Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước tại văn phòng Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà Nội

Tài liệu Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước tại văn phòng Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà Nội: ... Ebook Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước tại văn phòng Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà Nội

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước tại văn phòng Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CP Cổ phần CPH Cổ phần hóa DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp Nhà nước TTCK Thị trường chứng khoán VIETRANS Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ Nội dung Chương 1 Bảng 1.1 Tình hình CPH DNNN từ năm 1992 đến tháng 8- 2008 Bảng 1.2 Số liệu các DNNN tiến hành CPH Chương 2 Sơ đồ 2.1 Sơ đồ cơ cầu tổ chức của công ty VIETRANS Bảng 2.1 Kết quả kinh doanh của Vietrans qua các năm 2006-2008 Bảng 2.2 Kết quả kinh doanh của văn phòng công ty VIETRANS Bảng 2.3 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty CP VIETRANS Miền Nam LỜI MỞ ĐẦU Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đó, hệ thống doanh nghiệp đã có những đóng góp tích cực cho sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, khi điều kiện cơ chế quản lý thay đổi và hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ những bất cập: phát triển tràn lan, kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn, cơ chế quản lý không thích hợp, hoạt động kém hiệu quả… Vì vậy, việc làm thế nào để cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết. Để giải quyết vấn đề này, một trong những giải pháp chiến lược là tiến hành CPH DNNN nhằm đa dạng hoá sở hữu, tiến tới xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. CPH DNNN là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cổ phần hóa DNNN còn tồn tại nhiều nhiều vấn đề dẫn tới việc cổ phần hóa không đạt được mục tiêu như mong muốn. Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương là một DNNN trực thuộc Bộ công thương cũng không nằm ngoài diện cổ phần hóa của Nhà nước. Cổ phần hóa đã được tiến hành ở một số chi nhánh của công nhưng còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục tiến hành cổ phần hóa các bộ phận còn lại của công ty, để tiến trình cổ phần hóa diễn ra nhanh chóng và hiệu quả công ty cần có một kế hoạch thực hiện đồng bộ, rõ ràng nhằm tránh những sai lầm, thiếu sót trước đây. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề trên, qua quá trình thực tập tại văn phòng công ty VIETRANS được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo – Ths. Nguyễn Đức Hiển và các anh chị phòng Kế toán tổng hợp của công ty em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN tại văn phòng công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà Nội” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về CPH DNNN. Chương 2: Thực trạng quá trình CPH DNNN tại công ty giao nhận kho vận ngoại thương VIETRANS Chương 3: Giải pháp thức đẩy quá trình CPH DNNN tại văn phòng công ty giao nhận kho vận ngoại thương VIETRANS ở Hà Nội Do thời gian thực tập cũng như trình độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để luận văn của em được hoàn thiện hơn và có chất lượng tốt hơn. Hà Nội, ngày 7 tháng 4 năm 2009 Sinh viên Lê Thị Thu Ngọc CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DNNN 1.1. Doanh nghiệp Nhà nước: 1.1.1. Khái niệm DNNN: Luật DNNN năm 2003 đã có định nghĩa về DNNN khá khái quát, chính xác phù hợp với cách tiếp cận của nhiều nước cũng như thực tiễn vận động của nền kinh tế đất nước: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. DNNN có những đặc điểm sau: - Trong từng DNNN vốn do Nhà nước đầu tư - DNNN hoạt động trên cả lĩnh vực kinh doanh và công ích Do nhiều nguyên nhân khác nhau hoạt động kinh doanh của hầu hết các DNNN là kém hiệu quả, đặc biệt tại các nước đã từng áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Dưới thể chế kinh tế này các ngành, các đơn vị, các doanh nghiệp mất đi quyền tự chủ trong kinh doanh, sinh ra ỷ lại vào Nhà nước. Diều này dẫn đến đầu tư nhiều mà không hiệu quả, nhiều doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, thất thoát tài sản Nhà nước gây khủng hoảng kinh tế. 1.1.2. Vai trò của DNNN trong nền kinh tế: Kinh tế Nhà nước được xác định là đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế “là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Kinh tế nhà nước bao gồm: các DNNN, hệ thống ngân hàng Nhà nước, các quỹ tín dụng quốc gia, các quỹ bảo hiểm Nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như đất đai, ngân sách, phần vốn của Nhà nước góp vào doanh nghiệp cổ phần hay liên doanh với các thành phần kinh tế khác. Trong đó DNNN là lực lượng nòng cốt, lực lượng chủ đạo của nền kinh tế. DNNN có những vai trò chủ yếu sau đây: - DNNN có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hạ tầng cho nền kinh tế. do tác động của quy luật giá trị, việc đầu tư vào hạ tầng như hệ thống giao thông, thông tin, liên lạc, các dịch vụ công ích như điện, xây dựng hạ tầng, vận tải hành khách và hàng hoá thường ít được các doanh nghiệp quan tâm. Hơn nữa, đối với các doanh nghiệp thì các dự án đầu tư vào các lĩnh vực nêu trên thường vượt ngoài khả năng tài chính, kỹ thuật và công nghệ. Chính vì vậy DNNN được coi là giải pháp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nhiều quốc gia, nhất là ở các quốc gia đang phát triển, thiếu vắng những doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực kinh tế và kỹ thuật đủ mạnh. DNNN được giao phó vai trò khá lớn trong việc đảm bảo các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu hoặc nhạy cảm của nền kinh tế mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không thể đảm nhiệm vì nhiều lý do khác nhau. - DNNN phải tạo ra được nguồn thu cho ngân sách để phát triển kinh tế xã hội - DNNN có vai trò to lớn trong việc điều tiết nền kinh tế. Nhờ vào sự tồn tại của thành phần kinh tế công cùng với tiềm lực to lớn của nó, Nhà nước có thể tác động tới sự phát triển của nền kinh tế theo những chiều hướng hoặc theo những chính sách thích hợp với lợi ích quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. - Thúc đẩy và đảm bảo việc làm cũng là một trong những vai trò quan trọng của DNNN. - Giảm đói nghèo là vai trò được các quốc gia đang phát triển kỳ vọng nhất từ các DNNN. Mang tính xã hội hoá cao, nắm giữ những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, được Nhà nước bao cấp nhiều mặt nên DNNN cần phải trở thành động lực của việc xoá đói giảm nghèo. - Tăng cường sự phát triển kinh tế quốc dân và củng cố chủ quyền quốc gia là vai trò khá phổ biến của DNNN. - DNNN được giao sứ mệnh trở thành hình mẫu về hiệu quả sản xuất- kinh doanh, mô hình giải quyết các vấn đề an sinh xã hội cho người lao động. 1.1.3. Vai trò chủ đạo của DNNN đi về đâu? Thực tiễn hoạt động của DNNN ở Việt Nam hàng chục năm qua cho thấy mặc dù DNNN được giao phó vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân song hoạt động của chúng còn tồn tại nhiều điểm bất cập. DNNN chiếm phần vốn đầu tư chủ yếu từ ngân sách, đội ngũ nhân lực được đào tạo cũng tập trung chủ yếu trong các DNNN. Các DNNN chiếm lĩnh những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như dầu khí, vận tải, bưu chính, điện, khai khoáng và nhiều ngành dịch vụ chiến lược khác như bảo hiểm, ngân hàng...Tuy nhiên, thế mạnh và vai trò của DNNN không được duy trì một cách bền vững. do sự xơ cứng trong cơ chế quản lý, cùng hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tâp trung DNNN càng ngày càng trở nên kém hiệu quả, thể hiện: Thứ nhất, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thấp, cả nước hiện còn khoảng 2.700 DNNN. Trong đó, số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 78%, doanh nghiệp thua lỗ chiếm 15,1%, doanh nghiệp hòa vốn chiếm 6,9%. Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, nếu tính đủ chi phí phát sinh trong kỳ theo quy định như khấu hao tài sản cố định, trích dự phòng nợ phải thu khó đòi… thì số doanh nghiệp lỗ và không có lãi sẽ cao hơn. Trong 5 năm qua, số nợ phải thu khó đòi của DNNN không những không giảm mà còn tăng bình quân 8,7%/năm. Tính đến 31/12/2005, tổng số nợ phải thu của DNNN là 166.359 tỷ đồng thì số nợ khó đòi là 3.757 tỷ đồng; tổng số nợ phải trả là 449.195 tỷ đồng thì số nợ quá hạn là 5.548 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN nhìn chung còn quá cao. Đặc biệt, nhiều công ty có số nợ phải trả gấp 5 lần vốn nhà nước tại công ty. Có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn tự có nên khả năng thanh toán nợ rất thấp, rủi ro cao. Thứ hai, thiết bị công nghệ lạc hậu: máy móc thiết bị của Việt Nam được nhập từ nhiều nguồn nhưng đa phần thuộc thế hệ đã lạc hậu. theo điều tra của Bộ khoa học- công nghệ và môi trường (1996) thì máy móc công nghệ của Việt Nam đã lạc hậu so với thế giới từ 10- 20 năm, có thiết bị được sản xuất từ năm 1930, có 38% thiết bị thuộc diện thanh lý, 52% đã qua duy tu bảo dưỡng. Thứ ba, số lao động dôi dư quá lớn: tình trạng lao động dôi dư, lao động không được đào tạo cơ bản nhiều làm tăng chi phí tiền lương, bảo hiểm, bảo hộ lao động, chi trợ cấp mất việc làm... đồng thời ảnh hưởng đến việc đổi mới thiết bị công nghệ. Thứ tư, công tác quản lý của doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, cơ chế quản ý còn nhiều bất cập và sơ hở, những tồn tại tài chính không được xử lý dứt điểm luôn là gánh nặng cho doanh nghiệp. Những biểu hiện này cho thấy hiệu quả và vai trò của DNNN với tư cách là động lực phát triển kinh tế ngày càng trở nên mờ nhạt. Thêm vào đó là sự thua lỗ triền miên của DNNN đã khiến ngân sách quốc gia không còn đủ sức để bao cấp và duy trì hoạt động của chúng. DNNN từ chỗ là trụ cột trong nền kinh tế quốc dân trở thành một gánh nặng đẩy lùi sự phát triển của nền kinh tế. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Thứ nhất, do sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN . thực tế này khiến các DNNN khó trở thành một chủ thể kinh tế độc lập, có quyền tự chủ, điều mà bất cứ chủ thể nào tham gia các quan hệ kinh tế, thương mại đều rất cần. Thứ hai, sự xung đột giữa các mục tiêu đặt ra cho kinh tế Nhà nước. phần lớn DNNN được giao thực hiện các mục tiêu kinh tế song cũng có không ít những mục tiêu khác hoặc mang tính chất chính trị, quân sự, an ninh quốc phòng hoặc mang tính chất xa hội. Việc thực hiện một lúc nhiều mục tiêu khác nhau khiến DNNN dễ rơi vào tình trạng lúng túng. Thứ ba, thiếu sự đầu tư cho việc tăng năng suất lao động. Năng suât lao động là yếu tố sống còn của doanh nghiệp trong bất cứ nền kinh tế nào, bất cứ quốc gia nào. Năng suất lao động phụ thuộc vào sự thay đổi công nghệ tiên tiến một cách thường xuyên, vào cơ chế quản lý năng động mà những điểm này thì DNNN khó có được do bị kiểm soát bởi hệ thống quản lý nhiều tầng cấp, quan liêu và mệnh lệnh. Thứ tư, thiếu cơ chế kích thích thích hợp đối với không chỉ người lao động mà cả đối với những người quản lý DNNN. Sự ràng buộc bởi chế độ lương, bảng lương quy định làm cho tất cả đều thực hiện công việc của mình một cách cầm chừng, thụ động vì không có động cơ vật chất thôi thúc. Cuối cùng là các DNNN thiếu khả năng cạnh tranh. Điều này thể hiện ở chỗ giá cả hàng hoá, dịch vụ của các DNNN đều cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tư nhân hay hỗn hợp. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó khẳng định vai trò chủ đạo không thể thiếu của thành phần kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là DNNN. Để DNNN thực hiện được sứ mệnh của mình chúng ta không có cách nào khác là phải đổi mới. Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, chủ trương đổi mới về mọi mặt của Nhà nước đã được đẩy mạnh trong đó CPH là một trong những giải pháp cơ bản nhằm cải cách khu vực kinh tế quốc doanh. Với chủ trương xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng không ngừng được nâng cao. Để đáp ứng được yêu cầu này, CPH DNNN được coi là một giải pháp quan trọng và triệt để nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong việc thay đổi cơ cấu kinh tế, đổi mới, nâng cao năng lực của các DNNN ở Việt Nam. Điều này đã được khẳng định qua Nghị quyết Đại hội VIII ,IX và tiếp tục được khẳng định trong báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của Đại hội Đảng X. 1.2. CPH DNNN: 1.2.1. Khái niệm CPH DNNN: CPH DNNN là việc chuyển doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước (đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (đa sở hữu), sự chuyển đổi này được thể hiện ở hai mặt căn bản sau: - Chuyển hoá quyền sở hữu từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, điều này kéo theo sự thay đổi quyền quản lý, quyền sử dụng và tạo nên sự gắn kế chặt chẽ giữa ba tuyến liên quan đến tái sản của doanh nghiệp là Nhà nước, người lao động và Nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. - Thay đổi quy chế hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ hoàn toàn bị Nhà nước chi phối sang tự chủ kinh doanh theo quy định của pháp luật. Việc CPH một bộ phận DNNN ở nước ta có những nét đặc thù, đó là CPH những doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, mà thực chất là CPH một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu xã hội, sở hữu toàn dân. mục tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần là nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của các DNNN. Cụ thể, tìm ra một hình thức quản lý phù hợp, vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động vừa đảm bảo quản lý một cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. Đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước, xoá bỏ độc quyền đối với một số DNNN, buộc các doanh nghiệp phải phát huy năng lực cạnh tranh để nâng cao hiệu quả so với kinh tế tư nhân và thu hút các nhà đấu tư nhân vào các ngành, các lĩnh vực mà sự độc quyền của Nhà nước không còn cần thiết. Nhà nước hướng tới tập trung vào những ngành then chốt, mũi nhọn, đòi hỏi hàm lượng vốn và khoa học - kỹ thuật cao để nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm của đất nước trên thị trường quốc tế cũng như tập trung vào ổn định nền kinh tế vĩ mô. CPH sẽ tạo ra khả năng huy động vốn của toàn xã hội, tạo thêm việc làm, nâng cao sức cạnh tranh và làm thay đổi cơ cấu DNNN. Trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn đang trì trệ,CPH tạo ra sự ổn định về mặt xã hội, thực hiện sự phân phối có lợi cho những người có thu nhập thấp. 1.2.2. Bản chất của CPH DNNN: Sự phát triển của DNNN đều vấp phải tình trạng chung là hiệu quả thấp, lãng phí, trong nhiều trường hợp nó còn là mảnh đất của sự tham nhũng. Sự sa sút không thể cứu vãn nổi của DNNN dẫn đến quá trình cải cách DNNN. Cải cách DNNN được thực hiện ở các nước theo những hình thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị xã hội ở nước đó. Cải cách DNNN được thưc hiện thông qua biện pháp chủ yếu sau đây: - Tư nhân hoá - CPH - Cho thuê DNNN - Bán DNNN - Cho phép doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh với DNNN trong cùng ngành. - Phương thức BOT trong xây dựng hạ tầng và công ích - Thuê tư nhân quản lý DNNN - Giảm các cổ phần Nhà nứơc trong các doanh nghiệp thuộc các ngành có tính cạnh tranh và khuyến khích sự tham gia của nguồn vốn không phải từ Nhà nước - Chia nhỏ hoặc sát nhập DNNN tuỳ theo tính chất và mục tiêu của việc cơ cấu lại - Thành lập các doanh nghiệp công tư hợp danh Nhìn chung, cải cách DNNN theo hình thức nào cũng đều nhằm mục đích thị trường hoá DNNN. thị trường hoá DNNN là quá trình chuyển việc phân bổ nguồn lực được thực hiện bằng phương thức quản lý Nhà nước sang cơ chế điều chỉnh thị trường, chuyển một phần tài sản DNNN thành phi Nhà nước, được thể hiện ở 4 khía cạnh: - Cải cách quản lý vĩ mô đối với DNNN theo định hướng thị trường - Đa dạng hoá tài sản của DNNN - Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN phải được thực hiện theo các nguyên tắc thị trường - Hình thành cơ chế loại bỏ các DNNN yếu kém ra khỏi thị trường Trong tất cả các giải pháp cải cách DNNN nêu trên thì tư nhân hoá và CPH được áp dụng phổ biến nhất. giữa tư nhân hoá và CPH có những điểm chung rất cơ bản, chính vì vậy nhiều người cho rằng CPH là một dạng tư nhân hoá hay CPH là tư nhân hoá từng phần. Xét ở những góc độ hình thức nhất định thì có vẻ như quan điểm này đúng. Tư nhân hoá là việc chuyển tài sản từ thành phần kinh tế công sang thành phần kinh tế tư. CPH được thực hiện thông qua việc chia vốn của một số DNNN nhất định ra thành các cổ phần và những cổ phần này được bán cho nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp và một phần do Nhà nước sở hữu. Do đó, CPH đã biến DNNN thành sở hữu chung của những người nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp. Như vậy, có thể nói CPH chính là tư nhân hoá một phần DNNN. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có những điểm khác nhau rất cơ bản sau đây: - Thứ nhất, tư nhân hoá được coi là một chính sách và mục tiêu của nó là hạn chế đến mức tối đa thành phần kinh tế công trong khi đó CPH chỉ được coi là một giải pháp thực hiện. - Thứ hai, tư nhân hoá được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau, trong đó có cả phương thức phi quốc hữu hoá, tức trả lại cho chủ cũ những tài sản đã bị quốc hữu hoá, kể cả toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động. CPH trong khi đó chỉ thực hiện thông qua việc DNNN tiến hành phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu. - Thứ ba, tác động của hai giải pháp này hoàn toàn khác nhau về cả mức độ lẫn tính chất. Tư nhân hoá dẫn đến thay đổi hình thức sở hữu của các DNNN, còn CPH có tác dụng làm giảm sở hữu của Nhà nước trong DNNN. Với tư cách là một chính sách, tư nhân hóa tác động đến toàn bộ nền kinh tế, còn CPH với tư cách là một giải pháp thực hiện chính sách này tác động chủ yếu đến các DNNN bị CPH. - Thứ tư, tư nhân hoá thường được tiến hành trên cơ sở của luật về tư nhân hoá. CPH được thực hiện dựa trên cơ sở của luật công ty hiện hành. CPH không xoá bỏ hoàn toàn sở hữu Nhà nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu, tức là chỉ có sự thay đổi về lượng chứ không có sự thay đổi về chất của các cơ sở kinh tế này. Xét một cách khái quát, CPH có một số ưu thế nhất định sau: - CPH không làm thay đổi một cách cơ bản kết cấu sở hữu của nền kinh tế. Vì vậy, nền tảng kinh tế của xã hội vẫn có thể không thay đổi lớn khi tiến hành CPH. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DNNN CPH sẽ được tăng lên và từ đó có thể làm cho chúng có khả năng thực hiện tốt hơn vai trò của mình. - CPH làm phát sinh nhiều công ty cổ phần có sự tham gia của sở hữu Nhà nước. Công ty cổ phần là chủ thể tích cực của nền kinh tế thị trường và sự có mặt đông đảo của các công ty này sẽ có tác động tốt tới nền kinh tế. - Do chỉ giảm bớt mức độ sở hữu của Nhà nước trong các DNNN CPH mà không loại chúng ra khỏi nền kinh tế nên CPH không làm nảy sinh vấn đề việc làm ở mức độ lớn. - CPH có thể mang lại sự gia tăng vốn đầu tư của DNNN thông qua việc huy động vốn từ các cổ đông- các chủ sở hữu mới của doanh nghiệp CPH. Dĩ nhiên, như bất cứ hiện tượng kinh tế- xã hội nào khác, CPH cũng chứa đựng những hạn chế của nó. Hạn chế cơ bản nhất của CPH xét ở yêu cầu phát triển kinh tế thị trường là khó có thể nhanh chóng tạo ra nền tảng thích hợp cho nền kinh tế thị trường mà theo quan điểm phổ biến ở phương Tây là chủ yếu dựa vào thành phần kinh tế tư nhân. Đối với Việt Nam, do đặc trưng của nền kinh tế, do chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, CPH được coi là giải pháp tối ưu cho quá trình sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của DNNN. Sỡ dĩ CPH được coi là giải pháp cải cách triệt để đối với DNNN vì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của DNNN- đó là vấn đề sở hữu. Những giải pháp cải cách DNNN khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của DNNN trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. CPH chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vi mô mà trước hết trong các doanh nghiệp. 1.2.3. Tác động của CPH DNNN: CPH có vai trò to lớn trong việc đổi mới DNNN, nhất là ở nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoach hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Tác dụng của CPH thể hiện ở một số khía cạnh sau đây: - CPH có tác dụng làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng hơn. Chính vì vậy nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu trong DNNN vốn gây ra những vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng động trong sản xuất kinh doanh. - CPH có tác dụng trong việc xã hội hoá tư liệu sản xuất trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu một chủ. Như vậy, các thực thể kinh tế vi mô cũng trở nên đa sở hữu như bản thân nền kinh tế vĩ mô. Điều này tạo nên sự tương thích nhất định của các giải pháp quản lý vĩ mô và vi mô. - CPH tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp nếu như họ mong muốn bằng việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, người lao động có thể tham gia vào viẹc quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp thông qua cái gọi là ”nền dân chủ cổ phần”. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của người lao động không chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối với các vấn đề kinh tế- chính trị xã hội của đất nước. - CPH có tác dụng rất lớn đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế: một thực tế khó có thể phủ nhận là tốc độ và tính bền vững của sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta phụ thuộc rất nhiều vào khu vực kinh tế Nhà nước. với tỷ trọng vốn cũng như các nguồn lực khác được đầu tư, quy mô lao động, tiềm năng về khoa học công nghệ, chát xám và ưu thế về thị trường của khu vực kinh tế Nhà nước hơn hẳn so với các thành phần kinh tế khác, tăng trưởng kinh tế của khu vực này là một yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể, quá trình CPH đã sàng lọc và đào thải những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát triển; CPH là giảm số lượng các DNNN thuần tuý, tức là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước sẽ giảm bớt được một khoản bổ sung vốn từ ngân sách Nhà nước cho những doanh nghiệp này để dành đầu tư vào các nhu cầu phát triển khác; thông qua CPH Nhà nước thu được một phần giá trị tài sản Nhà nước trước đây giao cho các doanh nghiệp quản lý nhưng sử dụng kém hiệu quả; cũng với việc giảm số lượng DNNN sẽ làm giảm nhu cầu hỗ trợ và ưu đãi về tín dụng Nhà nước, làm giảm áp lực lên các ngân hàng thương mại quốc doanh và các quỹ tín dụng Nhà nước, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp cận được với các nguốn vốn vay, tạo tính bình đẳng trên thị trường; CPH DNNN gắn liền với sự xuất hiện hàng loạt các công ty cổ phần, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ giúp các nguồn lực trong xã hội sẽ được sử dụng một cách hiệu quả hơn; cuối cùng, CPH giúp các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn và chính chúng sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, từ đó tạo ra một vòng xoáy thúc đẩy toàn nền kinh tế phát triển. - CPH DNNN ở nước ta có tác dụng to lớn trong việc đẩy lùi tình trạng lãng phí, tham nhũng đang khá phổ biến trong các DNNN và những cơ chế quản lý chúng. Các DNNN sau CPH sẽ trở thành công ty cổ phần, được đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. Khi đó sẽ không tồn tại cơ chế chủ quản và cũng không còn cơ chế “xin- cho” đối với doanh nghiệp nữa. mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bị chi phối bởi các quy luật thị trường và pháp luật. - CPH tác động tới các vần đề xã hội ở nhiều phương diện, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhiều đối tượng xã hội, làm phát sinh những mối quan hệ mới. ảnh hưởng của CPH có thể rất tích cực song cũng có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực nếu không được xử lý đúng. - CPH và thị trường chứng khoán có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hoạt động CPH của các DNNN cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán, làm hàng hoá trên thị trường thêm phong phú, ngược lại sự phát triển của thị trường chứng khoán có tác dụng thúc đẩy quá trình CPH, làm gia tăng số cổ đông tiềm tàng cho các DNNN CPH, hỗ trợ DNNN trong các khía cạnh như định giá doanh nghiệp, tư vấn phát hành, bão lãnh phát hành...Ngoài ra với sự phát tiển của thị trường chứng khoán các DNNN sau khi CPH phải thực hiện chế độ tài chính công khai, minh bạch từ đó hoạt động sẽ hiệu quả hơn. Những tác động nói trên của CPH đối với các DNNN đã khẳng định tính đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình sắp xếp, đổi mới lại DNNN. Đường đi đã được xác định rõ ràng để đạt được thành công chúng ta cần có những bước đi đúng đắn trong quá trình thực hiện. 1.3. Các hình thức và quy trình CPH DNNN: 1.3.1. Các hình thức CPH DNNN: Hình thức CPH công ty Nhà nước được đưa ra trong nghị định 109/2007/NĐ- CP của Chính phủ ngày 26/6/2007 về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần như sau: - Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn bên ngoài áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Ưu điểm của hình thức này là quy mô được mở rộng nên nó phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Bán một phần vốn vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. cách làm này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có quy mô lớn vì các doanh nghiệp đó không dễ dàng trong việc huy động những nguốn vốn lớn từ bên ngoài. - Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. Hình thức này có mức độ CPH cao nhất, theo đó Nhà nước không còn tham gia vào việc điều hành, quản lý doanh nghiệp nữa mà chuyển giao hẳn cho các thành phần kinh tế khác sở hữu và điều hành. Các doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ hay không thuộc lĩnh vực Nhà nước cần nắm quyền kiểm soát thường tiến hành CPH theo hình thức này. 1.3.2. Quy trình tiến hành CPH: Căn cứ Nghị định 109/2007/NĐ- CP ngày 26/06/2007 của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần, Thông tư 146/2007/TT- BTC ngày 06/12/2007 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 109/2007/NĐ- CP ngày 26/06/2007 của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần, quy trình chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần bao gồm các bước công việc sau: Bước 1. Xây dựng Phương án CPH. 1. Thành lập Ban chỉ đạo CPH và tổ giúp việc. 1.1. Cơ quan quyết định CPH ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo CPH đồng thời với Quyết định CPH doanh nghiệp. 1.2. Trưởng Ban chỉ đạo lựa chọn và ra quyết định thành lập Tổ giúp việc CPH trong thời gian 5 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định thành lập Ban chỉ đạo CPH. 2. Chuẩn bị hồ sơ tài liệu: Trong thời gian tối đa 10 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định thành lập Tổ giúp việc CPH, Ban chỉ đạo có trách nhiệm chỉ đạo Tổ giúp việc cùng với doanh nghiệp tiến hành: 2.1. Lựa chọn phương pháp, hình thức xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn có liên quan đến CPH. 2.2. Chuẩn bị đầy đủ các tài liệu sau: - Các Hồ sơ pháp lý về thành lập doanh nghiệp. - Các Hồ sơ pháp lý về tài sản của doanh nghiệp (bao gồm cả diện tích đất được giao hoặc thuê). - Hồ sơ về công nợ (đặc biệt là các khoản nợ tồn đọng, các khoản nợ đã xử lý theo chế độ trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp). - Hồ sơ về tài sản không cần dùng, vật tư, hàng hoá ứ đọng, kém, mất phẩm chất (nếu có), tài sản hình thành từ nguồn quỹ khen thưởng phúc lợi. - Hồ sơ về các công trình đầu tư xây dựng cơ bản dở dang (kể cả các công trình đã có quyết định đình hoãn). - Hồ sơ về các khoản vốn đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác như: góp vốn liên doanh, góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn và các hình thức đầu tư dài hạn khác. - Báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán thuế của công ty đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. - Lập dự toán chi phí cổ phần hóa theo chế độ quy định. 3. Kiểm kê, xử lý những vấn đề về tài chính và tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp: Tổ giúp việc, doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn (nếu có) tiến hành: 3.1. Kiểm kê, phân loại tài sản và quyết toán tài chính, quyết toán thuế, phối hợp với các cơ quan có liên quan xử lý những vấn đề về tài chính đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. 3.2. Xác định giá trị doanh nghiệp: Ban chỉ đạo CPH lựa chọn (hoặc đấu thấu lựa chọn) tổ chức định giá để giao cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng định giá hoặc giao cho Tổ giúp việc, doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp. Trường hợp Tổ chức tư vấn có chức năng định giá thì có thể thuê trọn gói: lập phương án CPH, xác định giá trị doanh nghiệp, tổ chức bán cổ phần. 3.3. Ban chỉ đạo thẩm tra kết quả kiểm kê, phân loại tài sản và kết quả xác định giá trị doanh nghiệp, báo cáo cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp và Bộ Tài chính. Thời gian để hoàn tất các công việc tại điểm 3.1, 3.2, 3.3 không quá 90 ngày làm việc kể từ ngày chuẩn bị xong hồ sơ tài liệu đối với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty mẹ; không quá 60 ngày đối với các trường hợp còn lại. 3.4. Quyết định và công bố giá trị doanh nghiệp: Trong thời gian không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Ban chỉ đạo CPH, cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp phải ra quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH. 4. Căn cứ thời điểm quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp lập: - Danh sách người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định công bố giá trị doanh nghiệp để xác định số cổ phần dự kiến người lao động được mua ưu đãi. - Lập danh sách lao động thường xuyên làm việc tại công ty tại thời điểm quyết định công bố giá trị doanh nghiệp, phân loại lao động theo các đối tượng: hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng có thời hạn từ 1-3 năm, danh sách lao động dôi dư… 5. Hoàn tất Phương án CPH: 5.1. Lập Phương án CPH: Căn cứ quy định hiện hành và tình hình thực tế của doanh nghiệp, Ban chỉ đạo xem xét quyết định thuê tổ chức tư vấn hoặc giao cho Tổ giúp việc và doanh nghiệp lập Phương án CPH với các nội dung chính sau: a) Giới thiệu về công ty, trong đó mô tả khái quát về quá trình thành lập công ty và mô hình tổ chức của công ty; tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 - 5 năm liền kề trước kh._.i CPH. b) Đánh giá thực trạng của công ty ở thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, bao gồm: - Thực trạng về tài sản (bao gồm cả diện tích đất được giao hoặc thuê). - Thực trạng về tài chính, công nợ. - Thực trạng về lao động. - Những vấn đề cần tiếp tục xử lý. c) Phương án sắp xếp lại lao động: - Số lao động có tên trong danh sách thường xuyên ở thời điểm có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp. - Số lao động tiếp tục tuyển dụng. - Số lao động dôi dư và phương án giải quyết theo từng đối tượng. d) Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3 - 5 năm tiếp theo, trong đó nêu rõ: - Phương án cơ cấu lại doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần: sắp xếp lại các bộ phận trong doanh nghiệp, đổi mới ngành nghề kinh doanh; đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. - Kế hoạch sản xuất kinh doanh của các năm tiếp theo về sản phẩm, sản lượng, thị trường, lợi nhuận … và các giải pháp về vốn, nguyên liệu, tổ chức sản xuất, lao động tiền lương, … đ) Phương án CPH : - Hình thức CPH và vốn điều lệ theo yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. - Dự kiến cơ cấu vốn điều lệ: số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần bán ưu đãi cho người lao động (kèm theo danh sách đăng ký mua cổ phần của người lao động), số cổ phần bán cho tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp, số cổ phần bán cho các nhà đầu tư chiến lược (kèm theo danh sách) và số cổ phần dự kiến bán đấu giá cho các nhà đầu tư thông thường. - Phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định (đấu giá trực tiếp tại công ty, hoặc đấu giá tại các tổ chức tài chính trung gian, hoặc đấu giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán). e) Dự thảo Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần theo các quy định của Luật doanh nghiệp và các văn bản pháp luật hiện hành. 5.2. Hoàn thiện Phương án CPH. a) Căn cứ quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH, Tổ giúp việc cùng với doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn (nếu có) hoàn thiện Phương án CPH và gửi tới từng bộ phận trong công ty để nghiên cứu trước khi tổ chức hội nghị công nhân viên chức (bất thường). b) Tổ chức Hội nghị công nhân viên chức (bất thường) để lấy ý kiến hoàn thiện phương án CPH. c) Sau Hội nghị công nhân viên chức, Tổ giúp việc, doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tư vấn (nếu có) hoàn thiện Phương án CPH để trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. d) Ban chỉ đạo thẩm định phương án CPH báo cáo cơ quan quyết định CPH phê duyệt. Thời gian để hoàn tất các nội dung quy định tại điểm 5.2 bước này không quá 20 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định công bố giá trị doanh nghiệp CPH. 5.3. Phê duyệt phương án CPH. Cơ quan quyết định CPH xem xét ra quyết định phê duyệt phương án CPH trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Ban chỉ đạo. Bước 2. Tổ chức bán cổ phần. 1. Ban chỉ đạo CPH lựa chọn phương thức bán cổ phần theo quy định. 2. Tổ chức bán cổ phần: 2.1. Tổ chức bán đấu giá cho các nhà đầu tư thông thường: a) Đối với trường hợp bán đấu giá trực tiếp tại doanh nghiệp: Ban chỉ đạo CPH và doanh nghiệp tổ chức bán đấu giá cổ phần cho nhà đầu tư. b) Đối với trường hợp bán cổ phần tại tổ chức tài chính trung gian: - Ban chỉ đạo lựa chọn tổ chức tài chính trung gian giao cho doanh nghiệp ký hợp đồng. - Ban chỉ đạo và doanh nghiệp phối hợp với tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc bán cổ phần theo quy định. c) Đối với trường hợp bán cổ phần tại Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán. Ban chỉ đạo cổ phần hóa được quyền đăng ký với cơ quan quyết định CPH về thời gian dự kiến bán cổ phần, số lượng cổ phần dự kiến bán để cơ quan quyết định CPH quyết định việc lựa chọn tổ chức bán cổ phần, đăng ký kế hoạch đấu giá với Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán đồng thời báo cáo Bộ Tài chính để quyết định thời gian đấu giá cổ phần của doanh nghiệp. 2.2. Trên cơ sở giá đấu thành công bình quân của các nhà đầu tư thông thường, Ban chỉ đạo CPH: - Chỉ đạo doanh nghiệp bán cổ phần ưu đãi cho người lao động và tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp (nếu có). - Tiến hành bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược hoặc thương thảo với các nhà đầu tư chiến lược đã được lựa chọn. 3. Tổng hợp kết quả bán cổ phần báo cáo cơ quan quyết định CPH. 4. Báo cáo cơ quan quyết định CPH ra quyết định điều chỉnh quy mô, cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp CPH đối với trường hợp không bán cổ phần cho các đối tượng theo đúng phương án CPH được duyệt. (Thời gian thực hiện Bước 2 không quá 3 tháng kể từ khí có quyết định phê duyệt phương án CPH) Bước 3. Hoàn tất việc chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần. 1. Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất. Ban Chỉ đạo CPH chỉ đạo Tổ giúp việc và doanh nghiệp tổ chức Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất để thông qua Điều lệ tổ chức và hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh, bầu Hội đồng quản trị, ban Kiểm soát và bộ máy điều hành công ty cổ phần. 2. Căn cứ vào kết quả Đại Hội đồng cổ đông lần thứ nhất, Hội đồng quản trị công ty cổ phần thực hiện đăng ký kinh doanh, nộp con dấu của doanh nghiệp cũ và xin khắc dấu của công ty cổ phần. (Thời gian để hoàn tất các nội dung quy định tại điểm 1, điểm 2 Bước 3 không quá 30 ngày ) 3. Lập báo cáo tài chính tại thời điểm công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, thực hiện quyết toán thuế, quyết toán chi phí CPH, báo cáo cơ quan quyết định CPH. Nộp tiền thu từ CPH về Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty, công ty mẹ, công ty nhà nước hoặc Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. 4. Công ty cổ phần mua hoặc in tờ cổ phiếu cấp cho các cổ đông theo quy định hiện hành. 5. Tổ chức ra mắt công ty cổ phần và thực hiện bố cáo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định. Trường hợp doanh nghiệp xác định sẽ thực hiện niêm yết ngay trên thị trường chứng khoán thì lập bộ hồ sơ xin cấp phép niêm yết gửi Bộ Tài chính (Uỷ ban chứng khoán Nhà nước) theo quy định hiện hành. 6. Tổ chức bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần. Trong quá trình thực hiện, cơ quan quyết định CPH, Ban chỉ đạo CPH, Tổ giúp việc và doanh nghiệp có thể tiến hành đồng thời nhiều bước một lúc để đẩy nhanh tiến độ CPH công ty nhà nước. 1.4. Quá trình CPH DNNN ở Việt Nam: Trong nền kinh tế thị trường, CPH là một giải pháp khai thác triệt để tiểm năng của các thành phần kinh tế. việc CPH các DNNN là một trong những vấn đề căn bản của cải cách và đổi mới DNNN ở Việt Nam. Điều này đã được khẳng định qua Nghị quyết Đại hội VIII, IX và tiếp tục được khẳng định trong Đại hội Đảng lần thứ X; trong đó, nhấn mạnh: tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN. 1.4.1. Những kết quả chủ yếu đạt được từ CPH DNNN: Tiến trình CPH DNNN đã được thực hiện ở nước ta hơn 17 năm qua và đạt được những thành công nhất định. - Số lượng doanh nghiệp CPH tăng lên: CPH các DNNN được tiến hành thí điểm từ tháng 6 năm 1992, tính đến hết tháng 6 năm 2007 cả nước đã CPH được 3680 doanh nghiệp và bộ phận DNNN. Trong đó, doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66,15%; ngành thương mại, dịch vụ chiếm 27.6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6.25%. Phân theo chủ sở hữu, doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 61.7%; thuộc các bộ, ngành chiếm 29%; thuộc các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Phân theo quy mô vốn, doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng chiếm 79,9%; trên 10 tỷ đồng chiếm 20,1%. Lạm phát cao và khủng hoảng tài chính toàn cầu từ giữa năm 2007 kéo dài sang năm 2008 đã tác động bất lợi đến nền kinh tế nước ta và làm chậm tiến độ CPH DNNN. Bảng 1.1: Tình hình CPH DNNN từ năm 1992 đến tháng 8- 2008 Năm Số lượng DNNN CPH 1992- 1998 123 1999 253 2000 212 2001 205 2002 164 2003 532 2004 753 2005 593 2006 298 2007 116 2008 74 Tổng số 3423 Nguồn: Báo cáo của Ban đổi mới DNNN Nếu tính cả doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được CPH thì tính đến ngày 30/6/2008 cả nước có 3786 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp đã CPH. Tổng số vốn điều lệ khi CPH là 106 nghìn tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 50%, người lao động nắm giữ 11% và nhà đầu tư bên ngoài nắm giữ 39% vốn điều lệ. Quá trính CPH DNNN đã thu về khoảng 78 nghìn tỷ đồng cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Trong đó, phần thu do chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu so với mệnh giá khoảng 54 ngìn tỷ đồng. Các doanh nghiệp CPH đều là các doanh nghiệp nhỏ, vừa và Nhà nước nắm giữ 50% vốn cổ phần. Còn về số lượng doanh nghiệp chưa CPH tính đến hết tháng 9 năm 2008 cả nước còn 2176 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước với tổng số vốn khoảng 200.000 tỷ đồng, trong đó có 1546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, 355 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất công ích, 295 nông, lâm trường. - Các doanh nghiệp CPH có quy mô ngày càng lớn hơn và mở rộng sang các lĩnh vực ngành nghề trước đây Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn như: điên lực, bưu chĩnh viễn thông, hàng không, hàng hải, dầu khí, tài chính, bảo hiểm,... Năm 2006, hoàn thành việc thí điểm CPH 3 tổng công ty Nhà nước là xuất nhập khẩu xây dựng, thương mại và xây dựng, điện tử tin học . Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt danh sách 71 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước sẽ thực hiện CPH trong giai đoạn tới. - Hình thức CPH phong phú phù hợp với thực tiễn. Căn cứ thực tế và nhu cầu thu hút vốn để đầu tư, Chính phủ đã cho phép triển khai áp dụng các hình thức CPH khác nhau, trong đó phổ biến nhất là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (hình thức này chiếm 69,4%), hình thức bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (chiếm 15,5%), hình thức giữ nguyên vốn Nhà nước phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 15,1%). Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (từ 54% vốn điều lệ trở lên) chiếm 34% doanh nghiệp đã CPH, đây là những doanh nghiệp có vốn tương đối lớn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả và một số doanh nghiệp chưa bán được hết cổ phần theo phương án duyệt ban đầu. - CPH giúp hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Từ chính sách CPH DNNN và trong thực tế đã hình thành các cổ đông chiến lược góp phần tạo ra năng lực mới,mở rộng thị trường, tăng tièm lực tài chính để mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng trình độ quản lý, đổi mới công nghệ. Việc đa dạng hoá sở hữu DNNN đã góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động tiếp cận các nguồn vốn của xã hội phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, tăng cường sự kiểm tra giám sát của xã hội đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - CPH đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng nhắm cơ cấu lại DNNN. Qua CPH đã giảm mạnh những DNNN quy mô nhỏ, thua lỗ và thuộc các ngành, lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, góp phần quan trọng cơ cấu lại DNNN, để DNNN tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Số lượng DNNN đã giảm từ 12.000 doanh nghiệp vào năm 1993 xuống còn 5.655 doanh nghiệp năm 2000, 4.296 doanh nghiệp năm 2005 và 2176 tháng 9/2008. Nợ xấu của các DNNN khi CPH được xử lý một bước cơ bản, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực sự lành mạnh về tài chính khi hoạt động với hình thức công ty cổ phần. Trong quá trình CPH DNNN từ năm 2002 trở lại đây có 154 doanh nghiệp có khó khăn trong các khoản nợ xấu được xử lý giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước với tổng số tiền là 314,91 tỷ đồng. Chính phủ đã cho phép xử lý nợ tồn đọng vay các ngân hàng thương mại trên 19 nghìn tỷ đồng. Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng đã tiếp nhận nợ và tài sản loại trừ của 1.222 doanh nghiệp với giá trị 1.411 tỷ đồng; trong đó, đã xử lý nợ cho 331 doanh nghiệp với giá trị 390 tỷ đồng, giá trị thu hồi 125 tỷ đồng. - CPH đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư vào phát triến sản xuất, kinh doanh, đa dạng hoá sở hữu. Nhờ CPH vốn Nhà nước tại DNNN tuy chưa tính giá trị quyến sử dụng đất nhưng nhìn chung được đánh giá lại khách quan, chính xác hơn; đồng thời đã huy động thêm được 25.600 tỷ đồng của các cá nhân, tổ chức ngoài xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Qua CPH, Nhà nước cũng thu về được khoảng 19.500 tỷ đồng để đầu tư vào mục tiêu khác. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH được bảo toàn nhờ hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp CPH ngày càng tăng. - CPH tạo cơ sở thúc đẩy hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Phương thức CPH từng bước được đổi mới, sát với thị trường, gắn với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán để tăng tính minh bạch, thúc đẩy sự luân chuyển linh hoạt của vốn cổ phần trên thị trường chứng khoán. Đến nay đã có 193 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, quy mô thị trường chứng khoán năm 2006 đã đạt 22,7% GDP, đến thàng 5 năm 2007 đã đạt 32,8% GDP. Một sồ lượng lớn các DNNN được CPH đã cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán phát triển. - CPH mang lại cho doanh nghiệp cơ chế quản lý năng động hơn, có hiệu quả, thích nghi với nền kinh tế thị trường. Chuyển sang hình thức công ty cổ phần, doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước cổ đông về hoạt động và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Công ty cổ phần đã thực hiện tốt các biện pháp tiết kiệm, đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; xây dựng mới các nội quy, quy chế hoạt động; có cơ chế hạch toán, phân phối rõ ràng; thực hiện tinh giản bộ máy quản lý, hợp lý hoá các bộ phận snả xuất, kinh doanh từ đó nâng cao iệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. - CPH tạo điều kiện pháp lý và vật chất để người lao động nâng cao vai trò làm chủ trong doanh nghiệp. Thông qua CPH một bộ phận quan trọng người lao động ở DNNN CPH trở thành cổ đông, là người chủ thực sự phần vốn góp của mình ở doanh nghiệp. - Việc kiểm tra, giám sát của người lao động, cổ đông và xã hội đối với công ty cổ phần, nhất là những công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán là biện pháp có hiệu quả làm cho tài chính của công ty cổ phần được minh bạch, công khai. - Thông qua CPH góp phần tập trung vốn của Nhà nước (sau CPH) vào các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty Nhà nước và tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước đã phần nào khắc phục tình trạng vốn Nhà nước đầu tư từ chỗ dàn trải, phân tán vào tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sang đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, hướng vào các lĩnh vực, ngành nghề then chốt của nền kinh tế. - CPH đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Nhìn chung các doanh nghiệp sau CPH hoạt động hiệu quả hơn. Theo báo cáo của các bộ, ngành, điạ phương về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 850 doanh nghiệp CPH đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng lên 44%; daonh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%; số lao động tăng bình quân 6,6%; cổ tức bình quân đạt 17,11% Tóm lại, CPH DNNN được thực hiện thận trọng theo đúng quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và về cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra, đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp và cả các cổ đông khác của doanh nghiệp. Thực tế đó đã chứng minh rằng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta vế CPH DNNN là hoàn toàn đúng đắn. 1.4.2. Những tồn tại, hạn chế của quá trình CPH DNNN: Bên cạnh những thành công như trên việc thực hiện chủ trương CPH DNNN ở nước ta cũng bộc lộ khá nhiều hạn chế: - Tiến độ CPH chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra. Tuy đạt được những kết quả đáng ghi nhận nêu trên nhưng so với yêu cầu và mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 (khoá IX), Nghị quyết Đại hội X của Đảng thì việc sắp xếp, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp mà trọng tâm là CPH DNNN vẫn còn chậm, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Những số liệu dưới đây cho thấy việc thực hiện CPH luôn thấp hơn chỉ tiêu đề ra. Bảng 1.2: Số liệu các DNNN tiến hành CPH Thời kỳ Thực tế Mục tiêu Tỷ lệ 1998- 1999 307 850 43,5% 2000- 2005 2075 4500 46,1% 2006- 2007 212 1460 14,5% Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2007 - Cơ cấu vốn điều lệ: tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp. Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%). Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước. - Việc xác định giá trị tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, sơ hở: giá trị doanh nghiệp chưa được tính đúng và thống nhất; giá trị thương hiệu, lợi thế kinh doanh, nguồn nhân lực tại doanh nghiệp chưa được xem xét đánh giá đầy đủ, và nhất là chưa xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất để đưa vào giá trị doanh nghiệp khi CPH đã làm thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, làm lợi cho một số người, tạo nên bức xúc xã hội. - Các hoạt động bổ trợ cho quá trình CPH doanh nghiệp như kiểm toán, tư vấn, các định chế tài chính trung gian, thị trường chứng khoán... chưa được quan tâm phát triển đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu. Doanh nghiệp CPH chưa thực sự chủ động lựa chọn đơn vị tư vấn, xác định giá trị tài sản, xây dựng phương án CPH, phương án phát triển sau CPH. - Mục tiêu thu hút các nguồn vốn xã hội vào sản xuất, kinh doanh khi CPH DNNN đạt được còn thấp. Chủ trương bán cổ phần ưu tiên cho đối tác chiến lược là chiến lược đúng đắn, tuy nhiên việc triển khai còn lúng túng, thiếu hướng dẫn cụ thể xác định đối tác chiến lược. Vì vậy, chưa thu hút được các cổ đông có tiềm lực lớn về vốn, khoa học công nghệ, có uy tín và quan hệ quốc tế rộng tham gia vào CPH DNNN. Do đó, sau CPH các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, uy tín thương hiệu chưa có nhiều thay đổi, nhiều doanh nghiệp năng suất lao động và sức cạnh tranh chưa cao, một số doanh nghiệp còn thua lỗ. - CPH chưa thực hiện tốt mục tiêu tạo sự gắn bó, phát huy tinh thần làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp. Điều đáng quan tâm là tình trạng nhiều người lao động trong doanh nghiệp đã bán cổ phần ưu đãi được mua, thậm chí bán trước khi được mua nhưng chưa có cách khắc phục tình trạng này. Điều này không những không tạo được sự gắn bó, phát huy quyền làm chủ của người lao động trong doanh nghiệp mà còn tạo khả năng tập trung vốn vào tay một số người, lãnh đạo doanh nghiệp, CPH có xu hướng tư nhân hoá. - Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH vẫn cồn tồn tại nhiều bất cập. Vai trò của các cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH đã thay đổi tuy nhiên nhiều vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước đối với công ty sau CPH vẫn chưa được giải đáp rõ ràng. Các biện pháp trong cải cách và quản lý DNNN còn thiên về khu vực DNNN có 100% vốn hoạt động theo luật DNNN, chưa chú trọng tới các doanh nghiệp sau CPH . - Hiện đang có tình trạng chưa phân định rõ ràng và nhận thức đúng về người đại diện sở hữu cổ phần Nhà nước và người trực tiếp quản lý cổ phần Nhà nước tại công ty cổ phần. Vì vậy, dẫn đến tình trạng không thống nhất trong cử người đaị diện, cử người không đủ thẩm quyền, dẫn đến quyết định của hội đồng quản trị công ty chậm, triển khai quyết định chậm, lỡ thời cơ kinh doanh của công ty, Nhà nước chưa có tiêu chí đánh giá, chế độ ràng buộc về quyền lợi, trách nhiệm của người đại diện quản lý cổ phần Nhà nước. - Vấn đề chuyển nhượng cổ phần của người lao động và yêu cầu “CPH không được biến thành tư nhân hoá”: ngay sau khi CPH đã diễn ra tình trạng chuyển nhượng cổ phần của người lao động, đặc biệt là đối với những người lao động nghèo chuyển nhượng cổ phần ưu đãi của mình cho người khác. Việc chuyển nhượng này mặc dù hợp pháp nhưng có ảnh hưởng đến mục tiêu của CPH là đảm bảo mọi người lao động có cổ phần để tạo động lực, gắn trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp, không được biến CPH thành tư nhân hoá. Đã có những trường hợp một nhóm nhỏ cổ đông thâu tóm cổ phần công ty, kiểm soát công ty, thực chất đó là tư nhân hoá công ty. - Chính sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta, trên thực tế, vẫn dựa trên tư duy cũ. Vì vậy, từ khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập như: Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có Nghị định 187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu. Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn. Tính đến ngày 31-12-2005, dư nợ cho vay đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính. Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần. Quy trình cổ phần hóa (từ xây dựng đề án đến thực hiện đề án) chưa sát thực tế, còn rườm rà, phức tạp nên đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Bình quân thời gian để thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp mất 437 ngày, tổng công ty mất 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, rất nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động như cũ; quản lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động, kể cả trong các doanh nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều lệ doanh nghiệp; bộ máy quản lý cũ trong nhiều doanh nghiệp vẫn chiếm giữ đến 80%. 1.5. Nhân tố ảnh hưởng tới tiến trình CPH DNNN: 1.5.1. Nhân tố chủ quan: Thứ nhất, đặc điểm về ngành nghề lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề lĩnh vực mà nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối thì tiến trình cổ phần hóa sẽ diễn ra nhanh hơn, đơn giản hơn. Ngược lại, đối với những ngành nghề, lĩnh vực quan trọng, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế vĩ mô, đời sống của nhân dân mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối đặc biệt là các doanh nghiệp trong các ngành như điện lực, xây dựng, vận tải, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm… thì tiền trình cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn, và thực hiện chậm do quy mô của những doanh nghiệp này lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu ta tập trung cổ phần hóa các DNNN thuộc các lĩnh vực kinh tế không trọng điểm, giai đoạn này đối tượng cổ phần hóa được mở rộng ra các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nên tiến trình cổ phần hóa phải thực hiện thận trọng hơn và cũng gặp nhiều khó khăn hơn. Thứ hai, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, hoạt động có lãi, không có nợ xấu và có triển vọng phát triển trong tương lai thường tiến hành cổ phần hóa dễ dàng và nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp nợ tồn đọng nhiều, hoạt động thua lỗ, không có thị trường phát triển. Vì các doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt sẽ thu hút được đông đảo sự tham gia của các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược khi tiến hành cổ phần hóa, và quá trình xác định giá trị doanh nghiệp cũng được tiến hành nhanh chóng do không gặp khó khăn trong việc xử lý các vấn đề tài chính. Thực tế các DNNN thực hiện cổ phần hóa ở nước ta trong thời gian qua chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động thua lỗ, tình hình tài chính còn nhiều bất cập đây là một trong những lý do khiến tiến trình cổ phần hóa thực hiện chậm. Thứ ba là giá trị của doanh nghiệp cổ phần hóa gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. DNNN có tài sản hữu hình là những trang thiết bị cũ hay mới, trình độ công nghệ như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ trong tương lai, đồng thời cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường về mặt chi phí sản xuất và chất lượng. Điều này sẽ quyết định thị phần của doanh nghiệp, và trực tiếp ảnh hưởng đến dòng doanh thu và lợi nhuận mong đợi sẽ kiếm được trong tương lai. Tài sản vô hình là các mối quan hệ hợp tác, các nguồn lực và đặc quyền kinh doanh, hợp đồng thuê bao, bằng phát minh sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa, là những yếu tố tác động đến khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Bên cạnh đó yếu tố nhân sự cũng được kể đến khi định giá doanh nghiệp, vấn đề con người trong lao động sản xuất và hoạt động quản lý cực kỳ quan trọng, quyết định  lợi thế nhiều mặt của doanh nghiệp. và một lẽ dĩ nhiên là doanh nghiệp có giá trị lớn sẽ hấp dẫn nhà đầu tư hơn các doanh nghiệp có giá trị bé. Thứ tư, tác động từ ban lãnh đạo DNNN. Đây là yếu tố tác động không nhỏ đến tiến trình cổ phần hóa ở nước ta. Trong thực tế ban lãnh đạo doanh nghiệp chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Nguyên nhân là họ sợ lợi ích của mình bị đe dọa do nhận thức không đúng về cổ phần hóa. Họ lo rằng khi công ty chuyển sang hình thức công ty cổ phần vị trí quản lý của họ sẽ không còn được đảm bảo từ đó sinh ra tâm lý chần chừ, né tránh, chờ đợi người khác làm trước,thiếu chủ động thực hiện. Nhân tố chủ quan cuối cùng từ phía doanh nghiệp cổ phần hóa là nhận thức của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thực tế là đại bộ phận người lao động trong chưa thấy rõ bản chất, vai trò và lợi ích của việc cổ phần hóa DNNN đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của bản thân họ nói riêng. Do thiếu sót trong việc tuyên truyền về cổ phần hóa DNNN cho người lao động nên quả trình thực hiện cổ phần hóa không nhận được sự ủng hộ cũng như tham gia tích cực từ phía người lao động. 1.5.2. Nhân tố khách quan: Thứ nhất, cơ sở pháp lý để thực hiện cổ phần hóa DNNN. Một hành lang pháp lý thông thoáng, có hệ thống và đủ mạnh là điều kiện tiên quyết để tiến trình cổ phần hóa được tiến hành nhanh chóng và đúng mục tiêu đề ra. Không có một cơ sơ pháp lý đầy đủ, sát vời tình hình thực tế thì việc tiến hành cổ phần hóa sẽ rất khó khăn, mọi công việc sẽ chồng chéo và tất yếu sẽ dẫn đến sai sót trong quá trình thực hiện về cả quy trình lẫn kết quả. Thứ hai, cơ chế định giá doanh nghiệp. Việc xác định giá trị doanh nghiệp có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình cổ phần hóa cũng như chất lượng của cổ phần hóa. Một cơ chế định giá doanh nghiệp chính xác sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hóa diễn ra nhanh gọn và hiệu quả. Nếu giá trị doanh nghiệp được định giá thấp so với thực tế sẽ làm thất thoát tài sản của Nhà nước, nếu xác định cao sẽ làm mất lòng tin của nhà đầu tư vào doanh nghiệp, gây ra hiện tượng tham nhũng ở một số cán bộ quản lý. Cơ chế định giá doanh nghiệp ở nước ta mặc dù đã có nhiều sửa đổi bổ sung song vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là trong việc xác định giá trị tài sản vô hình như lợi thế kinh doanh, giá trị thương hiệu, giá trị quyền sử dụng đất; phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu là phương pháp tài sản chứ không phải là phương pháp dòng tiền chiết khấu nên thiếu chính xác. Thứ ba, vai trò của các nhà đầu tư chiến lược. Các DNNN thực hiện cổ phần hóa gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược, đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ lại càng khó. Một mặt do thiếu chính sách khuyến khích từ phía cơ quan quản lý, một mặt các doanh nghiệp cổ phần hóa không đủ điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Thứ tư, các chính sách của Đảng và Nhà nước hỗ trợ cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến cổ phần hóa như việc giải quyết lao động đôi dư, chi phí cho đào tạo lại lao động, chi phí cổ phần hóa, chính sách sau cổ phần hóa … Sự quan tâm đúng mức và phù hợp của các chính sách này sẽ tạo động lực cho quá trình cổ phần hóa diễn ra trôi chảy và nhanh chóng. Thứ năm, sự phát triển của thị thường tài chính đặc biệt là TTCK. TTCK là thị trường đầu ra của quá trình cổ phần hóa do đó một TTCK phát triển ổn định và lành mạnh là điều kiện để các DNNN cổ phần hóa thu hút vốn từ bên ngoài cho đầu tư phát triển. Ngược lại nếu TTCK giảm sút, không ổn định sẽ gây tâm lý e ngại từ cả phía nhà phát hành và nhà đầu tư do đó tiến trình cổ phần hóa cũng bị chậm lại. Thực tế TTCK Việt Nam thời gian qua đã chứng minh tác động của nó tới tiền trình cổ phần hóa DNNN. Cuối cùng là sự phát triển và trình độ của các công ty kiểm toán, công ty tư vấn cổ phần hóa. Những tổ chức kiểm toán và tư vấn có trình độ cao và có kinh nghiệm sẽ thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp cũng như các khâu trong quy trính cổ phần hóa một cách chính xác,nhanh chóng và chuyên nghiệp tạo niềm tin cho cả Nhà nước, doanh nghiệp và nhà đầu tư. Điều này tất nhiên sẽ thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DNNN TẠI CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG VIETRANS 2.1. Giới thiệu chung về công ty Giao nhận kho vận ngoại thương VIETRANS 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty VIETRANS: Công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ công thương, hoạt động theo chế độ kinh tế tự chủ tài chính. Tiền thân của Công ty là Cục kho vận kiêm Tổng Công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương- đây là tổ chức giao nhận đầu tiên ở Việt Nam được thành lập theo quyết định số 554/BNT ngày 13/08/1970 của Bộ Thương mại. Hiện nay tên chính thức của Công ty là “Công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương”, tên tiếng Anh là Viet Nam Foreign Trade Forwarding And Warehousing Corporation. Tên giao dịch._.ra là như vậy nhưng do cuối 2007 và năm 2008 TTCK sụt giảm trầm trọng nên tiến trình cổ phần hóa diễn ra rất chậm chậm. Đặc biệt, trong 6 tháng đầu năm 2008 việc cổ phần hóa dường như là dậm chân tại chỗ. Trước tình hình đó Chính phủ đặt mục tiêu, trong giai đoạn 2008 - 2010, cả nước phải CPH 948 trong tổng số 1.535 DNNN cần phải sắp xếp, chuyển đổi sở hữu. Do năm 2008, tốc độ CPH đạt quá thấp, nên một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm tháo gỡ khó khăn, huy động mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh được Chính phủ đặt ra là phải đẩy mạnh cải cách DNNN, thúc đẩy thực hiện CPH các tập đoàn và tổng công ty nhà nước theo kế hoạch; tiếp tục bán số cổ phần nhà nước trong các DN đã CPH mà Nhà nước không cần nắm cổ phần chi phối. Đứng trước thực tế tiến độ CPH khó hoàn thành theo đúng lộ trình, tại Phiên họp thường kỳ tháng 1/2009, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết 06/NQ-CP yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DN đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn để đẩy mạnh việc sắp xếp, CPH các tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế, DN quy mô lớn một cách vững chắc và có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Dự thảo Nghị định của Chính phủ về đánh giá lại tài sản và tiền vốn của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển công ty 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần. 3.1.2. Kế hoạch đẩy mạnh công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại. Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, được sự quan tâm của Ban Cán sự Đảng và lãnh đạo Bộ trong những năm qua các doanh nghiệp thuộc Bộ công thương đã được cơ cấu lại, kiện toàn quản lý và tổ chức, tập trung nguồn lực thông qua việc sắp xếp lại mô hình tổ chức, CPH, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút vốn đầu tư phát triển, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, phù hợp với cơ chế thị trường. Để phục vụ công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, Bộ công thương đã tổ chức các hội nghị phổ biến các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; tổ chức hội nghị tập huấn, giới thiệu các chế độ, chính sách mới của Nhà nước về đổi mới, CPH doanh nghiệp, việc chuyển đổi, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con... để cán bộ chủ chốt, cán bộ làm công tác đổi mới doanh nghiệp trong toàn ngành biết và triển khai thực hiện. Do làm tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn nên từ khi có chủ trương sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết Trung ương 3 Khoá IX đến nay, nhằm tiếp tục đẩy nhanh tiến trình đổi mới, sắp xếp DNNN, trong năm 2008 đã tiến hành CPH 3 tổng công ty lớn: Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp; Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp; Tổng công ty Thiết bị điện Việt Nam. Bên cạnh đó, Bộ Công thương cũng quyết định CPH 6 đơn vị thành viên tổng công ty; 3 công ty và đơn vị trực thuộc là: Công ty TNHH một thành viên Cơ khí Hà Nội (Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp); 4 công ty TNHH một thành viên thuộc Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp; Công ty TNHH một thành viên Chế tạo điện cơ Hà Nội (Tổng công ty Thiết bị điện Việt Nam); 3 công ty và đơn vị trực thuộc là: Công ty Dầu thực vật và Hương liệu mỹ phẩm Việt Nam; Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp; Viện Nghiên cứu cơ khí. Ngoài ra, Bộ thương mại đã chỉ đạo các đơn vị áp dụng nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới quản lý để nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là công tác CPH các công ty nhà nước trong Ngành còn chậm. Do vậy, năm 2009 cần có sự tập trung chỉ đạo để đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà trọng tâm là thực hiện CPH doanh nghiệp hoặc áp dụng hình thức bán, phá sản... đối với những doanh nghiệp nhỏ, sản xuất kinh doanh thua lỗ. Để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, Bộ trưởng Bộ thương mại chỉ thị: - Các đơn vị có trách nhiệm tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, Chương trình hành động của Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006-2010 được ban hành kèm theo Quyết định số 263/2006/QĐ-TTg ngày 15/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 36/2006/CT-TTg ngày 15/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006-2010 và các quy định khác có liên quan nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức và người lao động trong toàn Ngành về sự cần thiết và các hình thức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước. - Tiếp tục kiện toàn Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, Ban Chỉ đạo CPH... bố trí cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo công tác tham mưu cho lãnh đạo trong việc thực hiện sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. - Cục trưởng các Cục, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) các Tổng công ty, Công ty nhà nước, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ có trách nhiệm: Rà soát, xây dựng chương trình, giải pháp tích cực để tiến hành sắp xếp, CPH doanh nghiệp theo đúng phương án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Đối với những doanh nghiệp khó khăn (chủ yếu là những khó khăn về tài chính) cần tập trung kiện toàn tổ chức, đẩy mạnh công tác giải quyết tồn tại, tháo gỡ khó khăn để thực hiện CPH. Những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ, không còn vốn nhà nước, không đáp ứng các tiêu chí quy định, không thể CPH được thì chủ động đề xuất, báo cáo Bộ để trình Thủ tướng Chính phủ cho thực hiện bán hoặc phá sản; Đối với những doanh nghiệp đã thực hiện chuyển đổi, sắp xếp lại sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tạo được thương hiệu trên thị trường thì cần có biện pháp khuyến khích, hỗ trợ để mở rộng sản xuất kinh doanh, hình thành các mô hình mới phù hợp theo quy định của pháp luật. - Các Tổng công ty nhà nước thuộc Bộ có trách nhiệm nghiêm túc triển khai thực hiện Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước thực hiện CPH giai đoạn 2007 - 2010. Đẩy nhanh các bước CPH tổng công ty nhà nước. Coi việc CPH toàn tổng công ty là nhiệm vụ trong tâm trong công tác đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp, nhằm tạo bước đột phá trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty trong thời gian tới, đạt mục tiêu thu hút vốn và đổi mới quản trị, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. - Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ thương mại có trách nhiệm: Đôn đốc, kiểm tra các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện kế hoạch sắp xếp, CPH các doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ; Kịp thời đề xuất các biện pháp để giải quyết khó khăn, vướng mắc cho các đơn vị trong quá trình đổi mới, sắp xếp và CPH doanh nghiệp, báo cáo Bộ trưởng xem xét, giải quyết; Phối hợp với các đơn vị đề xuất các giải pháp để các Bộ, ngành có liên quan xem xét, tháo gỡ khó khăn về tài chính để các doanh nghiệp có điều kiện thực hiện sắp xếp, CPH, giải quyết chế độ chính sách đối với người lao động (chế độ cho lao động dôi dư, đào tạo, đào tạo lại...); Nghiên cứu để áp dụng hình thức sáp nhập, tổ chức lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con đối với những doanh nghiệp có cùng ngành nghề, có mối quan hệ về công nghệ, thị trường... - Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ căn cứ phạm vi trách nhiệm, triển khai thực hiện nghiêm chỉnh các nội dung chủ yếu nêu trên, coi đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá bình xét thi đua, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá năng lực điều hành của Lãnh đạo doanh nghiệp. Kiên quyết xử lý đối với những cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp (Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc) cố tình không thực hiện hoặc gây cản trở việc chuyển đổi, cổ phần hóa doanh nghiệp. Công ty Giao nhận kho vận ngoại thương là một trong những đơn vị trực thuộc Bộ công thương. Theo quyết định 1746/QĐ-BTM ngày 27/06/2005 của Bộ trưởng bộ thương mại về việc thực hiện cổ phần hóa một số chi nhánh của công ty VIETRANS, sau đó là các Quyết định, văn bản hướng dẫn thực hiện việc cổ phần hóa như quyết định thành lập ban chỉ đạo cổ phần hóa, quyết định thành lập Tổ giúp việc Ban chỉ đạo cổ phần hóa, quyết định chuyển chi nhánh công ty VIETRANS thành công ty cổ phần… Dưới sự chỉ đạo thực hiện của cấp trên công ty VIETRANS đã tiến hành cổ phần hóa 4 chi nhánh tại Quy Nhơn,Tp Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Hưởng ứng chủ trương sắp xếp, đổi mới DNNN của Chính phủ và Bộ công thương; đồng thời, thông qua việc thực hiện cổ phần hóa 4 chi nhánh của mình công ty nhận thức được tác động tích cực của việc cổ phần hóa đối với hiệu quả hoạt động của công ty thời gian tới công ty có kế hoạch tiến hành cổ phần hóa văn phòng công ty tại Hà Nội và chuẩn bị điều kiện để chuyển công ty thành tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. 3.2. Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa DNNN tại văn phòng công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà nội: Để kế hoạch sắp xếp, đổi mới DNNN của công ty VIETRANS được tiến hành theo đúng lộ trình và mục tiêu đã đề ra, sau khi xem xét thực trạng cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam thời gian qua nó chung và ở công ty nói riêng tôi xin đề xuất một sồ giải pháp sau: 3.2.1. Quán triệt tư tưởng, chủ trương cổ phần hóa cho cả ban lãnh đạo lẫn cán bộ công nhân viên trong văn phòng công ty: Tập trung chỉ đạo kiên quyết hơn việc thực hiện sắp xếp lại, cổ phần hóa và đổi mới DNNN theo đúng Nghị quyết cuả Đảng, pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Gắn trách nhiệm hành chính của lãnh đạo doanh nghiệp với kết quả sắp xếp, cổ phần hóa và đổi mới DNNN. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc cổ phần hóa các DNNN, kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc trong cổ phần hóa. Thực hiện tuyên truyền, phổ biến kết quả cũng như hạn chế trong CPH DNNN trong thời gian qua tại các chi nhánh đã tiến hành cổ phần hóa; quán triệt sâu sắc các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội X để tạo ra sự thống nhất về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đẩy nhanh sắp xếp, đổi mới, CPH DNNN. Đề cao ý thức chấp hành Nghị quyết của Đảng, pháp luật, kỷ cương của Nhà nước, thực hiện nghiêm túc các quy định, chương trình, kế hoạch của Chính phủ về CPH DNNN. Đẩy mạnh công tác đào tạo, phổ cập rộng rãi kiến thức cơ bản về thị trường, pháp luật doanh nghiệp, làm cho người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước hưởng ứng mạnh mẽ và là nhân tố quan trọng thúc đẩy CPH DNNN. Vấn đề cần thiết là phải xây dựng một lộ trình cổ phần hóa văn phòng công ty, để công ty chủ động và có kế hoạch xây dựng phương án cổ phần hóa kịp thời; chuẩn bị đủ lực về con người, đủ mạnh về kinh tế, quán triệt và tuyên truyền về tư tưởng, chuẩn bị cho việc chuyển doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Quy định khung thời gian cho từng bước CPH để thấy rõ được trách nhiệm của sự chậm trễ ở khâu nào, bộ phận nào để có biện pháp tháo gỡ cụ thể. Về cơ chế chính sách: cần tiếp tục rà soát lại toàn bộ các cơ chế, chính sách chế độ liên quan đến quá trình sắp xếp DNNN để sửa đổi, bổ sung cho đồng bộ, phù hợp với tình hình mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi doanh nghiệp theo đúng lộ trình trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, ổn định kinh tế xã hội, tránh thất thoát vốn và tài sản của Nhà nước. Để tạo điều kiện thuận lợi cho văn phòng công ty bán đấu giá cổ phần thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư cần cung cấp thông tin về đấu giá cổ phần, tình hình tài chính, tài sản, hoạt đọng snar xuất kinh doanh của văn phòng công ty một cách công khai, đầy đủ, kịp thời. 3.2.2. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa và giải quyết những tồn đọng về mặt tài chính: Tất cả đều thừa nhận, giá trị doanh nghiệp được xác định hợp lý sẽ bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích của Nhà nước. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng việc xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay vẫn còn mang tính chủ quan, hành chính, thiếu sự hỗ trợ của cơ quan tư vấn chuyên môn. Bên cạnh đó việc xử lý tài chính cũng gây không ít khó khăn cho việc xác định giá trị doanh nghiệp CPH. Mặc dù đã có nhiều văn bản hướng dẫn vấn đề tài chính khi chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhưng đến nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Các khoản nợ tồn đọng, dây dưa khó đòi đã qua nhiều năm, tài sản không cần dùng, vật tư hàng hoá tồn kho lâu ngày không còn chứng từ, không sổ sách nên không thể xác nhận được. Trong quá trính xác định giá trị doanh nghiệp rút kinh nghiệm từ việc cổ phần hóa 4 chi nhánh công ty văn phòng công ty VIETRANS cần cẩn thận trong việc xác định quyền sử dụng đất, lợi thế địa lý và giá trị thương hiệu tránh hiện tượng giá trị doanh nghiệp được xác định không đúng, không đủ gây thất thoát vốn của Nhà nước. Về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cũng cần xem xét lại, không thể chỉ sử dụng phương pháp tài sản được vì thực sự phương pháp này không mang lại một giá trị “thực sự thị trường” của DNNN. Văn phòng công ty cần lựa chọn một tổ chức định giá doanh nghiệp chuyên nghiệp và uy tín để có một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chính xác hơn. Tài sản của DNNN tiến hành cổ phần hóa cần được tính toán đầy đủ vào trong giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa. Việc xác định các tài sản không cần dùng, tài sản chờ thanh lý nếu không được thực hiện hợp lý, công bằng thì sẽ dẫn đến sự lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước. Cần thực hiện bán đấu công khai giá các tài sản này trên thị trường để xác định đúng giá trị của nó đồng thời ngăn ngừa tình trạng gian lận, tham nhũng. Cần phải xác định rõ về mặt pháp lý tất cả các tài sản của DNNN để dễ dàng trong việc quản lý, kiểm toán, kế toán khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp và xác định rõ trách nhiệm tài chính của DNNN sau khi chuyển sang công ty cổ phần. Các khoản nợ của công ty nếu không được xử lý tốt đặc biệt là các khoản nợ xấu sẽ dẫn đến tình trạng công ty cổ phần mới ra đời chưa kinh doanh gì đã có các khoản nợ, ảnh hưởng đến tâm lý của cả các cổ đông và người lãnh đạo công ty. Đối với nợ tồn đọng, nợ khó đòi phát sinh trước thời điểm cổ phần hóa, văn phòng công ty cần giải quyết dứt điểm. Đối với những khoản nợ không thể thu hồi ngay thì nên thì nên chuyển giao cho một bộ phận chuyên trách xử lý nợ của DNNN để họ có thể tập trung xử lý giúp và thu về ngân sách. Đối với nợ ngân sách, khi văn phòng công ty thực hiện chuyển đổi sở hữu, trước hết phải có trách nhiệm thanh toán bằng cách giải quyết nội bộ. Nếu không có nguồn nào bù đắp thì khoản đó được coi là khoản ngân sách cấp cho doanh nghiệp. Một vần đề tài chính cần giải quyết nữa là nên bán bớt cổ phần của công ty tại các chi nhánh đã cổ phần hóa chỉ giữ lại ở mức vẫn nắm quyền chi phối chi nhánh là 51% để tạo điều kiện cho các chi nhánh thu hút thêm vốn phát triển kinh doanh, từ đó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn cho chi nhánh nói riêng và công ty nói chung. 3.2.3. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho tổ chức và hoạt động của công ty sau cổ phần hóa: Lựa chọn ban lãnh đạo doanh nghiệp sau cổ phần hóa đủ năng lực, cần theo dõi để phát hiện và kịp thời khắc phục những hiện tượng liên kết vốn không chính đáng nhằm đưa một cá nhân lên điều hành doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp sau cổ phần hóa được quyền huy động vốn rộng rãi từ nhiều nguồn. Giảm bớt tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ tại công ty sau cổ phần hóa để thu hút thêm nguồn vốn từ bên ngoài cho công ty cổ phần. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với DNNN sau cổ phần hóa, đặc biệt là việc bán bớt phần vốn Nhà nước tại DN, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Chính sách đối với người lao động: cần có các biện pháp giải quyết thỏa đáng các vấn đề lao động dôi dư. Sau cổ phần hóa công ty có quyền chọn, sử dụng những người đáp ứng được yêu cầu công việc. Những người không đáp ứng được yêu cầu công việc cần có chính sách giải quyết bằng các chế độ rõ ràng, thỏa đàng như cho về hưu, về mất sức hoặc đào tạo lại đối với những người còn trẻ, sức khỏe tốt, có khả năng đáp ứng công việc mới. Có chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho người lao động về năng lực làm chủ doanh nghiệp, năng lực quản lý, chuyên môn, nghề nghiệp. 3.3. Một số kiến nghị: 3.3.1. Đối với Bộ công thương: Bộ công thương cần sớm có những văn bản pháp luật phê duyệt và hướng dẫn công ty trong việc cổ phần hóa văn phòng công ty VIETRANS tại Hà Nội để công ty chủ động trong việc lập kế hoạch cổ phần hóa, thực hiện đúng kế hoạch đã định. Để việc xác định giá trị doanh nghiệp được thực hiện một cách chính xác, nhanh chóng đảm bảo lợi ích cho cả Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp và nhà đầu tư bên ngoài Bộ công thương cần phê duyệt chi phí cổ phần hóa cho văn phòng công ty đủ điều kiện tiếp cận được với các công ty tư vấn, kiểm toán chuyên nghiệp và có uy tín trong nền kinh tế. Bên cạnh việc thành lập Ban chỉ đạo cổ phần hóa DNNN tại văn phòng công ty Bộ công thương cũng cần sát sao thực hiện việc giám sát các bước cổ phần hóa để kịp thời có những hướng dẫn, chỉ đạo cho công ty. 3.3.2. Đối với Chính phủ: Tiếp tục đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa kịp với kế hoạch: từ đầu năm 2008 đến gần thời điểm hiện tại, TTCK liên tục sụt giảm, trước tình hình này các cơ quan quản lý nhà nước có chủ trương giảm nguồn cung hàng hoá từ việc phát hành cổ phiếu ra công chúng cũng như giãn tiến độ CPH các DNNN – Việc giảm nguồn cung hàng hoá cho TTCK là 1 chủ trương đúng vì nếu tiếp tục IPO ồ ạt các DNNN sẽ không những ảnh hưởng đến sự ổn định của TTCK mà còn làm giảm thu lớn ngân sách nhà nước từ việc bán tài sản. Tuy nhiên đến thời điểm nào mới tiếp tục tiến trình CPH DNNN ? Và rằng nếu tiếp tục tiến trình CPH DNNN theo cách làm cũ thì lại ảnh hưởng đến sự hồi phục của TTCK? Sự chậm trễ trong việc CPH DNNN, nhất là với đối tượng là tổng công ty nhà nước, DNNN qui mô vốn lớn sẽ tiếp tục gây ra những tác động tiêu cực như kéo dài cơ chế quan liêu bao cấp, cơ chế xin cho, cơ chế can thiệp hành chính từ cơ quan chủ quản….làm việc sử dụng vốn nhà nước không đạt được hiệu quả cao, thậm chí mất vốn nhà nước; không tạo được cơ chế sử dụng và thu hút người tài, không giải quyết được cơ bản cơ chế tiền lương, tiền thưởng theo cơ chế thị trường. Những DNNN qui mô vốn lớn sẽ bị mất dần thương hiệu, mất dần giá trị vô hình khi nhân lực chủ chốt trong DNNN chuyển dịch sang khu vực tư nhân. Đại bộ phận DNNN hiện nay chưa có cơ chế bắt buộc trong công khai minh bạch tình hình tài chính như các công ty đại chúng, công ty niêm yết, vì vậy tình trạng tiêu cực, tham nhũng tồn tại trong một bộ phận DNNN. Do vậy, nếu càng chậm trễ CPH DNNN thì DNNN càng mất sức cạnh tranh bấy nhiêu và đến khi CPH thì giá trị doanh nghiệp sẽ bị giảm đi nhiều, điều đó đồng nghĩa với việc tài sản nhà nước bị thất thoát . Để tiếp tục đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà không làm ảnh hưởng đến sự hồi phục của TTCK cũng như không làm giảm nguồn thu từ việc bán phần vốn nhà nước chúng ta có thể tạm thời chấp nhận CPH số vốn của nhà nước, có thể lên tới 95% vốn điều lệ; IPO một lượng nhỏ cổ phiếu, số lượng phát hành không quá 50 tỷ đồng theo mệnh giá. Đồng thời, giải quyết vấn đề bán cổ phần cho đối tác chiến lược. Bên cạnh đó, cần thay đổi cơ chế quản trị doanh nghiệp cho đối tượng mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ. Điều này trước mắt không đáp ứng được mục tiêu của cổ phần hóa DNNN nhưng sau khi trở thành công ty cổ phần thì doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thường xuyên công bố thông tin, như vậy tính minh bạch trong quản trị doanh nghiệp đã được cải thiện . Sau một thời gian khi hoạt đọng kinh doanh hiệu quả và TTCK phôi phục trở lại sẽ thực hiện bán bớt hoặc bán hết cổ phần nhà nước. Cần xác định mục tiêu ưu tiên của CPH DNNN trong giai đoạn hiện nay. Theo chính sách CPH hiện hành thì chúng ta đưa ra nhiều mục tiêu CPH DNNN như : thay đổi cơ chế quản lý, huy động vốn, tìm kiếm đối tác chiến lược, tạo hàng hoá cho TTCK….Đặt ra những mục tiêu này là hoàn toàn đúng đắn nhưng trong bối cảnh của TTCK hiện nay thì khi CPH các DNNN, chúng ta không thể cùng 1 lúc đạt được ngay các mục tiêu này. Nếu chúng ta chỉ đặt mục tiêu ưu tiên là hoàn thành thủ tục chuyển đổi công ty nhà nước thành CTCP mà nhà nước tạm thời nắm cổ phần đa số (có thể trên 95%/VĐL đối với những tập đoàn kinh tế lớn) thì những mục tiêu quan trọng khác sẽ được giải quyết nhanh sau 1 thời gian ngắn của hậu CPH. Chính phủ cùng các cơ quan chức năng cần nghiên cứu để có được một quy trình cổ phần hóa ngắn gọn hơn, tiết kiệm thời gian và rút ngắn các thủ tục hành chính hơn nữa cho các doanh nghiệp. Đảm bảo rõ ràng, cụ thể trong việc phân công, phân cấp giữa các ngành địa phương và doanh nghiệp. Trong thời gian qua, việc đưa giá trị quyền sử dụng đất và giá trị về lợi thế vị trí địa lý vào giá trị DN theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP còn bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc và chưa bảo đảm tính công bằng giữa các loại hình DN. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình CPH. Chính vì vậy, ngoài việc sửa đổi những bất cập trong Nghị định này về lâu dài, cần phải nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan theo hướng bổ sung cơ chế cho phép DN trong nước, trong đó có DN CPH được lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền một lần, điều chỉnh cơ chế xác định giá đất và tiền thuê đất; công bố công khai phương án quy hoạch sử dụng đất của địa phương để các DN chủ động xây dựng phương án sử dụng quỹ đất, lựa chọn hình thức giao đất hoặc thuê đất. Mở rộng đối tượng CPH bao gồm cả các doanh nghiệp hoạt động công ích, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, bổ sung phương thức bán cổ phần lần đầu, quy định về nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, chính sách bán cổ phần lần đầu, nâng cao tỷ lệ cổ phân bán ra ngoài, sửa đổi quy định xác định giá trị doanh nghiệp, tăng cường giám sát việc CPH các doanh nghiệp có quy mô lớn... Xây dựng cơ chế nâng cao trách nhiệm của người trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Quản lý và sử dụng phần thu từ CPH, đẩy mạnh phân cấp quyết định CPH cho các bộ, ngành, địa phương, tổng công ty Nhà nước. Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, môi trường bình đẳng đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Thống nhất các chính sách ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp cổ phần hóa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Sớm xóa bỏ sự phân biệt đối xử trong hệ thống cơ chế, chính sách giữa các doanh nghiệp khác với DNNN nhất là trong vấn đề vay vốn và giải quyêt quyền sử dụng đất. Riêng đối với thị TTCK- thị trường đấu ra đối với cổ phiếu của các DNNN đã cổ phần hóa, các cơ quan quản lý Nhà nước cần rà soát lại các biện pháp nhỏ lẻ, vừa mang tính bị động vừa thiếu tính hệ thống trong thời gian qua để thống nhất một chiến lược phát triển TTCK với một bộ giải pháp toàn diện, đồng bộ để đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, bền vững, hạn chế tối đa việc thao túng thị trường của số ít nhà đầu tư. Có nhiều kịch bản để đối phó với bất cứ diễn biến nào trên thị trường, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, minh bạch của các DN niêm yết, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư đối với TTCK. Hoàn thiện khung pháp lý trên cơ sở ban hành mới hoặc bổ sung sửa đổi một số luật như: luật sử dụng vốn vào kinh doanh, luật về công ty tài chính Nhà nước để thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty cổ phần và những công ty sắp CPH, góp phần tạo hành lang pháp lý cho các công ty cổ phần có cơ sở hoạt động hiệu quả. Phát triển các tổ chức đầu tư và dịch vụ CPH, khuyến khích phát triển một số tổ chức chuyên nghiệp thực hiện nghiêp vụ tư vấn CPH, xác định giá trị doanh nghiệp, đầu tư cổ phần. Hình thành một số trung tâm bán đấu giá cổ phần chính thức và phát triển thị trường chứng khoán lành mạnh. Tập trung chỉ đạo việc CPH các DNNN quy mô lớn, tổng công ty Nhà nước và các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm theo Quyết định 1729/QĐ- TTG ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thực hiện CPH. Nghiêm túc thực hiện cơ chế thị trường trong CPH DNNN, không để tiêu cực, thất thoát tài sản của Nhà nước. Đẩy mạnh việc bán cổ phần, thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán các doanh nghiệp đã CPH có đủ điều kiện. Rà soát, quyết định bán tiếp phần vốn Nhà nước taị các doanh nghiệp đã CPH mà Nhà nước không cần nắm giữ phần chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần. Tổng kết thí điểm việc CPH một số đơn vị sự nghiệp, CPH doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài, tiếp tục thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN theo quy định của Chính phủ; đẩy mạnh đổi mới quản trị doanh nghiệp trong các công ty cổ phần theo quy định của pháp luật, nâng cao vai trò của cổ đông Nhà nước và xây dựng chính sách phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh sau CPH. Tăng cường vai trò của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước trong quản lý và kinh doanh vốn Nhà nước. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh đối với Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước để Tổng công ty này thực hiện đúng chức năng là bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, đại diện chủ sở hữu Nhà nước phần vốn góp vào các công ty cổ phần. Để tránh xung đột về lợi ích cần phải thể chế hóa chính sách, tạo khung pháp lý đồng bộ, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các văn bản pháp luật của Nhà nước, khắc phục các bất cập của hệ thống văn bản pháp luật về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước. Về tổ chức triển khai thực hiện cần tăng cường sự phối hợp, kiểm tra, giám sát giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai lộ trình sắp xếp, cải cách DNNN. Các Bộ, ngành, đại phương phải tiếp tục chủ động rà soát lại lộ trình sắp xếp các DN trực thuộc. Kịp thời báo cáo và chỉ đạo điều chỉnh lộ trình sắp xếp cho phù hợp với tình hình thị trường và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Kiện toàn Ban đổi mới DNNN ở các Bộ, ngành, địa phương để có đủ năng lực, thẩm quyền, có bộ phận chuyên trách để thực hiên tốt chức năng tham mưu, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc cổ phần hóa các DNNN. 3.3.3. Đối với các cơ quan chức năng có liên quan khác: Chính quyền Thành phố Hà Nội cần ban hành cơ sở hợp lý để xác định giá trị quyền sử dụng đất cho văn phòng công ty tạo điều kiên xác định đúng giá trị doanh nghiệp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa văn phòng công ty nhanh gọn. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà nội cần tạo điều kiện cho văn phòng công ty trong việc đăng ký kinh doanh chuyển đổi từ DNNN thành công ty cổ phần tránh tình trạng dây dưa kéo dài như đối với cho nhánh công ty VIETRANS tại Tp Hồ Chí Minh. Những giải pháp và kiến nghị nêu trên đối với văn phòng công ty VIETRANS tại Hà Nội và các Bộ, ban, ngành, địa phương có liên quan cần được xem xét và thực hiện một cách đồng bộ. Có như vậy mới có tác dụng thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa văn phòng công ty VIETRANS diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, đúng tiến độ và đạt được mục tiêu đề ra của việc cổ phần hóa. Từ đó tạo điều kiện để công ty chuyển thành mô hình công ty mẹ - con vào năm 2013. KẾT LUẬN DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn đề hết sức nhạy cảm về chính trị và cũng là vấn đề bức xúc về mặt quản lý kinh tế. tồn tại với tư cách là nhân tố trọng yếu trong vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, DNNN đang đối mặt với mâu thuẫn giữa thực trạng hoạt động với sứ mạng được giao phó. Chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu và quy luật phát triển nền kinh tế trong xu thế hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, CPH động chạm tới nhiều vấn đề vừa phức tạp vừa nhạy cảm như vấn đề sở hữu, vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, hậu quả xã hội đối với người lao động. Vì vậy, để đạt được mục tiêu CPH đã đặt ra cần sự phối hợp giữa các Bộ, Ban, ngành, địa phương và đơn vị thực hiện CPH. Có như thế mới khắc phục được các hạn chế, khó khăn trong quá trình thực hiện CPH trước đây đồng thời đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN trong thời gian tới. Thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của chủ trương CPH DNNN và thực trạng CPH DNNN tại văn phòng công ty Giao nhận kho vận ngoại thương ở Hà Nội em xin mạnh dạn ra một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN tại văn phòng công ty VIETRANS ở Hà Nội trong thời gian tới nói riêng và tiến trình CPH DNNN trong cả nước nói chung. Do khả năng còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không thể tránh được những sai sót. Em mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo để hoàn thiện hơn luận văn của mình. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các anh chị phòng Kế toán tổng hợp của công ty Giao nhận kho vận ngoại thương, đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo - Ths. Nguyễn Ngọc Hiển đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. PGS.TS.Lê Hồng Hạnh: Cổ phần hóa DNNN – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. PGS. Nguyễn Ngọc Quang: Cổ phần hóa DNNN , cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. Trương Văn Bân: Bàn về cải cách DNNN, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, 1996. Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Giao nhận kho vận ngoại thương, năm 2006- 2008. Tạp chí cộng sản. Tạp chí quản lý Nhà nước. Tạp chí thương mại. Tạp chí kinh tế và phát triển Tạp chí thị trường tài chính- tiền tệ. www.moit.gov.vn www.mof.gov.vn www.vietrans.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22418.doc
Tài liệu liên quan