Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc đối với các Doanh nghiệp Việt Nam

Lời mở đầu Dệt may là một trong những ngành sản xuất vật chất có truyền thống lâu đời. Từ xa xưa ông cha ta đã biết trồng dâu nuôi tằm để ươm tơ dệt lụa. Con người Việt Nam lại thông minh, sáng tạo, với đôi bàn tay khéo léo đã tạo ra những sản phẩm dệt may đậm đà bản sắc dân tộc. Là hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, hàng năm ngành dệt may có những đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách đặc biệt là nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu. Ngày nay ngành may mặc đang có xu hướng chuyển dịch từ các nước c

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc đối với các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển, đặc biệt là Châu á có nhân công rẻ. Khối lượng hàng may mặc mà các nước phát triển nhập khẩu từ các nước Châu á đang tăng lên rõ rệt trong thời gian gần đây. Việt Nam lại nằm trong khu vực có kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới, đồng thời có nhiều ưu thế về nguồn nhân công, về vị trí địa lý có thể phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may mặc. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc đối với các doanh nghiệp Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhất là đối với một công ty có kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc tương đối lớn như Công ty TEXTACO. Đó chính là lý do khiến em chọn đề tài này cho bài viết của mình. Tuy vậy, do còn nhiều hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, về nguồn số liệu, về thời gian thực hiện nên có thể có một vài thiếu sót. Em chân thành cám ơn sự giúp đỡ, góp ý của thầy giáo và các cô chú, anh chị công ty TEXTACO đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Chương I Lý luận chung về sản xuất kinh doanh của xí nghiệp trong nền kinh tế thông thường 1. Lý luận chung về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Trên thị trường thế giới những giao dịch ngoại thức (tức những hoạt động sản xuất nhâph khẩu) được tiến hành theo những cách thức nhất định những cách thức mua bán như vậy quy định thủ tục tiến hành, điều kiện giao dịch, thao tác và chứng từ cần thiết của quan hệ giao dịch. Người ta gọi những cách thức đó là những phương thức giao dịch mua bán. Mỗi phương thức đó có đặc điểm riêng, có những kỹ thuật tiến hành riêng. 1.1. Buôn bán thông thường. Những phương thức buôn bán phổ biến nhất, thường thấy nhất được gọi là phương thức buôn bán thông thường. Nó giống như chúng ta vẫn gặp ở trong nước, nó có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trên cơ sở tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hoạt động mua bán theo phương thức này vẫn khác với các hoạt động nội thương ở tính quốc tế của nó. Từ đó nó thể hiện ở chỗ. Bên mua và bán là những người có trụ sở kinh doanh ở những nước khác nhau; Đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc cả hai bên. Hàng hoá/đối tượng của giao dịch được chuyển khỏi biên giới của một nước. Buôn bán thông thường có thể trực tiếp giữa người mua với người bán, cũng có thể là buôn bán thông qua thương nhân trung gian. 1.2. Buôn bán thông thường trực tiếp. Trong buôn bán thông thường, bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua. Để tiến hành ký kết hợp đồng mua bán với nhau, bên bán (tức là bên xuất khẩu) và bên mua (bên nhập khẩu); thường phải qua một quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện giao dịch. Trong buôn bán quốc tế, những bước giao dịch chủ yếu diễn ra gồm các bước như sau: - Hỏi giá. - Phát giá. Chào hàng cố định. Chào hàng tự do. - Đặt hàng. Là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. - Hoàn giá. - Chấp nhận. Chấp nhận là sự đồng ý hoàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng mà phía bên kia đưa ra khi đó hợp đồng được thành lập. - Xác nhận, hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận về điều kiện giao dịch. 1.3. Giao dịch qua trung gian. Nếu giao dịch thông thường người bán tìm đến người mua, người mua tìm đến người bán và họ trực tiếp thoả thuận các điều kiện mua bán, thì trong giao dịch qua trung gian, mọi người kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua một người thứ 3. Người thứ ba này được gọi là trung gian buôn bán. Người trung gian buôn bán phổ biến nhất trên thị trường là đại lý và môi giới. - Đại lý. Phân loại: Đại lý toàn quyền, tổng đại lý, đại lý đặc biệt, đại lý thụ uỷ, đại lý hoa hồng, đại lý kinh tiêu , Pactơ, đại lý gửi bán, đại lý đảm bảo thanh toán, đại lý độc quyền. - Môi giới là lượi thương nhân trung gian giữa người mua và người bán được người bán và người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá dịch vụ. 1.4. Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá. Trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua lượng hàng giao dịch có giá trị tương xứng. ậ đây mục đích xuất khẩu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. - Yêu cầu cân bằng. Trong buôn bán đối lưu người ta luôn chú trọng đến yêu cầu cân bằng. Dó là yêu cầu phải được cân đối giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên, yêu cầu cân bằng đó thể hiện ở chỗ. + Cân bằng về mặt hàng. + Cân bằng về giá cả. + Cân bằng về tổng giá trị giao dịch cho nhau. * Phân loại bao gồm + Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra gần như đồng thời. Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng cổ điển. Đồng tiền không được dùng để thanh toán mà chỉ có hai bên tham gia. + Trong nghiệp vụ bù trừ hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi giá trị hàng hoá giao và hàng hoá nhận đến cuối kỳ hạn, hai bên mới được đối chiếu sổ sách. So sánh giữa giá trị giữa hàng giao với hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng như thế, mà còn số dư thì só tiền đó đựoc giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ về những khoản chi tiêu của bên nợ tại nước bị nợ. * Phân loại: + Bù trừ toàn phần. + Bù trừ một phần + Bù trừ bằng tài khoản bảo chứng. - Trong nghiệp vụ buôn bán có thanh toán bình hành hai chủ thể quan hệ buôn bán thoả thuận chỉ định ngân hàng thanh toán. Ngân hàng này mở tài khoản, gọi là tải khoản (clearing). - Trong nghiệp vụ buôn bán đối lưu một bên giao thiết bị cho khách hàng của mình, để đổi lại, mua sản phẩm của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm nguyên vật liệu . - Trong nghiệp vụ chuyển nợ bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho bên thứ ba để bên thứ ba lại trả tiền. - Trong giao dịch bồi hoàn người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ. 1.5. Gia công quốc tế và giao dịch . * Khái niệm: Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành da thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy trong gia côngg quốc tế hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất. - Các hình thức gia công quốc tế. + Xét về quyền sở hữu nguyên vật liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành dưới các hình thức sau đây: Bên đặt gia công giao nguyên liệu và bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau một thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong hợp đồng này thời gian chế tạo quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công. Bên đặt gia công bán đứt nguyên vật liệu cho bên nhận gia công và sau một thời gian sản xuất chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công. Ngoài ra người ta còn có thể áp dụng mô hình thức kết hợp, trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên liệu chính, còn bên nhận gia công cung cấp nguyên liệu phụ. Xét về mặt giá cả gia công, người ta có thể chia việc gia công thành hai hình thức sau: Hợp đồng thực chi thực thanh trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công. Hợp đồng khoán, trong đó người ta xác định giá định mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa, hai bên vẫn thanh toán với nhau theo định mức đó. Xét về số bên tham gia gia công quan hệ gia công ta có hai loại gia công sau đây: + Gia công hai bên, trong đó chỉ có bên đặt gia công và bên nhận gia công. + Gia công nhiều bên còn được gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên nhận gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công cuả đơn vị sau. Còn bên đặt gia công vẫn chỉ là một người. * Hợp đồng gia công. Mối quan hệ giữa bên đặt gia công với bên nhận gia công được xác định trong hợp đồng gia công, trong hợp đồng gia công, những vấn đề sau đựoc quy định một cách cụ thể: Thành phẩm, nguyên vật liệu,giá cả gia công,nghiệm thu,thanh toán,giao hàng. 1.1. Vai trò của ngành may mặc ở Việt Nam May mặc là hoạt động gắn liền với đời sống con người trong mọi thời đại. Do vậy, có thể nói, may mặc đã xuất hiện ở Việt Nam từ hàng nghìn năm nay. Trải qua các thăng trầm lịch sử, kỹ thuật dệt, may của cha ông ta không ngừng hoàn thiện với những sản phẩm giá trị cao có thể sánh ngang với các quốc gia giàu truyền thống khác như Trung Quốc, ấn Độ, Triều Tiên, để lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu và niềm tự hào lịch sử. Ngay từ khi ra đời, ngành may mặc hay nói đúng hơn là sản phẩm của ngành đã giữ một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi trong bốn nhu cầu cơ bản nhất của con người là ăn - mặc - ở - đi lại thì nó đứng ở vị trí thứ hai, như thế cũng đã thấy rõ vai trò không thể thiếu được của ngành. Hơn nữa, nhu cầu của đời sống hiện đại không chỉ dừng lại ở đủ mặc, mà còn phải mặc đẹp. Chính ở đây, ngành may mặc đã góp phần làm đẹp cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Cái “đẹp” mà ngành may mặc đóng góp còn thông qua giá trị kinh tế lớn bổ sung vào ngân sách hàng năm để nâng cao đời sống xã hội về nhiều mặt. Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của ngành liên tục tăng và đứng trong nhóm những sản phẩm xuất khẩu có đóng góp ngoại tệ lớn nhất. Riêng năm 1998, toàn ngành mang về cho Nhà nước khoảng 1,3 tỷ USD (1) Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 6/8/1998 Với đặc trưng cần nhiều lao động, lại không phải đào tạo công phu, ngành may mặc đã giúp giải quyết đáng kể nhu cầu công ăn việc làm cho xã hội, đặc biệt là lao động nữ, ổn định đời sống nhân dân, góp phần ngăn chặn các hậu quả do nạn thất nghiệp gây ra. Điều này rất phù hợp đối với hoàn cảnh đất nước ta - một đất nước có nguồn lao động dồi dào, cần cù và sáng tạo. Là một ngành xuất khẩu mũi nhọn, có mặt tại hơn 50 nước trên thế giới, chiếm gần 15% kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong suốt mấy năm gần đây, ngành may mặc không chỉ giữ vị trí nhất định trong quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà đối với chiến lược mở cửa kinh tế, hoà nhập vào khu vực và quốc tế, ngành cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày càng sâu sắc giữa kinh tế Việt Nam và thế giới. 2.1. Kết quả sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu sản phẩm may mặc tại Việt Nam Giữ một vị trí không thể thiếu được trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước như đã nêu ở trên, ngành may mặc được Đảng, Nhà nước quan tâm xây dựng, trở thành một ngành công nghiệp lớn, phát triển sâu rộng trong cả nước và thu được những thành tựu đáng mừng. Đặc biệt, sau 5 năm thực hiện Hiệp định buôn bán hàng may mặc giữa Việt Nam và EU được ký tắt tại Brussels (Vương quốc Bỉ - 1993) đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc cả về số lượng, chất lượng và thị trường của sản phẩm may mặc “Made in Vietnam” trên thị trường thế giới. Quần áo may sẵn của Việt Nam gồm nhiều chủng loại hàng khác nhau từ sơ mi nam, nữ, jacket, áo khoác nam, nữ đến quần áo trẻ em,... đã khẳng định chỗ đứng của mình trên nhiều thị trường khó tính như Pari, London, Amsterdam, Berlin, Tokyo,... Và đầu năm nay, chúng ta đã ký Hiệp định dệt may giữa Việt Nam và EU cho giai đoạn 1999 - 2001 với mức tăng về trị giá khoảng 40% so với Hiệp định cũ đã được điều chỉnh tăng 25% tháng 8/1985. Nếu so với mức hạn ngạch năm đầu Hiệp định 1993 thì hạn ngạch năm 1999 tăng khoảng 80%. Nếu xét về trị giá xuất khẩu 1993, Việt Nam mới xuất khẩu sang EU 245 triệu USD và dự kiến năm 1999 Việt Nam sẽ xuất khẩu sang EU khoảng 650 triệu USD (bằng 265,3%) (2) Tạp chí Thương mại số 1 năm 1998 . Chỉ trong 8 tháng đầu năm kim ngạch dệt may đi EU đạt 480 triệu USD tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm ngoái (3) Báo Đầu tư số 74 ngày 14/9/1998 ; với mặt hàng chính là áo Jacket và áo sơ mi nam đã đạt sản lượng tương đương cả năm 1998, riêng áo Jacket đã xuất 10,5 triệu chiếc, sơ mi nam 6,5 triệu chiếc (4) Thời báo Kinh tế Sài gòn số 35/98 ngày 27/8/1998 . Biểu đồ 1: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc qua các năm 1994 - 8/2001 Đơn vị: Triệu USD (Nguồn: Báo cáo của Viện nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại) Đồng thời với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc đi EU, chúng ta còn xuất khẩu đi các thị trường khác như Canada, Nauy, Nhật Bản, Mêhicô, Đài Loan, Hàn Quốc,... Nếu năm 1994 kim ngạch xuất khẩu mới đạt 450 triệu USD thì năm 1998 đạt 4,15 tỷ USD (tăng hơn 7 lần). Rõ ràng con số này nói lên sự lớn mạnh vượt bậc của ngành may xuất khẩu Việt Nam, nó càng chứng tỏ tính đúng đắn trong việc mạnh dạn xây dựng ngành may xuất khẩu thành ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Từ một ngành hàng xuất khẩu không có tên tuổi trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, thậm chí còn báo hiệu suy sụp vào cuối năm 1992 thì đến năm 1996, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc đã đứng thứ hai trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm 1999, với 330 cơ sở sản xuất dệt và 600 cơ sở may, sẽ báo hiệu một năm hứa hẹn đối với ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam với dự kiến kim ngạch khoảng 1,5 tỷ USD (5) Báo Thương mại số 1 năm 1998 . Tuy nhiên, hết quí I năm 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc thấp 250 triệu USD, trong khi năm 1998 kim ngạch cả năm đạt 1,3 tỷ USD. Ngoài ra, hệ thống các công ty, xí nghiệp quốc doanh từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành đáng kể. Nhiều doanh nghiệp sau 5 năm, doanh số xuất khẩu tăng gấp 3-5 lần so với năm 1992. Năm 1998 đã có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu và đến giữa năm 1999 có khoảng 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp, công nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề cũng đạt tiêu chuẩn quốc tế. 3. Cơ cấu thị trường và hàng hoá xuất nhập khẩu trong thời gian qua Từ năm 1994, sau một thời gian dài chỉ xuất khẩu sang các thị trường truyền thống, công tác thị trường đã được chú trọng, tăng cường quan hệ buôn bán với gần 50 nước và khu vực. Đến nay, chúng ta đã mở rộng được địa bàn kinh doanh, tăng hạn ngạch hàng may mặc vào thị trường EU, Nhật Bản, Đài Loan, giá trị xuất nhập với Liên Xô (cũ) được phục hồi, hướng buôn bán mới với Trung Cận Đông bắt đầu mở ra nhiều triển vọng và trong tương lai không xa Mỹ sẽ là thị trường mới lý tưởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc. * Thị trường EU. Việt Nam là nước thứ 51 tham gia vào thị trường EU. Thị trường EU với số dân khoảng 360 triệu người là nơi tiêu thụ khối lượng lớn và đa dạng các loại sản phẩm may mặc. Cũng cần phải khẳng định rằng EU là một thị trường có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm. Không những thế, đây cũng là khu vực có kỹ thuật sản xuất vào loại tiên tiến nhất hiện nay. Tuy nhiên, do giá nhân công ở khu vực này ngày càng cao và các nguyên nhân khác khiến cho giá thành sản xuất trong nội bộ EU lên cao nên các nước thành viên EU tăng cường nhập khẩu dưới hình thức thuê gia công tại nước ngoài để thoả mãn nhu cầu trong nước. Chính vì những đặc điểm đó của thị trường EU mà đã lôi cuốn các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Việt Nam cố gắng tìm chỗ đứng trong thị trường này. Trước năm 1992, chúng ta đã xuất khẩu một số chủng loại mặt hàng vào EU (khi đó là Cộng đồng Châu Âu - EC) mặc dù mới chỉ là quan hệ mậu dịch song phương và kim ngạch rất nhỏ bé. Đến năm 1992, việc ký Hiệp định về hàng may mặc giữa Chính phủ Việt Nam và EU đã mở ra một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ kinh tế nói chung và của ngành may mặc nói riêng. Đặc biệt, Hiệp định dành cho Việt Nam 13 mặt hàng để gia công theo phương thức gia công thuần tuý (Trafic de Perfectionnement Passif - TPP) có nghĩa là nguyên liệu được gửi từ các nước thành viên EU để gia công tại Việt Nam rồi nhập lại sản phẩm vào EU. Ngay từ năm đầu tiên thực hiện Hiệp định, dù gặp phải không ít khó khăn nhưng 93 doanh nghiệp của ta đã xuất khẩu được 55 chủng loại mặt hàng với khối lượng tổng cộng 13.000 tấn. Đến năm 1996, 1997, số doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch và số doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu đã tăng lên đến 380 và 260 đơn vị, đưa tổng lượng hạn ngạch đã thực hiện theo Hiệp định lên đến 325 và 395 triệu đơn vị. Đến năm 1997 tình hình thực hiện hạn ngạch may mặc với EU đạt 395 triệu USD (6) Báo cáo của Tổng công ty dệt, may Việt Nam về tình hình thực hiện hạn ngạch giai đoạn 1992 - 1996 . Và gần đây, việc ký thêm Hiệp định về hàng may mặc cho năm 1999-2001 giữa Việt Nam và EU đã mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội thâm nhập sâu hơn nữa vào thị trường này. Vấn đề còn lại là toàn ngành may mặc Việt Nam có thể huy động khả năng của mình nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo dựng uy tín cao, giữ vững và mở rộng thị phần ở EU. Thị trường Nhật Bản Khoảng một thập kỷ nay, ngành may mặc Nhật Bản luôn rơi vào tình trạng nhập siêu, bởi nước này cũng nằm trong sự chuyển dịch sản xuất lớn từ các nước có ngành công nghiệp dệt tiên tiến sang các nước Châu á đang phát triển để tận dụng lợi thế nhân công rẻ, dồi dào, sau đó lại nhập khẩu sản phẩm giá thành hạ của mình trở về nước làm cho hàng loạt các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ phải đóng cửa vì không thể cạnh tranh, do đó phải tăng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu trong nước. Đây cũng là thị trường lớn, khắt khe về chất lượng và cạnh tranh gay gắt. Nhưng với lợi thế nguồn lao động rẻ, dồi dào, tay nghề cao nên xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Nhật có xu hướng phát triển không ngừng trong những năm vừa qua. Bắt đầu từ năm 1989, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Nhật đã tăng vọt 425% về số lượng và 212% về kim ngạch. Nếu như năm 1988, Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang Nhật đạt 200 nghìn đơn vị hàng may mặc với trị giá 1,44 triệu USD (đứng thứ 22 về số lượng và thứ 29 về kim ngạch), thì đến năm 1996 những con số này đã lên tới 56 triệu đơn vị và trị giá 367 triệu USD (đứng ở vị trí thứ bẩy cả về số lượng và kim ngạch, với thị phần ngang với các nước lân cận như Inđônêxia, Philippine, Đài Loan, Thailand,...). Và đến năm 1998, xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Nhật Bản lên tới 80,71 triệu đơn vị đạt trị giá 500 triệu USD, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 3 về số lượng trong số các nước xuất khẩu mặt hàng này sang Nhật, sau Trung Quốc và Hàn Quốc, đứng thứ 5 về kim ngạch sau Trung Quốc, Italia, Hàn Quốc và Mỹ. Thị phần của hàng may mặc Việt Nam chiếm 2,4% về số lượng và 3% về kim ngạch (7) Nguồn Báo Thị trường số ra ngày 16/8/1998 . Trong 5 tháng đầu năm 1999, xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Nhật Bản đạt 102,1% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên trong bối cảnh tình hình kinh tế kéo dài do khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản kéo theo đồng yên giảm giá, sức mua của Nhật Bản giảm xuống, dự đoán kim ngạch nhập khẩu hàng may mặc của Nhật Bản có thể giảm 10% trong năm 1999. Đó là một khó khăn cho quá trình đẩy mạnh xuất khẩu sang Nhật Bản của ngành may mặc Việt Nam. Thị trường Liên Xô (cũ) và Đông Âu Quy mô tiêu dùng lớn, yêu cầu không cao về chất lượng và quen thuộc - đó là đặc điểm nổi bật rất thuận lợi cho sản phẩm của chúng ta khi xâm nhập vào thị trường này. Với số dân 300 triệu người, thị trường Liên Xô (cũ) và Đông Âu là thị trường lớn thứ hai trên thế giới hiện nay. Trước kia, thị trường này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam, khoảng 80%, đặc biệt năm 1987 chiếm trên 90%. Đây cũng là một thuận lợi cho các doanh nghiệp của ta khi thâm nhập trở lại không bị bỡ ngỡ như vào các thị trường mới. Nhưng từ sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu, việc xuất khẩu hàng may mặc của ta vào thị trường này bị gián đoạn. Nhưng bắt đầu từ giờ trở đi, kim ngạch xuất khẩu của ta vào thị trường này sẽ dần dần được khôi phục. Bởi dù sao, đây cũng là một thị trường tiêu thụ sản phẩm khối lượng lớn, lại không đòi hỏi quá chặt chẽ về chất lượng. Trong khi chưa có điều kiện đầu tư thiết bị hiện đại, chúng ta phải hết sức tranh thủ đặc điểm này để tăng giá trị xuất khẩu, tích luỹ năng lực, tạo điểm tựa vững chắc cho các giai đoạn sau, đồng thời phải không ngừng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, bảo đảm cho sự tồn tại của chính mình. Riêng thị trường Nga tình hình dần ổn định, sức mua ngày càng tăng nhưng hàng của Việt Nam vẫn không cạnh tranh được do giá cả còn cao, sản phẩm còn chưa hấp dẫn, phương thức thanh toán chưa thích ứng. Thị trường Mỹ Thị trường Mỹ với số dân gần 300 triệu người, chủ yếu sống ở thành thị đang là một thị trường mới mẻ nhưng không kém phần hấp dẫn đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc của ta. Mỗi người dân ở đây hàng năm tiêu dùng tới 27 kg hàng dệt may nhập khẩu. Thị trường này được xếp vào danh mục thị trường đầy tiềm năng với mức tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới 95 tỷ USD mỗi năm, nhập khẩu chiếm khoảng 48% trong đó 60% là từ Châu á nhưng Việt Nam lại chưa khai thác được (8) Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam số 35 ngày 2/5/1998 . Các mặt hàng như T-Shirt, Polo - Shirt, Sweat Shirt 100% bông, áo sơ mi thường phục dạng nỉ kẻ, sóc, quần áo thể thao, áo len, quần vải chéo 100% bông mài cát hoặc hoá chất, hàng jean không yêu cầu chất lượng quá cao mà phải đảm bảo tiêu chuẩn ghi trong hợp đồng, chú ý khâu an toàn tiêu dùng và phù hợp với môi trường. Tuy nhiên, tìm được một chỗ đứng vững chắc trong thị trường này không phải dễ dàng bởi thông tin về thị trường này còn đang rất thiếu, không chính xác, kịp thời mà doanh nghiệp lại không có điều kiện thường xuyên tiếp cận thị trường thực tế; mặt khác, việc phía Mỹ không cấp tín dụng xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp kinh doanh với Việt Nam đã hạn chế rất lớn đến khả năng trao đổi thương mại giữa hai nước. Trở ngại lớn nhất hiện nay đối với hàng dệt may của ta vẫn là do chưa có quy chế tối huệ quốc (MFN) nên hàng nhập khẩu vào Mỹ phải chịu thuế cao, không cạnh tranh nổi với hàng các nước khác. Nhưng từ khi Mỹ xoá bỏ cấm vận thương mại với Việt Nam (2/1994), cấm vận viện trợ (8/1994), quan hệ kinh tế nói chung giữa ta và Mỹ cũng đã thu được những kết quả ban đầu. Vấn đề hiện tại đặt ra cho chúng ta là phải cố gắng hết sức xây dựng được lòng tin, uy tín và không ngừng đầu tư trang thiết bị hiện đại để có thể đáp ứng yêu cầu của một thị trường khắt khe như thị trường Mỹ. Chương II:Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 1. Giới thiệu chung về xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung Tiền thân của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là xí nghiệp may nội thương, trực thuộc Tổng Công ty vải sợi may mặc – Bộ thương mại. Tài sản ban đầu của xí nghiệp là một dẫy nhà cấp 4 làm văn phòng quản lý, 1 nhà xưởng, 5 nhà kho trên tổng diện tích 10.000m2 với tổng số cán bộ công nhân viên là 220 người. Ngày 5/11/1988, Hội đồng Bộ trưởng ký quyết định 215/HĐBT giao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp. Ngày 15/10/1989, Bộ Thương mại có quyết định 450/QĐTM đổi tên xí nghiệp may Nội thương thành xí nghiệp may xuất khẩu, nay là xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung. Trước đây, xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán phụ thuộc, thuộc Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc, trụ sở chính đóng tại só 2A Lạc Trung – HBT – Hà Nội. Tổng số vốn của Công ty hiện nay là 6.178.286.000đồng. Xí nghiệp có 3 phân xưởng cắt may hoàn chỉnh, 1 phân xưởng phù trợ vốn tổng số cán bộ công nhân viên lên đến 822 người trong đó lao động nữ chiếm 92,5%. Số lượng máy móc thiết bị là 512 máy may (chủ yếu là máy may của Nhật, Tây Đức), có 2 dàn máy thêu điện tử Tagima 12 đầu 9 chỉ của Nhật, 1 dây truyền giặt mài với công nghệ tiên tiến. Năng lực sản xuất của xí nghiệp mỗi năm là 12 triệu áo sơ mi quy đổi gồm sơ mi, Jacket, quần âu, quần sooc..... Tổng quan về xí nghiệp - Tên xí nghiệp: Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung - Tên giao dịch quốc tế: TEXTACO - Loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước. - Cơ quan quản lý trực tiếp: Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc – Bộ Thương mại. - Địa chỉ: Số 2A - Lạc Trung – Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội - Ngành nghề kinh doanh: sản xuất, gia công và xuất nhập khẩu mặt hàng may mặc. - Số điện thoại : 8297303 - Fax : 829314445 + Cơ cấu bộ máy quản lý của xí nghiệp: quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng, được chia thành hai cấp: Cấp xí nghiệp và cấp phân xưởng - Cấp xí nghiệp bao gồm: 1 Giám đốc, 2 phó giám đốc, 4 phòng ban tham mưu và giúp việc cho giám đốc. - Cấp phân xưởng gồm: 3 phân xưởng may liên hoàn khép kín, 1 phân xưởng phụ trợ như thêu, giặt, Là.... Đứng đầu phân xưởng là quản đốc, giúp việc cho quản đốc phân xưởng có phó quản đốc phân xưởng. Sơ đồ mô hình của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 1.2. Chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung. Chức năng Theo điều lệ tổ chức và hoạt động của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung ban hành theo quyết định được phê duyệt số 107TM/TCC ngày 22/2/1994 của Bộ Thương mại, xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là một doanh nghiệp Nhà nước trực thộc Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc, chuyên sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm may mặc do Nhà nước quản lý. Theo đó chức năng của xí nghiệp là: - Thực hiện việc sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực may mặc - Xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng may mặc. - Thực hiện hạch toán kinh doanh có hiệu quả, có tài khoản, có con dấu riêng để thực hiện giao dịch theo đúng pháp luật. - Mở các cửa hàng, đại lý bán hàng, giới thiệu sản phẩm, đặt chi nhánh văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước theo quy định của Nhà nước. Nhiệm vụ - Trên cơ sở sự hướng dẫn của Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc, xí nghiệp tổ chức điều tra, nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng hàng may mặc trên thị trường nội địa và thị trường nước ngoài cũng như năng lực sản xuất của xí nghiệp để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trình Công ty duyệt và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện kế hoạch đã được duyệt. - Tổ chức khai thác các loại vật tư, thiết bị máy móc kỹ thuật và các nguyên phụ liệu một cách có hiệu quả. - Tăng cường khai thác năng lực sản xuất, đổi mới mặt hàng, nâng cao trình độ tổ chức quản lý, trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Tổ chức tiêu thụ sản phẩm do xí nghiệp sản xuất ra thị trường thế giới cũng như thị trường nội địa và tổ chức các hoạt động dịch vụ cho sản xuất may mặc. - Chấp hành tốt các chính sách, chế độ về quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước và quy định của Công ty. Xí nghiệp có trách nhiệm công bố công khai các báo cáo tài chính hàng năm. Quản lý và sử dụng có hiệu quả nhất trang thiết bị máy móc và nguồn vốn tự có cũng như do Nhà nước cấp. - Quản lý cán bộ, công nhân viên của xí nghiệp theo chính sách chế độ Nhà nước và sự phân cấp của Công ty. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công nhân viên, nâng cao trình độ quản lý và trình độ tay nghề của người lao động đáp ứng yêu cầu phát triển của xí nghiệp. - Tổ chức gia công, hợp tác kinh doanh, liên doanh liên kết đầu tư với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước theo các phương án được Công ty duyệt. 1.3. Lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty. Lĩnh vực hoạt động sản xuất chủ yếu của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là sản xuất các mặt hàng may mặc để kinh doanh xuất khẩu ra thị trường thế giói cũng như phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa. Các sản phẩm may mặc của xí nghiệp được sản xuất ra hiện nay chủ yếu để phục vụ xuất khẩu (chiếm hơn 80%). Số lượng, thể loại, mẫu mã của sản phẩm chủ yếu phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng thể hiện trên các hợp đồng kinh tế được ký kết. Trong những năm gần đây Công ty đã sản xuất được nhiều mặt hàng như: - áo sơ mi xuất khẩu - áo choàng - áo váy - áo Jacket - Khăn quàng - Quần Âu - Quần Sooc - Quần áo trẻ em Xí nghiệp đã có quan hệ bạn hàng với 19 khách hàng ở 8 quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Nga, Đài Loan, EU.... Trong đó có nhiều khách hàng lớn có uy tín trên thị trường may mặc quốc tế như hãng Bridgegate (Anh), Peter (Đức), HaBiTex (Bỉ).... Xí nghiệp đã ký hợp đồng sản xuất gia công với khối lượng tương đối lớn, tạo được nhiều công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên của xí nghiệp. Từ đó đã làm cuộc sống của cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện, họ đã ngày càng gắn bó với xí nghiệp. 1.4. Công nghệ và thiết bị sản xuất của xí nghiệp a. Quy trình công nghệ gia công sản phẩm. Cũng như các doanh nghiệp may mặc khác của nước ta hình thức sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là gia công sản phẩm may mặc để xuất khẩu ra thị trường thế giới. Sản phẩm gia công của xí nghiệp gồm ccs mặt hàng may mặc: Quần - áo, nhiều cỡ số khác nhau. Sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng là chủ yếu, được sản xuất theo một quy trình khá hợp lý. Quy trình công nghệ chế biến như sau: Quy trình công nghệ gia công chế biến sản phẩm. Nguyên vật liệu Mẫu sơ đồ cắt May Là Đóng gói Nhập kho 1 23 4 5 6 7 1: Đầu tiên là do đếm nguyên liệu vải – chọn mẫu – chọn khổ 2: May mẫu – lấy mẫu – xoa mẫu – giác sơ đồ 3: Cắt trải vải ghép sơ đồ cắt phá, cắt gọt - đánh số – ghép kiện – bó buộc 4: May vải truyền theo dây chuyền mốc chảy – sản phẩm hoàn thành tập thể theo thiết kế của từng loại sản phẩm (Có thể phải qua 20 – 35 bước công việc) 5: Hoàn chỉnh – Thể loại – dán cỡ – số tem - đóng vào túi PE 6 + 7: Hoàn thành gồm mẫu – cỡ từng địa chỉ vào từng thùng cát tông – xiết nẹp, sau nhập kho hoặc chuyển đi Hải Phòng. Mỗi công việc đều có KCS. b. quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Quy trình sản xuất sản phẩm của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là quy trình sản xuất phức tạp, kiểu liên tục sản phẩm phải qua nhiều công đoạn sản xuất kế tiếp nhau. Mặt hàng của Công ty bao gồm các loại quần áo theo nhiều chủng loại khác nhau và đều qua các công đoạn: Cắt – may – là - đóng g._.ói.... Riêng đối với loại mặt hàng có nhu cầu giặt mài hoặc thêu thì trước khi Là và đóng gói phải qua hai công đoạn đó ở các phân xưởng phụ. Ta có thể thấy quy trình sản xuất của Công ty được tiến hành như sau: Nguyên vật liệu (vải) được nhập từ kho theo đúng chủng loại vải mà phòng kỹ thuật đã yêu cầu vớ từng loại mặt hàng. Vải được đưa vào nhà cắt, tại đây vải được trải, đặt mẫu, cắt thành bán thành phẩm và đánh số sau đó các bán thành phẩm được nhập kho và chuyển cho các tổ may của các phân xưởng may trong xí nghiệp. Bộ phận may được chia thành nhiều công đoạn như may tay, may cổ, may thân.... thành một dây chuyền. Bước cuối cùng của dây chuyền là hoàn thành sản phẩm. Khi sản phẩm may xong được chuyển vào giặt là rồi chuyển qua bộ phận KCS của xí nghiệp để kiểm tra chất lượng sản phẩm. Sau khi được kiểm tra các sản phẩm đạt yêu cầu sẽ được chuyển vào kho thành phẩm để đóng gói và đóng kiện. Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung được minh hoạ bằng sơ đồ sau: Kho nguyên vật liệu Cắt Kho phụ kiện May Là KCS Thêu Giặt Đóng gói Bao bì Nhập kho thành phẩm c. Thiết bị sản xuất Trong những năm đầu mới thành lập do cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế, lạc hậu, nguồn nhân lực có tay nghề trình độ yếu kém nên Công ty mới sản xuất cầm chừng, đời sống cán bộ công nhân viên bếp bênh, khó khăn. Nhưng sau khi được đầu tư đổi mới nhiều trang thiết bị hiện đại của các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, CHLB Đức.... thì sản xuất của Công ty liên tục phát triển. Do vậy xí nghiệp đang dần có chỗ đứng ổn định trên thị trường trong nước và quốc tế. Hiện nay Công ty đã có các loại may công nghiệp, máy chuyên dụng hiện đại. 1.5. Cơ cấu bộ máy quản lý của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung Giám đốc Phó giám đốc sản xuất Phó giám đốc kinh doanh Phòng tổ chức hành chính Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng kế toán tài chính Phòng KT PX phù trợ PX 1 PX 2 PX 4 CH Tổ may Công nhân Nội dung của bộmáy quản lý Ban giám đốc * Giám đốc: Là người nắm giữ quyền điều hành cao nhất trong xí nghiệp do Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc bổ nhiệm miễn nhiệm, khen thưởng kỷ luật, chịu trách nhiệm trước Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc về kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Kinh doanh của xí nghiệp. Giám đốc xí nghiệp có các quyền sau: - Chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh, quyết định các hình thức sản xuất, gia công theo các phương án được duyệt. - Cải tiến tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất một cách hợp lý, có hiệu quả để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. - Được ký kết các hợp đồng gia công sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với các thành phần kinh tế trong nước. Trực tiếp đàm phán chuẩn bị các hợp đồng xuất nhập khẩu, uỷ thác xuất nhập khẩu với các đối tác trong và ngoài nước. - Được áp dụng các hình thức tiền lương tiền thưởng theo các chế độ chính sách của Nhà nước và theo sự hướng dẫn của Công ty. Được ký kết các hợp đồng lao động với cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp theo luật lao động và theo sự phân cấp quản lý của Công ty. Đề nghị giám đốc Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc giải quyết các chế độ và xử lý đối với các Bộ thuộc diện quản lý của Công ty. * Phó giám đốc: (2 người) - PGĐ sx: Do giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm có nhiệm vụ giúp đỡ giám đốc trong việc điều hành sản xuất, giám sát kỹ thuật nghiên cứu mẫu mỗi mặt hàng.... - PGĐ kinh doanh: Do giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm có nhiệm vụ giúp giám dốc điều hành, chỉ đạo mặt hàng sản xuất cảu doanh nghiệp thiết lập các mối quan hệ với khách hàng, tổ chức triển khai các nghiệp vụ xuất nhập khẩu như tham gia ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu xin giấy phép xuất nhập khẩu. Các phòng ban chức năng. Phòng tổ chức hành chính (12): gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 10 nhân viên. * Chức năng: + Tham mưu cho giám đốc xí nghiệp trong các mặt công tác như tổ chức cán bộ, tiền lương, lao động, thanh tra bảo vệ, thi đua khen thưởng, kỷ luật. + Tổ chức các hoạt động hành chính quản trị để phụ vụ sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống cán bộ công nhân viên. - Nhiệm vụ: + Nghiên cứu, đề xuất cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị hợp lý, sắp xếp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ của xí nghiệp, đảm bảo các hoạt động sản xuất kinh doanh của những được đồng bộ, thông suốt. + Xây dựng các kế hoạch về tuyển dụng đào tạo và sử dụng đội ngũ lao động của xí nghiệp. Xây dựng các kế hoạch về lao động, tiền lương tháng, quý, năm. Có trách nhiệm tổ chức thực hiện các kế hoạch đã được duyệt. + Xây dựng quy chế tiền lương, tiền thưởng và tổ chức thực hiện theo đúng các quy định chế độ của Nhà nước. Chịu trách nhiệm giải quyết các chế độ về quyền lợi đối với người lao động như BHH, BHYT, hưu trí, mất sức.... + Lập kế hoạch trang bị bảo hộ cho người lao động cho đội ngũ cán bộ công nhân viên phù hợp với điều kiện về lao động. Thiết bị nhà xưởng của xí nghiệp và theo đúng các quy trình vệ sinh an toàn trong sản xuất. + Lập kế hoạch xây dựng, sửa chữa bảo quản nhà xưởng kho tàng và các tài sản khác của xí nghiệp tổ chức thực hiện khi kế hoạch được duyệt. Phòng kế hoạch – Kinh doanh (18 người) gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 16 nhân viên. - Chức năng: Tham mưu cho giám đốc trong việc xác định phương hướng sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ và điều hành hoạt động sx kinh doanh trong xí nghiệp. - Nhiệm vụ: + Điều tra nghiên cứu thu nhập thông tin về nhu cầu của thị trường, giá cả thị trường, chủng loạihh và thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. + Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh, tổng hợp kế hoạch sản xuất kỹ thuật và tài chính, tổ chức khai thác nguồn hàng sản xuất gia công, xây dựng các hợp đồng kinh tế, tính toán các phương án sản xuất kinh doanh đảm bảo thực hiện đúng các hợp đồng đã ký, làm các thủ tục xuất nhập khẩu cho xí nghiệp và các đơn vị mà xí nghiệp nhận uỷ thác. + Xây dựng các kế hoạch tác nghiệp, theo dõi tiến độ thực hiện các kế hoạch và tiêu thụ sản phẩm của từng hợp đồng. Xây dựng giá thành giá thành kế hoạch sản phẩm, giá bán, giá gia công và giá các hàng hoá và nguyên liệu phụ trợ. + Làm các báo cáo về tình hình thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu theo yêu cầu của Công ty và giám đốc xí nghiệp. Quản lý các kho nguyên phụ liệu, máy móc phụ tùng nhiên liệu phục vụ sản xuất và vận tải. Phòng kỹ thuật (KCS) (10 người) gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 8 nhân viên - Chức năng: Tham mưu cho giám đốc xí nghiệp về khâu kỹ thuật may để tiến hành triển khai thực hiện các hợp đồng đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật; mẫu mã cũng như thời gian giao hàng. - Nhiệm vụ: + Tham gia với phòng kế hoạch để thực hiện việc đàm phán các hợp đồng gia công. Sản xuất với khách hàng trong và ngoài nước. + Nghiên cứu nhu cầu thị trường về mẫu mã thời trang để đề xuất các mẫu may chào hàng, mẫu đối theo các đơn đặt hàng cần thiết. + Tổ chức gia công và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá cũng như tiến độ giao hàng đảm bảo phù hợp với các yêu cầu đã ký của hợp đồng. + Xây dựng các tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật của công nhân cắt, công nhân may, là ép, trải vải..... và phối hợp với phòng tổ chức hành chính để tổ chức thi tuyển lao động, thi giữ bậc, nâng bậc, cho công nhân. Phòng tài chính kế toán (6 người) gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng và 4 nhân viên. - Chức năng: Là bộ phận nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho giám đốc về các mặt: tổ chức hạch toán, quản lý tài sản hàng hoá vật tư, tiền vốn theo các nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước và sự chỉ đạo của Công ty. - Nhiệm vụ + Xây dựng các kế hoạch tài chính hàng năm, hàng quý và theo kế hoạch sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. + Tổ chức ghi chép tính toán phản ánh trung thực tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp về tài sản, vật tư hàng hoá, tiền vốn. Tổng hợp số liệu về tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp hàng quý và cả năm. + Tổ chức trích nộp các khoản vào ngân sách Nhà nước và các quỹ của xí nghiệp theo đúng các yêu cầu đề ra và phải kịp thời đầy đủ. Tổ chức xử lý các khoản công nợ. + Lưu trữ các chứng từ kế toán theo quy định của Nhà nước, thực hiện kiểm kê định kỳ và đột xuất bảo đảm chất lượng và thời gian. Các phân xưởng may + Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung có 3 phân xưởng may và 1 phân xưởng phụ trợ. Đứng đầu các phân xưởng là quản đốc phân xưởng, giúp việc cho quản đốc phân xưởng là phó quản đốc. Chức năng nhiệm vụ của các phân xưởng là: - Chức năng: Tổ chức sản xuất các sản phẩm may mặc theo kế hoạch và đảm bảo theo các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng theo quy định. - Nhiệm vụ: + Xây dựng và thực hiện kế hoạch điều độ sản xuất từng tuần, tháng trên cơ sở kế hoạch sản xuất đã được xí nghiệp giao cho. + Căn cứ vào hợp đồng xí nghiệp đã giao cho phân xưởng, phân xưởng chủ động quan hệ với các nhân viên kỹ thuật của phòng kỹ thuật để thiết kế, may mẫu đối và xây dựng vật tư, cùng phòng kế hoạch cân đối nguyên phụ liệu của khách hàng giao, bảo đảm vật tư theo các mặt hàng. + Đề xuất các phương án cải tiến quy trình công nghệ hợp lý hoá sản xuất để tổ chức lao động khoa học trong phân xưởng. + Quản lý máy móc thiết bị và tài sản hàng hoá do xí nghiệp giao, chấp hành đầy đủ việc bảo toàn, sửa chữa điều chỉnh thiết bị trong phân xưởng. Xây dựng kế hoạch bảo dưỡng định kỳ sửa chữa lớn thiết bị xí nghiệp duyệt. + Thực hiện nghiêm túc về hạch toán bàn cắt, các quy trình công nghệ, định mức tiêu hao nguyên nhiên phụ liệu, phụ tùng máy móc, định mức lao động và yêu cầu kỹ thuật của xí nghiệp, + nghiêm chỉnh chấp hành các quy định an toàn lao động máy móc thiết bị, công tác phòng cháy chưa cháy, bảo hộ lao động và vệ sinh an toàn công nghiệp. + Rèn luyện tay nghề cho công nhân, phối hợp với phòng tổ chức hành chính kỹ thuật để tổ chức thi tuyển lao động giữ bậc, nâng bậc cho công nhân. Cửa hàng kinh doanh dịch vụ: (8 người) - Chức năng: Quảng cáo, giới thiệu và bán các sản phẩm của xí nghiệp sản xuất, gia công. Tổ chức kinh doanh các mặt hàng của vải sợi may mặc. - Nhiệm vụ: + Tổ chức một số quầy hoặc gian hàng để bán các sản phẩm của xí nghiệp sản xuất ra. Điều tra, nghiên cứu nhu cầu của thị trường để tổ chức kinh doanh, các mặt hàng vải sợi may mặc theo các phương án được xí nghiệp duyệt. + Tổ chức quản lý người, tài sản, lao động ở cửa hàng chấp hành pháp luật và các chế độ quản lý tài chính các quy định của xí nghiệp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp. Với mô hình cơ cấu tổ chức quản lý theo kiểu trực tuyến chức năng như trên đã giúp cho xí nghiệp quản lý tương đối có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, rất tiện lợi cho công tác điều hành sản xuất. Mô hình quản trị này vừa tận dụng được các chuyên gia ở các phòng ban chức năng mà vẫn giữ được tính thống nhất quản trị ở một mức độ nhất định. So với cơ cấu tổ chức của một số doanh nghiệp Nhà nước khác cũng ngành thì cơ cấu tổ chức của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là tương đối gọn nhẹ, đơn giản. Giám đôc là người có quyền hạn lớn nhất trong xí nghiệp trong việc ra các quyết định quản trị trên cơ sở sự đóng góp ý kiến của các phòng ban chuyên môn, là đại diện pháp nhân của xí nghiệp và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp và việc thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước. Tuy nhiên so với mô hình quản trị của các nước tiên tiến và nhìn vào quy mô nhỏ bé của xí nghiệp thì kiểu cơ cấu này vẫn còn cồng kềnh, chi phí cho bộ máy quản trị đề ra các quyết định là tương đối lớn. Trong tương lai, xí nghiệp cần nghiên cứu, áp dụng một kiểu cơ cấu tổ chức nào đó để thật phù hợp với quy mô của xí nghiệp mà vẫn đáp ứng được các yêu cầu phát triển. Từ đó mới nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.6. Nội quy lao động Thời gian làm việc là thời gian nghỉ ngơi Thời gian làm việc bình thường là 8 giờ 1 ngày, 48 giờ 1 tuần. Làm hành chính buổi sáng từ 7h45’ đến 12h15’, buổi chiều từ 13h đến 16h30’ (nghỉ trưa 45’). Giờ bắt đầu và kết thúc làm việc trong ngày sản xuất sẽ căn cứ vào tình hình sản xuất thực tế của từng phân xưởng. Nghỉ phép hàng năm: - Người lao động có đủ 12 tháng làm việc tại xí nghiệp thì được nghỉ hàng năm hưởng nguyên lương 12 ngày. Nếu dưới 12 tháng thì được nghỉ theo tỷ lệ tương ứng. - Số ngày nghỉ hàng năm được tăng thêm theo thâm niên làm việc cứ 5 năm thì được nghỉ thêm 1 ngày. - Thời gian nghỉ hàng năm được dành bố trí cùng với dịp nghỉ tết âm lịch - Người lao động chưa nghỉ hết số ngày hàng năm do xí nghiệp không bố trí được thì được trả lương những ngày chưa nghỉ. Nghỉ lễ: Người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương những ngày lễ sau đây: - Tết dương lịch: 1 ngày (ngày 1 tháng dương lịch) - Tết âm lịch: 4 ngày (1 ngày cuối năm và 3 ngày đầu năm ân lịch) - Ngày chiến thắng: 1 ngày (ngày 30 tháng 4 dương lịch) - Ngày Quốc tế lao động: 1 ngày (ngày 1 tháng 5 dương lịch) - Ngày Quốc khánh: 1 ngày (ngày 2 tháng 9 dương lịch) Nếu ngày nghỉ nói trên trùng với ngày nghỉ hàng tuần thì người lao động được nghỉ bù vào ngày tiếp theo. Nghỉ việc riêng: - Người lao động được nghỉ về việc riêng mà vẫn hưởng nguyên lương trong các trường hợp. *Kết hôn nghỉ 3 ngày * Con kết hôn: nghỉ 1 ngày * Bố, mẹ (cả bên vợ và bên chồng) chết, vợ hoặc chồng chết, con chết: nghỉ 3 ngày. - Lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ mỗi ngày 6 phút tính vào thời gian làm việc. - Người lao động không tự ý nghỉ việc riêng, nghỉ ốm phải có giấy phép của Bác sỹ, nghỉ việc riêng từ 3 ngày trở lên không lương phải được giám đốc cho phép. Làm thêm giờ - Tuỳ theo tình hình sản xuất mà xí nghiệp sẽ thoả thuận và báo trước với công nhân về thời gian làm thêm giờ nhưng không quá 4 giờ 1 ngày và 2 ngày chủ nhật trong 1 tháng. - Khi có sựcố xảy ra thì giám đốc hoặc người được uỷ quyền có quyền huy động mọi lực lượng để ứng cứu, bất kể thời gian nào. Trật tự trong xí nghiệp Trong thời gian làm việc không đùa chơi, nói chuyện riêng, không tự ý đi lại ở khu vực khác không thuộc nhiệm vụ của mình về sớm phải có phép của quản đốc, trưởng phòng. Công nhân sản xuất không được đọc sách báo trong giờ làm việc. Mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ tài sản của xí nghiệp. Không được cung cấp các số liệu có liên quan đến việc sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp khi chưa được sự đồng ý của giám đốc hoặc người được uỷ quyền. Không làm hư hỏng đồ dùng, tài sản của xí nghiệp. Không tự ý di chuyển máy móc, dụng cụ, đồ dùng sang khu vực khác. Không tháo phụ tùng của máy nà sang máy khác khi chưa được sự đồng ý của phân xưởng. Dụng cụ đồ dùng giao cho cá nhân sử dụng do cá nhân tự giữ gìn, bảo quản, khi chuyển sang bộ phận khác hoặc nghỉ việc phải bàn giao lại đầy đủ cho người quản lý. Tuyệt đối tuân thủ sự chỉ dẫn của chuyên gia, kỹ thuật và sự điều hành của cán bộ quản lý. Không gây mất trật tự, không gây chia rẽ mất đoàn kết hoặc làm tổn hại đến nhân phẩm, sức khoẻ của người khác. Tiết kiệm điện nước, vật tư, nguyên phụ liệu và các chỉ tiêu trong sử dụng. Không tứy lấy dụng cụ, nguyên phụ liệu (kể cả hàng thừa trong sản xuất). Không mang quần áo, vải vóc cá nhân vào xí nghiệp. An toàn, vệ sinh lao động Người lao động trước khi nhận nhiệm vụ sản xuất đều phải học tập nội quy, quy phạm về an toàn lao động, an toàn kỹ thuật và phòng chống cháy, nổ có liên quan đến công việc phải thực hiện. Hàng ngày phải làm vệ sinh máy trước giờ làm việc, bảo quản máy móc và thực hiện các quy phạm về vệ sinh an toàn lao động và phòng chống cháy, nổ theo quy định của xí nghiệp. Người lao động trong khi làm việ phải sử dụng các trang thiết bị vệ sinh, an toàn lao động, an toàn kỹ thuật theo quy định. Giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, không ăn quà bánh, uống rượu bia nơi làm việc, không hút thuốc trong các phân xưởng, kho tàng. Tại những nơi làm việc dễ xảy ra cháy, nổ hoặc nguy hiểm đến tính mạng người lao động và các thiết bị, vật tư máy móc phải tuân theo bảng chỉ dẫn quy định rõ những việc phải làm và những việc không được làm. Khi phát hiện nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, nguy cơ xảy ra cháy, nổ hoặc hư hỏng máy móc, thiết bị người lao động phải thực hiện ngay các biện pháp ngăn chặn nếu có thể đồng thời báo ngay cho cán bộ quản lý biết giải quyết. Khi chưa khắc phục xong, người lao động có quyền từ chối vào làm việc tại những nơi không đảm bảo an toàn lao động. Kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất. Người lao động không chấp hành đúng các quy định của bản nội quy này hoặc có hành vi xúi giục, tòng phạm hoặc bao che cho người khác vi phạm kỷ luật đều coi là hành vi vi phạm kỷ luật. Người lao động vi phạm kỷ luật, tuỳ theo mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật theo những hình thức sau đây: Khiển trách đối với những hành vi: - Mang quà bánh, nước uống vào khu vực sản xuất. - Xả rác bừa bãi, làm mất vệ sinh chung. - Gây rối, làm mất trật tự trong xí nghiệp. - Mang hàng riêng vào may trong khu vực sản xuất. - Sơ suất làm mất mát, hư hỏng dụng cụ, hàng hoá có giá trị thấp. Chuyển làm công việc khác có mức lương thấp hơn đối với những hành vi. - Tái phạm trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày bị khiển trách hoặc bị khiển trách từ lần thứ 3 trở lên trong thời hạn 1 năm. - Không tuân thủ các quy trình kỹ thuật, làm hư hỏng sản phẩm, làm hư hao vật tư quá mức quy định hoặc làm ảnh hưởng đến dây chuyền sản xuất. - Gây chia rẽ mất đoàn kết hoặc làm tổn hại đến sức khoẻ, nhân phẩm của những người cùng làm việc trong bộ phận của mình. - Không chấp hành sự phân công của cán bộ quản lý trực tiếp. Sa thải đối với những hành vi: - Bị kỷ luật chuyển làm công việc khác mà tái phạm trong thời gian chưa được xoá kỷ luật. - Trộm cắp, tham ô hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản lợi ích của xí nghiệp. - Tự ý bỏ việc 3 ngày trong 1 tháng hoặc 20 ngày trong 1 năm mà không có lý do chính đáng. 2.vài nét về hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp 2.1. Những nhân tố bên ngoài xí nghiệp (thị trường tiêu thụ) Thị trường quốc tế. Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực may mặc. Sản phẩm của xí nghiệp chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường thế giới (chiếm hơn 80% giá trị sản lượng). Do đó những biến động về chính trị, kinh tế, luật pháp khu vực cũng như trên thế giới ảnh hưởng rất lớn đến thị trường xuất khẩu của xí nghiệp, từ đó tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Vào những năm đầu cảu thập kỷ 90, tình hình chính trị thế giới có những biến động hết sức phức tạp mà điển hìh là sự sụp đổ của Nhà nước Liên Xô và hệ thống các nước XHCN Đông Âu đã ảnh hương nặng nề đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp nói riêng cũng như toàn ngành may mặc và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung. Xí nghiệp đã mất đi gần như toàn bộ nguồn cung cấp nguyên phụ liệu và thị trường tiêu thụ truyền thống XHCN mà ở đó xí nghiệp có được nhiều sự ưu đãi đặc biệt. Trước tình hình vo cùng khó khăn đó, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của ngành Dệt may cũng như cơ quan quản lý cấp trên là Bộ Thương mại và Công ty vải sợi may mặc Miền Bắc, năm 1991 xí nghiệp đã đầu tư một số máy móc trang thiết bị tiên tiến và tìm kiếm thị trường tiêu thụ ở các nước khu vực 2. Từ đó xí nghiệp đã dần dần tìm kiếm được các bạn hàng lớn, sản xuất kinh doanh đi vào ổn định. Trong cuộc khủng hoảng tài chinh tiền tệ khu vực Châu á Thái Bình Dương năm 1997, nó tàn phá nền kinh tế các nước trong khu vực, làm nền kinh tế của họ bị thụt hậu (tăng trưởng âm). Tuy nền kinh tế Việt Nam không bị ảnh hưởng vì từ cuộc khủng hoảng này nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng như ngành may mặc đã trải qua rất nhiều khó khăn. Trước hết, ta đã bị mất hoặc giảm kim ngạch xuất khẩu đối với thị trường các nước doanh nghiệp may mặc phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp may mặc ASEAN trên thị trường quốc tế và bất lợi nghiêng về ta do giá thành sản xuất gia công của các nước trong khu vực giảm một cách tương đối. Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung cũng không nằm ngoài khó khăn đó của ngành may mặc Việt Nam. Ngoài ra hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế cũng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Chẳng hạn như việc Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ năm 2001 đã mở của thị trường may mặc đầy tiềm năng với các doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu sản phẩm của mình sang thị trường Mỹ một cách dễ dàng hơn mà không phải chịu các hàng rào cản trở mà đặc biệt là hàng rào thuế quan. Như thế, sản phẩm của ta sẽ có sức cạnh tranh cao hơn so với trước đây. Với Textaco thì từ năm 2002, xí nghiệp đã thực hiện việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ với giá trị tương đối lớn so với các thị trường khác. Từ đó tạo được việc làm thường xuyên cho người lao động, nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Thị trường trong nước May mặc là thị trường sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của con người. Vì vậy quy mô dân số và thu nhập bình quân đầu người của cơ dân ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và chất lượng của thị trường. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, tuy Việt Nam có dân số đông (gần 70 triệu người), nhưng mức sống dân cư còn thấp, đời sống khó khăn. Vì vậy quy mô thị trường còn nhỏ bé và chất lượng sản phẩm đòi hỏi không cao. Trước tình hình đó Textaco cũng như các doanh nghiệp trong ngành chủ yếu sản xuất sản phẩm có giá thành thấp, chất lượng vừa phải để phục vụ thị trường. Tuy nhiên, sau hơn 10 năm đổi mới, đất nước có sự tăng trưởng kinh tế khá cao (trung bình trên 7%/năm) đời sống dân cư không ngừng được cải thiện (thu nhập bình quân đầu người năm 2002 là hơn 400 USD). Do đó quy mô thị trường trong nước tăng lên, chất lượng sản phẩm đòi hỏi ngày càng cao, đã xuất hiện thị trường sản phẩm may mặc cao cấp. Đứng trước yêu cầu đó, Textaco đã đầu tư sản xuất ra sản phẩm có chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. 2.2. Những nhân tố bên trong xí nghiệp. Lực lượng lao động Tổng số lao động của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung tại thời điểm hiện nay (đầu năm 2003) là 822 người. Cụ thể Bảng cơ cấu lao động của Textaco Chức năng Số lượng 1. Quản trị điều hành - Ban giám đốc 3 (1giám đốc, 2 phó giám đốc) - Tham mưu + Phòng kế hoạch kinh doanh 18 + Phòng kế toán tài chính 6 + Phòng tổ chức hành chính 12 + Phòng kỹ thuật 10 2. Sản xuất kinh doanh - Quản lý sản xuất 20 - Quản lý bán hàng 8 - Lao động gián tiếp 60 - Lao động trực tiếp 685 Tổng cộng 822 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Textaco Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy rằng: lao động ở bộ phận quản lý điều hành là 49 người, chiếm 5,5% lực lượng lao động, lao động ở bộ phận sản xuất kinh doanh là 773 người chiếm 94,5% lực lượng lao động của xí nghiệp. Với cơ cấu lao động như trên thì bộ máy quản trị điều hành của xí nghiệp là tương đối gọn nhẹ so với các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành. Từ đó đường ra quyết định quản trị ngắn làm tăng chất lượng các quyết định quản trị. Thêm vào dó, chi phí cho bộ máy quản trị điều hành không lớn. Điều đó có thể làm nâng cao hiệu quả sản xuất của Textaco. Trong số lao động ở bộ phận quản trị điều hành thì hầu hết có trình độ đại học, cao đẳng về chuyên ngành, lĩnh vực mà mình phụ trách. Nói chung trình độ quản lý của lao động quản trị còn thấp vì hầu hết được đào tạo từ trước những năm 90 nên kiến thức không cần phù hợp với tình hình hiện nay, nhất là lao động quản lý kinh tế. Vì vậy xí nghiệp thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo các khoá ngắn hạn do các trường Đại học, Viện nghiên cứu tổ chức để cập nhật kiến thức quản lý mới, áp dụng vào xí nghiệp. Đội ngũ lao động sản xuất có trình độ tay nghề khá, được đào tạo chính quy hoặc không chính quy tại các trường dạy nghề. Trong qúa trình tuyển dụng vào xí nghiệp, người lao động phải trải qua qúa trình kiểm tra nghiêm túc. Ngoài ra, họ còn thường xuyên được đào tạo thêm để năng cao tay nghề bậc thợ. Vì vậy, nói chung đội ngũ công nhân xí nghiệp có thể đáp ứng được đòi hỏi khắt khe vì chất lượng sản phẩm sản xuất. Tuy nhiên, ý thức tổ chức kỷ luật của công nhân chưa cao, vẫn chưa ý thức được tác phong công nghiệp vào sản xuất. Trong khi làm việc hiện tượng nói chuyện riêng còn nhiều. Từ đó đã ảnh hưởng đến năng suất lao động của xí nghiệp, làm giảm sự phát triển chung của xí nghiệp. Máy móc thiết bị và nguyên phụ liệu sản xuất. Có thể nói máy móc thiết bị là một trong các điều kiện để nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhân dân. Nếu máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu thì dù các yếu tố về lao động, trình độ quản trị có cao đến đâu thì cũng không thể làm chất lượng và hiệu quả hoạt động tăng theo một cách tương ứng được. Máy móc thiết bị có hiện đại và đồng bộ thì sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động của công nhân cũng như chất lượng sản phẩm và nhất là đáp ứng được thời hạn giao hàng mà khách hàng đặt ra. Trong thời kỳ đầu mới thành lập, máy móc thiết bị của xí nghiệp may Lạc Trung rất lạc hậu, chủ yếu là máy của Liên Xô và Đông Đức. Thêm vào đó là trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân còn yếu nên sản phẩm xí nghiệp sản xuất ra chủ yếu phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu sang các nước XHCN Đông Âu, nơi mà yêu cầu về chất lượng và mẫu mã sản phẩm không cao. Do đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp còn thấp. Hiện nay, xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung có hệ thống máy may tương đối hiện đại. Trong tổng số 512 máy may thì có đến hơn 80% là máy của Nhật và CHLB Đức. Với hệ thống máy may hiện đại cộng với trình độ quản lý và trình độ chuyên môn của người lao động được nâng lên, năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm của xí nghiệp đã có mặt ở thị trường 8 nước trên thế giới, hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên tính đồng bộ của hệ thống máy móc không cao, so với trình độ kỹ thuật của các nước trong khu vực và trên thế giới thì còn nhiều hạn chế. Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung cũng giống như các doanh nghiệp may mặc khác là chủ yếu gia công sản phẩm xuất khẩu cho các khách hàng nước ngoài. Vì vậy xí nghiệp phải thường xuyên nhập nguyên vật liệu của khách hàng trong và ngoài nước để sản xuất. Các nguyên vật liệu khác nhau vì khi có nguồn gốc xuất sứ khác nhau rất khó cho công tác quản lý nguyên vật liệu. Thêm vào đó việc nhập nguyên vật liệu phụ thuộc rất nhiều vào bên đối tác. Vì vậy nó ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Tình hình tài chính của xí nghiệp Tình hình tài chính tác động đến kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Mọi hoạt động đầu tư, mua sắm, lưu kho..... cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của nó. Bảng cân đối kế toán của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung cuối năm 2002 Tài sản Cuối kỳ Nguồn vốn Cuối kỳ I. TSLĐ + Đt ngắn hạn 3.179.520.000 I. Nợ phải trả 3.497.286.000 1. Tiền mặt (tại quỹ và nhập hàng) 527.476.520 1. Nợ dài hạn 1.915.375.000 2. Phải thu 1.436.850.000 2. Phải trả khách hàng 937.450.725 3. Hàng tồn kho 674.535.725 3. Phải trả CNV 327.150.082 4. TSLĐ khác 540.657.755 4. Phải trả nội bộ 257.310.128 II. TSCĐ 2.995.766.000 II. Vốn chủ 2.738.000.000 1. TSCĐ hữu hình 2.495.766.000 1. Nguồn vốn, quỹ 2.223.000.000 2. Đầu tư dài hạn 500.000.000 2. Lợi nhuận chưa phân phối 515.000.000 6.175.286.000 6.178.286.000 Nguồn: Phòng kế toán Textaco Nhìn vào bảng cân đối kế toán của xí nghiệp cuối năm 2002 ta thấy nguồn vốn kinh doanh của xí nghiệp là 6.175.286.000đ rất nhỏ bé so với vốn của các doanh nghiệp cùng ngành. Thêm vào đó tình hình tài chính của xí nghiệp cũng không được tốt, tiền mặt tại các quỹ của xí nghiệp chỉ có 527.476.520đ, các khoản phải thu là rất lớn 1.436.850.000đ, tỷ số nợ trên tổng nguồn vốn kinh doanh > 0,5 là không tốt. Tất cả điều đó ảnh hưởng không tốt đến các kế hoạch đầu tư phát triển của xí nghiệp. Xí nghiệp cần có các biện pháp để làm tăng nguồn tiền mặt tại các quỹ và ngân hàng, giảm các khoản phải thu, giảm tỷ số nợ trên tổng nguồn vốn. Từ đó dần lành mạnh tình hình tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho các kế hoạch phát triển của xí nghiệp. 3. Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. 3.1. Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Bảng: Một số chỉ tiêu về kết quả sản xuất kinh doanh Thị trường Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001 2002 1 Tổng giá trị doanh thu Tr. đồng 8731,2 10.297,7 9672,5 12.125,6 14342,6 2 Giá trị hàng hoá đã tiêu thụ Tr. đồng 8215,3 9875,5 9015 11.375,2 13230,7 - Giá trị hàng hoá sản xuất Tr. đồng 5193,7 6027,3 5932,3 3715,3 1032,3 - Giá trị hàng hoá gia công Tr. đồng 3621,6 3848,2 3082,7 4059,6 3198,4 3 Mặt hàng sản xuất - áo Jacket Chiếc 175.300 205.600 182.300 220.135 250.300 - Quần các loại Chiếc 433916 521720 507.320 730.454 727.800 - May mặc khác Chiếc 8678 12176 13124 27300 32300 4 Kinh doanh khác Tr. đồng 515,9 418,2 657,5 750,4 1111,9 5 Nộp ngân sách trong năm Tr. đồng 795 927,8 825 1127,5 1203,5 6 Lợi nhuận Tr. đồng 330 450 575 602,3 757,2 7 Tiền lương bình quân đồng 572.000 712.000 685.000 702.300 725.000 8 Vốn bình quân Tr. đồng 5375,625 5732,9 5715,6 6017,5 6178,286 Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm của Textaco Qua bảng chỉ tiêu trên ta thấy rằng tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp may Lạc Trung là rất khả quan. Nói chung kết quả của một số chỉ tiêu trên năm sau cao hơn năm trước. Đây là một dấu hiệu đáng mứng đối với một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực may mặc có quy mô nhỏ, lại phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường may mặc như xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung. Về chỉ tiêu tổng giá trị doanh thu: tổng doanh thu của xí nghiệp đã tăng từ 8.731,2 triệu đồng, tổng doanh thu của xí nghiệp đã tăng lên 164,26%. Nói chung thì tổng doanh thu của xí nghiệp tăng đều qua các năm, năm sau cao hơn năm trước. Năm 1998 doanh thu của xí nghiệp thấp 8.731, triệu đồng nguyên hân là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á năm 1997 làm mất một số hợp đồng kinh tế của xí nghiệp với khá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33622.doc
Tài liệu liên quan