Phần mở đầu
Cổ phần hóa danh nghiệp nhà nước( CPHDNNN) là một quá trình tất yếu và phổ biến ở các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường . Tiến trình này sẽ thay đổi cơ bản doanh nghiệp thông qua thay đổi hình thức sở hữu , từ đó làm thay đổi các yếu tố khác như tổ chức quản lý, thay đổi phương thức làm việc … và quan trọng hơn là thay đổi nhận thức của mỗi thành viên trong doanh nghiệp theo hướng tích cực, tạo điều kiện và động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa Tổng Công ty thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp phát triển
Nhận thức được điều đó, ở Việt nam CPH đã được Đảng và nhà nước xây dựng thành một chủ trương lớn . Sau 16 năm thực hiện, tiến trình CPH ở Việt nam đã đạt được những thành công bước đầu trên nhiều phương diện đặc biệt là kinh tế .Tuy nhiên trên một số phương diện khác, tiến trình CPH cũng sinh nhiều vấn đề cần phải được nghiên cứu và giải quyết . Bên cạnh đó không phải lúc nào tiến trình CPH cũng diễn ra theo như kế hoạch làm ảnh hưởng không nhỏ tới định hướng kế hoạch của chính phủ trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội . Xuất phát từ thực tiễn đó đề tài “Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa tổng công ty thép Việt nam” được chọn để làm luận văn tốt nghiệp.
Chương 1 : Sự cần thiết cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước ở Việt nam
1.1 Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.1.1 Khái niệm
CPH doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi các DNNN thành công ty cổ phần , từ doanh nghiệp mà nhà nước là chủ sở hữu duy nhất thành doanh nghiệp có nhiều chủ cùng tham gia sở hữu .Trong đó, nhà nước có thể tiếp tục nắm quyền chi phối hay chỉ là một chủ sở hữu bình đẳng với các chủ sở hữu khác
Khác với thành lập công ty cổ phần , CPHDNNN là một quá trình chuyển đổi về mô hình tổ chức quản lý , sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính sang công ty cổ phần thế nhưng vẫn trên cơ sở hạ tầng và nền tảng cơ bản của DNNN . Các chủ thể khác mua lại từng phần giá trị của DNNN và trở thành cổ đông cùng tham gia sở hữu . Chính do vậy CPH không chỉ là bước đi thận trọng mà còn phù hợp với trình độ phát triển , nhận thức và kinh nghiệm tổ chức quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô . Một mặt , CPHDNNN chính là đổi mới căn bản mang tính bước ngoặt đối với các DNNN thông qua thay đổi hình thức sở hữu, trước đây sở hữu doanh nghiệp chỉ là nhà nước nhưng giờ đây có nhiều cá nhân tổ chức tham gia sở hữu tùy vào điều kiện nhà nước cho phép, quan hệ sở hữu thay đổi tất yếu sẽ làm các quan hệ khác đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh biến đổi và thực tế đã chứng minh những biến đổi này là tích cực . Mặt khác vẫn cho phép tận dụng những cơ sở vật chất , con người và các yếu tố thuộc về tài sản vô hình khác . Bên cạnh đó tùy vào mức độ cổ phần hóa khác nhau nhà nước vẫn có thể tham gia sở hữu và quản lý ít nhất là trong một giai đoạn nào đó đủ để duy trì sự ổn định cần thiết khi cơ chế quản trị điều hành mới chưa được hình thành và phát huy một cách hiệu quả nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định của những DNSCPH
Chúng ta không thể đồng hóa CPHDNNN với tư nhân hóa nhưng cũng không hoàn toàn không phải là tư nhân hóa . Bởi có bán cổ phần cho các chủ thể khác trong nền kinh tế thì mới là CPH , mới đúng theo khái niệm đặt ra theo luật doanh nghiệp, ít nhất là trên phương diện sở hữu. Đó chính là quá trình chuyển từ sở hữu công cộng sang sở hữu tập thể hoặc cá nhân , tức là có một phần tư nhân hóa . Tuy nhiên cũng không hoàn toàn là tư nhân hóa vì các DNSCPH không phải tất cả doanh nghiệp tư nhân mà hầu hết là những công ty đa sở hữu dù nhà nước là cổ đông nhỏ hay không tiếp tục tham gia sở hữu .
1.1.2 Mục tiêu cổ phần hóa
Tùy vào từng quốc gia và từng giai đoạn lịch sử khác nhau mà có mục tiêu CPH khác nhau , tuy nhiên về cơ bản vẫn là các mục tiêu sau :
Mục tiêu thứ nhất : Xóa bỏ sự bao cấp của nhà nước và phát huy quyền tự chủ về sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả nền kinh tế , củng cố và phát triển những nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường. Nhờ CPH mà ngân sách nhà nước sẽ bớt gánh nặng hơn, thậm chí còn có thể tăng lên vì các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn . Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước sau CPH sẽ được tự chủ hơn trong các quyết định của mình với sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều cổ đông và các nhà quản lý có năng lực. Nền tảng cơ bản của cơ chế thị trường là sự cạnh tranh trên cơ sở công bằng . Không được nhà nước đem lại cho các đặc quyền đặc lợi cũng như không có quyền đòi hỏi như trước làm cho các doanh nghiệp phải tự thân vận động , tự tìm cho mình phương thức kinh doanh hiệu quả nhất và dần hình thành nên một môi trường kinh doanh lành mạnh vận hành theo cơ chế thị trường. Hiệu quả của một doanh nghiệp không phải từ CPH mà thông qua có chế thị trường, sự thay đổi hình thức sở hữu là điều kiện cần cho doanh nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường một cách tự giác cao độ , từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển. Có thể nói CPH các DNNN là tiền đề cho sự vận hành của nền kinh tế theo cơ chế thị trường , đảm bảo sự công bằng, minh bạch và phát triển bền vững.
Mục tiêu thứ hai : Huy động những tiềm năng vốn trong xã hội để đầu tư vào doanh nghiệp thông qua quá trình chào bán cổ phần các DNNN . Các nhà đầu tư với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình luôn tìm kiếm các cơ hội đầu tư nhằm gia tăng giá trị nguồn vốn đó . Việc thực hiện CPH của các DNNN là một cơ hội đầu tư rất hấp dẫn, tuy có nhiều hạn chế nhưng DNNN cũng có lợi thế của mình đó là cơ sở hạ tầng, thương hiệu qua bao nhiêu năm gây dựng, … bên cạnh đó lại được hưởng các chính sách hỗ trợ từ chính phủ nhằm đưa doanh nghiệp đi vào ổn định sau CPH. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp sau CPH hoạt động rất hiệu quả, có tới 96% doanh nghiệp làm ăn có lãi, nợ xấu giảm mạnh… Nhờ có vốn đầu tư các doanh nghiệp sẽ có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại, với phương thức quản lý hiệu quả kéo theo nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động tạo nguồn lực cho doanh nghiệp phát triển kéo theo thúc đẩy nền kinh tế phát triển , giảm gánh nặng và tăng thu cho ngân sách nhà nước
Mục tiêu thứ ba : Khuyến khích đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ tiên tiến. Từ khi Đảng và nhà nước thực hiện chính sách đổi mới ,mở của nền kinh tế thì các nhà đầu tư nước ngoài rất muốn tiếp gia nhập thị trường Việt nam , một trong những cách thâm nhập hiệu quả và an toàn là lập ra các liên doanh liên kết , tham gia trở thành các cổ đông chiến lược trong các doanh nghiệp ở Việt nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của nước ngoài là yếu tố đặc biệt quan trọng cho các doanh nghiệp Việt nam tăng năng suất , đuổi kịp với các nước tiên tiến trong khu vực cũng như trên thế giới, từ đây có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường trong nước và tạo động lực gia nhập thị trường thế giới
1.1.3 Các hình thức và mức độ cổ phần hóa
Hình thức và mức độ CPH ở từng quốc gia vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau tùy thuộc vào kế hoạch của chính phủ các quốc gia đó cũng như đặc thù nghành nghề kinh doanh , được thể hiện thông qua tỷ lệ đóng góp cổ phần của nhà nước trong các doanh nghiệp . Có bốn hình thức thường được lựa chọn :
Hình thức thứ nhất : giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn sở hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn đầu tư từ các chủ thể khác trong nền kinh tế . Ưu thế của hình thức này là quy mô được mở rộng , hình thức này phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hình thức thứ hai : bán một phần giá trị thuộc vốn của nhà nước . Hình thức này quy mô huy động được ấn định ở mức nhất định thay thế cho sự giảm xuống tương ứng tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước . Cách làm này thường áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Bởi vì giá trị doanh nghiệp lớn nên không dễ dàng huy động những nguồn vốn lớn đúng theo tỷ lệ sở hữu như yêu cầu đặt ra khi phát hành cổ phiếu mới.
Hình thức thứ ba : tách một bộ phận của DNNN đủ điều kiện để tiến hành CPH . Hình thức này thường được áp dụng cho các doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình công ty mẹ công ty con hay các công ty có các chi nhánh có tính độc lập cao. Tổng công ty thép Việt nam được tiến hành theo hình thức này , theo đó ban đầu tiến hành CPH một số doanh nghiệp thành viên có giá trị nhỏ, làm ăn không có lãi. Sau khi nhận thấy những kết quả thực tế mang lại là tích cực ban lãnh đạo tiếp tục thực hiện đối với những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn hơn và cuối cùng là tiến hành đối với công ty mẹ
Hình thức thứ tư : bán toàn bộ giá trị thuộc vốn sở hữu nhà nước . Đây là hình thức có mức độ CPH cao nhất, nhà nước không còn tham gia vào việc điều hành quản lý doanh nghiệp nữa mà chuyển hẳn cho các cá nhân tổ chức khác trong nền kinh tế sở hữu và điều hành . Đây là một việc phổ biến đối với nước Nga trong những năm 90 của thế kỷ trước, hình thức này đã nảy sinh nhiều bất cập dễ gây ra những mất mát tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước sang tay tư nhân do bị định giá thấp và bán cho tư nhân với giá rẻ mạt . Tại Nga hình thức này đã hình thành nên những tập đoàn tư nhân rất lớn lũng đoạn cả nền kinh tế . Ở Việt nam hình thức này chỉ được tiến hành đối với những doanh nghiệp nhỏ hoặc những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do vậy không dẫn tới tình trạng như ở nước Nga . Đây là một bài học kinh nghiệm quý báu cho những người đi sau như Việt nam
1.2 Quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt nam
1.2.1 Thực trạng
Tiến trình CPH ở Việt nam được hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu từ năm 1992 vì trong năm này những công việc đầu tiên về cổ phần hóa mới thực sự được tiến hành. Căn cứ vào sự tiến triển về tốc độ cũng như sự thay đổi về chất lượng cổ phần hóa, quá trình cho đến nay có thể phân chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, giai đoạn trước khi có thị trường chứng khoán: 1992-1999; và giai đoạn thứ hai, từ năm 2000 đến nay khi thị trường chứng khoán Việt Nam đã được hình thành và phát triển.
1.2.1.1 Giai đoạn trước khi có thị trường chứng khoán( 1992-1999) :
Hành lang pháp lý đầu tiên cho quá trình CPHDNNN ở Việt nam trong giai đoạn này là Quyết định số 202/CT ra ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng theo đó thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP. Tiếp theo là Quyết định số 203/CT ra ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, quyết định lựa chọn bảy DNNN thí điểm thực hiện cổ phần hóa và ủy quyền cho Bộ Tài chính nghiên cứu và ra quyết định về danh sách các DNNN khác được phép thí điểm cổ phần hóa của các Bộ và ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tiếp đến, vào ngày 04/03/1993, Thủ tưởng Chính phủ ra Chị thị số 84/TTG về việc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá và nghiên cứu các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với DNNN. Vào năm 1994, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã thống nhất và cụ thể hóa mục tiêu và hình thức tiến hành CPHDNNN, một trong số đó là bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ, công nhân viên chức đang làm việc tại doanh nghiệp để tạo ra động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, và bán cổ phần cho các chủ thể ngoài doanh nghiệp để thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Sau hơn bốn năm thí điểm cổ phần hóa, trên cơ sở tổng kết và đánh giá những thành công thất bại, những ưu điểm và những tồn tại của quá trình cổ phần hóa, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/1996/NĐ-CP nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý và môi trường kinh tế thuận lợi hơn cho các DNNN tiến hành cổ phần hóa. Nội dung của Nghị định này tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng sau :
Mở rộng đối tượng tiến hành cổ phần hóa đối với tất cả các DNNN
Bổ sung các hình thức cổ phần hóa đối với từng bộ phận doanh nghiệp.
Mở rộng ưu đãi cho các DNSCPH và người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp đó.
Phân cấp việc phê duyệt CPH, theo đó Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt cổ phần hóa với những DNNN có vốn điều lệ từ 3 tỷ đồng trở lên.
Tiếp đó, Nghị định số 25/NĐ-CP ngày 26/3/1997 hoàn thiện hơn một số điều khoản về thẩm quyền lựa chọn DNNN cổ phần hóa của Chính phủ, mở rộng phạm vi, đối tượng, bổ sung hình thức CPH một số bộ phận doanh nghiệp. Nghị quyết trung ương lần thứ 4 khóa VIII và chỉ thị số 20/TTg ngày 21/4/1998 về đẩy mạnh sắp xếp lại các DNNN theo đó, có tới 42,1% số DNNN hiện có thuộc diện phải cổ phần hóa.Bên cạnh đó, chính phủ còn ban hành Nghị định số 44/1998 NĐ-CP ngày 29/6/1998 thay thế cho các Nghị định số 28/1996NĐ-CP và Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 đã giải quyết những vướng mắc về chính sách chế độ mà văn bản trước đây còn chưa thực hiện được như: lựa chọn DNNN cổ phần hóa, chính sách hỗ trợ cho các DNNN hậu CPH... Đến thời điểm này, quá trình cổ phần hóa đã được thực hiện một cách quyết liệt và không trông chờ vào sự tự nguyện của DNNN như ở thời kì trước nữa. Kết quả trong 6 tháng cuối năm 1998 cả nước có 86 DNNN chuyển sang CTCP, đưa số DNNN đến năm 1998 lên 116 doanh nghiệp. Năm 1999 chúng ta lại có thêm 254 doanh nghiệp nữa được cổ phẩn hóa, tăng gấp hơn 2 lần tổng số doanh nghiệp đã được cổ phần hóa trong suốt giai đoạn 1992-1998, đến tháng hết năm 1999 tổng số DNNN đã được cổ phần hóa đã đạt tới hơn 370 doanh nghiệp.Việc không ngừng hoàn thiện những cơ sở pháp lý và chế độ cổ phần hóa trong giai đoạn này thực sự đã góp phần thúc đẩy quá trình CPHDNNN ở nước ta.
Mặc dù đã đạt được những kết quả như vậy nhưng theo đánh giá chung nhất thì tiến trình cổ phần hóa ở Việt nam trong giai đoạn này vẫn là rất chậm chạp, chi phí thời gian thực hiện cổ phần hóa của mỗi doanh nghiệp vẫn rất cao. Có rất nhiều nguyên nhân được đưa ra để giải thích cho tốc độ cổ phần hóa chậm trong giai đoạn này, song có hai nguyên nhân cơ bản : Thứ nhất Việt nam chưa có thị trường chứng khoán và do vậy việc cổ phần hóa và phát hành cổ phiếu chủ yếu mang tính chất nội bộ doanh nghiệp, hoặc cục bộ địa phương, tính chất xã hội hóa rất hạn chế. Thị trường chứng khoán chưa phát triển làm cho công việc chào bán cổ phần ra công chúng hạn chế và tính thanh khoản của cổ phiếu thấp gây cản trở không nhỏ tới tốc độ và thành công của quá trình cổ phần hóa. Thứ hai là hành lang pháp lý chưa minh bạch, thiếu nhất quán và sự ổn định , chưa nhất quán trong chỉ đạo thực hiện làm cho những doanh nghiệp muốn CPH không gặp thuận lợi trong việc đăng kí các thủ tục pháp lý cũng như chưa có những thuận lợi nhất định khi chuyển đổi còn các doanh nghiệp không muốn CPH thì có cớ chây ỳ .
1.2.1.2 Giai đoạn sau khi thị trường chứng khoán ra đời (2000-2008)
Giai đoạn này được xem là bước ngoặt đặc biệt quan trọng, một bước tiến biến đổi cả về chất và về lượng của quá trình CPH. Khởi đầu giai đoạn này được đánh dấu bởi sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch Thành phố Hồ Chí Minh được khai trương và bắt những phiên giao dịch đầu tiên vào cuối tháng bảy. Mặc dù, còn ở mức độ rất sơ khai và chưa nhiều các công ty niêm yết, quy mô lúc ban đầu chỉ trên dưới 5 tỷ VND, tuy nhiên sự xuất hiện của thị trường chứng khoán đã trở thành động lực hết sức quan trọng đẩy mạnh quá trình cổ phẩn hóa ở Việt Nam không chỉ về mặt tốc độ - số lượng mà còn cả về mặt chất lượng cổ phần hóa cũng thay đổi hoàn toàn.
Trong hai năm 2000-2001, cả nước đã có tới 361 DNNN được cổ phần hóa xấp xỉ bằng tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa trong cả giai đoạn gần 10 năm từ 1992 đến 1999. Tuy nhiên, điều quan trọng là đến giai đoạn này, việc mua cổ phiếu của cán bộ công nhân viên trong những DNNN thực hiện CPH không phải để giữ việc làm như trước đây chứng tỏ đã thay đổi nhận thức về CPH, rất nhiều người đã có thu nhập cao từ việc bán lại số cổ phiếu được mua hay quyền được mua cổ phiếu theo tiêu chuẩn của các doanh nghiệp đặt ra. Rất nhiều DNNN, mặc dù chưa xây dựng xong phương án cổ phần hóa, cổ phiếu đã được các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp đăng ký và đặt cọc để mua theo giá thị trường, cao hơn mệnh giá rất nhiều lần .
Song song với việc phát triển thị trường chứng khoán. Đảng và nhà nước đã tiếp tục củng cố và hoàn thiện hành lang pháp lý và chính sách kinh tế, tài chính nhằm thúc đẩy nữa tiến trình CPHDNNN. Vào ngày 19/6/2002 chính phủ ban hành số nghị định số 64/2002 NĐ/CP bổ sung sửa đổi nghị định số 44/1998 NĐ/CP về những vấn đề bao gồm: thẩm quyền của các cơ quan quản lý cấp trên, định giá doanh nghiệp, cổ đông và cổ phiếu, về chính sách đối với lao động dôi dư. Tiếp đến, các thông tư hướng dẫn cũng ban hành như số 79/TT - BTC ngày 12/9/2002 hướng dẫn cách định giá trị doanh nghiệp khi chuyển từ DNNN sang CTCP; Số 80/TT - BTC ngày 12/09/2002 hướng đẫn bảo lãnh phát hành và đấu giá bán cổ phần ra công chúng của các DNNN thực hiện CPH . Ngoài ra, còn rất nhiều nghị định, thông tư liên quan được ban hành thêm như: Nghị định số 69/ 2002 NĐCP ngày 12/7/2002 về xử lý nợ tồn đọng, nghị định 41/2002 NĐCP ngày 11/04/2002 về chính sách đối với người lao động dôi dư, quyết định số 174/TTg ngày 2/12/2002 của thủ tướng chính phủ về tổ chức hoạt động của các công ty tài chính, nghị định số 187/2004 NĐCP ngày 16/11/2004,vv...đã góp phần giải quyết được những nhược điểm cơ bản đối với việc xác định giá trị bán cổ phần ra công chúng.
Ban chỉ đạo đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước được thành lập trực thuộc văn phòng Chính Phủ, thay mặt Thủ tướng giám sát và điều hành toàn bộ quá trình CPH các doanh nghiệp trực thuộc các bộ ngành và ủy ban nhân dân tỉnh và thành phố, giải quyết những bất cập và khó khăn trong quá trình chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần. Bên cạnh đó, các Bộ Ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh và thành phố; Tổng công ty và các tập đoàn nhà nước đều thành lập ban chỉ đạo cổ phần hóa nhằm chỉ đạo và giám sát quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc ngành. Hiện nay, CPH đã bước sang giai đoạn quan trọng đó là cơ cấu lại các DNNN loại lớn , đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân . Tính tới đầu năm 2007 cả nước còn 2200 DNNN loại lớn với số vốn hơn 31 tỷ USD tương đương 31% GDP . Nhà nước dự định sẽ chỉ giữ lại 100% vốn tại 554 công ty đóng vai trò đặc biệt quan trọng ảnh hưởng lớn tới an ninh quốc gia . Tuy nhiên trong năm 2007 tiến trình CPH bị chậm lại rất nhiều chỉ có 82 DNNN được CPH , đây là một kết quả rất đáng buồn . Tổng công ty Thép Việt nam là một tổng công ty rất lớn với hơn 37 công ty thanh viên ,dự tính sẽ CPH xong vào năm 2009 sau khi hoàn tất việc CPH các đơn vị thành viên vào năm 2008 . Thủ tướng cũng đã phê duyệt kế hoạch CPH theo đó đặt mục tiêu niêm yết 71 DNNN loại lớn trên TTCK vào năm 2010.
Như vậy có thể nói đã có rất nhiều những chính sách liên quan đến cổ phần hóa được ban hành, bổ sung và sửa đổi để ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với thực tế tiến trình cổ phần hóa. Thành quả của tất cả những cố gắng trên là các chế độ quy định ngày càng đồng bộ , thông thoáng hơn tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNN chuyển đổi sang công ty cổ phần, chế độ hợp lý cho người lao động và những cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. So với các giai đoạn trước, ở giai đoạn này cổ phần hóa được đánh giá là đã đi vào thực chất hơn. Trong khi đó nếu xét về số lượng, tổng số DNNN được cổ phần hóa trong giai đoạn 2000-2008 lên tới con số 3800 doanh nghiệp, gấp hơn 10 lần số lượng DNNN được cổ phần hóa trong giai đoạn 1 từ 1992 - 1999. Đây là một con số đáng mừng , thời gian tới cần đẩy nhanh hơn nữa tiến trình CPH đang có xu hướng chậm lại như trong năm 2007 nhằm hoàn thành CPH cơ bản các DNNN trước năm 2015 như dự định của Nhà nước đặt ra .
1.2.2 Khó khăn sau cổ phần hóa ở Việt nam
Những ưu thế của DNNN sau CPH là rất đáng kể, thực tế ở nhiều nước đã chứng minh rằng hoạt động sản xuất kinh doanh các DNSCPH có nhiều tiến triển tích cực, các chỉ tiêu cơ bản ,đặc biệt là các chỉ tiêu về tài chính đều tăng trưởng tốt hơn hẳn so với khi còn là DNNN . Điều này một lần nữa chứng minh và khẳng đinh mục tiêu, ý nghĩa, tính tất yếu khách quan và vài trò của việc cổ phần hóa. Tuy nhiên bên cạnh đó không phải không có khó khăn nào , thay đổi hình thức sở hữu làm thay đổi rất nhiều yếu tố cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp tác động rất lớn tới quá trình sản xuất kinh doanh . Có thể thấy DNNN sau CPH đã và đang đương đầu với những khó khăn và thử thách rất lớn đặc biệt trong những năm đầu tiên sau cổ phần hóa
1.2.2.1 Khó khăn về vốn và khả năng huy động từ hệ thống tài chính
Trên phương tiện lý thuyết, các DNNN sau CPH có lợi thế về quy mô vốn, nguồn vốn và các phương thức huy động đa dạng phong phú hơn so với khi còn là DNNN. Ngoài các hình thức huy động thông thường như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp này còn có thể huy động vốn qua thị trường chứng khoán như phát hành cổ phiếu tăng vốn, phát hành trái phiếu danh nghiệp...Tuy nhiên nhìn chung thì ở Việt nam các doanh nghiệp phần lớn vẫn chưa huy động được những nguồn vốn như mong muốn nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư đổi mới và phát triển ,bởi còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố , chẳng hạn như điều kiện từng doanh nghiệp trước CPH và mức độ cổ phần hóa được lựa chọn. Bên cạnh đó còn tùy thuộc vào quy định của nhà nước về đối tượng nắm giữ cổ phần , giá trị từng đối tượng được nắm giữ.
Tuy nhiên giả sử việc mở rộng quy mô vốn của các DNSCPH không bị hạn chế bởi Nhà Nước thì việc tăng quy mô vốn của các doanh nghiệp cũng không đơn giản vì còn phải phụ thuộc vào tất cả các nhân tố chủ quan của doanh nghiệp và khách quan của nền kinh tế. Về chủ quan thì quan trọng nhất đó là kết quả sản xuất kinh doanh , theo quy định của Việt nam những doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng thi phải đáp ứng được những điều kiên nhất định chẳng hạn về quy mô vốn , về kết quả sản xuất kinh doanh ,đây chính là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp. Bên cạnh đó chi phí vốn thường rất cao do chi phi thuê bảo lãnh phát hành ,chi phí đáp ứng kì vọng các cổ đông … Những giới hạn khách quan đối với việc phát hành vốn thuộc nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Đối với TTCK lúc phát triển ổn định thì phát hành cổ phiếu sẽ thu được nhiều vốn hơn cho doanh nghiệp , nhưng nếu vào giai đoạn suy thoái như hiện nay thì thu được rất ít vốn , thậm chí việc phát hành tăng vốn không những không hiệu quả mà có thể hạ thấp uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp nữa .
Khả năng huy động vốn thông qua các công cụ nợ của các DNSCPH cũng không phải luôn thuận lợi, nhất là doanh nghịêp này lại được cổ phần hóa từ những DNNN có lịch sử tình hình sản xuất - kinh doanh và tài chính không tốt đẹp. Các chủ nợ, đặc biệt là các NHTM luôn muốn cho các DNNN vay vốn hơn là các doanh nghiệp không hoàn toàn thuộc về nhà nước, do luôn yên tâm rằng luôn được trả nợ cho dù có làm ăn thua lỗ bởi có sự bảo trợ của nhà nước . Sau khi CPH, các doanh nghiệp mất đi sự bảo lãnh của nhà nước đối với các ngân hàng thương mại và công chúng trong khi các doanh nghiệp này chưa đủ thời gian cần thiết để tự khẳng định lòng tin đối với ngân hàng thương mại cũng như các chủ nợ khác. Ở Việt nam cho vay thế chấp là rất phổ biến , muốn vay được phải có tài sản thế chấp đủ điều kiện trong khi đó rất nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện này. Do vậy, các DNNN sau CPH thường không có được các lợi thế so với khi còn là DNNN khi tiếp cận nguồn vốn thông qua các công cụ nợ
1.2.2.2 Những khó khăn về chất lượng nguồn nhân lực
Trong các DNNN sau CPH, quyền làm chủ doanh nghiệp thuộc về cổ đông và những người lao động được tham gia mua cổ phần, rất khác so với trước. Sự thay đổi này vừa là động lực rất lớn đối với người lao động đồng thời cũng là áp lực khiến họ phải cố gắng, nỗ lực nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp vì trong đó có lợi ích của chính bản thân mỗi thành viên. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, từ cán bộ quản lý cho đến người lao động và các cổ đông đều muốn đóng góp công sức, tài sản cũng như sẵn sàng chia sẻ sáng kiến, kinh nghiệm để củng cố và thúc đẩy sự phát triển các DNNN sau CPH. Song đó chưa phải là điều kiện đủ ,để đạt được điều đó lại là chất lượng nguồn nhân lực bao gồm nhận thức ,trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên làm việc trong các DNSCPH.
Nghiệp vụ chuyên môn và nhận thức của đội ngũ người lao động trong DNNN khi chuyển sang CPH chưa thể đáp ứng về nhiều mặt. Vấn đề này đã được chuyên gia phân tích kinh tế nhận định là một khó khăn cản trở đáng kể đối với việc thực hiện các mục tiêu và phát huy vai trò của tiến trình DNNN sau CPH. Về mặt nhận thức, do thời gian dài làm việc trong các DNNN với tình trạng làm chủ hình thức nay chuyển sang làm việc trong mô hình công ty cổ phần , sự nhận thức không đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm và vị thế làm chủ, nảy sinh mâu thuẫn và bất đồng ý kiến giữa những chủ thể tham gia sở hữu với những đội ngũ quản lý . Không ít những rủi ro vì hạn chế về mặt này của người lao động đã xảy ra và gây những tổn thất nặng nề về tài chính cho doanh nghiệp,ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp trên thương trường. Về trình độ chuyên môn, rất nhiều người lao động cần phải được đào tạo lại về kỹ năng, trình độ công nghệ sản xuất - kinh doanh ,ý thức và tính chất chuyên nghiệp. Yêu cầu đặt ra về nguồn nhân lực của những DNNN sau CPH là cần được đào tạo lại một cách cơ bản và mang tính hệ thống từ ý thức, tác phong đến trình độ chuyên môn ,nghiệp vụ mới đủ khả năng làm chủ doanh nghiệp đồng thời làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất – kinh doanh, quản lý. Để giải quyết được yêu cầu này các DNNN sau CPH sẽ phải bỏ nhiều thời gian và một khoản kinh phí không nhỏ cho việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
1.2.2.3 Sự bất cập về quản trị điều hành.
Do những quy định của nhà nước về hình thức CPH là bán một phần tài sản thuộc sở hữu công cộng trong các DNNN, không ít doanh nghiệp vẫn duy trì tỉ trọng vốn khá lớn thuộc sở hữu nhà nước và các đại cổ đông của Nhà nước nắm quyền quản trị điều hành. Việc làm này không dẫn đến sự xáo trộn lớn nào về nhân sự, cán bộ lãnh đạo được bổ nhiệm từ trước khi cổ phần hóa .Với việc tiếp tục nắm quyền chi phối với tỷ lệ vốn cao, Nhà nước không chỉ tiếp tục duy trì về nhân sự lãnh đạo mà các hoạt động sản xuất – kinh doanh và phân phối tài chính, bố chí sử dụng nguồn nhân lực,v,v..., của DNNN sau CPH vẫn chịu sự can thiệp của đại diện phần vốn nhà nước hoặc cơ quan quản lý của nhà nước. Phần lớn những can thiệp vẫn mang tính chất hành chính và thường gây ra cản trở đối với hoạt động của DNSCPH. Thậm chí đối với không ít DNSCPH, hoạt động sản xuất – kinh doanh vẫn theo quy mô hình tổ chức và quản trị điều hành cũ theo cơ chế của DNNN trước khi thực hiện cổ phần hóa. Như vậy CPH vẫn không có tác dụng nào ngoài huy động vốn cho nhà nước , chưa thực sự tạo ra động lực để phát triển
1.2.2.4 Hạn chế về trang thiết bị công nghệ.
Trong thời đại toàn cầu hóa thì yếu tố kỹ thuật, công nghệ sản xuất - kinh doanh trở thành nhân tố mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp bởi đó là yếu tố quyết định tới năng suất , chất lượng sản phẩm cung cấp . Tuy nhiên đó là vấn đề khó khăn trở ngại rất lớn đối với DNNN sau CPH ở Việt nam, có những doanh nghiệp vẫn tiếp tục sử dụng máy móc thiết bị được sản xuất từ những thập kỷ 70, 80 hoặc cũ hơn của thế kỷ trước
Sau thực hiện cổ phần hóa, xét về khả năng, DNSCPH có điều kiện tăng thêm vốn để mua sắm máy móc mới và thiết bị hiện đại và đây chính là thuận lợi rất lớn để đổi mới công nghệ. Từ đó tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, củng cố và duy trì sức cạnh tranh, uy tín trên thương trường. Tuy nhiên ở trên thực tế việc đầu tư để phát triển công nghệ của các DNNN sau CPH còn gặp nhiều khó khăn, không chỉ là vấn đề khả năng tài chính mà còn cả những vấn đề về cơ chế đầu tư của doanh nghiệp và khả năng vận hành máy móc thiết bị, ứng dụng đựơc những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất - kinh doanh của cán bộ nhân viên doanh nghiệp. Lượng vốn tăng thêm do cổ phần hóa chưa phải là đủ lớn đẻ có thể mua bất cứ công nghệ tiên tiến nào, đồng thời việc sử dụng số vốn đó vẫn phải tuân theo các quy định của nhà nước hay các cơ quan đại diện sở hữu nhà nước trong khi các quyết định của họ không phải lúc nào cũng kịp thời và chính xác . Mua được các công nghệ tiên tiến là việc khó nhưng sử dụng nó một cách hiệu quả cũng khó khăn không kém . Với trình độ cán bộ nhân viên được đào tạo từ rất lâu rồi , không có điều kiện tiếp cận với các tiến bộ công nghệ thì việc vận hành chúng là rất khó khăn, không đạt hiệu quả như mong muốn. Do vậy phải có chính sách đào tạo cán bộ trẻ, cho họ đi tu nghiệp ở những nước tiên tiến để họ làm quen với công nghệ mới, giúp cho việc vận hành hiệu quả hơn
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hóa
1.3.1 Định giá doanh nghiệp
CPH là một chiến lược đúng đắn , tuy nhiên để cổ phần hóa thành công chúng ta phải tính đến một vấn đề rất quan trọng là giá trị doanh nghiệp . Xác định đúng giá trị doanh nghiệp sẽ làm minh bạch vấn đề sở hữu , vốn , tránh thất thoát tài sản công vào tay những cá nhân tham nhũng , góp phần quyết định đẩy nhanh tiến độ CPH .Việc định giá của các DNNN ở Việt nam còn chứa đựng nhiều bất cập , gây thất thoát vốn rất lớn cho Nhà nước .Theo quy định hiện hành, có hai cơ chế định giá được phép áp dụng là thành lập Hội đồng định giá hoặc thuê công ty tư vấn định giá độc lập. Thành viên của Hội đồng định giá là cán bộ đại diện của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau, ví dụ như Sở Tài chính, Sở KH-CN, Uỷ ban Nhân dân v.v., vì thế ý kiến đánh giá của họ không phải bao giờ cũng thống nhất và có thể bị nghiêng về những mục tiêu quản lý riêng. Do đó, định giá theo cơ chế này thường không phản ánh được giá trị “thực tế” của DNNN. Hơn nữa, mâu thuẫn về quyền lợi giữa DNNN với các cơ quan quản lý nhiều khi làm cho việc định giá chậm được thống nhất. Việc sử dụng công ty tư vấn độc lập để định giá tuy tỏ ra có hiệu quả hơn nhưng vẫn còn những hạn chế trong việc xác định giá trị tài sản vô hình như thương hiệu hay lợi thế kinh doanh. Hơn nữa, hầu hết các công ty tư vấn độc lập của Việt Nam vẫn chưa đủ kinh nghiệm và trình độ để định giá các DNNN lớn và phức tạp.
1.3.2 Đối tác chiến lược
Một số chuyên gia nhận định, trong bối cảnh nhiều đối tác chiến lược sau khi mua cổ phần với giá ưu đãi đã bán ra với mục đích kiếm lời trước mắt nhờ chênh lệch giá , Chính phủ đã phải quy định giá mua cổ phần của đối tác chiến lược không thấp hơn giá đấu bình quân, điều này đã giảm bớt động cơ của những nhà đầu cơ ngắn hạn. Tuy vậy, về lý thuyết nhà đầu tư chiến lược dài hạn cam kết hỗ trợ DN về công nghệ, đào tạo nhân lực... nhưng phải mua với giá như đối tượng khác là thiếu hấp dẫn, có thể làm giảm động lực của họ. Đặc biệt đối tác chiến lược nước ngoài nhận thấy chính sách khuyến khích góp vốn có phần giảm sút so với trước đây, nên chần chừ quyết địn._.h đầu tư, thậm chí bỏ hẳn ý định đầu tư vào doanh nghiệp .
Một khó khăn khác là không ít DN yếu kém trong việc định hướng phát triển do trình độ quản lý thấp . Do không có định hướng rõ ràng làm cho niềm tin của các nhà đầu tư về tương lai doanh nghiêp không khả quan nên không hấp dẫn nhà đầu . Đối với đối tác lớn đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, khi nhìn thấy DN khó phát huy thế mạnh của mình, họ sẽ từ bỏ ý định trở thành cổ đông chiến lược.
Không tìm được đối tác chiến lược tức là rất hạn chế trong việc tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại , tiếp cận với nguồn vốn dồi dào . Do vậy rất khó khăn để thực hiện CPH cũng như giải quyết nhưng vấn đề hậu CPH
1.3.3 Nợ xấu
Đến nay không có số liệu chính thức nào về dư nợ vốn vay của các DNNN tại các tổ chức tín dụng đặc biệt là các Ngân hàng thương mại (NHTM) nhưng chắc chắn là rất lớn . Chỉ tính riêng các Tổng công ty xây dựng công trình giao thông thuộc bộ Giao thông vận tải đã có số dư nợ tới 12.300 tỷ đồng mà chủ yếu là nợ xấu , đã được các NHTM xử lý dự phòng rủi ro. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả , nợ xấu ngân hàng kéo dài không được các ngân hàng cho vay nên càng thiếu vốn và làm ăn không có hiệu quả .Rất nhiều các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ đã phải vay nợ với số dư nợ rất lớn , nhưng giờ đây theo chính sách nhà nước đặt ra phải tiến hành CPH , phải bán cổ phần cho các cá nhân tổ chức . Tuy nhiên cho dù có đổi mới thì những khoản nợ ấy vẫn phải trả cho chủ nợ , điều này làm cho những người muốn mua cổ phần không muốn mua nữa vì họ sợ rằng nguồn vốn mà họ góp vào công ty thông qua mua cổ phần phần lớn là để trả nợ , không dùng cho mục tiêu đầu tư kinh doanh ,như vậy tương lai công ty sẽ không khả quan tức là những đồng vốn mà họ bỏ ra không hiệu quả .Như vậy tiến trình cổ phần hóa sẽ bị chậm lại rất nhiều
1.3.4 Hành lang pháp lý và tính nhất quán trong chỉ đạo thực hiện
Hành lang pháp lý còn thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu tính ổn định hay thay đổi và chưa có sự đồng bộ.Việc sắp xếp, cơ cấu lại DNNN chưa được thực hiện theo một để án tổng thể kết hợp giữa ngành và địa bàn mà lại được thực hiện theo từng đề án của từng bộ, ngành, địa phương, tổng công ty nên còn có sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương trên cùng một địa bàn.
Các doanh nghiệp được trao nhiều quyền tự chủ nhưng chưa có cơ chế giám sát hiệu quả nên dẫn đến việc triển khai các chính sách còn tuỳ tiện, thiếu minh bạch…Chưa có những quy định về công tác kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và CPH. Hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước còn thấp; công tác kế toán, kiểm toán còn nhiều yếu kém, chưa bảo đảm phục vụ một cách hữu hiệu công tác quản lý, kiểm tra, giám sát.
Cổ phần hóa các tổng công ty sẽ dẫn tới việc thành lập các tập đoàn kinh tế lớn đa nghành đa lĩnh vực. Trong khi đó lại chưa hình thành khung pháp luật đầy đủ hướng dẫn cho việc hình thành và quản lý đối với tập đoàn, do vậy cản trở đáng kể tới tiến trình cổ phần hóa các Tổng công ty
1.3.5 Sự phát triển ổn định của TTCK
TTCK có ba chức năng chính : Thứ nhất là huy động vốn cho doanh nghiệp, thứ hai là nâng cao năng lực hoạt động và quản trị doanh nghiệp, thứ ba là ra tín hiệu thông tin liên quan đến các công ty phát hành cho các nhà đầu tư thông qua giá chứng khoán . Sự phát triển ổn định của TTCK sẽ làm cho cung hàng hóa tức là cổ phiếu thuận lợi hơn , được giá hơn giúp cho DN thu được nhiều vốn hơn để đầu tư và phát triển . Bên cạnh đó còn đem lại nhiều lợi ích khác như tiết kiệm chi phí quảng cáo doanh nghịêp, ràng buộc hơn cho tính lành mạnh của các báo cáo tài chính…Do vậy sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa
1.4 Điều kiện thúc đẩy cổ phần hóa
Đẩy nhanh quá trình CPH các DNNN trong thời gian tới đang còn rất nhiều những thách thức, khó khăn . Để thúc đẩy CPH theo người viết cần phải tác động tới bốn yếu tố sau:
Thứ nhất : Nhà nước phải có những biện pháp chiến lược mới cho quá trình CPH vì các DNNN là đối tượng CPH trong thời gian tới có những điểm khác với các doanh nghiệp đã được CPH trước đây.Quy mô các doanh nghiệp sắp CPH rất lớn , đóng vai trò rất quan trọng với nền kinh tế
Hạn chế sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, cần tạo ra cơ chế thông thoáng hơn cho họ chẳng hạn như cho phép họ nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao hơn trong các DNNN . Bên cạnh đó tạo điều kiện để thu hút và gắn kết giữa hoạt động đầu tư của nhà đầu tư chiến lược với sự phát triển của doanh nghiệp CPH.
Thứ hai: Thay đổi nhận thức của DN ,tổng điều tra đánh giá hiệu quả thực tế các doanh nghiệp sau CPH để rút ra những kinh nghiệm về thành công và chưa thành công của các doanh nghiệp. Qua đó làm cho mọi doanh nghiệp từ ban quản lý cho tới nhân viên thấy được lợi ích rõ ràng, những bài học cụ thể từ CPH . Điều này sẽ có tác động làm thay đổi nhận thức, tạo những hiểu biết tốt hơn, từ đó tạo niềm tin và động lực từ bên trong của doanh nghiệp. Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về đào tạo nâng cao năng lực trước, trong và sau CPH.
Thứ ba : Vấn đề hành chính , nhanh chóng thực hiện những biện pháp giải quyết dứt điểm những vướng mắc hiện nay về vấn đề đất đai, tài sản và những vướng mắc về lao động. Đặc biệt cần sớm chấm dứt trên thực tế không phải chỉ trên giấy tờ, văn bản sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các DNNN đã CPH. Điều này rất quan trọng và sẽ là một nhân tố thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành CPH có hiệu quả. Chúng ta cũng cần sớm hoàn thiện và tạo những điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể áp dụng tốt trình tự tiến hành CPH và cơ chế định giá doanh nghiệp mới, không gặp khó khăn tiếp cận thị trường chứng khoán. Mở rộng hơn nữa đối tượng tham gia CPH để có những cổ đông mạnh, họ sẽ là một trong những tác nhân quan trọng nhất đảm bảo cho sự ổn định và thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH.
Thứ tư : Giải quyết tốt những mâu thuẫn xảy ra trong quá trình thực hiện CPH. Như đã biết CPH có những mục tiêu cơ bản là : huy động vốn, thay đổi cơ chế quản lý, và quan trọng hơn thay đổi bản chất doanh nghiệp thông qua thay đổi hình thức sở hữu nhằm tìm được một mô hình làm ăn hiệu quả nhất .Hiểu được mặt tốt của cổ phần hóa, đặt ra mục tiêu rất đúng, nhưng mặt khác cách làm của chúng ta hiện nay lại lộ ra ba mâu thuẫn gây cản trở không nhỏ tới tiến trình CPH
Mâu thuẫn thứ nhất: mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn trong tư duy. Ta đã phải công nhận những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thường làm ăn không hiệu quả, thua lỗ năm này qua năm khác. Muốn nó tốt lên, muốn tài sản nhà nước không mất đi, không còn cách nào khác là phải cải cách, vì phần lớn của chiếc bánh to còn hơn cả chiếc bánh nhỏ .Cải cách bao nhiêu kiểu rồi, từ tự chủ tài chính , cải cách cơ chế làm việc , cơ chế trả lương…. Tuy nhiên hiệu quả đều không như mong muốn. Cuối cùng qua thực tiễn các nước trên thế giới cũng như ở Việt nam đã nhận ra , việc đổi mới DNNN phải lấy thay đổi hình thức sở hữu làm nền tảng tức là cổ phần hóa mới đem lại sự chuyển biến sâu sắc nhất và mạnh mẽ nhất, từ đó đem lại hiệu quả cao nhất và bền vững nhất .
Nhưng dù cổ phần của nhà nước đang được bán cho những cá nhân, những tổ chức của một nhóm cá nhân nhưng chúng ta lại muốn rằng cổ phần hóa không phải tư nhân hóa. Vậy cổ phần hóa là chuyển quyền sở hữu của nhà nước sang ai? Làm sao để CPH mà hoàn toàn không phải là tư nhân hóa? Chỉ có cách bán cổ phần cho các công ty nhà nước khác mới không là tư nhân hóa, bởi vì vẫn chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước. Nếu như thế thì cũng không khác trước là mấy , vấn đề vẫn chưa được giải quyết tận gốc . Nếu không có một phần tư nhân hóa , tức không gắn chặt lợi ích doanh nghiệp với lợi ích của nhà quản lý , không có cơ chế kiểm tra kiểm soát trong nội bộ công ty trên cơ sở tự giác cao … tất yếu sẽ không đạt hiệu quả như mong muốn .Chúng ta nên nên thừa nhận trong cổ phần hóa có một phần là tư nhân hóa, tất nhiên cũng không hoàn toàn là tư nhân hóa .Nhà nước vẫn phải giữ một tỷ lệ cổ phần phù hợp tùy theo từng nghành và vai trò của từng doanh nghiệp cổ phần nhằm đảm bảo sự ổn định của cả nền kinh tế , tránh xảy ra sự chi phối của tư nhân làm lũng đoạn thị trường . Do không nhất quán trong quan điểm nên quá trình cổ phần hóa vẫn còn chậm , gượng gạo, nhiều nơi không thống nhất cách làm, dẫn đến tình trạng có địa phương hô hào về chủ trương nhưng khi tiến hành cổ phần hóa thì lại hạn chế.
Có thời điểm ta chỉ cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, yếu kém cổ phần hóa, còn những công ty có lãi thì không tiến hành ,một phần vì chưa nhận ra nguyên nhân của sự yếu kém là xuất phát từ chính doanh nghiệp. Từ sự yếu kém trong điều hành quản lý, sự thiếu động lực lao động sáng tạo do được nhà nước bao cấp … Như vậy là không hiểu rõ vì sao lại tiến hành CPH một cách sâu sắc mà chỉ biết rằng thua lỗ là CPH còn không thua lỗ thì thôi. Đến nay nhiều nơi vẫn bị ảnh hưởng tâm lý này. Nghịch lý này khiến tính toàn dân trong cổ phần hóa như Chính phủ đề ra không đảm bảo vì không phải ai muốn mua cổ phần của Nhà nước cũng được trong khi về bản chất tài sản nhà nước chính là tài sản của toàn dân.
Mâu thuẫn thứ hai: mâu thuẫn thứ hai là chúng ta muốn cổ phần hóa để tăng vốn cho doanh nghiệp nhưng lại giới hạn quyền góp vốn của người dân với tỉ lệ cố định ở mức thấp. Còn rất nhiều doanh nghiệp không nhạy cảm về an ninh quốc phòng, cũng không thuộc ngành ngân hàng, nhưng các cơ quan chủ quản doanh nghiệp hoặc bản thân ban lãnh đạo doanh nghiệp vẫn không cho bán quá 49% vốn để giữ quyền lãnh đạo và những lợi ích hẹp hòi trước mắt.
Về bản chất sở hữu nhà nước là của toàn dân , DNNN thuộc sở hữu nhà nước nên nó cũng là sở hữu toàn dân và Nhà nước được nhân dân giao cho quản lý. Thực lực này không phải để phân bố rải ra khắp nơi, chi phối tất cả các vấn đề trong xã hội, mà chỉ nên tập trung phân bố ở một số điểm quan trọng theo định hướng của Nhà nước ,còn lại là tận dụng nguồn vốn trong dân cư. Việc định hướng không có nghĩa là phải nắm, nhất là nắm thật nhiều đến mức chi phối hoàn toàn, Nếu ta muốn định hướng tiến tới một nền kinh tế tri thức thì phải tập trung nguồn lực đầu tư cho ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ điện tử ,ô tô…chứ không phải hô hào, rồi vẫn giữ chặt vốn để nắm chi phối hoàn toàn các doanh nghiệp không phải then chốt , không đóng vai trò động lực cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa như mía đường , bông sợi …. Như thế nguồn lực sẽ phân tán , không phát huy được hiệu quả như mong muốn. Nếu biết tập trung nguồn vốn vào những ngành then chốt, đáp ứng đủ nhu cầu tiếp cận công nghệ tiên tiến , nhu cầu nghiên cứu sản phẩm mới …thì sức mạnh của các doanh nghiệp đó sẽ lớn lên một cách nhanh chóng . Thà giữ cổ phần ở ít công ty nhưng vốn hóa của nó lớn còn hơn là giữ ở nhiều công ty làm ăn kém với mức chi phối . Trong khi đó cách làm hiện tại của ta, cứ quyết tâm giữ cổ phần chi phối ở hầu hết các doanh nghiệp, nếu cứ giữ cổ phần chi phối để rồi giá trị cổ phần ấy nó không tăng lên thậm chí còn giảm đi thì chi phối để làm gì? Đó là thất thoát khổng lồ tiếp theo bởi vì đầu tư vốn của nhà nước không hiệu quả, không sinh lời theo thời gian. Nhà nước cũng là một nhà đầu tư, dùng tiền của nhân dân đầu tư do vậy phải có trách nhiệm với những đồng tiền đó .Do vậy phải tìm biện pháp hiệu quả nhất, có lợi nhất cho tài sản của Nhà nước, của nhân dân.
Mâu thuẫn thứ ba: cũng từ thói quen muốn giữ cổ phần chi phối nên chúng ta tạo nên mâu thuẫn thứ ba. Cổ phần hóa đặt ra mục tiêu thay đổi cơ chế quản lý nhưng thực tế, với cách nắm giữ cổ phần chi phối thì doanh nghiệp sau CPH cơ bản vẫn giữ lại toàn bộ cơ chế điều hành cũ, bởi quyền lãnh đạo vẫn thuộc về nhà nước ,để rồi những cá nhân được nhà nước trao cho quyền quản lý tùy quyền quyết định mọi vấn đề mà ít quan tâm hay không cần quan tâm tới ý kiến của những cổ đông nhỏ lẻ . Như vậy thì cổ phần hóa không thay đổi được bản chất doanh nghiệp , đó không khác gì một cách huy động vốn từ cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế cho DNNN sử dụng mà thôi.Trường hợp này hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ của doanh nghiệp vẫn giữ nguyên, cổ phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, mệnh lệnh hành chính đã hằn bao nhiêu năm có thay đổi được thì cũng chỉ là tí chút. Trong khi đó, chỗ dựa (là Nhà nước) không còn được như trước , nên nhiều công ty cổ phần hóa xong còn thua lỗ và yếu kém hơn trước.. Như vậy thì dù cổ đông có năng động, có đặt mục tiêu cao bao nhiêu, tình hình doanh nghiệp vẫn không thể có bước ngoặt quyết định.
Trước đây ta để cho doanh nghiệp tự định giá, rồi sau đó là tạo ra hội đồng định giá, cố nghĩ rằng với bản lĩnh chính trị người ta sẽ không móc ngoặc tham nhũng, nhưng thực tế không được như vậy . Ở không ít doanh nghiệp người ta đã định giá không đúng và thấp hơn rất nhiều so với thực tế , như vậy những cán bộ không trong sạch sẽ mua được nhiều cổ phần với giá thấp và hưởng lợi một cách bất chính , trong khi đó nhà nước thu về được ít vốn hơn gây thất thoát rất lớn. Bên cạnh đó chúng ta vẫn qui định phải bán giá ưu đãi cho người lao động, cho lãnh đạo doanh nghiệp một phần quá lớn, giá đã thấp hơn thực tế rồi còn ưu đãi nữa thì nhà nước thu về lại càng ít nữa.Việc làm đó hoàn toàn mang tính đạo đức ,việc đắt rẻ không phải trong phạm trù đạo đức mà nó là khái niệm của thị trường. Chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường nên phải chấp nhận những quy luật của thị trường chứ không nên theo ý muốn chủ quan. Mong muốn cổ phần hóa không phải tư nhân hóa nên chúng ta dành một lượng đáng kể cổ phiếu để bán ưu đãi cho công nhân. Đấy là việc tốt nhưng thực tế nó có đồng nghĩa với việc chuyển sở hữu nhà nước cho tập thể công nhân không, hay nó đang là cơ hội cho nhiều kẻ tham ô, lũng đoạn? Thực tế nếu công nhân nắm được cổ phần thì đó chỉ là tỉ lệ cực nhỏ, không đáng kể. Tiếng là 10-20% nhưng những công nhân lẻ loi liệu có thể đòi được quyền mua công bằng? Qua 1-2 năm, thậm chí chỉ vài tháng, chỉ còn rất ít người giữ được “quyền làm chủ” của mình qua việc chiếm giữ cổ phiếu. Hoặc là cổ phiếu đó được bán tự do, hoặc chính những người lãnh đạo doanh nghiệp mua, mở đường cho cá nhân nào đấy, có thể là chính lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước sở hữu công ty.Cơ chế và cách quản lý cổ phần hóa như thế thì không thể không thất thoát. Người ta có thể định giá thấp doanh nghiệp, thậm chí giấu tịt một khoản vốn tương đối mà không ai biết. Vì vậy nên ngay cả những công ty nhỏ khi “lên sàn” giá cũng thường tăng gấp nhiều lần là chuyện bình thường và tất nhiên được lợi là rất ít cá nhân trong khi thiệt hại thuộc về nhà nước và người lao động doanh nghiệp đó
1.5 Những vấn đề cần chú ý khi thực hiện cổ phần hóa
Nội dung cốt lõi của đường lôi đổỉ mới của đảng và nhà nước ta là phát triển sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN với mục tiêu làm cho đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với cơ chế thông thoáng hơn đã thúc đẩy sự ra đời của hàng trăm nghìn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân, hàng trăm nghìn trang trại, củng cố kiện toàn và sự ra đời của hàng chục nghìn hợp tác xã bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước . Sự xuất hiện các thành phần kinh tế khác là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới .
Qua hơn 20 năm sau thời kì đổi mới các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã khẳng định được vai trò to lớn của mình đối với nền kinh tế . Đã xuất hiện những tập đoàn kinh tế với năng lực tài chính hùng mạnh , trình độ quản lý cao, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn hẳn các doanh nghiệp nhà nước . Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước thì phần lớn làm ăn thua lỗ, kém năng động, khó lòng đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân .Đứng trước tình hình đó Chính phủ đã đẩy mạnh đổi mới các doanh nghiệp nhà nước mà quan trong nhất là thúc đẩy quá trình cổ phần hóa . Đẩy mạnh cổ phần hóa là một chiến lược đúng đắn cần phát huy ít nhất là trong thời điểm hiện tại . Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hóa có một số vấn đề cần chú ý :
Thứ nhất: cổ phần hóa nhưng việc định giá doanh nghiệp phải theo giá thị trường trên cơ sở đấu giá công khai, minh bạch để hình thành giá trị thị trường của doanh nghiệp. Tránh tình trạng bán tống, bán tháo làm thất thoát tài sản của Nhà nước, của toàn dân - thành quả của bao nhiêu năm xây dựng và phát triển.
Thứ hai: cổ phần hóa để đa dạng hóa sở hữu vốn tại doanh nghiệp, tránh tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, để rồi hình thành các tỉ phú trên cơ sở tài sản của Nhà nước. Đối với nước ta trước đây cần tránh tình trạng cổ phần hóa như đã xảy ra đối với khách sạn Phú Gia mà tổng giá trị doanh nghiệp còn thấp hơn cả giá đất, chưa kể vị trí đắc địa hay thương hiệu của các doanh nghiệp này. Cần tránh tình trạng tư nhân hóa trong thời kỳ đầu của nước Nga để rồi mới chỉ sau mười lăm năm chuyển từ cơ chế phân phối bình quân sang cơ chế thị trường mà tổng tài sản của các tỉ phú đã chiếm tới một phần tư GDP của cả nước
Thứ ba: cổ phần hóa để người lao động tại doanh nghiệp có vị thế mới là trở thành cổ đông - chủ sở hữu một phần vốn của doanh nghiệp - có quyền tham gia vào việc quyết định đối với doanh nghiệp. Việc dành một lượng cổ phiếu ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp là cần thiết và do được định giá theo giá thị trường nên thị giá sẽ đủ lớn, cũng không có sự chênh lệch lớn về giá cả sẽ giảm bớt việc "bán lúa non", việc mua vét của một số cá nhân, dẫn đến tình trạng người lao động trở thành trắng tay, hoàn toàn trở thành người làm thuê, còn một số cá nhân sẽ thâu tóm quyền lực của công ty sau khi đã mua vét các cổ phiếu của người lao động "bán lúa non".
Thứ tư: khắc phục tình trạng bình mới, rượu cũ, tức là doanh nghiệp đã chuyển sang công ty cổ phần, nhưng bộ máy nhân sự vẫn không được đổi mới, vẫn những người kém năng lực lãnh đạo làm cho doanh nghiệp hoạt động không khác trước là mấy. Vai trò làm chủ, quyền giám sát , bày tỏ ý kiến của các cổ đông và người lao động bị hạn chế.
Thứ năm: khắc phục tình trạng phân biệt đối xử của các ngành các cấp đối với những doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa với những doanh nghiệp nhà nước chưa cổ phần hóa còn do các bộ/ngành chủ quản, tỉnh/thành phố (thậm chí còn phân cấp cho sở/ngành) chủ quản theo kiểu con nuôi, con đẻ. Tình hình trên đòi hỏi cần khẩn trương xóa bỏ cơ chế bộ/ngành chủ quản, tỉnh/thành phố chủ quản
Thứ sáu: tránh nóng vội ,CPH một cách không tính toán . Nếu ép cổ phần hóa nhưng doanh nghiệp không đạt được mục tiêu, tài sản của Nhà nước bị bán rẻ thì không nên ép, nhất là về mặt dư luận. Nếu có, chỉ có thể ép các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kèm theo đó là một số cơ chế như buộc người quản lý bãi nhiệm nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Nếu làm được như vậy, người quản lý sẽ phải tự tìm kiếm phương thức sản xuất kinh doanh hiệu quả mà một trong số đó là cổ phần hóa
Thứ bảy: cổ phần hóa cũng phải đi kèm cải cách thị trường liên quan, cho phép người chủ sở hữu mới vận hành có lãi, đồng thời, đảm bảo lợi ích công chúng được bảo vệ. Ví dụ cổ phần hóa ngành thép cần phải cho họ môi trường làm ăn thuận lợi như cho phép khai thác những mỏ quặng với giá rẻ , thông thoáng hơn trong việc định giá thép trên thị trường ,tạo điều kiện kinh doanh bình đẳng với các doanh nghiệp khác chưa CPH .Tuy nhiên bên cạnh đó phải có những quy định bắt buộc để không làm ảnh hưởng xấu tới môi trường , tới người lao động
Để thúc đẩy quá trình CPH các DNNN chúng ta có thể thực hiện nhiều chiến lược khác nhau . Trong quá trình CPH chúng bắt gặp nhiều mâu thuẫn đối kháng nhau như mâu thuẫn trong chính doanh nghiệp, mâu thuẫn giữa chính phủ và doanh nghiệp , giữa doanh nghiệp đã CPH với doanh nghiệp chưa CPH, giữa doanh nghiệp và môi trường xung quanh … Lý thuyết trò chơi ( LTTC) là một lý thuyết nghiên cứu rất rộng lớn trong đó có nghiên cứu cách giải quyết các mâu thuẫn giữa các chủ thể khác nhau , nhằm tìm ra một kết cục tốt nhất cho các bên. Chúng ta sẽ sử dụng LTTC để giải quyết các vấn đề xảy ra trong quá trình CPH cũng như hậu CPH nhằm tìm cách thúc đẩy tiến trình CPH theo kế hoạch mà chính phủ đề ra
1.6 Lý thuyết trò chơi (LTTC)
1.6.1 Định nghĩa
Lý thuyết trò chơi hay lý thuyết tương tác chiến lược là lý thuyết nghiên cứu các tình huống chiến lược trong đó mỗi người chơi tham gia sử dụng logic lựa chọn các hành động khác nhau để cố gắng đem về cho mình lợi ích tốt nhất
Tên gọi trò chơi cũng được bắt nguồn từ những trò chơi nhiều người tham gia như: cờ vua , cờ vây,… nhưng sau đó được mô hình hóa lên để giải quyết các vấn đề trong đời sống như : cạnh tranh hợp tác , đấu giá , mặc cả , bầu cử , xung đột chiến trạnh…
Trò chơi ở đây không phải dựa vào may rủi thuần túy mà đòi hỏi mỗi người chơi phải sử dụng đầu óc để phân tích , suy xét dựa trên suy luận logic . LTTC nghiên cứu các quyết định được đưa ra trong môi trường các đối thủ tương tác với nhau.Điều nay tuân theo một nguyên lý của kinh tế học là con người phản ứng với các kích thích. Tức là hành động của mỗi người chơi không được lập trình bất biến từ trước mà nó phụ thuộc vào các hành động của những người chơi còn lại , quyết định có thể thay đổi khi các kích thích thay đổi .Không có gì là bất biến !
Biểu diễn dạng chuẩn của một trò chơi n đấu thủ là chỉ rõ các không gian chiến lược S1,S2,S3,…Sn của các đấu thủ và các hàm thu hoạch u1,u2,u3,…un của họ. ta kí hiệu trò chơi này là G={S1,…Sn ; u1,…un}
1.6.2 Lịch sử ra đời
Mầm mống của LTTC xuất hiện từ rất lâu. Nhứng thảo luận đầu tiên được biết đến trong một lá thư của Jame waldegrave vào năm 1713 . Trong đó tác giả đã đưa ra một lời giải cho một chiến thuật hỗn hợp cho một trò chơi đánh bài hai người chơi .
Tuy nhiên nó chưa thực sự được mở rộng nghiên cứu .Phải đến khi xuất hiện tác phẩm “ Nghiên cứu về những định luật toán học của lý thuyết tài sản” của Cournot vào năm 1838 thì những phân tích mở rộng về lý thuyết trò chơi mới được phát triển. Tuy nhiên để tồn tại như một nghành khoa học thực sự thì phải đến năm 1928 khi John von Neumann xuất bản một loạt bài báo công bố những công trình nghiên cứu dưới dạng toán học .
Đến năm 1950 John Nash đã phát triển lý thuyết riêng của mình hướng tới việc lựa chọn các chiến thuật tối ưu cho các trò chơi có nhiều người chơi. Điểm tối ưu đó là cân băng Nash nổi tiếng . Vào năm 1965 Selten giới thiệu khái niệm lời giải của các cân bằng lý tưởng của các trò chơi con và hoàn thiện cân bằng Nash .
Trong những năm 1970 LTTC được ứng dụng rộng rãi vào sinh học nhờ kết quả các công trình của Smith và chiến lược tiến hóa bền vững của ông. Năm 2005 hai lý thuyết gia Thomas Schelling và Robert Aumann đoạt giải Nobel về kinh tế nhờ những đóng góp làm hoàn thiện LTTC
LTTC đã có quá trình phát triển lâu dài và ngày càng hoàn thiện để giải nhiều vấn đề của đời sống xã hội. Nó đã trở thành công cụ để nghiên cứu nhiều lĩnh vực từ khoa học chuyên nghành như sinh học , chính trị học , tin học… cho tới môn khoa học tổng quát là Triết học
LTTC cũng có thể giúp chúng ta tìm hiểu nghiên cứu động cơ của hành vi , lý do quyết định hành vi của các người chơi khi tham gia vào trò chơi .Chẳng hạn như: vấn đề kí kết các văn kiện hợp tác tác trong quan hệ thương mại , khó khăn trong cải cách các xí nghiệp quốc doanh , tại sao nạn tham nhũng lan tràn ở một số quốc gia…
LTTC có vai trò to lớn trong đời sống , nắm bắt được LTTC sẽ giúp chúng ta giải quyết được nhiều vấn đề trong cuộc sống cũng như nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân .Bài viết này sẽ dùng LTTC giải thích cổ phần hóa (CPH) là một xu thế tất yếu , cũng như chỉ ra một số ứng dụng của nó vào một số vấn đề liên quan tới CPH
1.6.3 Biểu diễn trò chơi
Dạng chuẩn tắc :
Mỗi trò chơi được biểu diễn dưới dạng một ma trận mà ma trận này có thể biểu diễn sự có mặt của mỗi người chơi , của tập hợp các chiến lược mà mỗi người chơi lựa chọn và kết quả tương ứng với mỗi người chơi khi sử dụng các chiến lược trong không gian chiến lược của mình . Có hai cách biểu diễn trò chơi là ở dạng chuẩn tắc vào ở dạng mở rộng .
B1
B2
A1
1 3
4 6
A2
2 5
3 7
Cách biểu diễn này làm một ma trận cho biết thông tin về các đấu thủ , chiến lược và kết quả
Ở ví dụ trên là trò chơi gồm hai đấu thủ A và B . Mỗi người đều có hai chiến lược lần lượt là A1,A2 và B1, B2 . kết quả trò chơi được ghi ở các ô . Chẳng hạn , nếu đấu thủ A chọn chiến lược A1 và đấu thủ B chọn chiến lược B2 thì kết quả là A nhận được 4 điểm còn B nhân được 6 điểm.Trò chơi biểu diễn dưới dạng chuẩn tắc là mỗi người chơi hành động một cách đồng thời hoặc hành động khi không biết về hành động của những người chơi khác
Dạng mở rộng :
Cách biểu diễn dạng này là một sơ đồ hình cây . Mỗi đỉnh biểu diễn một điểm mà mỗi người chơi có thể lựa chọn. Tên người chơi ghi ở cạnh đỉnh , các đoạn thẳng đi ra từ đỉnh đó biểu diễn các hành động có thể của người chơi đó . Kết quả được ghi ở đáy cây
Ở ví dụ trên là trò chơi gồm hai đấu thủ A và B . Đấu thủ A có thể lựa chọn ba chiến lược là 1,2,3 ứng với mỗi chiến lược của A thì B có hai chiến lược
A
B
B
B
Một trò chơi biểu diễn dưới dạng mở rộng có thể biểu diễn khi các đấu thủ biết được thông tin về nhau cũng như không biết về nhau . Thường được áp dụng cho các dạng tổng quát
1.6.4 Cân bằng Nash
Định nghĩa:
Trong trò chơi dạng chuẩn n đấu thủ G={S1,…,Sn ; u1,…un} các chiến lược ( s1*,…,sn*) là một cân bằng Nash nếu đối với mỗi đấu thủ I , si* là một phản ứng tốt nhất của đấu thủ I trước các chiến lược đã cho đối với n-1 đấu thủ còn lại ( s1*,…,si-1*,si+1*,…sn*) :
ui ( s1*,…,si-1*,si*,si+1*,…,sn*)>=ui (s1*,…,si-1*,si,si+1*,…sn*)
với mọi chiến lược khả thi si thuộc Si nghĩa là si* là nghiệm của bài toán
max ui ( s1*,…,si-1*,si,si+1*,…,sn*)
Bằng các công thức toán học ta có thể chứng minh rằng có thể tồn tại nhiều cân băng Nash trong một trò chơi
Ứng dụng :
Có thể nói cân bằng Nash là trạng thái tốt nhất mà tất cả mọi người chơi đều có phản ứng tối ưu trước một hoàn cảnh nhất định và ai cũng thỏa mãn. Trong một trò chơi có thể có nhiều cân bằng Nash . Cân bằng Nash thường được dùng để phân tích dự đoán diễn biến cũng như kết cục của mỗi cuộc chơi bởi đó là trạng thái có xác suất xảy ra cao nhất do bất cứ người chơi sáng suốt nào cũng hướng tới . Tuy nhiên cân bằng Nash chỉ đúng khi những giả thiết của trạng thái đó xảy ra .Trên thực tế không phải lúc nào trò chơi cũng ở trạng thái cân bằng Nash vì mỗi người chơi có thể hành động không khôn ngoan . Tuy có một số hạn chế nhưng cân bằng Nash vẫn được sử dụng rộng rãi để giải thích rất nhiều các vấn đề của đời sống .
Chương 2 : Thực trạng cổ phần hóa ở Tổng công ty Thép Việt nam
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển tổng công ty thép Việt nam
2.1.1 Giai đoạn hình thành
Ngày 29 tháng 4 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 255/TTg thành lập Tổng công ty Thép Việt Nam.
Ngày 25 tháng 01 năm 1996, Chính phủ có Nghị định số 03/CP phê chuẩn Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Thép Việt Nam, là một pháp nhân kinh doanh, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước.
Tại thời điểm này, Tổng công ty có 16 đơn vị thành viên (Công ty Xây lắp và Trường Công nhân kỹ thuật luyện kim chuyển từ Bộ Công nghiệp về làm thành viên Tổng công ty); 4 công ty liên doanh với Tổng công ty và 8 công ty liên doanh với các đơn vị thành viên.
Thành tựu nổi bật của Tổng công ty Thép Việt Nam trong 5 năm (1995-1999) đã cùng với ngành Thép Việt Nam nỗ lực phấn đấu, cơ bản thoả mãn nhu cầu trong nước về hầu hết các chủng loại thép xây dựng thông thường và thực hiện được mục tiêu của Bộ Chính trị “trong một số năm trước mắt đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng thông thường cho xã hội”.
2.1.2 Giai đoạn 2000 đến nay
Thời kỳ 2000-nay , Tổng công ty tổ chức triển khai các dự án đầu tư có quy mô lớn, tiếp tục thực hiện công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp sâu rộng và có nhiều bước phát triển nhanh chóng . Đến nay tổng công ty đã sở hữu 22 công ty cổ phần với tỷ lệ sở hữu khác nhau và 17 công ty liên doanh liên kết , đóng vai trò rất quan trọng góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và ổn định thị trường
2.2 Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu
Tổng công ty hoạt động trên các lĩnh vực chủ yếu sau :
Khai thác quặng sắt, than mỡ và các nguyên liệu trợ dung liên quan đến công nghiệp sản xuất thép.
Sản xuất gang thép và các kim loại khác; vật liệu chịu lửa; thiết bị, phụ tùng luyện kim; các sản phẩm thép sau cán và một số sản phẩm phi kim loại như gạch ốp lát, xi măng,...
Kinh doanh các sản phẩm thép , phôi thép, phế liệu kim loại, kim loại màu và các sản phẩm khác phục vụ ngành luyện kim.
Thực hiện các dịch vụ liên quan đến ngành thép.
Thiết kế, chế tạo và thi công xây lắp các trang thiết bị phục vụ cho ngành sản xuất thép và ngành liên quan khác.
Đào tạo và nghiên cứu khoa học kỹ thuật cho ngành sản xuất thép.
Tổ chức đưa lao động Việt Nam sang làm việc và tu nghiệp tại nước ngoài.
Kinh doanh khách sạn và các dịch vụ khác.
2.3 Mô hình tổ chức
2.3.1 Cơ cấu tổ chức
Đứng đầu là hội đồng quản trị là đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại tổng công ty . Có quyền nhân danh tổng công ty quyết định những vấn đề liên quan tới việc xác định và thực hiện mục tiêu , nhiệm vụ và quyền lợi của tổng công ty .Hội đồng quản trị hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo .Đứng đầu là chủ tịch hội đồng quản trị
Ban kiểm soát là do hội đồng quản trị công ty mẹ quyết định thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước . Hoạt động theo điều lệ và tổ chức hoạt động của tổng công ty và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của hội đồng quản trị
Tiếp đến là tổng giám đốc , các phó tổng giám đốc , các trưởng phòng phó phòng . Ở các đơn vị thành viên cũng thực hiện theo nguyên tắc trên
2.3.2 Sơ đồ tổ chức
Tổng công ty thép có 20 đơn vị thành viên được phân loại theo từng lĩnh vực hoạt động
Khối sản xuất gồm:
Cty gang thép Thái nguyên , Cty thép miền Nam , Cty thép Đà nẵng , Cty thép tấm lá Phú mỹ , Cty Cp vật liệu chịu lửa Trúc thôn , Cty Cp cơ điện luyện kim
Khối thương mại gồm :
CTCP kim khí Hà nội , CTCP kim khí TPHCM , CTCP kim khí miền trung , CTCP kim khí Bắc thái
Khối nghiên cứu đầu tư gồm :
Viện._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7901.doc