Giải pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu sản phẩm giầy của Công ty giầy Thượng Đình

Tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu sản phẩm giầy của Công ty giầy Thượng Đình: LỜI MỞ ĐẦU Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đã và đang trở thành một sân chơi cho tất cả các quốc gia, của hầu hết các nền kinh tế. Những cơ hội được mở ra nhưng đồng thời cũng không ít những thách thức sẽ đến đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, khi hiện nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Xuất khẩu là một hoạt động cực kì quan trọng đối với mỗi quốc gia, nó cho phép các quốc gia ấy có thể khai thác được những lợi thế vốn có của mình, tạo nguồn... Ebook Giải pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu sản phẩm giầy của Công ty giầy Thượng Đình

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu sản phẩm giầy của Công ty giầy Thượng Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu ngoại tệ cho nền kinh tế. Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu là quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp và phát triển kinh tế, là tiền đề vững chắc để Việt Nam tiến lên trở thành nước công nghiệp. Trong những báo cáo của Đảng đã khẳng định tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu và có thể coi là một trong ba chương trình kinh tế lớn cần thực hiện trong thời gian tới vì có đẩy mạnh xuất khẩu và mở cửa kinh tế Việt Nam mới có thể thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế được. Hoà chung xu thế hội nhập kinh tế xuất khẩu nói chung và xuất khẩu ngành giầy – dép nói riêng, đã thực sự khẳng định vai trò của mình trong việc phát triển kinh tế đất nước. Giầy – dép là một trong chín mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của nước ta. Trong thời gian qua đã, gặp không ít những khó khăn, thử thách trước yêu cầu của bạn hàng, người tiêu dùng tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất giầy Việt Nam đã không ngừng nỗ lực khẳng định vai trò của mình vươn lên cùng các ngành khác. Đến với công ty giầy Thượng Đình,công ty cũng đã có những bước tiến nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tốc độ kim ngạch xuất khẩu của công ty trong thời gian qua đã cho thấy xu hướng thâm nhập vào thị trường quốc tế đang từng bước đẩy mạnh và phát triển. Em thật may mắn khi được thực tập tại công ty giầy Thượng Đình. Sau thời gian được thực tập ở công ty, bên cạnh những mặt mà công ty đạt được hoạt động xuất khẩu công ty vẫn còn nhiều những hạn chế. Trong thời gian tới để hoạt động có hiệu quả hơn, em cũng đã nghiên cứu và em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sản phẩm giầy của công ty giầy Thượng Đình”. Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương: Chương I: Những lí luận chung về xuất khẩu giầy – dép của doanh nghiệp Chương II: Phân tích thực trạng xuất khẩu giầy – dép của công ty giầy Thượng Đình Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu giầy của công ty Trong thời gian thực tập tại công ty, do thời gian thực tập không dài và hạn chế về kinh nghiệm cũng như thực tế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong trường đại học Kinh tế Quốc dân đặc biệt các thầy cô trong khoa Thương Mại cùng toàn thể các cô (chú) trong công ty giầy Thượng Đình để bài viết của em có giá trị lí luận đồng thời có thể áp dụng trong thực tiễn Em xin chân thành cảm ơn tới thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường và các cô (chú) trong phòng xuất nhập khẩu của công ty đã rất nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin cảm ơn! Sinh viên: Nguyễn Thị Hương CHƯƠNG I: NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU GIẦY -DÉP CỦA DOANH NGHIỆP Vai trò của hoạt động xuất khẩu giầy đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng Xuất khẩu là gì? Xuất khẩu là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài để thu hút ngoại tệ trên cơ sở buôn bán theo thị trường. Khi một nền kinh tế phát triển điều đó có nghĩa là việc trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia ngày càng được mở rộng và xuất khẩu chính là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương. Nó đã được xuất hiện từ lâu đã và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Hình thức đầu tiên đó chính là hoạt động trao đổi giữa các quốc gia và đến nay, nó đã được mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau sao cho phù hợp với tình hình phát triển nhu cầu thị trường của nền kinh tế, nó không chỉ là hoạt động trao đổi giữa các quốc gia mà mở rộng ở phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành của nền kinh tế. Các loại giầy – dép xuất khẩu Giầy cao cổ bộ đội, giầy basket phục vụ thể thao, giầy bata, giầy nam, nữ và giầy thể thao với các size khác nhau phù hợp với từng độ tuổi. Ngoài ra trên thị trường hiện nay đã có mặt các sản phẩm giầy vải thể thao thời trang của công ty giầy Thượng Đình với mẫu sắc đa dạng, kiểu dáng phong phú như TD-07,FE-35, ATG-01...Từ những năm 1999 trở về đây, dường như sản phẩm giầy đóng vai trò quan trọng nữa là giầy thể thao như: GTS, BLACK, FEIT, MIT,SUPERGA. Các loại dép: dép saldan, dép đi trong nhà, … Xu hướng giầy dép năm nay chuộng loại xăngđan có nhiều chi tiết trang trí, đặc biệt là giày nữ. Riêng giày nam đang chuyển sang gu dùng màu da bò. Các loại giày mũi nhọn đã không còn thịnh, thay vào đó là dạng mũi tròn bầu. Chất liệu simili giả da, thuộc loại hai, da phủ PU đều được “ lên” ở giày Trung Quốc. Xuất khẩu giầy thúc đẩy ngành công nghiệp nhẹ phát triển Trên cơ sở của sự ra đời phân công lao động quốc tế và lợi thế so sánh của David Ricardo, hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu giầy nói riêng đã và đang trở nên cần thiết của các doanh nghiệp của các quốc gia trên thế giới. Với Việt Nam, thì sản phẩm giầy lại là một trong những mặt hàng chủ lực xuất khẩu. Mặt hàng chủ lực của chúng ta bao gồm 3 nhóm mặt hàng chính: Nhóm hàng nông thủy sản (thủy sản, gạo, rau quả) Nhóm hàng chế biến (dệt may, giầy dép, thủ công mỹ nghệ) Nhóm hàng khoáng sản (dầu thô và than đá ) Đã được Nhà Nước đặc biệt quan tâm trong thời gian gần đây. Giầy - dép là một trong những mặt hàng chiếm tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn trong nhóm mặt hàng chế biến. Theo thống kê cho thấy trong những năm gần đây vị trí xuất khẩu giầy dép của Việt Nam luôn được nâng cao cụ thể là: Năm 2001 xếp thứ 7 sau Trung Quốc, Braxin, Indonesia, ThaiLan, Mexico; năm 2002 vươn lên vị trí thứ 6 trên Mexico; năm 2003 vượt ThaiLan đứng vị trí thứ 5 về kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu tương đối ổn định nguồn lực và chi phí sản xuất thấp vì vậy, là điều kiện thuận lợi trở thành mặt hàng chủ lực của chúng ta đồng thời thúc đẩy ngành công nghiệp nhẹ phát triển. Trong suốt thời gian qua, từ năm 1996 trở lại đây xuất khẩu đã minh chứng cho thấy vai trò của mình cho ngành công nghiệp Giầy - dép Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giầy liên tục tăng lên qua các năm từ 0.531 tỷ USD năm 1996 sau 2 năm đã tăng trên 1 tỷ USD và ngày càng tăng đạt trên 2 tỷ USD từ năm 2003 tăng 25.9% so với năm 2002. Mặt hàng chủ yếu ảnh hưởng đến xuất khẩu là giầy thể thao và giầy nữ có tốc độ tăng cao. Bắt đầu từ năm 2004, hoạt động xuất khẩu ngày càng trở nên tăng trưởng một cách nhanh chóng và ổn định.… Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt khoảng 3,56 tỷ USD, tăng 16,9% so với năm 2005, đã vượt 6,1% so với kế hoạch (3,35 tỷ USD) Tính chung cả năm 2007, nước ta đã xuất khẩu được 602.8 triệu đôi giầy với trị giá 39.93 triệu đôi tăng 11.8 % về số lượng và tăng 11.2 % về trị giá so năm 2006 so các chỉ tiêu đã đề ra, xuất khẩu giầy của cả nước năm 2007đạt 99.83 % 1.1.2 Xuất khẩu giầy nâng cao khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm giầy của Việt Nam Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam tăng cao từ 7-8%, năm 2006 tốc độ tăng trưởng đạt 8.5%. Theo dự báo kinh tế, tốc độ này vẫn còn tiếp tục tăng lên và hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, đặc biệt khi hiện nay Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), tham gia nhiều vào các hiệp hội, tổ chức trong khu vực và thế giới. Hiện nay số lượng các doanh nghiệp Việt Nam tăng lên đáng kể, các công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty TNHH…và như vậy, số lượng các công ty sản xuất giầy dép cũng tăng lên đáng kể cả về quy mô và tốc độ phát triển kéo theo số lượng sản phẩm giầy dép tăng cao. Vấn đề đặt ra lúc này là tìm kiếm thị trường tiêu thụ không chỉ thị trường trong nước mà cả thị trường thế giới. Thời gian qua cho thấy chúng ta đã thành công trong việc tiêu thụ sản phẩm giầy cả thị trường nội địa lẫn thị trường quốc tế, từ năm 1993 trở lại đây kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng lên qua các năm. Hiện nay, ngành giầy - dép Việt Nam đang đứng trong top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng đầu vào thị trường 25 nước. Trong đó thị trường EU, Mỹ vẫn là hai thị trường nhập khẩu giầy dép chủ yếu của Việt Nam. Thị trường EU là thị trường nhập khẩu giầy dép của Việt nam lớn thứ 2 trên thế giới sau Hoa Kỳ và được coi là thị trường trọng điểm của nước ta. Nhu cầu nhập khẩu giầy dép những năm gần đây liên tục tăng khoảng trên 29 tỷ USD/năm. Tháng 12/2007, Việt Nam xuất khẩu giầy dép tới 106 thị trường kim ngạch xuất khẩu giầy dép tới các thị trường như EU, Mỹ, Mexico…và các thị trường khác đều tăng so với tháng 12/2006 và tháng 11/2007. Theo thống kê xuất khẩu giầy dép vào thị trường EU đã tăng nhanh trong thời gian qua và đạt 2.1 tỷ USD trong 2007, trên 8% so với năm 2006, chiếm 7.2% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Nhìn chung, giầy dép của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU tăng trưởng nhanh và khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, 33 mã hàng giầy thể thao và giầy mũ da bị áp dụng hình thức chống bán phá giá còn các chủng loại khác vấn được hưởng ưu đãi thuế quan của EU và không bị hạn chế về số lượng. Đối với thị trường Hoa Kỳ, kim ngạch và số các doanh nghiệp tham gia vào thị trường này tăng lên đáng kể. Tháng 12/2007, xuất khẩu giầy dép nước ta sang Mỹ đạt trên 25.56% về số lượng ( tương đương 1.93 triệu đôi) tăng 10% về trị giá ( 7.6 triệu USD) so với 12/2006 kim ngạch xuất khẩu giầy đế mũ bằng cao su/ plastic tăng rất nhanh trên 192.3% đạt 5.2 triệu USD tiếp đến xuất khẩu giầy thể thao đế mũ cao su/plastic trên 122.8% đạt 8.2 triệu USD, giầy thể thao có mũ da tổng hợp tăng 68.7% đạt 8.3 triệu USD. Như vậy có thể nói là thị trường hướng đến của các doanh nghiệp do nhu cầu đa dạng, phong phú và quan hệ song phương được cải thiện. Đối với thị trường Mexico, thị trường này chiếm tỷ trọng không cao (2005 là 105.257 triệu USD) song có dấu hiệu tốc độ xuất khẩu tăng nhanh, giá cả thấp. Thị trường Nhật, đây được coi là thị trường khó tính về yêu cầu chất lượng, hiện tại kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này vẫn chiếm thị tỷ trọng thấp và khó tăng nhanh vào thời gian tới. Song để thâm nhập vào thị trường này các doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị đầu tư các điều kiện cho sản xuất, sẵn sàng thực hiện các lô hàng nhỏ và đáp ứng nhanh các yêu cầu về chất lượng 1.1.3. Xuất khẩu giầy tạo khả năng mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các doanh nghiệp nước ta. Hòa chung vào xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa thương mại, hoạt động xuất nhập khẩu hiện không chỉ là một yếu tố khách quan mà còn là nhu cầu tất yếu cần thiết của mỗi quốc gia. Các mối quan hệ ngày nay không chỉ đơn thuần là hợp tác mà là đều có tính chất ràng buộc nhất định là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sản phẩm giầy nói riêng, có vai trò quan trọng trong sự hợp tác quốc tế với các nước mà còn nâng cao vị thế cạnh tranh của mỗi quốc gia trên trường thế giới. Hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam đã đưa Việt Nam nhanh chóng hòa cùng vào thị trường thế giới. Sau cuộc cánh mạng công nghiệp tại Anh, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã thay đổi mạnh mẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, của nền kinh tế và của kinh tế Việt Nam Xuất khẩu giầy dép tạo cơ hội thuận lợi cho Việt Nam phát triển nhanh không chỉ với ngành nói riêng mà các ngành khác nói chung như dệt may, dầu thô, chế biến…góp chung vào sự phát triển của cả nền kinh tế của cả nước trong tiến trình hội nhập. Ngành Da – Giầy Việt Nam đã và đang tiếp tục và tăng cường mở rộng mối quan hệ kinh tế với các hiệp hội chuyên ngành kinh tế trong khu vực và trên thế giới và phối hợp trao đổi các thông tin chuyên ngành. 1.1.4 Xuất khẩu giầy tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xuất khẩu thô sang xuất khẩu tinh Mặt hàng xuất khẩu thô của Việt Nam bao gồm: cao su, dầu thô, gỗ….đang có xu hướng chuyển dịch sang xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến như dệt may, giầy, hàng thủ công mỹ nghệ…Qua thực tế cho thấy rằng sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn khi xuất khẩu sản phẩm thay vì xuất khẩu nguyên vật liệu theo Adam Smith”. Điều gì là thận trọng trong việc quản lý một gia đình thì ít trở thành thiếu khôn ngoan trong cách điều hành vương quốc lớn. Nếu nước ngoài có thể cung cấp cho chúng ta một hàng hóa mà chúng ta làm thì tốt nhất chúng ta nên mua chúng bằng một phần sản lượng của những kỹ nghệ mà chúng ta có”. Chúng ta có thể lấy dẫn chứng tại các cường quốc như Mỹ, Anh, Nhật…Hàng năm, họ đạt kim ngạch xuất khẩu rất cao phần vì họ có những tiềm lực vốn có về công nghệ, phần vì việc đầu tư hàm lượng chất xám cho việc kinh doanh sản xuất của mình là rất lớn. Trong khi đó ở những quốc gia đang phát triển hay chậm phát triển mặc dù có nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng phần lớn lại xuất khẩu nguyên vật liệu nên hiệu quả là không cao. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển điển hình. Để tận dụng nguồn lực của mình với lợi thế vốn có như nguồn lao động xuất khẩu giầy sẽ tạo ra những động lực thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến đem lại kim ngạch xuất khẩu cao hơn 1.1.5 Xuất khẩu giầy giúp Việt Nam tận dụng được những lợi thế vốn có Trong bài viết lí luận của mình nhà kinh tế học Adam Smith đã đưa ra nhận định: “ Mỗi quốc gia có một lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà họ có hiệu quả hơn một quốc gia khác trong sản xuất sản phẩm đó. Các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa đó sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài sản xuất hiệu quả hơn”. Đây được gọi là lí thuyết lợi thế tuyệt đối của ông. Dựa trên học thuyết của ông một nhà kinh tế khác Ricacdo đã xây dựng học thuyết lợi thế tương đối trên cơ sở khái niệm năng suất, chi phí và lợi thế so sánh. Lý thuyết này đã đưa ra một quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và nhập khẩu những sản phẩm mà họ có lợi thế nhất về mặt chi phí tương đối và mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh trong việc sản xuất một sản phẩm so với mỗi quốc gia khác khi mà quốc gia này tương đối dồi dào về các yếu tố sản xuất chiếm tỷ trọng cao trong kết cấu sản phẩm này so với nước khác. Việt Nam là một quốc gia có lợi thế: dân số thuộc loại đông dân trên thế giới, nguồn lao động dồi dào có tinh thần trách nhiệm với công việc chăm chỉ, cần cù, thông minh và ham học hỏi, có tài nguyên rừng vàng biển bạc, đất đai màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng và cây cao su là một trong số đó. Cao su là một nguồn nguyên liệu không thể thiếu để sản xuất giày. Như vậy, hoạt động sản xuất, xuất khẩu giầy cần một lực lượng lao động lớn, lượng cao su dồi dào để sản xuất đế giầy và đây là lợi thế của chúng ta vì vậy tận dụng những lợi thể đó bằng việc sản xuất giầy là hoàn toàn tất yếu cho một nước đang phát triển như nước ta. 1.1.6 Xuất khẩu giầy tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao độngViệt Nam Có hai lí do khiến ngành sản xuất giầy lại tận dụng được nguồn lao động vốn có như vậy là: Thứ nhất: Để sản xuất được sản phẩm giầy phải trải qua nhiều công đoạn, nhiều công việc nhỏ, là cơ sở để đào tạo, bố trí từng người lao động cụ thể vào việc thao tác cho việc chuyên môn hóa. Mặt khác, do chính sản xuất giầy được chia thành nhiều công đoạn, không thể tự động hóa nên quá trình sản xuất giầy đòi hỏi nhiều lao động. Đồng thời, các công đoạn này lại không cần trình độ cao vì vậy lao động phổ thông chỉ cần đào tạo trong thời gian ngắn cũng có thể đáp ứng được công việc. Thứ hai: Nếu như trước đây giầy - dép chỉ được hiểu là việc bảo vệ đôi chân đáp ứng nhu cầu bảo vệ thì ngày nay, do công nghệ phát triển, nhu cầu của con người không chỉ sử dụng nó để bảo vệ đôi chân mà con là nhu cầu thời trang giầy dép cần được đáp ứng cung bậc cao hơn. Nó được sử dụng rộng rãi và thường xuyên trong mọi lúc mọi nơi với đủ mẫu mã đa dạng, phong phú. Như vậy, số lượng sản phẩm giầy được yêu cầu ngày càng được cao hơn. Việt Nam một quốc gia đông dân trên thế giới việc sản xuất giầy là cách tốt nhất để sử dụng nguồn lao động của mình mà không phải quốc gia nào cũng có được. Theo thống kê tại Việt Nam, hiện có khoảng trên 500000 lao động làm việc trong doanh nghiệp sản xuất khẩu giầy trong đó lao động nữ chiếm trên 85%. Như vậy đẩy mạnh xuất khẩu giầy tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. 1. Nội dung và hình thức của hoạt động xuất khẩu giầy dép 1.2.1 Nghiên cứu thị trường Do cạnh tranh quốc tế ngày càng cao buộc các công ty phải thực hiện các nghiên cứu có chất lượng trước khi lựa chọn kinh doanh ở thị trường nào. Các công ty đang tìm kiếm những thông tin giúp họ hiểu hơn về khách hàng về môi trường kinh doanh của nước ngoài. Nghiên cứu thị trường quốc tế là quá thu nhập phân tích thông tin để trợ giúp cho các nhà quản trị đưa ra quyết định chính thức. Nghiên cứu thị trường quốc tế cung cấp thông tin về môi trường kinh doanh quốc tế bao gồm tập quán, chính trị, luật pháp và hệ thống kinh tế của nơi cần nghiên cứu. Quá trính nghiên cứu này còn cung cấp cho các nhà quản trị về dung lượng của thị trường tiềm năng hành vi của của người mua hệ thống dịch vụ và phân phối. Nghiên cứu thị trường thực hiện các chức năng cần thiết trên tất cả các quốc gia. Thực hiện nghiên cứu thị trường nước ngoài giúp các nhà kinh doanh trong việc hoạch định chiến lược Marketing và hiểu rõ hơn về sở thích và thái độ của người tiêu dùng. Ngoài ra, nghiên cứu thị trường còn cho phép các công ty (doanh nghiệp) nắm được thông tin về lao động, tiền công…trước khi gia nhập thị trường nào đó. Hơn nữa, nó cung cấp cho các nhà kinh doanh có những thông tin để dự đoán vận động của thị trường, sự thay đổi của các quy định hiện tại và các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng Phương pháp nghiên cứu thị trường - Nghiên cứu tại bàn (nguồn thông tin thứ cấp) Quá trình thu thập thông tin hiện có trong công ty hay thu thập các nguồn bên ngoài được gọi nghiên cứu thị trường từ các nguồn thông tin thứ cấp. Thông tin thứ cấp là những thông tin đã được công bố như tin tức và tài liệu thương mại, tạp chí, sách báo…các công ty có thể sử dụng tư vấn về môi trường kinh doanh ở một quốc gia nào đó. Việc lựa chọn nguồn thông tin nào tùy thuộc vào mặt hàng và phụ thuộc vào các quốc gia mà công ty dự định thâm nhập. Quá trình thu thập thông tin đã được phát hành và được công bố. Các nhà kinh doanh thường dựa vào nguồn thông tin thứ cấp này để đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm và môi trường kinh doanh của nước đó. Những tổ chức quốc tế là những nguồn thông tin cung cấp thông tin rất chính xác và miễn phí về nhu cầu đối với một sản phẩm của từng quốc gia như các tổ chức: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế, trung tâm thương mại quốc tế (ITC), ngân hàng phát triển châu A (ADB), Hội đồng kinh tế xã hội Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP), Cơ quan thống kê của liên hợp quốc (UNSO)…. - Nghiên cứu tại hiện trường (nguồn thông tin sơ cấp) Mặc dù các thông tin thứ cấp là rất thông dụng và hữu ích trong các giai đoạn đầu của quá trình điều tra nhưng thông tin chính xác về địa phương là rất cần thiết. Nghiên cứu thị trường sơ cấp là quá trình là quá trình thu thập và phân tích các thông tin ban đầu và áp dụng kết quả vào nghiên cứu hiện tại. Việc nghiên cứu này có tác dụng trong việc bổ sung những thông tin thứ cấp hay gọi là nghiên cứu hiện trường. Nghiên cứu tại hiện trường là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu thị trường, về mặt trình tự nghiên cứu hiện trường có thể thực hiện chỉ nghiên cứu thị trường sau khi phân tích, đánh giá những kết quả phân tích tại bàn tức là khi đã xử lí thông tin. Nghiên cứu tại hiện trường chủ yếu thu thập thông tin trực tiếp và qua các giao tiếp với thương nhân (khách hàng) và người tiêu dùng. Tuy nhiên, thông tin sơ cấp thường đắt hơn rất nhiều so với thông tin thứ cấp khi tiến hành thu thập bởi vì các hoạt dộng nghiên cứu phải được quản lý trong một tổng thể rộng hơn ví dụ: tại hội chợ, triển lãm các thành viên của một ngành hay một nhóm ngành trưng bày gian hàng mới nhất của họ. Tại đây, họ có thể xem xét các đối thủ cạnh tranh làm gì và học hỏi các xu hướng, cơ hội hiện tại gọi là xu hướng thương mại. Nghiên cứu tại trung tâm thương mại quốc tế hay do một hãng nghiên cứu tư nhân hay do thương nhân tự tiến hành. Bao gồm các công việc sau: Xác định những vấn đề của một mặt hàng cụ thể Kiểm tra các cách thu thập thông tin khác Đối với việc lựa chọn thị trường phụ thuộc vào những yếu tố khách quan và chủ quan như: Quan hệ chính trị và kinh tế thương mại Vị trí địa lí Tổng mức tiêu thụ trên thị trường nội địa, nhập khẩu, xuất khẩu Khả năng tăng tiêu thụ, nhập khẩu Nghiên cứu về giá xuất khẩu, nhập khẩu Vấn đề bảo hộ mậu dịch Hệ thống phân phối trên thị trường Những vấn đề về văn hóa- xã hội 1.2.2 Lựa chọn thị trường và đối tác kinh doanh - Lựa chọn thị trường Hai vấn đề cơ bản của các nhà kinh doanh khi lựa chọn thị trường xuất khẩu đó là: Thứ nhất: Giữ cho chi phí nghiên cứu càng thấp càng tốt. Thứ hai: Là phân tích kỹ thị trường tiềm năng để lựa chọn các cơ hội kinh doanh xuất khẩu phù hợp. Và để đạt được đồng thời cả hai mục tiêu trên các nhà kinh doanh xuất khẩu phải sử dụng phương pháp lựa chọn thị trường thích hợp. Phương pháp lựa chọn thị trường thích hợp này bao gồm 3 bước cơ bản: Bước 1: Xác định cơ hội kinh doanh Sự phù hợp của môi trường kinh doanh, những quy định và hạn chế tuyệt đối của chính phủ Tiếp cận nguồn nguyên liệu, lao động, tài trợ Bước 2: Phân tích môi trường kinh doanh quốc gia Ngôn ngữ, thái độ, niềm tin, truyền thống và đạo đức Quy định của chính phủ, bộ phận hành chính, sự ổn định của chính trị Các chính sách tài khóa và tiền tệ Chi phí vận chuyển nguyên vật liệu Bước 3: Đánh giá và lựa chọn thị trường Doanh thu hiện tại, độ co giãn thu nhập, chỉ số thị trường tiềm năng Chất lượng nguồn lao động, nguyên vật liệu Khả năng cạnh tranh Lựa chọn đối tác xuất khẩu Nếu phân theo mối quan hệ kinh tế có thể chia doanh nghiệp xuất khẩu có ba loại đối tác và doanh nghiệp có thể lựa chọn bất cứ đối tác nào dưới đây: - Đối tác truyền thống là những bạn hàng nhập khẩu lâu năm của doanh nghiệp, họ là những khách hàng thường xuyên với số lượng lớn và luôn ổn định - Đối tác mới là những bạn hàng mới bắt đầu nhập khẩu của công ty - Đối tác không thường xuyên là bạn hàng không nhập khẩu thường xuyên với số lượng nhỏ và không ổn định. 1.2.3 Lập phương án kinh doanh xuất khẩu Trong nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu việc giao dịch giữa các bên để ký kết hợp đồng mua bán đều phải tiến hành theo thể thức nhất định. Những thủ tục và tập quán thông dụng ở thị trường, theo các điều kiện giao dịch. Các chứng từ cần thiết đều được thực hiện theo tập quán mua bán. Đó là các phương thức giao dịch, mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm riêng và có kỹ thuật thực hiện. Các bên mua, bán hàng thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch về nhiệm vụ của từng bên, bên bán giao hàng bên mua trả tiền. Hai bên mua và bán là những người thuộc quốc tịch khác nhau, cư trú ở các nước khác nhau… Đặc điểm nổi bật của ngành công nghiệp da giầy Việt Nam là phương thức sản xuất chủ yếu vẫn là gia công cho đối tác nước ngoài, sản xuất phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu trực tiếp còn tương đối hạn chế. Trên 80% các doanh nghiệp Việt Nam là người gia công, nhà thầu phụ cho các hãng lớn. Từ mẫu mã cho đến giá bán hoàn toàn do phía đối tác quyết định, còn thu nhập của doanh nghiệp chủ yếu từ phí gia công sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không được và không có khả năng quyết định giá bán một đôi giầy trên thị trường, không tham gia vào quá trình thương mại, không quyết định đầu vào và đầu ra cho một sản phẩm. Việt Nam hiện có 4 phương thức làm hàng da giầy: Một là, gia công thuần tuý, nghĩa là, nhà máy chỉ nhận vật tư, nguyên liệu được cung cấp từ đối tác nước ngoài, không phải thanh toán tiền vật tư, nguyên liệu và sau khi dùng vật tư, nguyên liệu đó theo qui trình công nghệ đã được chọn sẵn phía nước ngoài, làm ra sản phẩm, rồi xuất giao lại cho phía đối tác nước ngoài và nhận tiền công. Hai là, mua nguyên liệu bán thành phẩm, cũng gần giống phương thức thứ nhất nhưng nhà máy phải tự mua vật tư và thanh toán tiền vật tư. Ba là, sản xuất theo doanh nghiệp gọi hiện nay là hàng FOB, có 2 phương thức khác nhau, thứ nhất là xuất hàng FOB, sản xuất cho các thương hiệu nước ngoài, tiêu thụ ở thị trường xuất khẩu và thứ hai là sản phẩm mang thương hiệu của chính doanh nghiệp đó nhưng phương thức này hiện nay thực hiện được rất ít vì thương hiệu của ta chưa đủ mạnh. Theo Hiệp hội da giầy Việt Nam, hiện nay mỗi doanh nghiệp muốn đáp ứng nhu cầu thị trường thì phải có nhà máy lớn từ 12.000 đến 15.000 lao động và chỉ với qui mô như thế mới có thể bù đắp được chi phí quản lý, cùng một số kinh phí khác đáp ứng nhu cầu các đơn hàng lớn từ các nước nhất là thị trường Mỹ. Tuy kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang EU tăng nhanh, chủ yếu xuất khẩu theo hình thức gia công (chiếm trên 70% kim ngạch) nên hiệu quả thực tế rất nhỏ (25% - 30% tổng doanh thu xuất khẩu). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một mặt ngành giầy không nhận được hỗ trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu; các doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu mẫu mã giầy dép là do khâu tiếp cận thị trường yếu không quan hệ trực tiếp được với các nhà nhập khẩu EU vì phụ thuộc vào người trung gian. Mặt khác, các doanh nghiệp chủ yếu làm gia công cho nước ngoài nên chưa quan tâm nhiều đến việc đa dạng hóa, nâng cao chất lượng và cải tiến sản phẩm xuất khẩu, do đó chất lượng sản phẩm giầy dép chưa cao, mẫu mã còn đơn điệu. 1.2.4 Đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu - Các bước giao dịch và đàm phán Bước 1: Hỏi giá Về phương tiện pháp luật thì hỏi giá chính là lời thỉnh cầu giao dịch, còn nếu xét về phương diện thương mại là việc người mua sẽ đề nghị người bán báo cho mình biết về giá cả và các điều kiện khác liên quan đến việc mua hàng. Nội dung của bước này là: Tên hàng, quy cách chủng loại, phẩm chất, số lượng, thời gian…Giá mà người mua có thể trả nó được giữ kín tuy nhiên, để không làm mất thời gian, người mua sẽ nêu rõ những điều kiện mà mình mong muốn để từ đó có thể xác định được về loại tiền, hình thức thanh toán, điều kiện giao hàng. Việc hỏi giá không quy định trách nhiệm của người hỏi giá. Bản thân người hỏi giá cũng nghiên cứu giá cả nhiều nơi nhằm nhận được nhiều bản chào hàng khác nhau để so sánh và lựa chọn bản chào hàng phù hợp nhất. Về phía người đặt giá lại là một bất lợi khi người hỏi giá có được nhiều đơn chào hàng hoặc gây tâm lí căng thẳng Bước 2: Chào hàng Chào hàng thể hiện ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng người ta cũng nêu rõ về: tên hàng, quy cách, phẩm chất..Nếu hai bên mua bán với nhau hoặc có điều kiện chung giao hàng điều chỉnh thì chào hàng chỉ cần có nội dung cần thiết cho giao dịch và những vấn đề khác sẽ áp dụng như hợp đồng đã kí kết trước đó. Trong hoạt động xuất khẩu chào hàng xuất khẩu gồm 2 loại: Thứ nhất: Chào hàng cố định là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một người mua nhất định trong đó có ghi rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm và lời đề nghị của mình, thời gian này người ta gọi là thời gian hiệu lực của chào hàng. Nếu trong thời gian hiệu lực, người mua chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng thì hợp đồng coi như đã được kí kết còn nếu chào hàng cố định người bán không quy định rõ thời gian hiệu lực thì thời hạn này được tính theo thời gian hợp lí. Tuy nhiên, nó còn tùy thuộc vào đặc tính hàng hóa, vị trí địa lí do hai bên quy định Thứ hai: Chào hàng tự do là loại chào hàng yêu cầu phải nêu rõ bằng cách ghi “chào hàng không cam kết ( without engagement)” hay “chào hàng ưu tiên cho người mua trước hoặc “ báo giá (Quatation). Cũng thời gian đó cùng một lô hàng người bán có quyền chào hàng tự do cho nhiều khách hàng. Trong loại chào hàng này, việc khách hàng chấp nhận hoàn toàn các điều kiện của chào hàng tự do cũng không có nghĩa là hợp đồng đã được kí kết như chào hàng cố định và người bán không có sự ràng buộc với người mua Bước 3: Đặt hàng Việc đặt hàng chỉ được diễn ra khi người mua đề nghị người bán kí kết hợp đồng. Trong đặt hàng người mua có quyền yêu cầu người bán đáp ứng về hàng hóa định mua và tất cá những nội dung cần thiết cho việc kí kết hợp đồng gồm: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng… Bước 4: Hoàn giá Hoàn giá là việc mặc cả hoặc các điều kiện giao dịch người mua nhận được chào hàng không chấp nhận hoàn toàn chào hàng đó mà người mua đưa ra một số đề nghị mới và lời đề nghị này là trả giá. Khi có sự trả giá thì chào hàng trước đó coi như không tồn tại. Buôn bán quốc tế không phải chỉ thực hiện một lần trả giá mà phải trải qua nhiều lần trả giá và hoàn giá chính là nhiều lần trả giá Bước 5: Chấp nhận Chấp nhận là sự đồng ý mọi điều kiện của thư chào hàng mà một bên đưa ra và hợp đồng đã được kí kết. Sự chấp nhận để có hiệu lực về mặt pháp lí thì cần phải đảm bảo những điều kiện sau: - Được người nhận giá chấp nhận - Được sự đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của thư chào hàng - Tồn tại trong thời gian có hiệu lực của chào hàng - Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra lời đề nghị Bước 6: Xác nhận Khi đã có sự thỏa thuận thống nhất giữa hai bên về điều kiện giao dịch thì cần có sự xác nhận gọi là văn kiện xác nhận. Văn kiện này do bên bán gửi được gọi là xác nhận bán hàng còn bên mua gọi là xác nhận mua hàng. Nó được lập thành hai văn bản bên xác nhận sẽ kí trước sau đó gửi cho bên kia sau khi kí xong mỗi bên sẽ giữ lại một bản và gửi một bản. Trong một số trường hợp có thể chỉ thực hiện bằng một văn bản có chữ kí của hai bên hay gọi là bản hợp đồng Bước 6: Kí kết hợp đồng Sau khi hai bên đã thỏa thuận với nhau thì tiến hành kí kết hợp đồng. Hợp đồng này được viết dưới dạng văn bản. Văn bản này có một số đặc điểm sau đây: do luật điều chỉnh, Có chủ thể hợp đồng, ngôn ngữ hợp đồng, đồng tiền thanh toán… Nội dung các điều khoản chính của hợp đồng xuất khẩu Tên, địa chỉ, doanh nghiệp, ngân hàng giao dịch, người đại diện Tên hàng Quy cách hàng hóa Số lượng Bao gói, ký mã hiệu Giá cả Thời gian, địa điểm. phương thức giao hàng, Điều kiện xếp hàng Chứng từ cần thiết: Tờ khai hải quan, vận đơn đường biển, giấy chứng nhận chất lượng Mua bảo hiểm Điều kiện thanh toán Trường hợp bất khả kháng và trách nhiệm hành vi Thời hạn hiệu lực của hợp đồng Dưới đây là một ví dụ: Tiếp xúc với khách hàn._.g (1) Lập đơn chào hàng (2) Đàm phán với khách hàng (3) Làm giầy mẫu đế (4) Kí kết hợp đồng (5) Hình 1.1: Quy trình đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu của công ty giầy Thượng Đình 1.2.5 Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là công việc hết sức quan trọng sau khi hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết. Khi thực hiện hợp đồng bên bán và bên mua phảo hoàn thành các nghĩa vụ của mình đã được quy định trong hợp đồng. Đây là một công việc phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ pháp luật quốc gia và quốc tế đảm bảo được quyền lợi và uy tín kinh doanh của mỗi bên. Đồng thời các bên phải thể hiện được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với các điều khoản mà hai bên đã thống nhất và ký kết Bước 1: Xin giấy phép xuất khẩu Xin giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng về mặt pháp lý, giúp cho nhà kinh doanh có thể thông quan hàng hoá xuất khẩu. Trong những năm gần, ở Việt Nam việc xin giầy phép xuất khẩu đang trở nên đơn giản nhằm đảm bảo một hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Trong hợp đồng xuất khẩu, người xuất khẩu sẽ là người làm thủ tục xin giấy phép xuất khẩu. Giấy phép xuất khẩu chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất khẩu một hay một số mặt hàng sang một nước nhất định, chuyên chở một phương thức vận tải và giao nhận tại một nơi nhất định. Bước 2: Giục người mua thanh toán ( mở L/C) Thanh toán là khâu rất đặc biệt quan trọng toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Chủ hàng xuất khẩu chỉ thực sự yên tâm khi biết chắc rằng hàng hoá xuất khẩu phải được thanh toán. Trong mua bán ngoại thương có nhiều phương thức nhưng nhiệm vụ cuối cùng đều giống nhau ở một điểm là thu được tiền về khi xuất khẩu hàng hoá: thanh toán bằng L/C hay thanh toán bằng tiền, tiền trả trước Bước 3: Chuẩn bị nguồn hàng Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá của một công ty hoặc một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng và đảm bảo điều kiện xuất khẩu được. Để thực hiện cam kết hợp đồng xuẩt khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu để giao. Công việc chuẩn bị giao hàng là bước tiếp theo của khâu thanh toán nên cũng không kém phần quan trọng, khâu này bao gồm 3 khâu chủ yếu: - Thu gom hàng hoá : đây là công việc mất nhiều thời gian do đó, người xuất khẩu phải có kế hoạch chi tiết thời gian để có thể huy động hàng hoá đủ số lượng để giao theo đúng thời hạn quy định trong hợp đồng. Vì vậy, để đảm bảo đủ số lượng hàng giao cho khách hàng nước ngoài người xuất khẩu phải tiến hành thu gom hàng hoá từ nhiều chân hàng - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: hầu hết trong kinh doanh quốc tế mặt hàng phải được đóng gói, bao bì trong quá trình vận chuyển. Tuỳ thuộc từng loại mặt hàng với tính chất hàng hoá hay tuỳ vào từng loại hợp đồng quy định người xuất khẩu phải tổ chức đóng gói bao bì, ghi mã hiệu ( các loại bao bì có thể là hòm, bao,kiện,thùng, cuộn,chai…) - Ghi ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký mã hiệu hàng hoá là những ký hiệu bằng số, chữ hay hình vẽ trên các bao bì bên ngoài nhằm thông báo những thông tin cần thiết cần phải có khi bốc dỡ hàng hoá. Ký mã hiệu bao gồm những thông tincần có sau: Thứ nhất: là những đấu hiệu cần thiết đối với người nhận hàng như: tên người nhận, người gửi, trọng lượng…. Thứ hai: Là những chi tiết cần thiết cho việc vận chuyển như: tên cước, tên địa điểm hàng đến, hành trình chuyên chở, vận đơn.. Thứ ba: Là những dấu hiệu hướng dẫn cách xếp đặt, bốc dỡ và bảo quản tránh trong trường hợp hư hỏng hàng hoá. Bước 4: Thuê phương tiện vận tải Hầu hết trong mua bán ngoại thương chuyên chở bằng đường biển. Tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên thì người xuất khẩu hay người nhập khẩu phải thuê phương tiện vận tải. Với người xuất khẩu có thể lựa chọn một trong các phương thức thuê tàu sau: Phương thức thuê tàu chợ ( line), phương thức thuê tàu chuyến (voyage), phương thức thuê tàu định hạn ( time charter) Bước 5: Mua bảo hiểm hàng hoá Trong các hàng hoá xuất khẩu hầu hết vận chuyển bằng đường biển phải mua bảo hiểm cho hàng hoá do thời gian vận chuyển lâu, trị giá cho mỗi chuyến hàng lớn. Vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất. Thủ tục bảo hiểm của hàng hoá xuất khẩu thường làm từng loại một, khi mua bảo hiểm, người bảo hiểm ghi rõ tên hàng, tuyến đường vận chuyển, phương tiện vận chuyển, ngày xuất phát, loại bảo hiểm… Bước 6: Kiểm tra chất lượng hàng hoá Trước khi giao hàng nhà xuất khẩu có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng xuất khẩu về số lượng, chất lượng, quy cách, phẩm chất…(kiểm nghiệm hàng xuất khẩu). Kiểm tra hàng hoá xuất khẩu được thực hiện ở hai cấp cơ sở và ở cửa khẩu. Khi xuất trình hàng hoá xuất khẩu chủ hàng này phải có đủ thông tin. Đơn xin giám định hàng hoá, hợp đồng xuất khẩu và L/C. Trong đơn có những nội dung chính như Tên Địa chỉ của cơ quan xin giám định Tên hàng Số lượng Tình trạng hàng hoá….. Cơ quan giám định sẽ căn cứ vào đơn để giám định hàng hoá và sau khi kiểm tra thực tế hàng hoá về số lượng, trọng lượng, bao bì…trong thời gian ngắn khoảng 2 hoặc 3 ngày sẽ có kết quả Bước 7:Thủ tục hải quan Pháp lệnh Việt Nam đã quy định hàng hoá trước khi vượt qua biên giới quốc gia thì phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan để xuất khẩu hàng hóa gồm các bước sau: Khai báo hải quan Đưa hàng hoá xuất khẩu đến địa điểm kiểm tra Làm nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu Bước 8: Giao hàng cho người vận tải Hầu hết hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu bằng đường biển. Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu chủ hàng phải làm các việc sau: Kiểm tra lại hànghoá xuất khẩu Theo dõi ngày, giờ đưa hàng Chuẩn bị phương tiện vận chuyển hàng hoá vào cảng Lấy biên lai thuyền phó Đổi vận đơn đường biển Bước 9: Làm thủ tục thanh toán Trong thủ tục thanh toán quyết toán hợp đồng hợp đồng ngoại thương có nhiều phương thức. Dưới đây là một trong những phương thức được thường xuyên sử dụng Thứ nhất: Phương thức thanh toán nhờ thu Đây là phương thức mà người bán sau khi giao hàng sẽ lập hối phiếu gửi đến ngân hàng nhờ thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu. Phương thức này gồm phương thức nhỏ là: phương thức nhờ thu trơn và phương thức nhờ thu kèm chứng từ. Tiến trình của phương thức này như sau: Nhà xuất khẩu (người bán) sau khi giao hàng xuất trình cho ngân hàng mình những chứng từ được quy định trong hợp đồng để gửi nhờ thu đồng thời nói rõ hình thức nhờ thu. Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu mời người mua đến thanh toán hoặc chấp nhận bộ chứng từ như vậy ngân hàng đã báo cho nhà nhập khẩu biết đã nhận được bộ chứng từ và để họ biết trước khi đồng ý thanh toán hối phiếu. Nếu ngân hàng giao cho nhà nhập khẩu bộ chứng từ thì ngân hàng phải chịu hoàn toàn mọi chi phí rủi ro. Nếu nhà nhập khẩu từ chối thanh toán hoặc ký chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng được uỷ nhiệm thu phải thanh toán trị giá hoá đơn cho ngân hàng nhận nhờ thu. Bộ chứng từ vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà xuất khẩu cho đến khi thực hiện thanh toán ký chấp nhận Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên mua Người mua Người bán Thứ hai: Phương thức thanh toán chuyển tiền Là phương thức trong đó khách hàng là người mua ( nhà nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển số tiền cho người hưởng lợi ở một địa điểm nhất định. Ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lí của mình ở nước hưởng lợi để thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền. Dưới đây là quy trình thực hiện thanh toán chuyển tiền Ngân hàng bên bán Ngân hàng bên mua Người mua Người bán Thứ ba: Phương thức thanh toán tín dụng Là một thoả thuận trong đó, một ngân hàng ( Ngân hàng mở thư L/C) theo yêu cầu của khách hàng ( người xin mở thư) cam kết sẽ trả một số tiền nhất định cho người thứ ba hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba kí phát trong phạm vi số tiền đó khi người thứ ba xuất trình một bộ chứng từ phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng Quy trình thực hiện phương thức thanh toán này như sau: Ngân hàng đại lý Ngân hàng phát hành Nhập khẩu Xuất khẩu Thứ tư: Phương thức thanh toán ghi sổ Là phương thức trong đó người xuất khẩu sau khi thực hiện giao hàng cho người nhập khẩu thì mở một tài khoản hoặc một số khi nợ cho người mua và việc thanh toán chỉ diễn ra sau một kì hạn nhất định. Ngân hàng dịch vụ cho người bán Ngân hàng dịch vụ cho người mua Người mua Người bán Quy trình thực hiện phương thức này như sau: Bước 10: Giải quyết khiếu nại Giải quyết khiếu nại là quyền lợi của mỗi bên khi có những vấn đề phát sinh trong và sau quá trình thực hiện hợp đồng. Nếu là người xuất khẩu thì hồ sơ khiếu nại bao gồm những nội dung sau: Tên, địa chỉ, lý do khiếu nại, yêu cầu cách thức giải quyết Nếu là nhà nhập khẩu: phải có trách nhiệm nghiêm túc nghiên cứu hồ sơ khi nhận được hồ sơ gửi tới từ các cơ quan hữu quan hay của bên mua 1.3 Các chỉ tiêu và nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu giầy dép 1.3.1 Các chỉ tiêu Thứ nhất: Chỉ tiêu về sản lượng xuất khẩu giầy Chỉ tiêu về số lượng giầy xuất khẩu càng lớn nói lên mức tiêu thụ tại các thị trường cũng tăng lên, đồng thời cho thấy sản phẩm giầy đã được tiếp nhận, đáo ứng được với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng không chỉ trong và ngoài nước Cũng theo Lefaso, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giày đạt 3,59 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2005, sản lượng xuất khẩu 579 triệu đôi giày dép các loại.Trong các mặt hàng da giày xuất khẩu, mặt hàng giày thể thao đạt 381 triệu đôi, trị giá 2,63 tỷ USD, chiếm 73 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Đến cuối năm 2006, trong 10 đôi giày tiêu thụ trên thế giới có tới 2 đôi sản xuất tại Việt Nam và nước ta được xếp vào thị trường sản xuất giày dép của thế giới (chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ). Tính chung cả năm 2007 nước ta đã xuất khẩu được 602.8 triệu đôi giầy với trị giá 39.93 triệu USD tăng 11.8 % về số lượng và tăng 11.2 % về trị giá so năm 2006 so các chỉ tiêu đã đề ra xuất khẩu giầy của cả nước năm 2007 đạt 99.83 %. Đến năm 2010, ngành da giầy Việt nam đặt mục tiêu trở thành ngành công nghiệp nhẹ xuất khẩu trọng điểm với số lượng đạt 720 triệu đôi giầy dép các loại. Thứ hai: Chỉ tiêu về kim ngạch xuất khẩu giầy Chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm càng cao đồng nghĩa với việc tiềm năng của sản phẩm cũng tăng lên và phù hợp với nhu cầu thị trường hơn. Năm 1992, ngành da giày đã xuất khẩu được 5 triệu USD và liên tục tăng trưởng. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu da giày sau 10 năm đã tăng 369,2 lần, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Từ năm 2004 đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế giới sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy. Năm 2006, trước tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều biến động do ảnh hưởng của các vụ kiện bán phá giá các loại giày mũ da xuất khẩu vào thị trường các nước châu Âu (EU) nhưng ngành da giày vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao, mở rộng được thị trường… Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt khoảng 3,56 tỷ USD, tăng 16,9% so với năm 2005, đã vượt 6,1% so với kế hoạch (3,35 tỷ USD). Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của ngành da giày Việt Nam, chỉ tính riêng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với 2005, chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Inđônêxia vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 giảm 13,5% so với năm 2003 và 32,2% so với năm 2002, kim ngạch xuất khẩu giày dép cuả Thái Lan vào thị trường Mỹ chỉ đạt 292 triệu USD, giảm so với 315 triệu USD năm 2001. Với thực tế trên, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt Nam phát triển mạnh trong thời gian tới. Năm 2007, xuất khẩu một số loại giầy, dép tiếp tục tăng mạnh. Điển hình như kim ngạch xuất khẩu giầy thể thao đế/mũ cao su/plastic tăng tới 116,64%; giầy thể thao mũ da tổng hợp tăng 81%, giầy mũ da tổng hợp tăng 41,6%. Nhưng bên cạnh đó, giá nhiều loại giầy, dép bị giảm mạnh so với năm 2006. Cụ thể, giá giầy mũ nguyên liệu dệt giảm 24,8% xuống 5,86 USD/đôi; giá giầy thể thao mũ nguyên liệu dệt giảm 19,5% xuống 8,35 USD/đôi; giầy tennis,giầy bóng rổ giảm 12,4% xuống 9,66 USD/ đôi. …Hiệp hội Da giày Việt Nam cho biết, kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại trong tháng 2/2008 ước đạt 300 triệu USD, tính chung 2 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại đạt khoảng 769 triệu USD, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước Thứ ba: Chỉ tiêu về thị trường Chỉ tiêu về thị trường nó phản ánh tốc độ bao phủ thị trường quốc tế. Nếu tốc độ số lượng thị trường xuất khẩu càng cao cho thấy sản phẩm đang được mở rộng hoặc đánh giá được khả năng thâm nhập thị trường mới của sản phẩm xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang đa số các thị trường lớn đều tăng về lượng và giá trị so với các năm trước đó. Trong số các thị trường xuất khẩu thì EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giày Việt Nam bởi khối lượng tiêu dùng cao và đây là vùng khí có khí hậu hàn đới, thời tiết quanh năm lạnh nên nhu cầu về da giày rất lớn. Hàng năm, 90% sản phẩm do ngành sản xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70% thị phần, Mỹ 20% thị phần, Nhật Bản 3% thị phần, Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Inđônêxia về xuất khẩu giày dép vào EU. Theo dự báo, xuất khẩu giày dép của nước ta sang Mỹ sẽ tiếp tục tăng do nước này đang thực hiện chính sách hạn chế nhập khẩu từ Trung Quốc. Hơn nữa, một đối thủ cạnh tranh khác là Brazil cũng đang gặp khó khăn trong xuất khẩu vào thị trường Mỹ, do đồng tiền Real mạnh lên so với đồng đô la Mỹ. Cùng với sự tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, xuất khẩu giày dép cũng đã ghi nhận sự phục hồi của thị trường Italia và Tây Ban Nha sau một thời gian dài sụt giảm, tăng trưởng chậm. Thị trường Italia tăng 13% đạt 36,51 triệu USD và xuất sang Tây Ban Nha đã tăng 19%, đạt 19,39 triệu USD trong quý I/2005. Tuy nhiên, xuất khẩu vào hai thị trường trọng điểm Đức và Pháp lại gặp nhiều khó khăn do tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và mức giá đều giảm. Tại Đức, xuất khẩu giày dép bị giảm 27,65% so với cùng kỳ năm 2004, kim ngạch đạt gần 71 triệu USD. Mặt hàng chính xuất vào thị trường này vẫn là giày thể thao, tuy nhiên đơn giá xuất khẩu giày thể thao sang thị trường Đức chỉ đạt mức trung bình 5,6 USD/đôi, thấp hơn khá nhiều so với mức giá xuất khẩu trung bình sang các thị trường EU khác. Tại Pháp, xuất khẩu da giày cũng giảm tới giảm 24,55% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 32,71 triệu USD. Đặc biệt, Pháp là thị trường xuất khẩu giày vải lớn thứ 2 của Việt Nam, nhưng giá xuất khẩu giày vải vào thị trường này chỉ đạt gần 3 USD/đôi, thấp hơn đơn giá xuất khẩu trung bình của cả nước đạt gần 4 USD/đôi và đơn giá xuất khẩu sang EU đạt mức trung bình gần 3,5 USD/đôi. Năm 2007, Việt Nam xuất khẩu sang 106 thị trường, trong đó các thị trường lớn như EU, Mỹ, Mêhicô…và nhiều thị trường khác đều tăng kim ngạch xuất khẩu. Tính chung năm 2007, xuất khẩu giầy, dép của Việt Nam sang Trung Quốc tăng mạnh nhất, tăng 56,7%, đạt 65,9 triệu USD, tiếp đến là xuất khẩu sang Nga tăng 50,6%, đạt 28,3 triệu USD…Xuất khẩu giầy, dép sang các thị trường lớn đều duy trì được mức tăng khá trong năm 2007 Ngay sau khi có phán quyết cuối cùng của EU áp thuế chống bán phá giá 10% đối với giày mũ da xuất xứ Việt Nam (Trung Quốc chịu mức 16,5%), tình hình xuất khẩu dần ổn định, nhiều nhà nhập khẩu đã trở lại Việt Nam đặt hàng. 1.3.2 Các nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu giầy – dép của doanh nghiệp 1.3.2.1 Nhân tố thuế quan Khi đối diện với mức thuế CBPG mà uỷ ban Châu Âu (EC) áp dụng đối với giầy mũ da Việt Nam xuất khẩu và Liên minh Châu Âu ( EU) thì ngay từ năm 2006 đã giảm ới 30%-35%. Từ quý I/2007, xuất khẩu giầy dép của Việt nam vào EU chỉ còn chiếm 50% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành, giảm 20% so với trước đây. Trong khi đó mức thuế cạnh tranh hàng hoá cùng sản phẩm từ một số nước khu vực tại các thị trường nhập khẩu ngày càng tăng mạnh mẽ. Hàng giầy dép Việt Nam vào thị trường là một trong những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu trên thị trường này trong nhiều năm qua. Mặt hàng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam sang thị trường EU tăng nhanh cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu góp phần quan trọng làm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Tuy nhiên ngày 30/08/2006, Uỷ ban Châu Âu đề xuất mức thuế chống bán phá giá đối với giầy nhập khẩu như giầy thể thao. Các quốc gia thành viên sẽ có một tháng để xem xét đề xuất trên. Hiện nay, đang tạm thời áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với giầy da của Việt Nam. Việc áp dụng mức thuế chống bán phá giá là một rào cản thương mại được áp dụng ngày càng phổ biến trên thị trường quốc tế. Đây chính là rào cản mà các quốc gia phát triển sử dụng như hạn chế lượng hàng xuất khẩu từ các quốc gia đang phát triển có lợi thế so sánh về chi phí như nhân công và nhiều nguồn lực khác thấp điều này không tránh khỏi Việt Nam một quốc gia đang phát triển chưa được EU công nhận là nền kinh tế thị trường. Đứng trước thử thách đó các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giầy Việt Nam cần xem xét đây là thị trường đầy thách thức khi tham gia hội nhập với nền kinh tế quốc tế giữa quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển 1.3.2.2 Nhân tố hạn ngạch Hạn ngạch là công cụ kinh tế và là một công cụ phổ biến của hàng rào phi thuế quan phục vụ cho công tác điều tiết, quản lý Nhà nước về xuất khẩu. Nó là những quy định hạn chế về số lượng đối với những mặt hàng dễ đo đếm và có giá trị cao còn hạn chế trị giá đối với mặt hàng khó đo, đếm. Hạn ngạch được áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu giầy nói riêng Thị trường xuất khẩu của Việt Nam là thị trường EU và một lợi thế của ta là không bị khống chế hạn ngạch so với Trung Quốc và Indonesia. Như vậy hạn ngạch là một nhân tố quan trọng có thể thúc đẩy hoặc hạn chế xuất khẩu 1.3.2.3 Tỷ giá và chính sách đòn bẩy Tỷ giá hối đoái là quan hệ về sức mua giữa bản tệ so với các ngoại tệ khác. Nó là loại giá quan trọng nhất chi phối những loại giá khác và tác động đến sản xuất và đặc biệt xuất khẩu. Xuất khẩu chịu tác động trực tiếp và nhạy cảm nhất trước những biến động của tỷ giá hối đoái. Ngày 26/03/2008 tỷ giá hối đoái sụt giảm còn 15.900 VND/USD làm ảnh hưởng kết quả kinh doanh của nhiều nhà sản xuất hàng xuất khẩu và có xu hướng tăng giảm thất thường. Tất cả các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đều mong muốn có một chính sách tỉ giá hối đoái thuận lợi, chính sách duy trì tỷ giá hối đoái ổn định và tương đối cao. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, trợ cấp xuất khẩu là một trong những biện pháp có tác dụng lớn tới việc thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Giầy – dép là một trong chín mặt hàng chủ yếu của nước ta, nên chính sách trợ cấp xuất khẩu cũng là một biện pháp thúc đẩy xuất khẩu. 1.3.3 Các nhân tố vi mô 1.3.3.1: Mặt hàng xuất khẩu Giầy – dép một trong những mặt hàng tiêu dùng có tính thời trang đa dạng về chủng loại, phong phú về mẫu mã đáp ứng với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép luôn theo hướng đa dạng hoá sản phẩm. Các sản phẩm giầy dép muốn được thâm nhập thị trường EU, Nhật Bản đòi hỏi phải đảm bảo về mặt chất lượng cao. Còn nếu cạnh tranh về mặt giá cả thì sản phẩm của chúng ta không cạnh tranh với hàng từ Trung Quốc. Giầy – dép là mặt hàng mang tính thời trang nên tuỳ vào từng kiểu dáng mẫu mã, kích cỡ, màu sắc thì phù hợp với thị trường nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất giầy – dép Việt Nam vẫn chưa chủ động nghiên cứu được mẫu mã, chủng loại giầy dép phù hợp với từng thị trường nước ngoài mà thực hiện theo đơn đặt hàng, sản xuất theo kiểu dáng, mẫu mã từ phía khách hàng. 1.3.3.2 Các yếu tố về tài chính Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là nguồn lực cơ bản cấu thành tiềm năng doanh nghiệp. Quy mô vốn là một trong những yếu tố quyết định loại hình kinh doanh của doanh nghiệp theo quy mô. Yếu tố vốn cùng với hoạt động tài chính khá ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh và tới sự tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp. Đánh giá về tài chính của doanh nghiệp bao gồm các nội dung sau: - Vốn kinh doanh - Về nguồn vốn - Sử dụng vốn và các hoạt động tài chính 1.3.3.3: Nguồn nhân lực Nhân lực là lực lượng lao động sáng tạo to lớn, quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp, dù các quan điểm triết lý kinh doanh của doanh nghiệp có đúng đắn đến đâu chăng nữa nếu không có những con người làm việc có hiệu quả thì nó cũng không thể mang lại kết quả và hiệu quả được. Yếu tố nhân lực, quản trị nhân lực của doanh nghiệp đem lại nguồn tiềm năng to lớn quyết định đến mọi hoạt động của doanh nhiệp. Ngành dệt may và ngành giầy dép hiện đang là ngành thu hút được lượng lao dộng trong ngành cao nhất so với các ngành khác. Việt Nam một quốc gia đông dân trên thế giới việc sản xuất giầy là cách tốt nhất để sử dụng nguồn lao động của mình mà không phải quốc gia nào cũng có được. Theo thống kê tại Việt Nam, hiện có khoảng trên 500000 lao động làm việc trong doanh nghiệp sản xuất khẩu giầy trong đó lao động nữ chiếm trên 85%. Đây chính là lợi thế của Việt Nam mà không phải quốc gia nào cũng có được. 1.3.3.4: Hệ thống thông tin Hệ thống tin của doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong các hoạt động chiến lược của doanh nghiệp. Nhà quản trị chỉ có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn trong từng thời kì có thể dài hạn hoặc ngắn hạn nếu có được các thông tin thích hợp chính xác, đầy đủ. Nhờ vậy, muốn kinh doanh hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải thu thập và xử lý các nguồn thông tin một cách rộng rãi, toàn diện các yếu tố môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống thông tin được xem là một tiềm năng, một thế mạnh quý giá, quan trọng của doanh nghiệp. Việc tổ chức thu thập và xử lý thông tin được gọi là quản lý thông tin. Quản lý thông tin cung cấp cho chúng ta dữ liệu quan trọng, cần thiết để hoạch định các chiến lược kinh doanh. Nguồn thông tin của doanh nghiệp tham gia tích cực vào việc tạo ra ưu thế cạnh tranh trên thị trường 1.3.3.5 Hoạt động Marketing Hoạt động Marketing của doanh nghiệp đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp thông tin cho lãnh đạo của doanh nghiệp. Những thông tin thường xuyên là lãnh đạo cấp doanh nghiệp yêu cầu là các số liệu về hàng hoá bán ra, cho phí cho quảng cáo, thị phần của doanh nghiệp. Các thông tin có tính chất thường xuyên đột xuất là các số liệu phân tích tình hình về độ hấp dẫn của ngành hàng, mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh, quy mô thị trường, mức độ tăng trưởng thị trường, thị phần tương đối…Khi phân tích hoạt động Marketing của doanh nghiệp bao gồm bốn yếu tố sau: sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến. 1.3.3.6 Thương hiệu, uy tín của doanh nghiệp và hệ thống phân phối Về hệ thống phân phối, có đến hơn 60% các sản phẩm giầy dép Việt Nam là gia công cho phía đối tác nước ngoài dưới hình thức làm theo đơn đặt hàng, với giá nhân công rẻ nên các doanh nghiệp Việt Nam chỉ giao hàng đến các nhà buôn mà không xuất khẩu trực tiếp đến các nhà phân phối chính. Đây là điểm rất yếu của ngành Giầy dép Việt Nam vì đa phần phụ thuộc vào hệ thống phân phối kinh doanh nước ngoài, điều đó đồng nghĩa với việc bị chi phối về sản xuất. Bên cạnh đó việc tập trung quá lớn vào thị trường EU cũng làm cho ngành Giầy dép gặp nhiều khó khăn lúng túng khi thị trường này có biến động bất thường do tranh chấp thương mại. Đó là hậu quả của việc không xây dựng được hệ thống phân phối chiến lược. Hiện nay, một số doanh nghiệp Việt Nam đang tìm hướng chuyển đổi thị trường xuất khẩu để tránh phụ thuộc quá nhiều vào EU. Tuy nhiên, trong 2 năm tới, ngành Giầy dép Việt Nam sẽ vẫn còn nhiều khó khăn, bởi không thể chuyển đổi thị trường nhanh chóng được. Thương hiệu và uy tín doanh nghiệp là nguồn lực vô hình, đòi hỏi quá trính tích luỹ lâu dài và phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác trong nội bộ doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp thương mại đều kỳ vọng đạt được mục tiêu gây dựng thương hiệu hàng hoá nổi tiếng trên thị trường. Thương hiệu hàng hoá và uy tín doanh nghiệp không thể tách rời nhau, chúng có quan hệ rất mật thiết và biện chứng với nhau tạo nên lợi thế của doanh nghiệp. Khi phân tích yếu tố nội lực này chúng ta đi sâu vào phân tích khả năng chấp nhận của thị trường về nhãn hiệu hàng hoá. Nhãn hiệu hàng hoá được chấp nhận được ưa thích và có uy tín chiếm thị phần lớn trên thị trường mới có khả năng trở thành thương hiệu được. Theo thống kê của Eurocham, 95% giầy nhập khẩu vào Đức được sản xuất theo đơn đặt hàng, Việt Nam chỉ đóng vai trò gia công. Ông Nguyễn Duy Thanh, Phó Tổng Giám đốc Công ty Biti's cho biết các sản phẩm giầy dép của Việt Nam xuất đi các nước đều có ghi "made in Vietnam" nhưng dòng chữ đó không tạo được ấn tượng với người tiêu dùng, bởi người tiêu dùng chỉ quan tâm đến tính cách nhãn hiệu mà họ yêu thích. Ông Thanh cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến người tiêu dùng EU không biết đến thương hiệu giầy dép Việt Nam là do các doanh nghiệp không chú trọng đến công tác xây dựng thương hiệu và chưa có chiến lược quảng bá mang tính quốc gia tại các thị trường nước ngoài. Thời gian qua, một vài doanh nghiệp giầy dép lớn ở Việt Nam đã bắt đầu dành kinh phí để phát triển thương hiệu. Tuy nhiên, những thương hiệu đó mới chỉ dừng lại ở thị trường trong nước.Trong những năm tới, cạnh tranh trên thị trường giầy dép quốc tế sẽ rất khốc liệt, doanh nghiệp Việt Nam muốn gia nhập sân chơi thương mại lớn phải xây dựng được thương hiệu cho mình. Mặt khác, phải xác định rằng, xây dựng thương hiệu không chỉ ngày một ngày hai, mà đó là một quá trình bài bản, lâu dài, tốn nhiều công sức và chi phí. Thậm chí, các doanh nghiệp có thể thuê tư vấn nước ngoài để cùng chia sẻ những thông tin và kinh nghiệm của họ... Ngoài ra, với những doanh nghiệp đã bước đầu tạo dựng được thương hiệu tại thị trường nội địa như Biti’s, Bita’s, Thượng Đình, An Lạc... và đã có được những danh tiếng từ thương hiệu của mình, cũng nên tiếp tục có kế hoạch mở rộng uy tín thương hiệu tại thị trường nước ngoài, bởi trong những năm tới, các quốc gia thuộc khu vực châu Á sẽ là điểm ngắm của các nhà nhập khẩu thế giới. Nếu các doanh nghiệp không nắm được thông tin và tận dụng mọi cơ hội để phát triển về mọi mặt, thì một ngày nào đó, nhắc đến các nhà xuất khẩu giầy dép với thương hiệu uy tín sẽ không thể thiếu vắng Việt Nam. CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GIẦY - DÉP CỦA CÔNG TY GIẦY THƯỢNG ĐÌNH 2.1 Tổng quan về công ty giầy Thượng Đình Tên công ty: Công ty Giầy Thượng Đình Tên tiếng Anh: Thượng Đình Footwear company Địa chỉ: 277 Km8-Nguyễn Trãi-Thanh Xuân-Hà nội Điện thoại: (84-4)8544312- 8541346 Fax: (84-4)8582063 Website: htpp:// w. w. w thuongdinhfootwear.com E-mail: tdfootwear@fpt.vn Tổng số diện tích sử dụng: 35000 m2 Giám đốc công ty: Ông Phạm Văn Hưng Loại hình doanh nghiệp: TNHH nhà nước một thành viên Ngành nghề: Giầy Lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất, kinh doanh XNK các mặt hàng giầy dép Thị trường xuất khẩu: EU(85%-90%), Mexico, Nhật Bản, Hàn Quốc Tài khoản: VND: 002-100-000-1796 USD: 002-137-002-0791 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của giầy thượng đình Trong nền công nghiệp da giầy Việt Nam thì công ty giầy Thượng Đình là một trong số doanh nghiệp ra đời sớm so với các doanh nghiệp cùng ngành khác. Từ khi hình thành cho đến nay công ty đã đựơc 51 năm (1957-2008) và đã trải qua 4 giai đoạn phát triển: * Giai đoạn: 1957-1960. Công ty đã được thành lập vào tháng 1 năm 1957 với tên gọi là Xí nghiệp 30, thời kì đó công ty chịu sự quản lý của cục quân nhu Tổng cục hậu cần-Quân đội Nhân Dân Việt Nam. Nhiệm vụ chính của xí nghiệp là sản xuất giầy và mũ cung cấp cho quân đội. Ngày 19-5 -1959 cục trưởng cục quân nhu Việt Nam đã cắt băng khánh thành phân xưởng sản xuất giầy vải mở đầu cho lịch sử sản xuất giầy vải nước ta. 1957-1958, với số lượng mũ mà xí nghiệp đã sản xuất đạt gần 5000 chiếc/năm và hơn 6000 chiếc vào năm 1960 và sản lượng giầy vải đạt trên 20000 đôi (1960). Mũ và giầy vải của xí nghiệp đã được giao thẳng cho Cục quân nhu,Tổng cục hậu cần để trang bị cho các đơn vị quân đội. Như vậy xí nghiệp đã góp phần vào mục tiêu xây dựng quân đội. Năm 1960, xí nghiệp được chính phủ trao tặng Huân chương chiến công hạng ba * Giai đoạn: 1961-1972. Tháng 6-1961 xí nghiệp 30 đã tiếp nhận một đơn vị công ty hợp danh sản xuất giầy dép là Liên xưởng thiết kế giầy vải ở Trần Phú và phố Kỳ Đồng (phố Tống Duy ngày nay) và đổi tên thành nhà máy cao su Thuỵ Khê Vào cuối năm 1970, nhà máy cao su đã sát nhập thêm công ty giầy vải Hà Nội cũ và đã được đổi tên là công ty giầy vải Hà Nội * Giai đoạn:1973-1989. Ngày 1-4-1973, phân xưởng mũ cứng của công ty tách thành công ty mũ Hà Nội ở phố Đội Cấn. Năm 1976, công ty đã giao phân xưởng may ở Khâm Thiên và giao 2 cơ sở sản xuất ở Văn Hương và Cát linh về xí nghiệp cao su Hà Nội Tháng 6-1978, công ty giầy vải Hà Nội hợp nhất với công ty vải Thượng Đình cũ thành công ty giầy vải Thượng Đình Tháng 4-1989, công ty đã tách cơ sở 152 Thuỵ Khê để thành lập công ty giầy Thuỵ Khê, sau khi tách ra công ty giày vải Thượng Đình chỉ còn 1700 CBCNV. Bộ phận mẫu và chế thử ngày đêm mài thiết kế những mẫu giầy mới và tiếp tục hoàn thành sự nghiệp của mình. * Giai đoạn: 1991 đến nay. Cuối năm 1991 đàu năm 1992, công ty đã vay ngân hàng Ngoại Thương để dầu tư sản xuất giầy cao cấp của Đài Loan và một số cán bộ của công ty đã đến đài Loan để tìm đối tác. Như vậy đây là cơ hội giúp công ty nhanh tiếp cận với môi trường kinh doanh không chỉ trong nước mà cùng với sự hiểu biết về thị trường quốc tế để nâng cao sức mạnh, vị trí của mình trên trường quốc tế. Tháng 9-1992, lần đầu tiên công ty đã đạt tiêu chuẩn quốc tế và được xuất khẩu sang thị trường Pháp, Đức. Ngày 8-7-1993, UBND Thành phố Hà Nội đã đồng ý cho công ty được phép mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh hoạt động chính là xuất khẩu và kinh doanh giầy mà công ty còn kinh doanh cả dịch vụ và du lịch. Với tất cả hoạt động của mình nên công ty đã lấy tên là công giầy Thượng Đình. Năm 2005, công ty giầy Thượng Đình đã lấy tên đầy đủ là: Công ty TNHH Nhà nứơc một thành viên Giầy Thượng._.oạn. Cũng theo quy hoạch, tổng vốn đầu tư ngành giầy dép giai đoạn 2006-2010 dự kiến là 9.153,50 tỷ đồng, trong đó đầu tư chiều sâu 1.844,20 tỷ đồng, đầu tư phát triển lĩnh vực thuộc da 604,0 tỷ đồng. Ngoài ra, dự kiến ngành còn thu hút 347,76 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức liên doanh, liên kết, thành lập công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu thông qua thị trường chứng khoán Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giầy dép Việt Nam thâm nhập vào thị trường 150 nước thành viên của tổ chức này. Đồng thời chúng ta sẽ được hưởng chính sách tối huệ quốc (MNF), đối xử quốc gia và như vậy sẽ thuận lợi hơn rất nhiều. Hiện nay, Việt Nam đứng thứ 2 sau Trung Quốc về xuẩt khẩu giầy dép sang EU và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU, kể từ ngày 6/10/2006 EU với mức thuế 10% còn những sản phẩm giầy dép khác không bị ảnh hưởng. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trương EU. Còn đối với thị trường Mỹ, đây cũng là thị trường lớn thứ 2 của Việt Nam với tốc độ nhập khẩu gia tăng mạnh trong thời gian qua đặc biệt là sau hiệp định song phương với Mỹ và sau khi Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế. - Thách thức: Bên cạnh những cơ hội trên, ngành giầy dép Việt Nam không tránh khỏi những thách thức. Hiện nay, ngành da giầy còn phải đương đầu với các sức ép lớn từ giá thị trường, hệ thống thông tin ngày càng phát triển, người tiêu dùng có nhiều cơ hội cập nhập những thông tin về nhu cầu thị trường, về mẫu mã, thiết kế, nhãn mác cũng như về giá cả của mặt hàng trên thị trường ngày càng dễ dàng hơn. Vì vậy, khi đi mua hàng người tiêu dùng trở nên khó tính hơn trước khi lực chọn mặt hàng phù hợp cho mình. Có thể khái quát những thách thức đó như sau: + Nguồn nguyên liệu đầu vào phải nhập khẩu từ nước ngoài. + Nhu cầu của người tiêu dùng cao về chất lượng, tính thời trang của sản phẩm, trong khi chúng ta còn yếu về mặt thiết kế mẫu vì vậy, hầu hết trong các doanh nghiệp sản xuất giầy lựa chọn phương thức gia công theo đơn đặt hàng, mua nguyên liệu bán thành phẩm, sản xuất theo giá FOB là chính. + Trình độ khoa học công nghệ chưa cao, còn phụ thuộc quá nhiều vào nước ngoài. Theo thống kê của Bộ khoa học công nghệ, thì phần lớn khoa học công nghệ được sử dụng trong ngành da giầy ở cấp hai, ba so với thế giới. + Chưa xây dựng được thương hiệu do năng lực còn hạn chế và chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các sản phẩm, mặc dù đạt được chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của thị trường nhưng phải xuất khẩu dưới thương hiệu của người khác. + Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt với các đối thủ cạnh tranh như: Trung Quốc, Indonexia…đặc biệt là Trung Quốc cũng là thành viên của WTO sẽ là thách thức mà chúng ta phải đương đầu và điều này không hề đơn giản chút nào bởi các sản phẩm của Trung Quốc có mẫu mã phong phú, đa dạng, có tính thời trang cao và giá rẻ 3.1.2 Mục tiêu xuất khẩu của công ty giầy Thượng Đình * Những thuận lợi Mục tiêu của công ty trong thời gian tới có những thuận lợi như sau: - Tập thể lãnh đạo cùng đội ngũ cán bộ trong công ty là những đội ngũ đã trưởng thành vững vàng, toàn thể công nhân viên trong công ty đoàn kết, thực hiện mục tiêu với tinh thần quyết tâm cao - Việc mở rộng sản xuất kinh doanh của công ty trong thời gian qua cho thấy hoạt động bước đầu có hiệu quả cao và tiếp tục tăng lên. - Uy tín của công ty đã và đang được duy trì ngày một phát triển thu hút được nhiều khách hàng xuất khẩu * Những khó khăn còn gặp phải - Thị trường xuất khẩu đang gặp phải nhiều đối thủ cạnh tranh - Giả cả cho từng đơn hàng xuất khẩu so với chi phí sản xuất - Những đơn hàng với số lượng nhỏ - Chủng loại và mẫu mã mới đóng gói còn nhiều phức tạp, làm cho chi phí lao động, năng suất lao động, tăng chi phí và tăng giá thành như vậy khó cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại - Nguyên liệu đầu vào tăng nhanh Mục tiêu của công ty trong thời gian tới Bảng 3.1: Dự kiến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2008 Các chỉ tiêu ĐVT Kế hoạch năm 2008 % KH 2008 / TH 2007 Giá trị SXCN Tỷ đồng 235.0 - 250.0 104.5 % - 111% Doanh thu Tỷ đồng 225.0 – 235.0 107% -112% Kim ngạch XK Tr. USD 10.2 -11.0 107% -116% Thu nhập doanh nghiệp Tỷ đồng 1.000 – 1.5000 125% - 188% Tổng sản phẩm Triệu đôi 5.300 -5.500 106% - 110% Giầy vải XK Triệu đôi 2.400 – 2.500 107% - 111% Giầy TT XK Triệu đôi 0.500 – 0.550 100% “ Nguồn : Phòng XNK” 3.1.2 Phương hướng phát triển xuất khẩu Giầy 3.1.2.1 Phương hướng xuất khẩu giầy của các doanh nghiệp Việt Nam tới năm 2010 Mục tiêu phát triển của ngành giầy dép là trở thành một ngành kinh tế quan trọng, phục vụ tiêu dùng bằng việc đạt tiêu chuẩn ISO 9000, quản lý môi trường đáp ứng ISO 14000 Để đạt được mục tiêu của ngành nói chung, trong thời gian tới đã đưa ra những định hướng sau Thứ nhất: Tập trung sản xuất nguyên vật liệu, hạn chế nhập khẩu từ nước ngoài. Như vậy, mới có hi vọng giảm giá thành sản phẩm tạo cạnh tranh trên thị trường được đồng thời, tăng cường thúc đẩy mạnh hoạt động cung ứng dịch vụ vật tư cho sản xuất. Quy hoạch ngành giầy dép khuyến khích mọi thành phần kinh tham gia đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành sản xuất và xuất khẩu, xây dựng các khu công nghiệp tập trung có đủ điều kiện về hạ tầng và xử lý môi trường Thứ hai: Đưa ra các chương trình xúc tiến thương mại, chiến lược sản phẩm vào hoạt động sản xuất các sản phẩm có giá trị cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trong xúc tiến thương mại cần chú tới các kênh phân phối, địa điểm phân phối…đồng thời chú ý tới việc thiết kế mẫu mã các loại giầy sao cho ngày càng đáp ứng với nhu cầu của thị trường. Thứ ba: Nâng cao hình ảnh, uy tín các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường bằng nhiều các hình thức khác nhau như: tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua bạn hàng truyền thống… để quảng bá thương hiệu của công ty Thứ tư: Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu các trung tâm thương mại ngành giầy – dép để giới thiệu và giao dịch về vật tư và sản phẩm cho ngành Thứ năm: Tăng cường đổi mới công nghệ trong từng khâu sản xuất sản phẩm như việc thiết kế mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc…nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, giá thành đồng thời thiết lập được nhiều mối quan hệ thông qua việc thực hiện: “ ĐÚNG, ĐỦ, KỊP” Thứ sáu: Đầu tư cho việc sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao mới dựa trên nguồn nguyên liệu đã có đặc biệt là các loại giầy có mũ.. với các trang thiết bị hiện đại, tiên tiến đảm bảo trong quá trình thực hiện sản xuất sản phẩm 3.1.2.2 Phương hướng phát triển xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình Đảm bảo công ăn việc làm ổn định và từng bước nâng cao đời sống của người lao động đồng thời nâng cao trình độ lao động cho cán bộ công nhân viên, trang bị thiết bị máy móc hiện đại cho họ đặc biệt các cán bộ phòng kỹ thuật thành lập thêm bộ phận thiết kế các loại mẫu. Phát triển công nghệ thông tin để ứng dụng phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh Từng bước giảm chi phí sản xuất và chi phí quản lý, tăng cường đầu tư nâng cấp các dây chuyền công nghệ hiện có của công ty Đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh. Bên cạnh các loại giầy chủ đạo như giầy vải và giầy thể thao công ty sẽ đưa vào sản xuất và kinh doanh sản phẩm giầy của mình là giầy da thời trang, đồng thời công ty sẽ kinh doanh các mặt hàng khác như hoá chất, các loại nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất giầy dép Vẫn duy trì thị truờng tiêu thụ trong nứơc, xuất khẩu sang các nước EU đông thời công ty mở rộng phát triển thị trường ra các nước khác trong khu vực như Đông Âu, các nước Asian và Nam Phi.Thực hiện tối ưu nhất tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào sản xuất và hoạt động quản lý công ty 3.2 Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giầy của công ty 3.2.1 Xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển sản phẩm xuất khẩu giầy của công ty Chiến lược này đề cập đến việc phát triển về các chủng loại sản phẩm mới để tung ra thị trường hiện tại cho các khách hàng hiện tại. Sản phẩm mà công ty sử dụng có thể là các sản phẩm riêng biệt hoặc tập hợp các sản phẩm của doanh nghiệp. Đối với loại sản phẩm riêng biệt doanh nghiệp có thể cải tiến tính năng của sản phẩm hay cải tiến chất lượng hay mẫu mã kiểu dáng Đối với việc phát triển tập hợp các sản phẩm doanh nghiệp bổ sung các sản phẩm mới ra thị trường Phương thức kinh doanh của công ty hiện nay chủ yếu là gia công theo đơn đặt hàng và mua đứt bán đoạn từ phía nước ngoài. Nguyên vật liệu cần thiết chủ yếu là nhập từ nước ngoài chính vì vậy hiệu quả của sản xuất kinh doanh không cao. Ngoài ra phải kể đến những chi phí nữa như: các dịch vụ điện nước, vận tải, các chi phí khác...gây khó khăn đối với việc kinh doanh của công ty, đó là việc thiết kế mẫu sao cho phù hợp với nhu cầu với thị trường. Đây là vấn đề cho đến nay công ty đã có nhiều cố gắng song vẫn chưa hiệu quả. Vì vậy muốn hoàn thiện chiến lược phát triển sản phẩm của công ty cần xây dựng phòng thiết kế mẫu giầy với đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao và được đào tạo một cách chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo. Với những mặt hàng như giầy da thời trang mặt hàng này đòi hỏi cao hơn giầy thể thao và giầy vải về kiểu dáng cũng như mầu sắc.Vì vậy, công ty cần chú trọng lựa chọn mặt hàng chiến lược trong việc tập trung đầu tư thiết kế, nghiên cứu chế thử mẫu để chế tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, trong việc chào hàng và tự mình tổ chức sản xuất. Đồng thời công ty phải xúc tiến đầu tư mới về các chủng loại mặt hàng đã có hoặc đang chể mới, chuyển từ gia công xuất khẩu sang sản xuất trực tiếp nhằm tăng tình chủ động trong sản xuất kinh doanh và chiếm lĩnh thị truờng Đẩy mạnh hoạt động Marketingvà xây dựng chiến lược Maketing thích hợp để phát triển thị trưòng Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện tại bán hàng ngày càng trở nên khó khăn hơn do khả năng cung ứng hàng hoá ra thị trường của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng và đòi hỏi chất lượng thoả mãn ngày càng cao cũng như mức độ cạnh tranh để giành lấy khách hàng ngày càng quyết liệt. Và bán hàng giống như một bước nhẩy nguy hiểm chết người cần phải được coi trọng đúng mức và thực hiện một cách khoa học. Như vậy, Marketing nói chung và Marketing trong hoạt động xuất khẩu nói riêng ngày càng đóng vai trò quan trọng. Với công ty Thượng Đình từ ngày thành lập cho đến nay chưa có bộ phận chuyên sâu về lĩnh vực này. Hoạt động này chỉ mới chỉ do phòng kinh doanh xuất nhập khẩu, phòng tiêu thụ nội địa cùng các ban giám đốc trực tiếp đảm nhận. Hoạt động Marketing của công ty chưa được thực hiện một cách có hệ thống, nó thực hiện một cách lồng ghép nên đạt hiệu quả không như mong muốn. Để việc kinh doanh trở nên thuận lợi hơn, công ty nên thành lập bộ phận Marketing chuyên sâu hơn với đội ngũ chuyên môn đảm nhận công việc này thay vì công việc đó chỉ thực hiện ở những phòng ban liên quan đến hoạt động bán hàng. Việc đầu tiên cần xây dựng chiến lược Marketing là phải nghiên cứu thị trường. Đây là công việc đặc biệt quan trọng khi bắt đầu vào các hoạt động tiếp theo như: xúc tiến vào thị trường cụ thể nào đó, củng cố thị trường nào và thúc đẩy sang thị trường nào, đăng kí nhãn hiệu cho mặt hàng xuất khẩu của mình…Phương pháp nghiên cứu thị trường quốc tế về cơ bản cũng giống như nghiên cứu thị trường chung nhất cho các ngành tuy nhiên với ngành giầy cần chú ý tới một số nội dung sau: có thể theo kế hoạch định trước hoặc không (chi phí thấp). Tuy nhiên, tiếp cận thị trường có kế hoạch từ trước vẫn đảm bảo thâm nhập chắc chắn, ổn định lâu dài lường trước được những dấu hiệu bất lợi. Vì việc chi phí tiếp cận thị trường theo phương pháp này rất cao nên công ty trong thời gian tới cần tập trung đầu tư hơn, đặc biệt trong môi trường hội nhập kinh doanh nhưng ngày nay thì nhất thiết phải nghiên cứu một cách chi tiết, cụ thể. Vì vậy, cần tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên Marketing có bài bản, năng động khả năng nắm bắt được thị trường tốt, nhạy bén với sự thay đổi của môi trường. Đồng thời đưa ra chính sách khen thưởng hợp lý nhằm khuyến khích đội ngũ thiết kế và toàn bộ công nhân viên có những ý tưởng hay. Thúc đẩy đầu tư phát triển các trang website để quảng bá thương hiệu cho công ty, tích cực tham gia vào các hoạt động hội chợ, triển lãm da giầy trong và ngoài nước đồng thời xây dựng các văn phòng đại diện hay các đại lí bán hàng của công ty đồng hành cùng các phái đoàn cùng ngành hoặc các Hiệp hội da giầy Việt Nam thúc đẩy hoạt động xuất khẩu từng bước hoàn thiện và phát triển 3.2.3 Nâng cao uy tín và thương hiệu doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu Uy tín của bất kì doanh nghiệp nào cũng không dễ dàng có được mà nó phải trải qua một quá trình lâu dài. Đó là sự vươn lên, nỗ lực không ngừng của các doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường xuấu khẩu, đây có thể coi là nhân tố đóng vai trò quan trọng vào sự thành công của công ty. Điều đó cũng dễ hiểu bởi một khi doanh nghiệp nào đó có uy tín, có danh tiếng cao hơn sẽ có được sự biết đến nhiều hơn, sẽ nhận được nhiều niềm tin và sự hợp tác kinh doanh của các bạn hàng trong cũng như ngoài nước. Uy tín của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó bao gồm nhiều nội dung như: Chất lượng sản phẩm, sự nổi tiếng về nhãn hiệu sản phẩm, phong cách giao dịch mua bán…Để tạo dựng được uy tín và hình ảnh về sản phẩm trên thị trường công ty phải xây dựng được niềm tin đối với khách hàng, người tiêu dùng bằng cách luôn sử dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đồng thời cố gắng thực hiện được tiêu chuẩn ISO 14000 và SA 8000. Mỗi doanh nghiệp đều kỳ vọng đạt được mục tiêu gây dựng thương hiệu hàng hoá nổi tiếng trên thị trường. Trong thời kì nền kinh tế mở như hiện nay, thì thương hiệu có thể nói là yếu tố rất quan trọng đối với một doanh nghiệp nếu muốn kinh doanh thành công trên thị trường quốc tế. Nếu như trước đây thương hiệu được hiểu một cách đơn giản chỉ là một phần của sản phẩm thì ngày nay quan niệm mới về sản phẩm đưa ra rằng thương hiệu chứa đựng trong có các yếu tố sản phẩm. Hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty là : gia công thành phẩm, xuất khẩu qua trung gian phân phối, mua đứt bán đoạn nên hầu hết sản phẩm xuất khẩu của công ty mang tên nhãn hiệu của người khác. Sản phẩm xuất khẩu mang thương hiệu giầy Thương Đình mới chỉ xuất khẩu sang Đông Âu và Nam Phi và như vậy còn rất nhiều hạn chế. Như vậy, để nâng cao thương hiệu Thượng Đình trong thời gian tới cần triển khai một số nội dung sau: Thứ nhất: Công ty cần đăng kí nhãn hiệu của mình tại các thị trường xuất khẩu, đặc biệt hai thị trưòng lớn như Mỹ và EU. Bởi vì, một nhãn hiệu hàng hoá được chấp nhận, được ưa thích và có uy tín, chiếm thị phần lớn trên thị trường mới có khả năng trở thành thương hiệu được. Nhãn hiệu này phải được đăng kí với các cơ quan chức năng về quyền sở hữu nhãn hiệu để bảo hộ. Đồng thời để có hiệu quả cao công ty cần cố gắng thiết kế sao cho đẹp mắt, ấn tượng, phù hợp với văn hoá nước xuất khẩu và có ý nghĩa thiết thực về các thông tin với người tiêu dùng Thứ hai: Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu trong công việc chiếm lĩnh thương hiệu và tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, làm cho hoạt động xuất khẩu trở nên dễ dàng và năng động hơn, đồng thời cùng với việc khuyếch trương nhằm kích thích người tiêu dùng mua sản phẩm của công ty. Vì vậy, công ty cần tăng cường hoạt động của mình thông qua việc tham gia vào các hoạt động như: hội chợ, triển lãm, hội nghị, hội thảo, giao lưu trong ngành da giầy quốc tế sử dụng triệt để thương mại điện tử để có thể trực tiếp giao dịch với khách hàng, để giảm thiểu số lượng sản phẩm xuất khẩu qua trung gian 3.2.4 Nâng cao năng lực thiết kế và cải tiến mẫu mã sản phẩm giầy của công ty Thiết kế mẫu mã sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng tồn tại trên thị trường của sản phẩm, đối với công ty giầy Thượng Đình thì đây là khâu yếu nhất của công ty. Hiện nay, mặc dù công ty cũng đã thành lập được phòng thiết kế và chế thử mẫu tuy nhiên, phần lớn hoạt động này không phải tự công ty thiết kế mà do đối tác yêu cầu làm theo mẫu có sẵn hoặc chỉnh sữa những mẫu đã có trước đây. Mặt khác, thiết kế phải dựa trên cơ sở mong muốn của khách hàng chứ không phải ý thích chủ quan của nhà sản xuất. Những thay đổi nhận thức của khách hàng trong quá trình sử dụng sản phẩm hay sự thay đổi về ngôn ngữ trên nhãn hiệu sản phẩm ảnh hưởng đến nhận thức của khách hàng. Như vậy, việc thiết kế mẫu mã của công ty vẫn còn rất nhiều hạn chế và đây cũng là lí do tại sao sản phẩm của công ty vần chưa thực sự thâm nhập sâu vào các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản…Để nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm, vị thế của mình trên thị trường thế giới công ty phải không ngừng nỗ lực khắc phục hạn chế này bằng một số những nội dung sau: - Tăng cường đầu tư nhiều điều kiện cơ sở vật chất cho phòng thiết kế, chế thử - Tuyển chọn các nhân viên chuyên môn năng động, hiểu biết, linh hoạt với thị trường và am hiểu kỹ thuật đồng thời đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ hiện có của công ty 3.3 Kiến nghị với nhà nước 3.3.1 Củng cố và xây dựng môi trường kinh doanh ổn định tạo điều kiện cho ngành da giầy nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng. - Củng cố và xây dựng môi trường pháp lý ổn định đồng nhất: hiện nay còn nhiều hạn chế trong các quy định và chính sách của nhà nước đối với ngành da giầy đặc biệt là mức thuế áp dụng. Nếu như thống nhất và đơn giản được các thủ tục hành chính sẽ là điều kiện tốt cho các công ty giầy dép Việt Nam có thể thực hiện và mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ trong mà còn ngoài khu vực. Đồng thời có thể đơn giản hoá các việc rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục đăng kí sản phẩm trước khi xuất khẩu. - Nhà nước cũng cần đưa ra một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu như: chính sách thuế, tín dụng xuất khẩu, trợ cấp… đặc biệt cần có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến cho ngành để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá. - Tích cực đẩy mạnh tiến trình hội nhập, tham gia vào các hoạt động kinh tế đối ngoại và các tổ chức kinh tế thế giới. Sự kiện Việt Nam tổ chức thương mai thế giới (WTO) 1/1/2007 là thành viên thứ 150 là cơ hội được hưởng những ưu đãi thuế quan tốt nhất thúc đẩy hoạt động xuất khẩu sang các thị trường mới. 3.3.2 Tập trung sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành giầy dép Theo thống kê cho thấy hiện nay, ngành giầy đang gặp phải khó khăn lớn trong việc cung cấp nguồn nguyên phụ liệu, có trên 70% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài vì vậy vừa thụ động trong sản xuất vừa tạo ra sản phẩm có giá thành cao và như vậy khó có thể cạnh tranh. Vấn đề đặt ra hiện nay cần tập trung, quy hoạch vùng cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành. Một số nguyên phụ liệu mà chúng ta có thể cung cấp hiện nay như: vải, chỉ may, cao su..đồng thời mở rộng thêm các nguồn nguyên liệu khác để phục vụ cho việc sản xuất các loại giầy mới. Tuy nhiên việc tập trung, quy hoạch đòi hỏi phải có nguồn tài chình lớn để đầu tư cơ sơ hạ tầng, công nghệ sản xuất vì vậy Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích về tài chính 3.3.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam. Hiệp hội Da - Giầy VN là tổ chức liên kết kinh tế - xã hội tự nguyện của các nhà SX - KD, nghiên cứu khoa học kỹ thuật và dịch vụ Da - Giầy thuộc mọi thành phần kinh tế đang hoạt động tại VN. Mục tiêu của Hiệp hội Da - Giầy VN là tổ chức các hoạt động liên kết kinh tế, phân công và phối hợp thực hiện giữa các DN hội viên trong lĩnh vực SX - KD, XNK, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm.... trong ngành Da - Giầy nhằm khai thác tối đa tiềm năng hiện có, nâng cao CLSP, hiệu quả kinh tế của các DN hội viên, tăng khả năng cạnh tranh của toàn ngành trên thị trường XK và có tiếng nói đại diện quyền lợi của các doanh nghiệp. Đồng thời, Hiệp hội Da - Giầy VN là đầu mối xúc tiến các mối quan hệ hợp tác Quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật - công nghệ đào tạo, cung cấp các thông tin chuyên ngành tới các DN hội viên và các DN khác trong ngành nhằm thúc đẩy sự phát triển của toàn ngành. Cho nên Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam cần phải có một đội ngũ cán bộ am hiều về ngành hàng, có kỹ năng phân tích thị trường, có khả năng sử dụng ngoại ngữ để đảm bảo thực hiện tốt vai trò của mình. Với vai trò quan trọng như vậy thì Hiệp hội Da - Giầy Việt Nam cần phải hoạt động tích cực hơn nữa trong việc hoạch định chiến lược phát triển ngành lâu dài và trong việc thành lập một trường chính quy để đào tạo các kỹ thuật viên, kỹ sư cho ngành da giầy đạt tiêu chuẩn quốc tế và đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức các đoàn khảo sát thị trường EU cũng như các thị trường khác Liên hệ với Hiệp hội Giầy - Dép EU để tổ chức các hội chợ, triển lãm giầy tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu giầy của các doanh nghiệp giầy Việt Nam và công ty giầy Thượng Đình sang thị trường EU. 3.4 Những điều kiện để thực hiện các giải pháp trên 3.4.1 Điều kiện về con người Quá trình sản xuất có hiệu quả hay không là do con người quyết định, trình độ của người lao động cao mới đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường đặt ra. Vì vậy, giải pháp về con người chính là việc nâng cao trình độ nguồn nhân lực bằng các cách như sau: - Thường xuyên mở các cuộc hội thảo tổng kết kinh nghiệm, báo cáo tổng kết kinh nghiệm để đánh giá kết quả thực hiện được về mặt đạt được và mặt chưa đạt được để từ đó có chương trình đào tạo, nâng cao chuyên môn cho người lao động.( Hiện nay Việt Nam có trường đại học Bách Khoa chuyên đào tạo các kĩ thuật nhưng kĩ sư trong ngành giầy thì chưa có vì vậy trong thời gian tới cần thành lập hệ đào tạo các lớp chuyên ngành về ngành giầy để nâng cao chất lượng đào tạo người lao động) - Quan tâm khích lệ tinh thần lao động của người lao động bằng việc khen thưởng. Công bằng trong việc lao động và phần thưởng hợp lí nhất đối với cống hiến của mỗi người. - Tuyển chọn những người có năng lực, có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao… để sắp xếp vào những vị trí quan trọng của công ty giầy Thượng Đình - Thường xuyên tạo động lực trong lao động sản xuất và trong kinh doanh 3.4.2 Điều kiện về tài chính Nếu như trước đây, công ty vẫn là doanh nghiệp Nhà Nước thì vốn ban đầu của công ty là do Nhà nước cấp, nhưng nay không còn trợ cấp nữa nên phải có hoạch định rõ ràng. Vì vậy, trong thời gian qua công ty luôn chủ động trong việc sản xuất kinh doanh, tự hoạch toán, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Vốn của công ty chủ yếu là vốn tự có tích luỹ từ lợi nhuận song để phục vụ cho quá trình sản xuất tốt hơn nói chung hoạt động xuất khẩu nói riêng cần huy động các nguồn vốn có thể có, trong và ngoài công ty bằng việc vay vốn ngân hàng, phát hành cổ phiếu, liên doanh liên kết, từ các đại lý, từ khách hàng…Đồng thời để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho công ty Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài và tăng cường các khoản tài trợ, cho vay dài hạn của các quốc gia nước ngoài. 3.4.3 Điều kiện về khoa học công nghệ - thông tin Đối với ngành Da - Giầy Việt Nam hiện nay, công nghệ sản xuất giầy chưa cao, phần lớn phải nhập khẩu máy móc từ nước ngoài. Đồng thời, chưa có trường đào tạo chuyên ngành về sản xuất giầy có thể đáp ứng nguồn lao động dồi dào cho sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất giầy nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng. Vì vậy, cần đề nghị với Nhà Nước mở các lớp đào tạo chuyên cho ngành giầy dép. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, thiết lập được các mối quan hệ với khách hàng nhanh chóng và thuận tiện, giảm giá thành để cạnh tranh thì công ty cần nâng cấp máy móc, thiết bị hiện đại. Thực trạng sử dụng máy móc của công ty trong thời gian qua đều được mua từ hơn mười năm về trước và chưa có sự thay đổi nhiều trong việc nâng cấp do vậy nhất thiết phải đầu tư bằng những nguồn vốn mà công ty huy động thêm 3.4.4 Điều kiện về việc nghiên cứu thị trường Đối với công ty, hoạt động nghiên cứu thị trường là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện hoạt động xuất khẩu. Để có thông tin về thị trường tốt, công ty cần có những phương pháp hợp lý, theo như hiện nay thì nghiên cứu tài liệu là nghiên cứu phổ biến nó vừa đỡ tốn kém mà phù hợp với khả năng của công ty. Tuy nhiên, độ tin cậy lại không cao vì vậy nghiên cứu tại hiện trường có thể khai thác được triệt để thông tin. Vậy những điều kiện nào có thể thực hiện được nghiên cứu đó cần: Thứ nhất: Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia về tính ổn định, mức độ tác động, sự can thiệp của chính phủ về các lĩnh vực như: Thị trường, mặt hàng… Thứ hai: Dự báo sự biến động của thị trường xác định xem các tiềm năng có thể có về mặt hàng dự định cần xúc tiến vào thị trường nào đó, thăm dò những thông tin phản hồi từ khách hàng, bạn hàng… Xác định nhu cầu của thị trường một cách càng cụ thể, chi tiết bao nhiều càng thuận lợi bấy nhiêu về kiểu dáng, mẫu mã, mẫu sắc, tieu chuẩn chất lượng, phương thức xuất khẩu. Đồng thời cũng linh hoạt thay đổi theo sự biến động của thị trường Xác định được đối thủ cạnh tranh trên thị trường: số lượng bao nhiêu, mức độ cạnh tranh như thế nào..để từ đó đánh giá được mặt mạnh, mặt yếu của đối thủ, của công ty và đưa ra chiến lược cạnh tranh ra sao, nghiên cứu kênh bán hàng như thế nào, sử dụng xúc tiến theo hướng nào… Nghiên cứu các chính sách xuất khẩu ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của công ty: tình hình kinh tế thế giới và sự vận động của chúng, tính chất thời vụ trong sản xuất sản phẩm, kênh phân phối và lưu thông hàng hóa , sự tiến bộ của khoa học công nghệ, tập quán tiêu dùng và khả năng thay thế của các sản phẩm hiện tại. 3.4.5 Điều kiện về việc xúc tiến xuất khẩu Hoạt động xúc tiến thương mại là hoạt động đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Hiện nay, ở Việt Nam đã thành lập được Cục xúc tiến thương mại và đây chính là cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Thông tin về tình hình xuất khẩu là đặc biệt quan trọng. Vì vậy, công ty tập trung vào quảng cáo bằng cách: mạnh dạn đầu tư quảng cáo trên các phương tiện đại chúng không chỉ trong nước mà cả trong và ngoài khu vực. Trong dịp có nhu cầu cao về tiêu thụ sản phẩm quốc tế công ty chủ động giới thiệu sản phẩm của mình, tham gia vào các hội chợ, triển lãm quốc tế có tính thời trang nhất. KẾT LUẬN Hoà chung vào xu thế hội nhập kinh tế thế giới đã và đang diễn ra mãnh mẽ hơn bao giờ hết điều đó cũng đồng nghĩa với việc phải cạnh tranh càng trở nên khốc liệt hơn. Để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường ấy, bản thân mỗi doanh nghiệp phải không ngừng nỗ lực vươn lên để khẳng định vị trí của mình. Trong môi trường quốc tế để có được vị trí nhất định nào đó thì thực sự là một điều không đơn giản chút nào. Ngành Da - Giầy Việt Nam nói chung và công ty giầy Thượng Đình nói riêng trong thời gian qua đã có những bước tiến nhất định trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Tốc độ kim ngạch xuất khẩu của công ty trong thời gian qua đã cho thấy xu hướng thâm nhập vào thị trường quốc tế đang từng bước đẩy mạnh và phát triển. Nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới công ty là cần nhanh chóng triển khai các giải pháp nhằm từng bước đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm giầy dép các loại với chất lượng sản phẩm cao, giá cả phù hợp với từng loại giầy, mẫu mã phong phú, kiểu dáng hợp với xu thế thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước đồng thời tìm nguồn cung ứng đầu vào ổn định, hệ thống phân phối rộng khắp. Mở rộng hệ thống thông tin, quảng bá thương hiệu tới nhanh người tiêu dùng. Đồng thời cần tiến hành phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ tốt đáp ứng với quản lý cũng như trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thời gian thực tập tại công ty, do thời gian thực tập không dài và còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm cũng như thực tế nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo trong trường đại học Kinh tế Quốc Dân đặc biệt các thầy cô trong khoa Thương Mại cùng toàn thể các cô (chú) trong công ty giầy Thượng Đình để bài viết của em có giá trị lí luận đồng thời có thể áp dụng trong thực tiễn Em xin chân thành cảm ơn tới thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường và các cô (chú) trong phòng xuất nhập khẩu của công ty đã rất nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em xin cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế thương mại Giáo trình Marketing thương mại Giáo trình kinh doanh xuất nhập khẩu Giáo trình kinh doanh thương mại quốc tế Giáo trình chiến lược kinh doanh Trang Web: www.economy.vn www.isp.gov.vn www.moi.gov.vn www.legaso.org www.laocai.gov.vn 7.Báo cáo sản xuất kinh doanh của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Hình 1.1: Quy trình đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu của công ty giầy Thượng Đình 19 Hình 2.1: Quy trình sản xuất giầy 48 Hình 2.2: Quy trình sản xuất giầy vải 49 Hình 2.3: Quy trình sản xuất giầy thể thao 50 Bảng 2.1: Tình hình sử dụng tài sản và nguồn vốn của công ty giầy Thượng Đình 4 năm (2004-2007) 46 Bảng 2.2: Danh mục một số trang thiết bị sản xuất chính của công ty 47 Bảng 2.3: Tình hình sử dụng nguyên vật liệu chung của 50 công ty 3 năm gần đây(2005-2007) 50 Bảng 2.4: Bảng tổng hợp về lao động của công ty 4 năm(2004-2007) 51 Bảng 2.5: Sản lượng xuất khẩu giầy thể thao theo cơ cấu thị trường 2004 - 2006 55 Bảng 2.6: Sản lượng xuất khẩu giầy vải theo cơ cấu thị trường 2004 – 2007 57 Bảng 2.7: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo khu vực thị trường của công ty 2004 - 2007 58 Bảng 2.8: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty giầy Thượng Đình vào thị trường EU 2004 - 2007 59 Bảng 2.9: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy công ty vào thị trường Châu Mỹ 2004 - 2007 61 Bảng 2.10: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy của công ty vào trường Châu Á, Châu Úc, Châu Phi 2004 – 2007 62 Bảng 3.1: Dự kiến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty năm 2008 72 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11551.doc