nghệ của ngành công nghiệp phụ trợ dệt may Việt Nam hiện nay còn ở mức thấp, năng lực quản lý không cao, vì thế chưa có khả năng sản xuất dược những sản phẩm chất lượng cao, như các loại thuốc nhuộm, các loại xơ sợi tổng hợp, các máy móc thiết bị phức tạp … Do đó, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngànhc ông nghiệp phụ trợ dệt may, phải quan tâm rất lớn đến việc đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra những sản phẩm mới chất lượng cao, giá cả cạnh tranh. Trước hết, có thể tiếp tục sử dụng các máy móc thiết bị vẫn còn khả năng sản xuất. Bởi trong những năm tới, chúng ta vẫn chưa có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Mặt khác, việc đào tạo cán bộ, công nhân để tiếp thu công nghệ.mới và sử dụng có hiệu quả các thiết bị cũng cần có thời gian. Tất nhiên, việc đầu tư thiết bị công nghệ mới là tất yếu, nhưng nó sẽ được thực hiện từng bước, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ cũ. Bên cạnh đó, đẩy nhanh đầu tư, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thịt rường. Để làm được điều này, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: Cần xây dựng cơ chế tài chính hợp lý hơn và đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có năng lực công nghệ hoạt động công nghệ thực sự. Có cơ chế xây dựng, xét duyệt và đánh giá khách quan giá trị của các đề tài nghiên cứu khoa học, các công nghệ được chuyển giao. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Có những ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ và có cam kết phát triển một số doanh nghiệp nội địa phát triển công nghiệp phụ trợ. Khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển và đổi mới công nghệ… Khuyến khích các tổ chức cung cấp và thông tin công nghệ để giúp các doanh nghiệp có cơ hội cập nhật thông tin công nghệ, lựa chọn và xác lập phương án đổi mới công nghệ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và yêu cầu của thị trường. 3. Một số giải pháp khác Một là, tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống thông tin chiến lược toàn ngành để cung cấp kịp thời cho các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Hai là, tiếp tục vận động hành lang và đấu tranh chống lại cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và tự khởi động điều tra chống bán phá giá của chính phủ Hoa Kỳ. Ba là, tiếp tục đổi mới cơ cấu sản phẩm, tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, mở rộng thị trường xuất khẩu tránh tập trung quá lớn vào một vài thị trường chính. Hơn nữa các doanh nghiệp dệt may cần đẩy nhanh quá trình xây dựng tiêu chuẩn SA8000 để đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, đặc biệt là đối với thị trường Hoa Kỳ KẾT LUẬN Bài viết này nghiên cứu thực trạng của ngành dệt may thời kỳ hậu khủng hoảng như một công cụ để có thể xác định vị trí của ngành dệt may trong hệ thống dệt may thế giới. Qua đó có thể thấy rằng, ngành Dệt may Việt Nam tuy đã có những kim ngạch xuất khẩu cao nhưng trước tình hình biến động của thế giới cụ thể là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì vẫn chịu những ảnh hưởng không nhỏ. Việt Nam hiện nay mới chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng, mà chủ yếu là hình thức gia công. Sự phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, vốn đầu tư hạn chế, yếu tố con người chưa được xem xét đầu tư thích đáng… dẫn đến sản phẩm của Dệt May Việt Nam không có sức canh tranh trên thị trường quốc tế, giá trị gia tăng thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, canh tranh gay gắt như hiện nay, nhất là khi thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoảng mang tính nặng nề thì để đạt được mục tiêu phát triển ngành dệt may thì trong thời gian tới, Dệt May Việt Nam cần có những biện pháp phù hợp. Đề tài nghiên cứu này được hoàn thành cũng không nằm mục đích đó. Bài viết còn nhiều hạn chế và thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài ngày càng được hoàn thiện. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PSG.TS. Ngô Thắng Lợi, Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển KT- XH , NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh Tế Phát Triển, NSX Lao Động- Xã hội GS.TS. Đỗ Đức Bình, Giáo trình Kinh Tế quốc tế, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân Chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành Dệt may Việt Nam đến năm 2010. Quy hoạch phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn 2020, Bộ công nghiêp- tập đoàn Dệt may Việt Nam. Báo cáo đề tài nghiên cứu cấu trúc ngành và hiệu quả kinh tế, Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp- Bộ Công nghiệp Báo cáo tình hình hoạt động và triển vọng của ngành Dệt May Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam, tháng 12/2006 Các tạp chí: con số và sự kiện; tạp chí công nghiệp; tạp chí kinh tế và phát triển… Các trang Web của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các trang khác có liên quan. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25660.doc
Tài liệu liên quan