Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty cổ phần Mirae Fiber

Tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty cổ phần Mirae Fiber: ... Ebook Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty cổ phần Mirae Fiber

doc61 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1664 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty cổ phần Mirae Fiber, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n Khoa KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ =========== Chuyªn ®Ò thùc tËp Đề tài: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MIRAE FIBER Sinh viên thực hiên : NguyÔn HUY b×nh Lớp : QTKDQT 46A Giảng viên hướng dẫn : Ts. NguyÔn anh minh Hµ néi - 2008 LỜI MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới quôc gia, trở thành vấn đề toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngaọi để tham gia vào xu hướng toàn cầu hóa và mang lại hiệu quả cao, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngành dệt may của Việt Nam đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường và là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trên thị trường thế giới, Việt Nam cũng đã khẳng định được vị thế của mình khi có quan hệ với hơn 250 công ty thuộc 60 quốc gia trên thế giới. Công ty Cổ phần Mirae Fiber (Hưng Yên) là một trong hai công ty con của Công ty Mirea Fiber Technology Co.,Ltd (Hàn Quốc) tại Việt Nam. Hiện Công ty đang hoạt động trong ngành dệt may và hoạt động chủ yếu là xuất khẩu nguyên phụ liệu ngành may mặc. Kể từ khi công ty được thành lập dưới hình thức là chi nhánh của công ty TNHH Mirae Fiber VN cho đến khi trở thành công ty cổ phần, Công ty đã liên tục tăng trưởng, không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất và ngày càng lớn mạnh. Công ty đã thiết lập được những thị trường truyền thống như Hàn Quốc và đang đứng vững trên một số thị trường lớn như: EU, Bắc Mỹ, Asean. Thông qua hoạt động xuất khẩu, Công ty có thể tận dụng được các tiềm năng sẵn có để sản xuất ra các hàng hóa phục vụ cho việc trao đổi, buôn bán với các quốc gia khác nhằm thu ngoại tệ. Tuy có được sự tăng trưởng rất tốt trong thời gian qua nhưng Công ty cũng đã bộc lộ những hạn chế khiến cho công tác xuất khẩu của Công ty bị hạn chế cần khắc phục để có thể đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu của Công ty, đưa Công ty lên vị trí mới lớn mạnh hơn, phát triển hơn. Qua đó, chúng ta có thể thấy vai trò quan trọng của việc xuất khẩu và việc cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Mirae Fiber tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty Cổ phần Mirae Fiber” để nghiên cứu trong cho chuyên đề thực tập của mình. 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của chuyên đề là nghiên cứu đề xuất các giải pháp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Cổ phần Mirae Fiber trong thời gian tới. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng của doanh nghiệp. Cụ thể chuyên đề sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động xuất khẩu nguyên phụ liệu ngành may của Công ty Cổ phần Mirae Fiber trong quãng thời gian từ năm 2005 đến năm 2007. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là trong Công ty Cổ phần Mirae Fiber. 1.4. Kết cấu của đề tài Kết cầu của chuyên đề thực tập bao gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty Cổ phần Mirae Fiber Chương III: Định hướng và một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Cổ phần Mirae Fiber CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP. 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vài trò của xuất khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hóa 1.1.1.1. Khái niệm Thương mại quốc tế đang diễn ra hàng giờ, hàng ngày giữa các quốc gia trên khắp thế giới. Có thể nói, thương mại quốc tế là một phần không thể thiếu cho sự phát triển của các quốc gia ngày nay, từ các nước nghèo, các nước đang phát triển tới các nước phát triển đều cùng tham gia vào hoạt động này. Thương mại quốc tế là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới thông qua quan hệ mua bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu hiện của một hình thức quan hệ xã hộ ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhay về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt. Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng trong hoạt động thượng mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán những hàng hóa của quốc gia đó cho một hay nhiều quốc gia khác trên thế giới nhằm thu ngoại tệ. Như vậy, về bản chất hoạt động xuất khẩu và hoạt động buôn bán trong nước đều là một quá trình trao đổi hàng hóa (bán hàng) , đơ là quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của người xản xuất hoặc người bán. Tuy nhiên, về hình thức và phạm vi hoạt động thì hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà xuất khẩu cần nhận thấy để có sự vận dụng hợp lý. 1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu hàng hóa Thứ nhất, khách hàng trong hoạt động xuất khẩu là người nước ngoài. Do đó, khi muốn phục vụ họ, nhà xuất khẩu không thể áp dụng các biện pháp giống như khi chinh phục khách hàng trong nước. Bời vì, khách hàng nước ngoài có nhiều điểm khác biệt về ngôn ngữ, lối sống, phong tục tập quán… với khách hàng trong nước, do đó sẽ dẫn đến những khác biệt trong nhu cầu và cách thức thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, nhà xuất khẩu cần có sự nghiên cứu sâu hơn để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng nước ngoài để đưa ra những hàng hóa cho phù hợp. Thứ hai, thị trường trong kinh doanh xuất khẩu thường phức tạp và khó tiếp cận hơn thị trường trong nước. Bời vì thị trường xuất khẩu vượt ra ngoài biên giới quốc gia nên về mặt địa lý thì nó ở cách xa hơn, phức tạp hơn và có nhiều nhân tố ràng buộc hơn. Thứ ba, hình thức mua bán trong hoạt động xuất khẩu thường là mua bán qua hợp đồng xuất khẩu với khối lượng mua lớn mới có hiệu quả. Thứ tư, các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động xuất khẩu như thanh toán, vận chuyển, ký kết hợp đồng… đều phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là sự mở rộng quan hệ buôn bán trong nước ra nước ngoài, điều này thể hiện sự phức tạp của nó. Hoạt động xuất khẩu có thể đem lại kết quả cao hơn hoạt động kinh doanh trong nước nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro hơn. 1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia được thực hiện bởi các đơn vị kinh tế của các quốc gia đó mà phần lớn là thông qua các doanh nghiệp ngoại thương, Do vậy, thực chất của hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các quốc gia là hoạt động xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu không chỉ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân mà còn đối với bản thân các doanh nghiệp tham gia. 1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân Là một nội dung chính trong hoạt đông ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, xuất khẩu có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc gia: Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về cốn. Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn lực chủ yếu cho họ phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này có thể trả nợ được. Thứ hai, xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang và sẽ thay đổi manh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch kinh tế: - Coi thị trường là mục tiêu sản suất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là: Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả năng sản xuất của quốc gia đó. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất mới. Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đẵ có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ bộ phận được thực hiên ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải xản xuất ra tất cả các loại hàng hóa mà mình cần, thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hóa mà mình cần. - Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những hàng hóa thừa trong tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ đáp ứng tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng châm, do đó ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ ba, xuất khẩu có tác đông tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống của người dân. Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của người dân. Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động cơ bản, là hình thức ban đầu của kinh tế điíu ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của ngành này thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 1.1.2.2. Đối với Doanh nghiệp Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế. Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản phẩm phù hợp với thị trường. Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người dân, vừa thu được lợi nhuận. Sản xuất hàng xuất khẩu còn giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào tái sản xuất không chỉ về chiều rộng mà cả chiều sâu. Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Vì vậy mà giúp doanh nghiệp tăng được cả về doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh. Tăng cường uy tín kinh doanh cho công ty. Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh. Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia. 1.2. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu Hoạt động xuất khẩu hàng hóa được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hóa trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn hàng xuất khẩu… Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau: 1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hóa mà trong đó các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó bán các sản phẩm này cho khách hàng nước ngoài (có thể qua công đoạn gia công chế biến). Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng hóa để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hóa từ các địa phương, các cơ sở sản xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hóa thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Ưu điểm của phương thức xuất khẩu này là các doanh nghiệp có thể đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn các hình thức xuất khẩu khác, bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hóa chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hóa có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ từ phía khách hàng, từ phía thị trường dẫn đến ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hóa. Các doanh nghiệp có thể xuất khẩu theo phương thức này khi biết rõ các thông tin về khách hàng, về nhu cầu thị trường cũng như đã trang bị cho mình những hiểu biết cần thiết để tránh gặp phải những rủi ro trong quá trình xuất khẩu. 1.2.2. Xuất khẩu uỷ thác Xuất khẩu uỷ thác là một dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hóa cho các đơn vị có hàng hóa uỷ thác. Trong hình thức này, hàng hóa trước khi kết thúc quá trình xuất khẩu vẫn thuộc sở hữu của đơn vị uỷ thác, Doanh nghiệp ngoại thương chỉ có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hóa, kể cả việc vận chuyển hàng hóa và được hưởng mootjkhoản tiền gọi là phí uỷ thác mà đơn vị uỷ thác trả. Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hóa cũng như không phải tự bỏ vốn ra mua hàng. Tuy nhiên, phí uỷ thác mà doanh nghiệp nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh. 1.2.3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế Gia công quốc tế là một hoạt động mà một bên - gọi là bên đặt hàng – giao nguyên liệu, có khi cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho vên kia gọi là bên nhận gia công để sản xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa sau khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công được trả tiền công. Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gọi là gia công quốc tế. Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu, bán thành phẩm về cho đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất thành phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được tiền thù lao gia công. Ưu điểm của hoạt động gia công xuất khẩu là doanh nghiệp ngoại thương không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiểu quả cũng khá cao, ít rủi ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì có đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn thự hiện hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thở thuận với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên liệu và tỷ lệ thu hồi thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Vì vây, các cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm. Do đây là hình thức xuất khẩu qua trung gian nên doanh nghiệp thường không có được lợi nhuận tối đa vì phải trả một khoản phí cho bên gia công. Tuy nhiên, đây lại là hình thức xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp nước ta hiện nay, lý do là các doanh nghiệp này chưa có đủ trình độ để có thể sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của khách hàng nước ngoài trong khi xuất khẩu theo hình thức gia công giúp doanh nghiệp tận dụng được nguồn lao động giá rẻ, chi phí cho nguyên vật liệu thấp đông thời có nguồn thu ổn định và đảm bảo tính hiệu quả, ít bị rủi ro. 1.2.4. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức đối lưu Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hóa, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hóa khác có giá trị tương đương. Ưu điểm của hình thức này chính là sự cân bằng trong trao đổi hàng hóa, không liên quan tói tiền nên các doanh nghiệp không cần quá am hiểu về nghiệp vụ thanh toán và ít bị rủi ro về lợi nhuận thu được. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng đáp ứng được yêu cầu về hàng hóa tương đương mà khách hàng muốn trao đổi nên doanh nghiệp thường không chủ động, đây cũng là hạn chế của hình thức này. 1.2.5. Hoạt động xuất khẩu theo nghị đinh thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa thường là hàng trả nợ được thực hiện thưo Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng. 1.2.6. Một số loại hình xuất khẩu khác 1.2.6.1. Tạm nhập tái xuất Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hóa của một nước để bán cho một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến. Đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một thới gian sau, vì mốt lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước ngoài thì không được coi là hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất. Thời gian hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu chuyển ở Việt Nam là 60 ngày. 1.2.6.2. Chuyển khẩu hàng hóa Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán chi một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu cũng như thủ tục xuất khẩu từ các nước này. 1.2.6.3. Quá cảnh hàng hóa Hàng hóa của một nước được gửi tói một nước thứ ba qua lãnh thổ của nước thứ hai, có sự cho phép của Chính phủ nước này. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam có đủ điều kiện như quy đinh của Nhà nước Việt Nam có thể xem xét cho thực hiện dịch vụ này để tăng thêm thu nhập. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việc xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vì những nhân tố này thường xuyên làm ảnh hưởng tới kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.3.1. Những nhân tố bên trong doanh nghiệp Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và điều chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của mình, có thể kể đến một số nhân tố sau: - Trình độ năng lực của nhà lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc doanh nghiệp: đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban Giám đốc doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các chiến lược kinh doanh đúng đắn, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của thị trường quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình. - Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh doanh trong doanh nghiệp: cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công việc trong quá trình xuất khẩu của hàng hóa. Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp. - Khả năng tài chính của doanh nghiệp: biểu hiện ở quy mô vốn hiện có và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Năng lực tài chính có thể làm hạn chế hoặc mở rộng các khả năng khác của doanh nghiệp, vì vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không nhỏ tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chiến lược kinh doanh không phù hợp sẽ làm cho doanh nghiệp thua lỗ và có thể dẫn đến phá sản. 1.3.2. Những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp Đây là nhóm nhân tố không chịu sự kiểm soát của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này được chia làm hai loại: nhóm nhân tố bên trong môi trường quốc gia và nhóm nhân tố bên ngoài môi trường quốc gia. 1.3.2.1. Nhóm nhân tố bên trong môi trường quốc gia Đây là nhóm nhân tố nằm bên trong môi trường quốc gia nơi doanh nghiệp đặt trụ sở kinh doanh, những nhân tố này là: - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chính sách và pháp luật liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ở hiện tại mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải tuân thủ nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có kế hoạch xuất khẩu trong tương lai cho phù hợp. Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu bởi vì việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất lớn cho các quốc gia, chẳng hạn việc xuất khẩu hàng hóa quý hiếm, các sản phẩm thuộc về di tích văn hóa, các sản phẩm về vũ khí… Tỷ giá hối đoái hiện hành: là giá cả của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ, hay quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm tới yếu tố này vì nó liên quan đến việc thu đổi ngoại tệ sang nội tệ của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái mà nhỏ hơn tỷ suất ngoại tệ thì doanh nghiệp không nên xuất khẩu. - Khả năng sản xuất hàng hóa xuất khẩu của từng nước: khả năng này đảm bảo nguồn hàng cho doanh nghiệp, biểu hiện ở các mặt hàng có thể được sản xuất với khối lượng, chất lượng, quy cách, mẫu mã có phù hợp với thị trường nước ngoài hay không. Điều này quyết định khả năng cạnh tranh của các mặt hàng khi doanh nghiệp đưa ra chào bán trên thị trường quốc tế. Nếu một đất nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển, có khả năng tạo ra nhiều mặt hàng đa dạng, chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, hình thức mẫu mã đảm bảo thẩm mỹ cao và giá cả phải chăng thì đây là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khả năng sản xuất trong nước yếu kém, với chủng loại mặt hàng đơn điệu, thô sơ, sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp. - Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: mức độ cạnh tranh thể hiện ở số lượng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc cùng mặt hàng có thể thay thế cho nhau được. Cạnh tranh một mặt hàng có thể thúc đẩy sự vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác nó cũng có thể dìm chết các doanh nghiệp yếu kém. - Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước: đây là nhân tố thuộc về cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu bao gồn phát triển của hệ thông giao thông vận tải, trình độ hệ thống thông tin liên lạc… Các nhân tố này có thể tăng cường hoặc làm hạn chế khả năng giao dịch, mở rộng thị trường xuất khẩu, các dịch vụ vận chuyển hàng hóa xuất của doanh nghiệp. Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa mà doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu rõ về nó. 1.3.2.2. Nhóm nhân tố bên ngoài môi trường quốc gia Đây là nhóm nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của quốc gia hay còn gọi là nhóm nhân tố ảnh hưởng thuộc thị trường nước ngoài, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. - Tình hình phát triển kinh tế thị của thị trường xuất khẩu: có ảnh hưởng đến nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập dân cư, tình hình lạm phát, lãi suất… Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế: biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến việc hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm quốc gia, do đó sẽ ảnh hưởng tới tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Đặc điểm và sự thay đổi về văn hóa – xã hội của thị trường xuất khẩu: có ảnh hưởng đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết định mua hàng của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. - Trình độ phát triển khoa học công nghệ của thị trường xuất khẩu: sẽ ảnh hưởng đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội của thị trường đó, do vậy sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu và sức mua của khách hàng. Chính sách thương mại của quốc gia có thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp: có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường đó. Một quốc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được thực hiện một cách dễ dàng hơn và thương mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược lại, một quốc gia có chính sách thương mại thắt chặt thì sẽ tạo nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện xuất khẩu sang thị trường này. Mức độ cạnh tranh quốc tế: biểu hiện có sức ép cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp khi cùng tham gia vào một thị trường xuất khẩu nhất đinh. Sức ép này càng lớn thì càng gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn thâm nhập, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình. - Bên cạnh đó, tình hình kinh tế xã hội của các thị trường này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp: Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị trường tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc giữa các nước này ngày càng tăng. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất khẩu, tình hình lạm phát, thất nghiệp hay tăng cường về suy thoái kinh tế… của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta. 1.3.3. Những nhân tố thuộc thiên nhiên Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố quan trọng làm cơ sở cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần làm ảnh hưởng đến loại hàng quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia. Vị trí địa lý có vai trò như nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cho phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng… 1.3.4. Thúc đẩy xuất khẩu dưới góc độ doanh nghiệp Thúc đẩy xuất khẩu là việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc sản xuất kinh doanh. Trong doanh nghiệp thì nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu sẽ mang lại lợi nhuận rất cao. Do vậy, việc không ngừng mở rộng và thúc đẩy xuất khẩu sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho doanh nghiệp đặc biệt là đối với doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất kinh doanh chính là thông qua xuất khẩu. 1.3.4.1. Các tiêu chí đánh giá Để có thể đánh giá hoạt động thúc đẩy của doanh nghiệp cần dựa vào những tiêu chí đánh giá như: tốc độ gia tăng về quy mô xuất khẩu của doanh nghiệp, số lượng thị trường xuất khẩu mà doanh nghiệp thâm nhập được, sự thay đổi về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp… Tốc độ gia tăng quy mô xuất khẩu Tốc độ gia tăng quy mô xuất khẩu là tốc độ gia tăng sản lượng hàng hóa qua từng thời điểm của doanh nghiệp. Dựa vào tiêu chí này có thể đánh giá được: qua từng thời điểm số lượng hàng hóa mà doanh nghiệp xuất khẩu đi nhiều hay ít, số lượng bao nhiêu. Số lượng thị trường mà doanh nghiệp thâm nhập được Thâm nhập thị trường là một nội dung trong hoạt động marketing. Thông qua số lượng thị trường mà doanh nghiệp thâm nhập được có thể đánh giá được hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp có đạt hiệu quả hay không. Số lượng thị trường cũng chính là một trong những tiêu chí để đánh giá quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thay đổi về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp Thông qua sự thay đổi về cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp có thể biết được tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp qua các năm thay đổi như thế nào, mặt hàng xuất khẩu nào giảm, mặt hàng xuất khẩu nào gia tăng. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh được đo lường bằng chi phí và doanh thu. Thông qua đó có thể đánh giá được doanh nghiệp làm ăn có lại hay không. Hàng năm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp từ hoạt động xuất khẩu các mặt hàng của minh thế nào. 1.3.4.2. Các biện pháp Trong từng tình hình của doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình Các biện pháp liên quan đến cung xuất khẩu của doanh nghiệp Mở rộng quy mô sản xuất. Ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào. Tăng cường nhân lực cho phòng xuất nhập khẩu. Các biện pháp li._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26429.doc