Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế của các nước đặc biệt là các nước đang phát triển, ngoại thương là con đường chính để hướng tới nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cũng như góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. Hồng Kông, với một vị trí chiến lược, nền công nghiệp thương mại dị
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy phát triển ngoại thương của Hồng Kông và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch vụ phát triển mạnh mẽ và hệ thống tài chính tinh vi đã và đang trở thành một trung tâm thương mại quan trọng của thế giới. Bị ảnh hưởng bởi chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh lạnh nhưng chỉ sau hơn hai thập kỷ phát triển, với sự dẫn dắt chủ yếu của ngoại thương, Hồng Kông từ một nền kinh tế nhỏ bé đã vươn lên trở thành một trong bốn con hổ Châu Á và là một trong những nền kinh tế năng động nhất thế giới.
Việc phân tích và tìm hiểu vai trò của ngoại thương với sự phát triển kinh tế Hồng Kông giúp chúng ta có được cái nhìn rõ hơn về vai trò to lớn của ngoại thương đối với con đường phát triển của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng qua đó rút ra được những bài học kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương nhằm vạch ra được một con đường đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh, tình hình mỗi nước để phát triển ngoại thương trở thành một động lực chính của nền kinh tế.
2. Kết cấu của đề tài.
Đề tài được viết theo phong cách cổ điển, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về ngoại thương và vai trò của ngoại thương trong nền kinh tế
Chương 2: Ngoại thương và tầm quan trọng của nó với phát triển kinh tế Hồng Kông
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy phát triển ngoại thương của Hồng Kông và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Chương 1: Cơ sở lý luận về ngoại thương và vai trò của ngoại thương trong nền kinh tế
1.1. Khái niệm ngoại thương.
1.1.1. Định nghĩa
Ngoại thương hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ ( hàng hoá hữu hình và vô hình ) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu.
Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái sản xuất, trong đó xuất khẩu là huớng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng.
1.2. Đặc điểm của ngoại thương.
Mấy thập kỷ gần đây, dưới tác động của các mạng khoa học - công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, thương mại quốc tế có những đặc điểm mới sau đây:
Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
Tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá “vô hình” có xu hướng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá “hữu hình”. Đièu đó bắt nguồn từ sự thay dổi cơ cấu kinh tế giưũa ngành sản xuất vật chất và ngành dịch vụ trong mỗi quốc gia và quốc tế.
Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi sâu sắc theo hướng hàng hoá nhu cầu tầng 1 (nhu cầu về đời sống vật chất) giảm xuống và hàng hoá nhu cầu tầng 2 (nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần) tăng nhanh; tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, nguyên liệu giảm xuống, còn hàng dầu mỏ khí đốt, sản phẩm công nghệ chế biến nhất là các máy móc thiết bị lại tăng nhanh.
Phạm vi, phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế diễn ra rất phong phú và đa dạng, không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, mà còn về điều kiện giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng. Phạm vi thị truờng ngày một mở rộng không chỉ hàng hoá, dịch vụ thông thường mà còn mở rộng sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ - lĩnh vực này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng rút ngắn lại. Các hàng hoá có hàm lượng khoa học – công nghệ cao có sức mạnh cạnh tranh hơn so với các hàng hoá truyền thống.
Quá trình phát triển thuơng mại quốc tế đòi hỏi, một mặt phải tự do hoá thương mại, mặt khác phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý.
Cần nhấn mạnh rằng, muốn biến ngoại thương thành đòn bẩy có sức mạnh phát triển nền kinh tế quốc dân cần phải nắm đuợc lợi thế so sánh (là lợi thế về sự chênh lệch tiền công và năng suất lao động hoặc chi phí cơ hội đới với một loại hàng hoá của một quốc gia so với quốc tế). Đương nhiên, lợi thế so sánh cũng không ở trạng thái tĩnh mà sẽ thay đổi, vì có khả năng nước đi sau sẽ đuổi kịp và vượt lên do tác động của quy luật phát triển không đồng đều về công nghệ và trí thức.
Vai trò của ngoại thương trong nền kinh tế.
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn:
Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị truờng trong nước với thị trường thế giới và khu vực, làm gia tăng sức mạnh tổng hợp.
Góp phần làm tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế.
Là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; “điều tiết thừa thiếu” trong mỗi nước, nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước.
Tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và nâng cao đời sống người lao động nhất là trong các ngành xuất khẩu.
Chương 2: Ngoại thương và tầm quan trọng của nó với phát triển kinh tế Hồng Kông
2.1. Khái quát về Hồng Kông.
Hồng Kông là một đặc khu hành chính thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH), nằm trên bờ biển Đông Nam của Trung Quốc. Hồng Kông từng là một lãnh thổ phụ thuộc của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland từ năm 1842 đến khi chuyển giao chủ quyền cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1997. Tuyên bố chung Trung-Anh và Luật Cơ bản của Hồng Kông quy định rằng Hồng Kông được hưởng một quy chế tự trị cao cho đến ít nhất là năm 2047 - 50 năm sau khi chuyển giao chủ quyền. Dưới chính sách một quốc gia, hai chế độ, Chính quyền Nhân dân Trung ương chịu trách nhiệm về mặt quốc phòng và ngoại giao của lãnh thổ này còn Hồng Kông thì duy trì hệ thống pháp luật, lực lượng cảnh sát, chế độ tiền tệ, chính sách hải quan, chính sách nhập cư của Anh, và các đại biểu trong các tổ chức và sự kiện quốc tế.
Địa lý.
Với diện tích là 1104 km2, Hồng Kông chủ yếu bao gồm đảo Hồng Kông, đảo Lạn Đầu, bán đảo Cửu Long và Tân Giới. Bán đảo Cửu Long gắn liền với Tân Giới về phía Bắc và Tân Giới nối về phía Bắc và cuối cùng nối với Trung Hoa Đại Lục qua con sông Thâm Quyến. Tổng cộng, Hồng Kông bao gồm một tập hợp 262 hòn đảo ở biển Nam Trung Hoa, trong đó Lạn Đầu là đảo lớn nhất. Đảo Hồng Kông là đảo lớn thứ hai và đông dân nhất. Ap Lei Chau là đảo có mật độ dân số cao nhất thế giới. Vùng nước hẹp tách Đảo Hồng Kông và Bán đảo Cửu Long là bến cảng Victoria, một trong những hải cảng tự nhiên sâu nhất thế giới.
Phần lớn sự phát triển đô thị của lãnh thổ hiện hữu ở Bán đảo Cửu Long, dọc theo các bờ biển phía Bắc của Đảo Hồng Kông và ở khu định cư rải rác khắp Tân Giới. Bờ biển dài và không thẳng của Hồng Kông đã tạo cho lãnh thổ này nhiều vịnh, sông và bãi biển.
Hồng Kông cách Macau 60 km về phía Đông, về phía đối diện của Đồng bằng châu thổ Châu Giang và giáp với thành phố đặc khu Thâm Quyến thuộc tỉnh Quảng Đông về phía Bắc. Đỉnh cao nhất của lãnh thổ này là Tai Mo Shan, với độ cao 958 m trên mực nước biển. Các vùng đất thấp nằm ở phần Tây Bắc của Tân Giới.
Hình 2.1 Bản đồ tổng thể Hồng Kông
Con người.
Dân số Hồng Kông tăng nhanh chóng trong thập niên 1990, đạt 6,99 triệu vào năm 2006. Khoảng 95% dân Hồng Kông là gốc Trung Hoa, đa số dân của Hồng Kông là Quảng Đông hoặc từ các nhóm dân tộc như Người Khách gia và Triều Châu. Tiếng Quảng Đông, một ngôn ngữ Trung Quốc được sử dụng phổ biến ở phía Nam Trung Quốc là phương ngữ chính thức của Hồng Kông. Tiếng Anh cũng là một ngôn ngữ chính thức được sử dụng rộng rãi bởi hơn 1⁄3 dân số. Phần còn lại 5% dân số bao gồm các dân tộc không phải là người Hoa là một nhóm dân cư có thể thấy rất rõ dù số lượng nhỏ. Một cộng đồng Nam Á bao gồm người Ấn Độ, Nepal. Dân tị nạn người Việt đã trở thành các cư dân thường trú của Hồng Kông. Khoảng 140.000 người Philippines làm việc ở Hồng Kông với những công việc như những người giúp việc nhà. Một số công nhân cũng đến từ Indonesia. Có một số người châu Âu, người Mỹ, người Úc, người Canada, người Nhật, và người Triều Tiên làm việc trong các lĩnh vực tài chính và thương mại.
Hồng Kông là một trong quốc gia/lãnh thổ phụ thuộc có mật độ dân dày đặc nhất, với mật độ chung hơn 6200 người trên km². Hồng Kông có tỷ lệ sinh 0,95 trẻ trên một người phụ nữ, một trong những nơi thấp nhất thế giới và thấp xa so với tỷ lệ 2,1 trẻ em trên một phụ nữ cần để duy trì mức dân số hiện hữu. Tuy nhiên, dân số của Hồng Kông tiếp tục tăng do làn sóng dân di cư từ Trung Hoa Đại Lục khoảng 45.000 người mỗi năm. Tuổi thọ trung bình của dân Hồng Kông là 81,6 năm năm 2006, cao thứ 5 thế giới.
Dân số Hồng Kông tập trung cao độ vào một khu vực trung tâm bao gồm Cửu Long, Hồng Kông Cửu Long và phía Bắc Đảo Hồng Kông. Phần còn lại dân cư thưa thớt với hàng triệu dân rải rác không đều khắp Tân Giới, phía Nam Đảo Hồng Kông và Đảo Lantau.
Tôn giáo: khoảng 43% tham gia vào một số hình thức tôn giáo thực hành. Christian, about 9.6%. Đạo Cơ Đốc chiếm khoảng 9,6%. Tất cả các tôn giáo chính được thực hiện tự do tôn giáo ở Hồng Kông.
Languages: Cantonese (a dialect of Chinese) and English are official. Education: Literacy --97.1% (98.7% male, 95.4% femalGiáo dục: Là một thuộc địa Anh, hệ thống giáo dục của Hồng Kông gần như theo hệ thống giáo dục của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, và đặc biệt là hệ thống giáo dục Anh. Tỷ lệ biết chữ ở Hồng Kông là 97,1% (trong đó ở nam là 98,7% và ở nữ là 95,4%).
Health (2007): Infant mortality rate --1.7/1,000. Life expectancy -- 82.4 yrs. Work force (2008): 3.66 million. Wholesale, retail, and import/export trades and restaurants and hotels --29.0%; finance, insurance, real estate, and business services --14.3%; manufacturing --4.2%. Lực lượng lao động (2008): 3,66 triệu người trong đó bán buôn, bán lẻ, kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà hàng và khách sạn chiếm 29,0%; tài chính, bảo hiểm, bất động sản, kinh doanh và dịch vụ chiếm 14,3% và sản xuất chiếm 4,2%.
Hình 2.2. Bảng số liệu về thu nhập bình quân đầu người của Hồng Kông
trong những năm gần đây.
Năm
GNI/người (USD)
Xếp hạng (trên thế giới)
2005
25.637,868
22
2004
24.532,415
22
2003
23.831,915
21
2002
24.227,803
18
2001
25.309,075
8
2000
25.487,997
9
1999
25.199,455
14
1998
26.074,392
12
1997
27.378,176
9
1996
24.705,462
16
1995
23.869,755
18
Nguồn: World Development Indicator Database
Chính phủ.
Hồng Kông là một khu vực hành chính đặc biệt của Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa duới chính sách "Một Quốc gia, hai chế độ" The Hong Kong Government, financially independent from the CPG, oversees the affairs of Hong Kong.. Theo Luật Cơ bản và văn bản hiến pháp của Hồng Kông, chính quyền địa phương Hồng Kông nắm giữ chủ quyền lãnh thổ ngoại trừ lĩnh vực quốc phòng và ngoại giao với Hiến pháp riêng của mình. Chỉ có Trưởng Đặc khu, người đứng đầu lãnh thổ và là người đứng đầu chính quyền là được bầu chọn bởi Ủy ban Bầu cử Trưởng Đặc khu bao gồm 800 thành viên. Tất cả các viên chức khác của chính quyền, bao gồm các thành viên của các cơ quan hành pháp và lập pháp đều hoặc là được Trưởng Đặc khu bổ nhiệm (trực tiếp hay ủy nhiệm) hoặc được cử tri bầu ra. Trên lý thuyết, việc quy định này đảm bảo Hồng Kông được quản lý hầu như độc lập khỏi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và có thể gìn giữ được hạ tầng cơ sở kinh tế, pháp luật, văn hoá độc nhất của mình. Donald Tsang hiện đang giữ chức Trưởng Đặc khu sau khi ông được bầu cử ngày 16 tháng 6 năm 2005 bởi một hội đồng bầu cử được bổ nhiệm bởi Bắc Kinh.
Trong khi tiếp tục duy trì những luật lệ và thông lệ của chính quyền Anh trước đây, chính quyền Hồng Kông nhường quyền điều khiển thị trường cho các lực lượng thị trường và khu vực tư nhân. Kể từ năm 1980, nhìn chung, chính quyền đã đóng một vai trò thụ động theo “chủ nghĩa tích cực nhưng không can thiệp” ( là chính sách kinh tế của Hồng Kông từ thời kỳ là thuộc địa của Anh, được chính thức triển khai thực hiện vào năm 1971), Hồng Kông thường xuyên được xem như là một hình mẫu của “chủ nghĩa tư bản tự do kinh doanh” về mặt thực tiễn.
2.1.4 Kinh tế.
Kinh tế Hồng Kông là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển được xây dựng trên nền kinh tế thị trường, thuế thấp và ít có sự can thiệp kinh tế của chính phủ. Hồng Kông là một trong những nền kinh tế mở và năng động nhất thế giới, đây là một trung tâm tài chính, thương mại quan trọng và là nơi tập trung nhiều đại bản doanh công ty của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nếu tính về GDP bình quân đầu người và tổng sản phẩm nội địa, Hồng Kông là trung tâm đô thị giàu nhất ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hồng Kông được xếp hạng nhất thế giới về tự do kinh tế trong 13 năm liên tục, kể từ khi có chỉ số này vào năm 1995. Thành phố này cũng nằm ở vị trí thứ nhất trong Báo cáo Tự do Kinh tế của Thế giới. Cùng với Singapore, Hàn Quốc, và Đài Loan, Hồng Kông được gọi là một trong “Bốn con hổ châu Á” do tốc độ tăng trưởng cao và công nghiệp hóa nhanh chóng trong thời kỳ từ thập niên 1960 đến thập niên 1990.
Kinh tế Hồng Kông chủ yếu là dịch vụ. Tỷ trọng của khu vực này trong GDP của Hồng Kông lên đến 90%. Hồng Kông có được một nền kinh tế mạnh mẽ, bao gồm hệ thống ngân hàng vững chắc, hầu như không có nợ công, một hệ thống pháp luật bền vững, dự trữ ngoại tệ phong phú, chính sách chống tham nhũng khắt khe và rất có hiệu quả. Hệ thống kinh tế tự do của Hồng Kông có khả năng phản ứng nhanh chóng với những trường hợp dễ thay đổi và vẫn đang tiếp tục những biện pháp nhằm nâng cao tính hấp dẫn của nền kinh tế như là một trung tâm thương mại của thế giới, đặc biệt là sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), và vẫn không ngừng cải tiến cấu trúc tài chính.
Hồng Kông đã thiết lập các quan hệ thương mại và đầu tư sâu rộng với Trung Hoa đại lục từ trước khi chuyển giao chủ quyền cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Hồng Kông đang cố gắng mở rộng liên kết kinh tế với khu vực Châu thổ sông Châu ( Pearl River Delta ) nhằm duy trì vị trí cửa ngõ của Hồng Kông với Trung Quốc, những nỗ lực này còn bao gồm việc ký kết về tự do thương mại với Trung Quốc “The Closer Economic Partnership Arrangement” (CEPA), theo đó tất cả những hàng hoá có xuất xứ từ Hồng Kông sẽ được miễn thuế hoàn toàn và có những ưu đãi trong 40 khu vực dịch vụ.
Đơn vị tiền tệ của Hồng Kông là Dollar Hồng Kông. Kể từ năm 1983, đồng tiền này đã được neo chặt vào Dollar Mỹ. Đồng tiền này được phép trao đổi với một dải tỷ giá từ 7,75 và 7,85 dollar Hồng Kông ăn một dollar Mỹ. Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông lớn thứ 6 thế giới, với giá trị vốn hóa thị trường khoảng 1.710 tỷ USD. Năm 2006, giá trị các cuộc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng thực hiện ở Hồng Kông xếp thứ 2 thế giới chỉ sau thị trường chứng khoán Luân Đôn.
Hình 2.3. Bảng số liệu về Tổng sản phẩm quốc nội của Hồng Kông trong những năm gần đây.
Năm
GDP (USD)
Xếp hạng (trên thế giới)
2005
177,702,600
34
2004
165,840,800
32
2003
158,472,100
30
2002
163,709,400
27
2001
166,541,000
25
2000
168,753,900
25
1999
163,287,500
25
1998
166,909,000
25
1997
176,312,400
24
1996
158,966,200
27
1995
144,230,000
28
Nguồn: World Development Indicator Database
2.1 Chiến lược ngoại thương của Hồng Kông.
2.1.1 Chiến lược hướng ngoại
Hồng Kông là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới thời kỳ hậu chiến. Sau Thế chiến thứ hai, sự hồi phục nền kinh tế Hồng Kông dưới sự kiểm soát của Anh và Bắc Ireland thời hậu chiến chỉ diễn ra từ từ và có phần chậm lại sau khi Liên Hợp Quốc ra lệnh cấm vận thương mại với Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên, khi đó Hồng Kông buộc phải phát triển các ngành công nghiệp nội địa, dựa vào lợi thế của các nguồn lực trong nước, để tiếp tục phát triển nhưng do có ít tài nguyên thiên nhiên trong khi đó thị trường trong nước lại nhỏ hẹp nên chiến lược hướng nội trên đã gặp phải nhiều hạn chế đặc biệt là sự gia tăng của các khoản nợ nước ngoài. Do đó, ngay từ đầu những năm 60, Hồng Kông đã tìm cách chuyển hướng chiến lược, sử dụng chính sách hướng ngoại, công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu nhằm khắc phục những hạn chế vốn có bằng cách dựa vào thị trường quốc tế rộng lớn. Chính sách hướng ngoại này đã chứng tỏ sự thành công không chỉ ở Hồng Kông mà sau đó còn ở môt số nền kinh tế Châu Á khác như Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và một thời gian ở Brazil và Mexico.
Nội dung chiến lược hướng ngoại:
Mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, xây dựng Hồng Kông trở thành một cảng quốc tế với thuế thấp và có ít hàng rào thương mại.
Sản xuất những mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều nhất những yếu tố có sẵn trong nước.
Thực hiện nhất quán chính sách giá cả: giá hàng trong nước phải phản ánh sát với hàng trên thị truờng quốc tế và phản ánh được sự khan hiếm của các yếu tố trong nước.
Trong thời kỳ đầu thực hiện chiến lược hướng ngoại, tập trung vào sản xuất hàng công nghiệp và dịch vụ sử dụng nhiều lao động nhằm tận dụng lợi thế về giá nhân công làm cho chi phí sản xuất sẽ tương đối thấp hơn so với thị trường quốc tế.
2.2.2. Các chính sách thúc đẩy chiến lược hướng ngoại của Hồng Kông
Chính phủ Hồng Kông nói chung theo đuổi chính sách không can thiệp vào các quyết đinh thương mại, thuế thấp và có thể dự báo. Ngoài một số ngoại lệ, chính phủ cho phép tác động thị trường quyết định tiền công và giá cả, không giới hạn lượng vốn và đầu tư nước ngoài chảy vào Hồng Kông. Hồng Kông là một cảng miễn thuế với một số rào cản thương mại đối với hàng hoá và dịch vụ.
Thuế lợi nhuận doanh nghiệp là 16%, thuế thu nhập cá nhân cao nhất là 15%. Bất động sản bị đánh thuế nhưng tiền lãi, cổ tức, lợi nhuận đầu tư và doanh thu thì không.
Cấu trúc chính sách: Chính phủ Hồng Kông không có những chính sách về giá cả, trừ một số ngành như năng lượng, là ngành chỉ có 2 công ty độc quyền thị trường. Thậm chí ngay cả trong những khu vực quản lý, chính phủ cũng tiếp tục cho phép sự liên kết tự do giữa các ngành với nhau. Mức thuế đối với cá nhân và doanh nghiệp của Hồng Kông vẫn duy trì ở mức thấp và không đánh thuế nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Lãi suất đối với tất cả các loại tiền gửi được quyết định bởi tác động của thị trường.
Chính sách tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ chuyển đổi đơn vị tiền tệ từ nước này ra những đơn vị tiền tệ của nước khác, tỷ giá này phản ánh giá trị đồng tiền một nước so với giá trị đồng ngoại tệ trong từng thời kỳ, tỷ giá hối đoái có tác động lớn tới quan hệ ngoại thương, khi đồng tiền trong nước giảm giá thì hàng hoá nhập khẩu vào nước đó sẽ đắt đỏ hơn và trái lại hàng hoá xuất khẩu sang nước khác sẽ rẻ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá. Ngược lại nếu đồng tiền trong nước lên giá, hàng hoá nước ngoài nhập vào sẽ rẻ hơn và hàng hoá xuất khẩu sẽ đắt đỏ hơn, tạo cơ hội cho các nhà nhập khẩu. Do đó, khi thực thi chiến lước hướng ngoại điều cần thiết là duy trì tỷ giá hối đoái sao cho các nhà sản xuất trong nước có lãi khi bán các sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ của họ trên thi trường quốc tế.
Đơn vị tiền tệ của Hồng Kông là Dollar Hồng Kông. Kể từ năm 1983, đồng tiền này đã được neo chặt vào Dollar Mỹ. Đồng tiền này được phép trao đổi với một dải tỷ giá từ 7,75 và 7,85 dollar Hồng Kông ăn một dollar Mỹ. Hồng Kông luôn luôn duy trì mức tỷ giá như vậy một các chắc chắn nhằm đảm bảo sự ổn định của đồng tiền, đây chính là nền tảng trong chính sách tiền tệ của Chính phủ Hồng Kông. Có thẩm quyền trong việc duy trì tỷ giá của Dollar Hồng Kông cũng như sự ổn định và tình trạng nguyên vẹn của hệ thống tài chính và tiền tệ là Hong Kong Monetary Authority.
Dưới sự liên kết về tỷ giá,nhìn chung giá trị hối đoái của Dollar Hồng Kông bị ảnh hưởng phần lớn bởi sự vận động của Dollar Mỹ so với các loại tiền chính khác.
Chính sách hàng rào thương mại: như đã nói ở trên, Hồng Kông là một cảng miễn thuế, không có hạn ngạch, hàng rào thuế quan cũng như luật bán phá giá. Chỉ có một số hàng rào đối với số ít các hàng hoá nhập khẩu như dệt, gạo, thịt, thực vật và vật nuôi. Chính phủ Hồng Kông yêu cầu giấy phép nhập khẩu đối với các loại hàng hoá trên chủ yếu bởi vì chúng có liên quan đến tiêu chuẩn về sức khoẻ nhưng những yêu cầu trên không phải là những ảnh hưởng lớn đến những nhà đầu tư, xuất khẩu. Ngoài ra còn có một số hàng rào đối với khu vực dịch vụ nhưng có thể nói các công ty nước ngoài hoàn toàn có khả năng cạnh tranh trong thị trường đầy sôi động của Hồng Kông.
Chính sách trợ cấp xuất khẩu: chính phủ Hồng Kông không bảo vệ cũng không trợ cấp trực tiếp cho những nhà sản xuất xuất khẩu. Chính phủ cũng không giúp đỡ những nhà xuất khẩu về các ưu đãi tài chính, mức thuế đặc biệt hay miễn thuế cho việc nhập khẩu nguyên liệu, vật tư phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu.
Với những chính sách tự do thương mại nêu trên, Hồng Kông được đánh giá là nền kinh tế tự do nhất thế giới kể từ năm 1996 đến nay và là một trong 10 nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới.
2.2.3. Tác động của chiến lược hướng ngoại đến phát triển kinh tế Hồng Kông.
Chiến lược hướng ngoại đã tạo ra cho Hồng Kông một cơ cấu kinh tế mới, năng động hơn. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “mối quan hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này. Bên cạnh đó khi vốn tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ra “mối liên hệ xuôi” là nguyên liệu cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và “mối liên hệ xuôi” này được tiếp tục mở rộng. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của những người lao động, tạo ra “mối liên hệ gián tiếp” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ.
Hình 2.4. Đóng góp của các nhân tố vào GDP của Hồng Kông
(1980 – 2001)
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Chiến lược hướng ngoại của Hồng Kông đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì chiến lược này làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn là thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của Nhà nước, song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định được vị trí của mình. Mặt khác thị trường thế giới rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn.
Chiến lược hướng ngoại của Hồng Kông còn tạo ra nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể. Nguồn thu nhập này vượt xa các nguồn thu nhập khác cả vốn vay và đầu tư của nước ngoài. Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở thành nguồn tích luỹ vốn chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá. Đồng thời có ngoại tệ đã tăng được khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển của ngành công nghiệp.
Hình 2.5. Xếp hạng các nuớc có lượng dữ trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới ( 1995 – 2005)
Đơn vị: tỷ USD
Nước
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
% GDP
1. Nhật Bản
172,4
203,7
207.9
203.2
277.7
347.2
387.7
451.4
652.8
824.3
823.1
17.7
2. Trung Quốc
73.6
105.0
139.9
145.0
154.7
165.6
212.2
286.4
403.2
609.9
769.0
37.0
3. Đài Loan
90.3
88.0
83.5
90.3
106.2
106,7
122.2
161.7
206.6
241.7
253.7
78.2
4. Hàn Quốc
_
29.4
8.9
48.5
74.1
96.2
102.8
121.4
155.3
199.1
205.9
29.1
5. Châu Âu
277.4
306.8
312.5
284.4
228
218.6
208
215.8
188
179
173.2
6. Nga
14.4
11.3
12.9
7.8
8.4
24.3
32.5
44.0
73.2
120.6
155.7
20.7
7. Ấn Độ
_
_
23.9
26.8
31.5
36.8
44.9
65.7
95.2
124.7
136.9
18.9
8. Hồng Kông
55.4
63.8
92.8
89.6
96.3
107.6
111.2
111.9
118.4
123.6
122.0
75.1
9. Singapore
68.8
77.0
71.4
75.0
77.2
80.4
75.8
82.3
96.3
112.8
115.5
104.4
10. Malaysia
22.9
25.1
20.0
24.7
29.7
28.6
29.6
33.3
43.5
58.2
75.8
55.5
Nguồn: IMF and CEIC Data Company database
2.3. Thực trạng hoạt động ngoại thương Hồng Kông
2.3.1 Nhập khẩu.
2.3.1.1.Chính sách nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu.
Như đã nói ở trên, Hồng Kông là một cảng tự do và không đánh thuế với bất cứ biểu thế quan, hạn ngạch hay thu thêm thuế đối với nhập khẩu. Cũng không có thuế giá trị gia tăng (value added) hay thuế dịch vụ (general services) đối với các yêu cầu nhập khẩu. Chỉ có thuế nhập khẩu đối với 4 loại hàng hóa không kể đó là hàng hoá nhập khẩu hay sản xuất trong nước. Đó là:
Rượu (Liquors)
Thuốc là sợi
Dầu Hydrocacbon
Rượu cồn Methyl ( Methyl Alcohol)
Hải quan Hồng Kông ước định thuế dựa trên giá trị của hàng hoá, thuế nhập khẩu phải được nộp trước khi hàng hoá đến nơi.
Chống bán phá giá: không.
Thuế phụ thu (Additional Duties): không.
Phí hải quan: không.
Kiểm soát ngoại hối (Exchange Controls): không.
Phí lãnh sự (Consular Fees): không
Cấm nhập khẩu.
Những hàng hoá dưới đây bị cấm nhập khẩu vào Hồng Kông:
Thuốc lá bột (Snuff).
Thực phẩm có chứa chất bảo quản, chất chống oxy hoá, chất làm mầu không được phép, và các thứ gây hại cho sức khoẻ.
Halons and CFC's.
Ngà voi và các sản phẩm làm từ ngà voi.
Hàng hoá nguy hiểm được quy định bởi IATA (Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế).
Cacbon đioxyt đậm đặc (Dry Ice).
Thuốc cá nhân (Personal Drugs).
Thuốc nguy hiểm.
Hoá chất bị kiểm soát.
Hoá chất nguy hiểm.
Hạn chế nhập khẩu.
Hồng Kông có rất ít các hạn chế thương mại, giấy phép nhập khẩu được yêu cầu chỉ để Hồng Kông thực hiện các cam kết quốc tế. Những sản phẩm dưới đây bắt buộc phải có giấy phép xuất khẩu:
Thuốc nguy hiểm và dược phẩm.
Thực vật, động vật gây nguy hiểm và các sản phẩm có nguồn gốc từ chúng.
Động vật sống và các sản phẩm động vật như da chó (dog skin), răng nănh.
Thực vật và các loài phá hoại cây trồng.
Thuốc trừ sâu.
Chất phóng xạ và các dụng cụ chiếu xạ.
Các sản phẩm chiến lược như thiết bị viễn thông hay các sản phẩm quân sự.
Chất nổ, pháo hoa, súng cầm tay các loại và đạn, vũ khí.
Vải sợi.
Gạo, thịt, gia cầm.
Máy truyền phát sóng (bao gồm cả điện thoại di động)
Chất ảnh hưởng môi trường.
2.3.1.2.Cấu trúc nhập khẩu.
Nhu cầu nhập khẩu của Hồng Kông tăng liên tục trong những năm qua trong đó bao gồm 2 loại hình:
Nhập khẩu hữu hình: là việc nhập khẩu các loại hàng hoá thông thường.
Nhập khẩu vô hình ( hay còn gọi là nhập khẩu dịch vụ): là việc nhập khẩu các loại hàng hoá vô hình, mang tính chất dịch vụ như vận tải, du lịch, bảo hiểm, tài chính…vv…
Nhập khẩu hữu hình (hàng hoá)
Hàng hoá nhập khẩu của Hồng Kông chủ yếu gồm 5 nhóm hàng chính:
Thực phẩm
Hàng tiêu dùng
Nguyên liệu thô và bán sản phẩm
Chất đốt
Tư liệu sản xuất
Hàng hoá nhập khẩu hoặc được giữ lại tiêu dùng trong nuớc hoặc được tái xuất khẩu trong đó hàng hoá dành cho tiêu dùng trong nước chỉ chiếm khoảng ¼ tổng số hàng hoá nhập khẩu.
Những nhóm mặt hàng chủ yếu dùng để tái xuất khẩu là hàng tiêu dùng, nguyên liệu thô và bán sản phẩm, tư liệu sản xuất trong đó nhóm hàng thực phẩm và chất đốt được nhập khẩu phục vụ chính cho tiêu dùng trong nước.
Những năm trước đây, hàng tiêu dùng chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong giá trị nhập khẩu của Hồng Kông nhưng những năm gần đây, nguyên liệu thô và bán sản phẩm cung với tư liệu sản xuất đã chiếm phần lớn tỉ trọng nhập khẩu qua đó nói lên được xu hướng phát triển mới của Hồng Kông nói chung cũng như xuất khẩu lại nói riêng.
Nhập khẩu vô hình (dịch vụ)
Nhập khẩu dịch vụ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu của Hồng Kông, chủ yếu là các dịch vụ song song trong quá trình nhập khẩu hàng hoá.
Do nền kinh tế phát triển nhanh và thu nhập của người dân khá cao nên nhu cầu du lịch của Hồng Kông là khá lớn làm cho dịch vụ du lịch chiếm tỉ trọng cao nhất khoảng 40% tổng giá trị nhập khẩu bên cạnh đó do nhu cầu nhập khẩu tăng cao trong những năm gần đây cũng làm cho nhu cầu nhập khẩu dịch vụ vận tải tăng lên bên cạnh đó là các dịch vụ như bảo hiểm, tài chính và các dịch vụ liên quan khác.
Hình 2.6. Phân bổ giá trị nhập khẩu của Hồng Kông qua các nhóm hàng hoá chính
Đơn vị: tỷ $HK
Import: Nhập khẩu
Retained Import: Nhập khẩu giữ lại.
Re-export: Xuất khẩu lại.
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Hình 2.7. 10 sản phẩm nhập khẩu chính của Hồng Kông (1993-2007)
Đơn vị: triệu $HK
Năm
Máy điện và các dụng cụ điện
Thiết bị viễn thông
Máy văn phòng và máy dữ liệu
Tạp phẩm
Quần áo
Vải sợi
Phi kim
Chất dẻo
Chất đốt và các sp liên quan
Dụng cụ quang học, đồng hồ
Tất cả các sản phẩm
1993
116,357
93,346
36,915
79,460
91,325
98,895
33,431
20,563
15,806
48,661
1,072,597
1994
138,881
120,621
48,468
90,951
96,277
118,205
39,790
28,438
18,232
54,314
1,250,709
1995
185,943
145,976
68,737
104,051
97,886
130,422
43,960
44,078
22,143
62,759
1,491,121
1996
195,942
141,033
81,382
108,193
105,419
127,730
43,391
37,811
27,469
62,745
1,535,582
1997
219,701
152,377
100,029
115,497
116,277
125,460
44,679
38,138
24,034
62,937
1,615,090
1998
195,561
130,886
103,145
107,691
110,744
104,439
35,496
33,668
17,143
54,627
1,429,092
1999
212,589
119,257
108,295
112,719
114,485
97,455
40,632
34,313
20,461
54,145
1,392,718
2000
288,955
161,627
142,920
128,495
124,735
106,875
49,113
44,439
26,911
59,871
1,657,962
2001
262,867
158,690
147,697
116,272
125,545
94,955
45,481
35,339
22,126
60,946
1,568,194
2002
295,188
181,382
156,786
114,633
122,465
94,103
51,047
39,356
22,433
57,387
1,619,419
2003
351,139
209,697
184,418
121,018
124,217
100,707
57,875
45,344
26,666
58,777
1,805,770
2004
459,762
264,596
209,170
130,389
133,436
109,918
68,708
59,006
39,205
63,199
2,111,123
2005
530,197
295,713
250,312
139,102
143,392
107,273
86,919
72,882
49,859
64,045
2,329,469
2006
629,143
335,208
284,995
155,158
146,439
108,552
89,694
80,510
62,953
61,433
2,599,804
2007
740,115
385,444
249,433
205,240
149,387
105,775
101,903
81,318
73,859
71,966
2,868,011
Nguồn: HK Census and Statistics Department
2.3.1.3.Đối tác nhập khẩu.
10 thị trường nhập khẩu chính của Hồng Kông bao gồm: Trung Quốc đại lục, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Đức, Thái Lan và Philippines.
Những năm 60 và 70 trước đây, Nhật Bản luôn đóng vai trò là thị trường nhập khẩu chính của Hồng Kông với giá trị nhập khẩu chiếm từ 20-25% tổng giá tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6110.doc