Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai

Lời nói đầu Ngày nay quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc gia nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó, xuất khẩu là lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài. Đồng thời xuất khẩu cũng đóng vai trò quan t

doc100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng vào sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước ở các nước đang phát triển đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta tại đại hội Đảng VIII đã đề ra chủ trương “Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương lựa chọn, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào các nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa ngoại lực từ bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”. Trong những năm qua, việc đẩy mạnh xuất khẩu được Nhà nước đặc biệt coi trọng. Việc thúc đẩy xuất khẩu đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tạo tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc bước đầu để đất nước có thể bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá . Có được kết quả như vậy, phải kể đến sự đóng góp to lớn của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam. Những năm qua mặt hàng dệt may xuất khẩu đã có những đóng góp đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam và nhiều năm liền giữ vai trò là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ hai của Việt Nam. Phát triển xuất khẩu hàng dệt may, tạo cơ hội cho các ngành khác phát triển mạnh nhờ sử dụng nguồn ngoại tệ thu được để nhập khẩu các công nghệ tiên tiến hiện đại và yếu tố đầu vào cần thiết cho các ngành đó. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày nay, ngành dệt may xuất khẩu Việt Nam đang phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế làm giảm khả năng xuất khẩu. Đây là thách thức to lớn đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam cần có biện pháp hoá giải nhằm đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này nâng cao uy tín cho sản phẩm dệt may Việt Nam trên trường quốc tế. Xuất phát từ vấn đề thực tiễn đó, trong quá trình thực tập ở Công ty Dệt Minh Khai, em đã đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của công tyvà mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp với hy vọng có thể đưa ra một số giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Luận văn được chia làm 3 phần: Phần I: Những vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu Phần II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Minh Khai Phần III: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty Dệt Minh Khai. Trong quá trình thực tập và hoàn thành đề tài nghiên cứu, em đã nhận được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của các thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Duy Bột, Th.S. Nguyễn Trọng Hà và các cô chú trong phòng kế hoạch thị trường- Công ty Dệt Minh Khai. Qua đây cho phép em được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cùng các cô chú ở phòng Kế Hoạch thị trường công ty Dệt Minh Khai đã giúp đỡ tạo mọi điều kiện cho em hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này. Do thời gian nghiên cứu và trình độ có hạn nên Luận văn này không tránh khỏi có những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy và các cô chú trong phòng Kế hoạch thị trường ở Công ty Dệt Minh Khai để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 5/2003 Sinh Viên Dương Thị Vân Anh Phần i những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu I. tổng quan về hoạt động xuất khẩu 1. Khái niệm bản chất của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động tiêu thụ những sản phẩm sản xuất trong nước ra thị trường nước ngoài. Hay nói cách khác, cụ thể hơn, xuất khẩu là việc bán hàng ra nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu là một trong những hình thức biểu hiện của hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Nó được biểu hiện là việc trao đổi hàng hoá dịch vụ của một nước này cho nước khác và dùng ngoại tệ chuyển đổi làm phương tiện trao đổi. Đằng sau việc trao đổi này là mối quan hệ xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia. Với ý nghĩa đó, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò trong việc khai thác tiềm năng của đất nước. Hoạt động xuất khẩu thực sự cần thiết vì lý do cơ bản là nó mở rộng được khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu và khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu. Thực tế cho thấy một quốc gia cũng như một cá nhân không thể sống riêng rẽ, biệt lập với bên ngoài mà vẫn có đủ mọi thứ và phát triển được. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với chất lượng và số lượng cao hơn so với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước, khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán với nước ngoài. Tiền đề của sự trao đổi mua bán đó là phân công lao động xã hội. Trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ như ngày nay với những tiến bộ khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hoá ngày càng tăng thì số sản phẩm và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào hơn. Và do đó sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Tuy nhiên, xét một cách cụ thể hơn thì nguyên nhân cơ bản và sâu xa của việc trao đổi mua bán đó là xuất phát từ sự đa dạng và điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa các nước, chính vì những lợi thế thuận lợi về điều kiện tự nhiên như vậy mà một nước có thể chuyên môn sản xuất một số mặt hàng có lợi thế hơn và xuất khẩu để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác nhằm mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên sự khác nhau về điều kiện sản xuất chỉ là một trong những lý do để thúc đẩy các nước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với nhau. Quan trọng hơn cả là trong sự trao đổi này cả hai bên cùng có lợi do có sự khác nhau về sở thích, và lượng cầu đối với hàng hoá. Phần lớn số lượng hàng hoá buôn bán trao đổi trong thương mại quốc tế không xuất phát từ điều kiện tự nhiên của sản xuất. Chính vì vậy, nước ta mặc dù với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế, chúng ta vẫn có thể duy trì quan hệ thương mại với các nước đó. Trong những năm qua vấn đề phát triển ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng luôn là mục tiêu chiến lược để phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu. 2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu 2.1. Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là một việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất cứ công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Việc nghiên cứu thị trường tốt sẽ tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, mức cung ứng, giá cả thị trường, từ đó đáp ứng nhu cầu thị trường. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho những nhà quản lý đưa ra quyết định đúng đắn để lập kế hoạch marketing. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong việc thực hiện phương châm hành động “chỉ bán cái thị trường cần mà không bán cái thị trường có sẵn”. Có hai phương pháp nghiên cứu thị trường: - Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Đây là phương pháp phổ thông nhất. Thông tin được sử dụng trong phương pháp này là nguồn thông tin thứ cấp và có thể thu thập từ năm nguồn chính là: Các tổ chức quốc tế, chính phủ, ngân hàng, các công ty tư vấn quốc tế, và tư liệu của chính công ty. - Phương pháp nghiên cứu trực tiếp tại hiện trường Phương pháp này được áp dụng đối với các công ty kinh doanh quốc tế có nguồn vốn lớn và số tiền đầu tư cho hoạt động nghiên cứu thị trường là nhiều. Nội dung nghiên cứu thị trường bao gồm các công việc sau: Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường nhà kinh doanh phải xác định được mặt hàng dự định kinh doanh là gì? Quy cách, phẩm chất, nhãn hiệu, bao bì, giá hàng hoá đó như thế nào? Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu thích hợp nhất, nhà kinh doanh cần phải trả lời được những câu hỏi sau: + Mặt hàng thị trường đang cần là gì? Để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi nhà kinh doanh phải có sự nhạy bén thu thập và phân tích xử lý các thông tin về thị trường xuất khẩu để có được những thông tin cần thiết về loại hàng hoá đang được bán chạy nhất trên thị trường, quy cách chủng loại, màu sắc, kích cỡ được ưa thích, giá cả để từ đó xem xét các khía cạnh thương phẩm hàng hoá hiểu rõ giá trị và công dụng các đặc tính của hàng hoá. + Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? Khả năng tiêu thụ của mặt hàng đó như thế nào, có phù hợp với tập quán tiêu dùng, thị hiếu của người tiêu dùng không? Trên cơ sở nắm bắt được thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng nhà kinh doanh sẽ dễ dàng hơn trong việc nắm bắt và thoả mãn nhu cầu và có cơ sở để tiến hành hoạt động xuất khẩu. + Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Mỗi một mặt hàng có thời gian tồn tại nhất định, biểu hiện qua chu kỳ sống của sản phẩm. Chu kỳ sống của sản phẩm gồm bốn giai đoạn, giai đoạn triển khai, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn bão hoà, giai đoạn suy thoái. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm khác nhau do đó nhà kinh doanh phải xác định được sản phẩm mà mình sẽ kinh doanh xuất khẩu đang ở vào giai đoạn nào của chu kỳ sống, từ đó có biện pháp thích hợp nhằm tăng doanh thu. + Tình hình sản xuất các mặt hàng xuất khẩu ? Nếu doanh nghiệp là doanh nghiệp thương mại thì cần phải tìm hiểu tình hình cung cấp mặt hàng mà doanh nghiệp mình dự định xuất khẩu. Xem xét khả năng sản xuất, mức tiến bộ khoa học kỹ thuật... để có thể đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định. Nếu là doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu thì doanh nghiệp cần phải xem xét khả năng sản xuất của công ty mình liệu có đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ xuất khẩu hay không? Lựa chọn thị trường xuất khẩu Việc lựa chọn thị trường xuất khẩu là một vấn đề rất phức tạp và quan trọng trong quyết định chiến lược xuất khẩu. Nó liên quan trực tiếp đến sự thành công của công ty và cho phép tiết kiệm thời gian, chi phí để thâm nhập và phát triển thị trường bên ngoài. Tiêu chuẩn để lựa chọn thị trường xuất khẩu : Tiêu chuẩn chung Về chính trị + Có những chính thể này thuận lợi hơn những chính thể khác đối với xuất khẩu + Nghiên cứu những bất chắc chính trị và sự ổn định của chính thể Về địa lý + Khoảng cách xa gần + Khí hậu + Tháp tuổi + Sự phân bố dân cư trên lãnh thổ Về kinh tế + Tổng sản phẩm trong nước-GDP + Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người + Tỷ lệ phát triển tổng sản phẩm quốc dân + Đã có những thoả thuận hay hiệp định gì Về kỹ thuật: những khu vực phát triển và triển vọng phát triển khoa học kỹ thuật Tiêu chuẩn về quy chế thương mại và tiền tệ Biện pháp bảo hộ mậu dịch + Thuế quan + Giấy chứng nhận y tế + Những độc quyền + Các giấy phép và hạn ngạch + Các thuế phí + Các định mức Tình hình tiền tệ + Tỷ lệ lạm phát + Diễn biến của tỷ giá hối đoái + Sức mua của đồng tiền Tiêu chuẩn về thương mại + Phần của sản xuất nội địa + Sự hiện diện của hàng hoá Việt Nam trên các thị trường đó + Sự cạnh tranh quốc tế trên các thị trường đã lựa chọn Các tiêu chuẩn trên sau đó phải được cân nhắc, điều chỉnh tuỳ theo mức độ quan trọng của chúng đối với doanh nghiệp. Lựa chọn bạn hàng giao dịch Việc lựa chọn bạn hàng giao dịch dựa trên cơ sở xem xét các vấn đề sau: Tình hình sản xuất kinh doanh Lĩnh vực và phương thức kinh doanh Thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác về “chữ tín” trong kinh doanh với bạn hàng Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật (khả năng tài chính) Uy tín và mối quan hệ của đối tác Người đại diện của đối tác (nếu có) và phạm vi trách nhiệm của họ Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn đối tác trực tiếp, tránh những đối tác trung gian, trừ trường hợp công ty muốn thâm nhập vào thị trường mới mà chưa có kinh nghiệm. Việc lựa chọn các đối tác giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết, cơ sở vững chắc để thực hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế từ đó mang lại thành công cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá. Tóm lại, nghiên cứu thị trường trong hoạt động xuất khẩu là hết sức cần thiết. Đó là bước chuẩn bị và là tiền đề để doanh nghiệp có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả cao nhất. 2.2. Xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất khẩu Sau khi đã tiến hành nghiên cứu thị trường, bước tiếp theo là doanh nghiệp xuất khẩu cần tiến hành xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất khẩu. Kế hoạch kinh doanh xuất khẩu là căn cứ để đàm phán giao dịch đối ngoại, tiêu thụ hàng hoá và bố trí nghiệp vụ xuất khẩu. Nội dung xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất khẩu gồm các công việc sau: Bước 1: Xây dựng kế hoạch tạo nguồn cho xuất khẩu Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn bộ những hoạt động từ đầu tư, sản xuất kinh doanh cho đến các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, vận chuyển, bảo quản sơ chế- phân loại nhằm tạo ra hàng hoá có đầy đủ các tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu. Có hai cách để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu: - Đối với doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu trực tiếp thì tạo nguồn hàng xuất khẩu là việc tổ chức sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của khách hàng. - Đối với doanh nghiệp thương mại, thì tạo nguồn hàng xuất khẩu bằng cách thu gom hàng từ các cơ sở sản xuất. Bước 2: Lập kế hoạch xuất khẩu Kế hoạch xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu có thể chủ động trong mọi tình huống có thể xuất khẩu nhanh chóng kịp thời giải quyết các tình huống khó khăn để bảo đảm cho tiến độ kinh doanh xuất khẩu. Nội dung kế hoạch xuất khẩu: + Doanh nghiệp phải xác định được thị trường xuất khẩu + Số lượng hàng hoá xuất khẩu sang thị trường xuất khẩu đó + Giá xuất khẩu, phương thức xuất khẩu, phương thức thanh toán +Lập kế hoạch giao dịch ký kết hợp đồng với bạn hàng, bao gồm: Lập danh mục các bạn hàng giao dịch Lập danh mục các hàng hoá Dự kiến số lượng bán cho từng khách hàng Thời hạn giao dịch 2.3. Tổ chức giao dịch, đàm phán và ký kết hợp đồng 2.3.1.Hình thức, nội dung và trình tự đàm phán giao dịch Các hình thức đàm phán giao dịch Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường là giai đoạn đàm phán giao dịch, thương lượng về các điều kiện để đi đến ký kết hợp đồng. Trong buôn bán quốc tế có ba hình thức giao dịch đàm phán phổ biến: - Đàm phán giao dịch qua thư tín Đây là hình thức giao dịch đàm phán thuận tiện, đỡ tốn kém nhất thường được sử dụng rộng rãi và thường xuyên nhất, chủ động về thời gian gửi thông báo. Nhưng việc giao dịch qua thư tín thường đòi hỏi nhiều thời gian chờ đợi có thể cơ hội mua bán tốt sẽ trôi qua. Do đó hình thức giao dịch đàm phán này chỉ thường dùng khi vấn đề không phức tạp, dễ diễn đạt, dễ hiểu nhau hoặc dùng khi ký hợp đồng trị giá nhỏ. - Đàm phán giao dịch qua điện thoại Trao đổi đàm phán qua điện thoại là hình thức giao dịch miệng. Trong giao dịch quốc tế, hình thức giao dịch này được dùng khá phổ biến. Vì việc trao đổi qua điện thoại nhanh chóng, giúp người giao dịch tiến hành đàm phán một cách khẩn trương, đúng thời cơ cần thiết. Tuy nhiên phí tổn điện thoại quốc tế rất cao, các cuộc trao đổi bằng điện thoại thường phải hạn chế về mặt thời gian, các bên không thể trình bày chi tiết. Hơn nữa trao đổi qua điện thoại thì không có gì làm bằng chứng cho những thoả thuận quyết định. Do vậy điện thoại chỉ được dùng trong những trường hợp cần thiết thật khẩn trương, sợ lỡ thời cơ hoặc trong những trường hợp mà mọi điều kiện đã thoả thuận xong, chỉ còn xác nhận một vài chi tiết. Giao dịch đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp Việc gặp gỡ trực tiếp giữa hai bên để trao đổi về điều kiện giao dịch, về mọi vấn đề liên quan đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán là hình thức đặc biệt quan trọng. Hình thức đàm phán này có ưu điểm là đẩy nhanh tốc độ giải quyết mọi vấn đề giữa hai bên và nhiều khi là lối thoát cho những cuộc đàm phán bằng thư tín hoặc điện thoại đã kéo dài quá lâu mà không có kết quả. Việc hai bên mua bán trực tiếp gặp gỡ nhau tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt lâu dài với nhau hơn. Hình thức đàm phán này thường được dùng khi hai bên có điều kiện phải giải thích cặn kẽ dễ thuyết phục nhau, khi đàm phán về những hợp đồng lớn, những hợp đồng có tính chất phức tạp. Nội dung của giao dịch đàm phán Nội dung của giao dịch đàm phán có liên quan tới các điều khoản của hợp đồng mua bán hàng hoá ký kết trong đó bao gồm: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, bốc xếp vận chuyển, bảo hiểm, thanh toán, bồi thường, trọng tài và trường hợp bất khả kháng. Trình tự giao dịch - Hỏi giá Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước vào giao dịch. Nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc bên mua đề nghị bên bán cho biết những điều kiện bán hàng như giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán. - Chào hàng (phát giá) Luật pháp coi đây là lời đề nghị ký hợp đồng và như vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra .Nhưng trong buôn bán quốc tế thì phát giá là chào hàng, đó là việc nhà xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình. Trong chào hàng ta nêu rõ: Tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng, thời gian giao hàng, điều kiện thanh toán, bao bì, kỹ mã hiệu, thể thức giao nhận hàng...Trong trường hợp hai bên đã có quan hệ với nhau hoặc có điều kiện chung giao hàng, thì chỉ cần nêu những nội dung cần thiết cho lần giao hàng đó. - Hoàn giá Là sự mặc cả về giá hoặc về các điều kiện giao dịch. Khi nhận được chào hàng không chấp thuận hoàn toàn chào hàng đó, mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này gọi là trả giá. - Chấp nhận Là sự đồng ý hoàn toàn mọi điều kiện của chào hàng (hay đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. - Xác nhận Hai bên mua bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về giao dịch thì lập văn bản xác nhận của một trong hai bên hoặc cả hai bên khẳng định sự thoả thuận mua bán. 2.3.2.Ký kết hợp đồng xuất khẩu Việc giao dịch đàm phán đạt kết quả kinh tốt thì coi như đã hoàn thành công việc ký kết hợp đồng. Ký kết hợp đồng có thể được ký kết trực tiếp hoặc thông qua tài liệu. Hợp đồng có thể được ký kết bằng miệng hoặc dưới hình thức văn bản 2.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu đồng thời có ảnh hưởng đối với doanh nghiệp và các mối quan hệ bạn hàng. Sau khi hợp đồng mua bán hàng hoá xuất khẩu đã được ký kết, công ty xuất khẩu với tư cách là một bên ký kết - phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực hiện hợp đồng, công ty xuất khẩu phải cố gắng tiết kiệm chi phí lưu thông, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ giao dịch. Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu công ty phải tiến hành các công việc như sơ đồ 1. Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu Hợp đồng xuất khẩu Xin GP xuất khẩu Kiểm tra L/C Chuẩn bị hàng XK Thuê p.t vận chuyển Kiểm tra hàng XK Giải quyết khiếu nại Mua bảo hiểm Làm thủ tục thanh toán Giao hàng Làm thủ tục HQ Kiểm tra L/C: Nếu hai bên thoả thuận trong hợp đồng xuất khẩu mọi thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ thì sau khi ký kết hợp đồng, nguời xuất khẩu đôn đốc người nhập khẩu ở nước ngoài mở L/C đúng thời hạn và nội dung như hợp đồng quy định. Sau khi nhận được L/C người xuất khẩu phải kiểm tra, so sánh với nội dung và điều kiện ghi ở hợp đồng, nếu có chỗ nào chưa phù hợp phải yêu cầu bên nhập khẩu sửa chữa bằng văn bản. Xin giấy phép xuất khẩu (nếu có) Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Vì thế doanh nghiệp trước khi tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá phải xin giấy phép xuất khẩu. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, công ty xuất khẩu phải chuẩn bị tốt hàng theo đúng thời gian, đúng số lượng, bao bì, ký mã hiệu. Đối với những công ty xuất khẩu là công ty thương mại kinh doanh xuất nhập khẩu thì việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm các công việc sau: + Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu + Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu + Kẻ ký mã hiệu hàng hoá Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, thì không phải làm nhiệm vụ thu gom hàng xuất khẩu. Để có hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường nước ngoài cần loại hàng hoá gì, số lượng bao nhiêu, tiến hành giao dịch với khách hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng giống như các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết để có thể hạn chế và được loại trừ khuyết tật của hàng hoá, đó là sự tiếp tục quá trình công đoạn thực hiện hợp đồng kinh doanh xuất khẩu . Trước khi xuất khẩu, các công ty xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì. Công tác kiểm tra chất lượng hàng hoá được tiến hành ngay sau khi chuẩn bị đóng gói tại cơ sở, còn tại cửa khẩu, công việc này sẽ được tiến hành do khách hàng trực tiếp kiểm tra hay do cơ quan do thẩm quyền kiểm tra, tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của đôi bên. Thuê phương tiện vận chuyển Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, việc thuê phương tiện vận chuyển chủ hàng dựa vào các căn cứ sau: + Những điều khoản trong hợp đồng + Đặc điểm hàng hoá xuất khẩu + Điều kiện vận tải Việc thuê phương tiện , lưu cước đòi hỏi có nhiều kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị trường và tinh thông về các điều kiện thuê phương tiện... Mua bảo hiểm Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy trong kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và kinh doanh xuất khẩu hàng hoá nói riêng, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất, việc mua bảo hiểm loại nào cần căn cứ vào tính chất hàng hoá, tình trạng bao bì, tình hình an ninh-chính trị của các nước có liên quan, tình hình thời tiết... Làm thủ tục hải quan Hàng hoá khi đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu: Khai báo hải quan Xuất trình hàng hoá Thực hiện các quy định của hải quan. Giao nhận hàng Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu được giao bằng đường biển, đường sắt và bằng container. Tuỳ theo thoả thuận mà việc giao hàng lên phương tiện vận chuyển thuộc trách nhiệm của ngươì bán hoặc người mua. Làm thủ tục thanh toán Thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng. Hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu một phần là nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là bước bảo đảm cho người xuất khẩu thu được tiền về và người nhập khẩu nhận được hàng hoá. Có nhiều phương thức thanh toán được sử dụng trong buôn bán quốc tế, nhà xuất khẩu cần phải biết lựa chọn phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán, điều kiện đảm bảo thanh toán phù hợp và sao cho có lợi nhất. Hai phương thức thanh toán được sử dụng là phương thức thanh toán bằng L/C và phương thức nhờ thu. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại (nếu có) Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể xảy ra những vấn đề phức tạp, không mong muốn làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp đồng. Khi đó hai bên cần có thiện chí trao đổi, thảo luận để giải quyết. Nếu giải quyết không thành thì có thể tiến hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài. Thông thường kiện tụng được đưa ra giải quyết ở cơ quan trọng tài quốc tế. Sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp thường được áp dụng vì án phí rẻ hơn so với toà án, giải quyết nhanh bảo đảm được bí mật. Phán quyết của trọng tài kinh tế là trung thẩm có giá trị bắt buộc đối với hai bên. Tóm lại, việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu là hết sức quan trọng. Kết quả của nó phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Thực hiện tốt các hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là cơ sở để nâng cao uy tín, đặt mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng, tạo điều kiện mở rộng phản ứng kinh doanh và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 2.5. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu Việc đánh giá hiêụ quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Bởi nó cho phép doanh nghiệp xác định đựơc hiệu quả kinh doanh của một hợp đồng xuất khẩu và của công việc kinh doanh qua việc đánh giá, doanh nghiệp sẽ tìm ra được những hạn chế của hoạt động để có hướng khắc phục đồng thời phát huy những lợi thế, điểm mạnh của doanh nghiệp. Để đánh giá hoạt động xuất khẩu có hiệu quả hay không chúng ta phải so sánh những kết quả đạt được với những tiêu chuẩn thông qua hệ thống chỉ tiêu về hiệu quả. Kết quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp có thể chia thành 2 loại: Các kết quả định lượng Các kết quả định tính Từ đó có các chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng và chỉ tiêu phản ánh kết quả định tính. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả định lượng: - Lợi nhuận: đây là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp kết quả của từng hợp đồng xuất khẩu, là chỉ tiêu phản ánh cuối cùng và quan trọng nhất. Lợi nhuận là số tiền có được sau khi đã trừ toàn bộ chi phí liên quan đến việc thực hiện hợp đồng đó trong tổng doanh thu có được của hợp đồng Công thức tính lợi nhuận: P = TR-TC Trong đó P là lợi nhuận TR là tổng doanh thu TC là tổng chi phí - Tỷ suất lợi nhuận cho biết hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả ở mức độ nào. Công thức tính: P’=P/TC Trong đó P’ là tỷ suất lợi nhuận Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận nói lên rằng: Tỷ lệ % lãi so với tổng chi phí của doanh nghiệp sau khi thực hiện hợp đồng, hay khả năng sinh lời của một đồng chi phí. Chỉ tiêu này có thể so sánh với tỷ suất lãi của ngân hàng hoặc so với một tiêu chuẩn nào đó. - Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu: là tỷ lệ giữa tổng chi phí tính bằng nội tệ trên doanh thu tính bằng ngoại tệ. Chỉ tiêu này đem so với tỷ giá hối đoái của ngân hàng, nếu chỉ tiêu trên bé hơn tỷ giá hối đoái thì việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả và ngược lại. Công thức tính: Chỉ tiêu phản ánh kết quả định tính: Hợp đồng xuất khẩu cũng như hợp đồng kinh doanh khác của doanh nghiệp, nó không chỉ nhằm vào mục tiêu lợi nhuận mà còn có nhiều mục tiêu khác như: mở rộng thị trường, định vị sản phẩm, cạnh tranh... có nhiều doanh nghiệp bước đầu phải chịu lỗ để đạt được mục tiêu về cạnh tranh mở rộng thị trường. Kết quả của việc thâm nhập và mở rộng thị trường có được sau một thời gian nỗ lực không ngừng của doanh nghiệp trong việc thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của mình. Kết quả này biểu hiện ở thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp, khả năng mở rộng sang các thị trường khác, mối quan hệ với khách hàng được mở rộng đến đâu và khả năng khai thác các thị trường... Hiện nay vấn đề thị trường và khách hàng là vấn đề hết sức khó khăn nó trở thành mục tiêu không kém phần quan trọng. Khả năng mở rộng thị trường, quan hệ buôn bán với khách hàng như thế nào doanh nghiệp rất khó trong việc đánh giá, đặc biệt là quan hệ với khách hàng người nước ngoài. Sau mỗi hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp phải xem xét lại mối quan hệ làm ăn có được phát triển hay không, mức độ hài lòng của khách hàng. Về vấn đề uy tín của doanh nghiệp: Sau mỗi lần hoàn thành một hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp cũng cần phải xem xét uy tín của mình trên thương trường: sản phẩm của mình có được ưa thích không, có được nhiều người biết đến hay không. Nói chung trong quan hệ làm ăn buôn bán doanh nghiệp cần phải giữ uy tín không vi phạm hợp đồng. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu nói chung có thể được phân thành 2 nhóm nhân tố chính : 1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp Môi trường bên ngoài doanh nghiệp bao gồm những nhân tố khó kiểm soát đối với doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của công ty. Việc xác định những nhân tố này sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động trong mọi tình huống, linh hoạt trong việc đối phó và giải quyết những vấn đề khó khăn rủi ro bất ngờ có thể xảy ra đồng thời hạn chế được bớt các rủi ro có thể xảy ra gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh cuả công ty. 1.1. Các nhân tố mang tính toàn cầu Đây là những nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Phổ biến nhất là thuế quan. Thuế quan là một loại thuế do chính phủ nước nhập khẩu qui định nhằm đánh vào những sản phẩm nhập khẩu. Nếu thuế quan mà chính phủ quy định đánh vào hàng nhập khẩu quá cao thì hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty sẽ không đem lại được lợi nhuận cho công ty, thậm chí có khi còn bị thua lỗ. Nhà xuất khẩu cũng có thể phải đối diện với một hạn ngạch. Hạn ngạch là những quy định về số lượng hàng hoá của các nước nhập khẩu mà nước xuất khẩu phải chấp nhận đối với những loại sản phẩm nào đó. Hạn ngạch được quy định nhằm giúp cho nước nhập khẩu có thể kiểm soát được lượng hàng hoá nhập khẩu,. bảo lưu ngoại hối và bảo vệ công nghệ cũng như công ăn việc làm trong nước. Thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cũng có thể bị hạn chế do việc kiểm soát ngoại hối- là việc cần điều tiết lượng ngoại tệ hiện có và tỷ giá hối đoái so với các đồng tiền khác. Các nhà kinh doanh xuất khẩu cũng có thể phải đối diện với hàng loạt các hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu, những sự quản lý điều tiết định hình như các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử với hàng nước ngoài. Mặt khác, cũng có những nỗ lực để khuyến khích thương mại tự do giữa các nước hay ít ra giữa một số ít nước khác nhau. Trong một vài thập kỷ trở lại đây, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra rất mạnh với việc hình thành và ra đời của nhiều liên minh liên kết mang tính khu vực và toàn cầu. Việc hình thành các khối liên kết, liên minh kinh tế ở những mức độ khác nhau là nhằm mục tiêu giảm bớt thuế quan giữa các nước trong khối liên kết, giảm giá cả, khuyến khích đầu tư và giải quyết việc làm, đồng thời cũng áp dụng một mức thuế quan thống nhất đối với các nước ngoài khối. Điều đó đã góp phần làm tăng hoạt động kinh doanh buôn bán và đầu tư giữa các quốc gia thành viên song cũng làm ._.giảm tỷ lệ mậu dịch giữa các nước không phải là thành viên. Như vậy, các liên kết kinh tế vừa tạo nên những cơ hội song đồng thời cũng tạo ra những thách thức đối vơí các nhà kinh doanh xuất khẩu định thâm nhập vào thị trường khu vực đó. 1.2. Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế Khi tiến hành hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang một thị trường quốc gia nào thì nhà kinh doanh xuất khẩu cần phải tiến hành nghiên cứu nền kinh tế của từng nước để hiểu và nắm rõ được cấu trúc công nghiệp, kết cấu thu nhập cũng như động thái của các nền kinh tế từ đó xác định được hướng xuất khẩu của mình là nhằm vào những quốc gia nào, thị trường nào sao cho có hiệu quả nhất mang lại lợi nhuận nhiều nhất và cao nhất. 1.3. Các nhân tố thuộc môi trường chính trị luật pháp Khi tiến hành kinh doanh xuất khẩu trên một thị trường nào hay ở bất kỳ một quốc gia nào đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét đến các nhân tố chính trị, luật pháp của các quốc gia đó, thị trường đó. Các nhân tố chính trị luật pháp có thể bao gồm: Chế độ chính trị của quốc gia Thái độ của chính phủ đối với các nhà kinh doanh nước ngoài Sự ổn định về chính trị Sự điều tiết về tiền tệ Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền Các quy định mang tính chất bắt buộc Môi trường chính trị luật pháp có thể đưa lại cơ hội hoặc thách thức cho các nhà xuất khẩu. Nếu nhà xuất khẩu am hiểu về chính trị và thông thạo luật pháp một nước nào đó và có chính sách thích nghi hợp lý thì sẽ đưa lại cho họ nhiều cơ hội kinh doanh và những thuận lợi trong quá trình kinh doanh. Ngược lại chắc chắn hoạt động hoạt động của các nhà xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức nếu không thích nghi được với sự thay đổi về thể chế chính trị và luật pháp . 1.4. Các nhân tố thuộc môi trường văn hoá Yếu tố văn hoá có ảnh hưởng tới tất cả các quyết định của nhà xuất khẩu. Mỗi nước đều có những tập tục quy tắc tập quán riêng chúng được hình thành theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng tới tập tính tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá nhiều các tập tính tiêu dùng chung cho mọi dân tộc, song những yếu tố văn hoá truyền thống có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Sự khác biệt về văn hoá có ảnh hưởng tới cách thức giao dịch sẽ tiến hành, loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua, những hình thức khuyếch trương có thể được chấp nhận. Các yếu tố văn hoá có ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu bao gồm các yếu tố như quan niệm về thời gian, quan niệm về không gian, yếu tố ngôn ngữ, kỹ thuật đàm phán, hệ thống pháp lý, cách tiêu thụ, sự quan niệm về các mối quan hệ thân thuộc. 1.5. Các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh quốc tế Khác với cạnh tranh nội địa, cạnh tranh quốc tế có những nét khác biệt, mức độ cạnh tranh gay gắt khốc liệt hơn rất nhiều. Ngày nay sự phát triển của phân công lao động quốc tế và quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã làm cho cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt do những rào cản về thương mại và đầu tư giữa các nước được cắt giảm mạnh mẽ đồng thời sự phát triển bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ lại một mặt làm tăng khả năng cạnh tranh cho một công ty, mặt khác làm cho quá trình cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt hơn. Đứng trước những xu hướng vận động mới của nền kinh tế thế giới nhà kinh doanh xuất khẩu muốn tồn tại và phát triển cần phải nhanh nhạy trong việc nắm bắt thị trường tìm kiếm những cơ hội kinh doanh với nước ngoài và liên tục có những chính sách thích hợp với sự biến động mạnh mẽ của thị trường quốc tế để vươn lên đứng vững trong cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh ngày nay không chỉ cạnh tranh dựa vào sự vượt bậc về kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ mà nay còn là sự liên doanh liên kết tạo thành các tập đoàn lớn, tạo nên thế mạnh độc quyền mang tính toàn cầu, sẽ từng bước gây khó khăn bóp chết các hoạt động xuất khẩu của các quốc gia nhỏ bé, các doanh nghiệp xuất khẩu yếu thế. Như vậy, thách thức lớn nhất và cũng là mối đe doạ nguy hiểm nhất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay là đến từ các nhân tố cạnh tranh quốc tế. 2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 2.1. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Doanh nghiệp xuất khẩu có khả năng cạnh tranh càng cao thì khả năng xuất khẩu tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp càng lớn, doanh số bán tăng nhanh và lợi nhuận thu về ngày càng cao. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Năng lực tài chính của doanh nghiệp Thể hiện ở vốn và cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, lượng tiền mặt, ngoại tệ...Với những yếu tố này doanh nghiệp có thể tạo thể cân bằng và phát triển. Vốn là một nhân tố quan trọng, nó là một biến số trong hàm sản xuất Cobb-Douglas. Doanh nghiệp phải có đủ vốn thì mới có thể phát triển sản xuất. Đồng thời cũng phải có cơ cấu vốn hợp lý nhằm phục vụ tốt cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu cơ cấu vốn không hợp lý, vốn quá nhiều mà không có lao động hoặc ngược lại thì doanh nghiệp sẽ không thể phát triển được hoặc phát triển mất cân đối. Như vậy, vốn là một nhân tố nhân tố quan trọng trong hàm sản xuất và nó quyết định đến tốc độ tăng sản lượng của doanh nghiệp. Khả năng tài chính là tiền đề và điều kiện cơ bản để doanh nghiệp xuất khẩu có thể tiến hành hoạt động xuất khẩu của mình. Một doanh nghiệp có thế mạnh trên thị trường là một doanh nghiệp có khả năng tài chính lớn. Các yếu tố thuộc về sản phẩm: Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là một đặc điểm của sản phẩm nó tác động mạnh tới quyết định tiêu dùng của người tiêu dùng đối với sản phẩm, là một trong những yếu tố có thể làm tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp xuất khẩu. Nhãn hiệu sản phẩm: có thể biểu thị bằng hình ảnh, bằng chữ hoặc được thiết kế kết hợp cả hình ảnh và từ ngữ hoặc bằng khẩu hiệu. Nhãn hiệu của sản phẩm là một công cụ cạnh tranh đảm bảo lợi thế cho doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường nước ngoài. Sản phẩm có nhãn hiệu sẽ tạo ra sự an tâm cho người tiêu dùng về chất lượng của sản phẩm đó. Do đó có thể đẩy nhanh được tốc độ tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường nước ngoài. Giá sản phẩm: Giá cả có ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm xuất khẩu. Vì vậy, doanh nghiệp khi xác định giá bán sản phẩm phải căn cứ vào mức độ cạnh tranh trên thị trường. 2.2. Trình độ quản lý của doanh nghiệp. Biểu hiện thông qua các yếu tố sau : - Ban lãnh đạo DN: là bộ phận đầu não của doanh nghiệp. Trình độ quản lý của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng của Công ty. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của thị trường xuất khẩu cùng với sự chỉ đạo điều hành giỏi của Ban lãnh đạo doanh nghiệp sẽ là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng. - Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Một cơ cấu tổ chức đúng đắn, gọn nhẹ sẽ phát huy được tinh thần đoàn kết và sức mạnh tập thể, đồng thời vẫn đảm bảo cho việc ra quyết định và thực hiện các quyết định sản xuất kinh doanh nhanh chóng, chính xác. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp giải quyết những vấn đề nảy sinh, đối phó được với các tình huống bất trắc hiệu quả, nhanh gọn, đồng thời thích ứng được với những biến đổi của môi trường kinh doanh và nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. - Trình độ của đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh xuất khẩu: Đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp có vai trò quyết định đối với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp xuất khẩu trên thương trường quốc tế. Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể được tiến hành khi đã có sự nghiên cứu tỷ mỉ về thị trường, về đối tác, các đối thủ cạnh tranh, phương thức giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng... Nếu doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ kinh doanh am hiểu về thị trường quốc tế, có khả năng phân tích và dự báo những xu hướng vận động của thị trường, khả năng giao dịch - đàm phán tốt, đồng thời thông thạo các nghiệp vụ xuất khẩu thì doanh nghiệp xuất khẩu mới có cơ hội đạt được thành công trong hoạt động xuất khẩu của mình. 2.3. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh năng lực sản xuất hiện có của doanh nghiệp . Nó bao gồm các nguồn lực vật chất phục vụ cho sản xuất, nguồn tài nguyên, nguyên nhiên liệu, nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp. Nó là yếu tố cơ bản để doanh nghiệp xuất khẩu có thể phát triển sản xuất và mở rộng hoạt động xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế. III. ý nghĩa của việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu 1. Đối với nền kinh tế quốc dân Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh trên phạm vi quốc tế. Nó là một bộ phận cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tê, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta. Với một nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh, việc đẩy mạnh xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm cải thiện đời sống, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược lâu dài. Đảng và nhà nước ta đã chủ trương mở rộng phát triển mối quan hệ kinh tế đối ngoại trên cơ sở hợp tác bình đẳng không phân biệt chế độ chính trị xã hội đôi bên cùng có lợi, phát triển nên kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu. Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó chúng ta phải nhận thức rõ được ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng hoá: Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn, nguồn ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán, tăng lượng dự trữ ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ phát triển kinh tế, phục vụ quá trình công nghiệp hoá đất nước. Thông qua việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh chúng ta có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng hợp lý các nguồn lực, trao đổi các thành tưu khoa học công nghệ tiên tiến. Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đồng thời phát triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có tính cạnh tranh ngày càng cao hơn. Thông qua hoạt động xuất khẩu, tính cạnh tranh được nâng cao chính nhờ sự cạnh tranh này mà chất lượng hàng hoá không ngừng được tăng lên tạo điều kiện tăng năng lực sản xuất thể hiện nội lực kinh tế của đất nước. Không những thế, xuất khẩu phát triển sẽ phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị sản xuất kinh doanh xuất khẩu và các tổ chức xã hội. Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động. Việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu thu hút hàng triệu người lao động và làm việc, việc xuất khẩu càng tăng thì càng thu hút được nhiều lao động góp phần nâng cao trình độ tay nghề, kỹ thuật của công nhân, tăng năng suất lao động và tăng thu nhập cho người lao động. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. Thông qua hoạt động xuất khẩu, môi trường kinh tế được mở rộng, tính cạnh tranh ngày càng cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn có sự đổi mới để thích nghi, đáp ứng nhu cầu thị trường. Hoạt động xuất khẩu góp phần hoàn thiện các cơ chế quản lý xuất khẩu của nhà nước và của từng địa phương phù hợp với nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu. Mặt khác hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các ngành sản xuất khác phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu phát triển như ngành bảo hiểm, hàng hải, thông tin liên lạc quốc tế dịch vụ tài chính quốc tế đầu tư... Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thu sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khả năng cung cấp đầu tư trở lại cho sản xuất, tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời nâng cao năng lực sản xuất trong nước, điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn đưa kỹ thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. 2. Đối với doanh nghiệp Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nghĩa là mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng nhất vì sản phẩm sản xuất ra có tiêu thu được thì mới thu được vốn, có lợi nhuận để tái sản xuất... từ đó mở rộng sản xuất tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển. Hoạt động xuất khẩu sẽ mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi nhuận, những lợi ích trước mắt và lâu dài tăng tài sản vô hình của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Đồng thời tạo nhiều vốn để mở rộng lĩnh vực kinh doanh, đào tạo cán bộ đổi mới công nghệ, khai thác được các tiềm lực hiện có, tạo ra được việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Cũng thông qua đó, doanh nghiệp có cơ hội tiếp thu học hỏi những kinh nghiệm về kiến thức trong kinh doanh, về trình độ quản lý, giúp tiếp cận với những công nghệ mới, hiện đại, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực mới thích nghi với điều kiện kinh doanh mới... nhằm cho ra đời những sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng, phong phú. Vì vậy hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và với doanh nghiệp khi xu hướng quốc tế hoá khu vực hoá, và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mở rộng. Chỉ nhờ hoạt động xuất khẩu chúng ta mới phát huy và tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và ưu thế trong nước cũng như tạo ra được cơ hội nhanh chóng hiệu quả nhất để đất nước có thể hoà nhập được với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phần II Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai Tên công ty: Công ty dệt Minh Khai Tên giao dịch quốc tế: Minh Khai Textile Company Trụ sở chính: 423 Đường Minh Khai-Hà Nội I. Giới thiệu khái quát về công ty dệt Minh Khai: 1. Lịch sử hình thành của công ty: Công ty dệt Minh Khai là một trong những đơn vị chủ lực của ngành công nghiệp Hà Nội , thuộc sự quản lý của sở công nghiệp Hà Nội. Công ty được khởi công xây dựng từ cuối những năm 60-đầu những năm 70 của thế kỷ 20. Đây là thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở Miền Bắc Việt Nam đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Vì vậy, việc xây dựng công ty có những thời gian bị gián đoạn và phải dời đi sơ tán ở những địa điểm khác nhau trên địa bàn Hà Nội. Đến đầu những năm 70, công ty chuyển về đóng trụ sở tại địa bàn phía Đông Nam thành phố Hà Nội. Năm 1974, Công ty cơ bản được xây dựng xong và chính thức được thành lập theo quyết định của UBND thành phố với tên gọi là Nhà máy dệt khăn mặt khăn tay. Cũng năm đó nhà máy đi vào sản xuất thử và đến năm 1975 công ty chính thức nhận kế hoạch của nhà nước giao. Đến năm 1983, công ty đổi tên thành: Nhà máy dệt Minh Khai. Năm 1992, công ty được thành lập lại theo quyết định số 338/TTg của thủ tướng chính phủ với số vốn là 8,680 tỷ đồng, trong đó: Vốn ngân sách cấp: 1,300 tỷ đồng Vốn huy động (vay): 7,380 tỷ đồng Năm 1994, để thuận tiện trong giao dịch sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, nhà máy đổi tên thành Công ty dệt Minh Khai. Đến 2002, công ty dệt Minh Khai đã đạt đến quy mô: Diện tích mặt bằng: gần 4 ha Công ty gồm 4 phân xưởng sản xuất, 5 phòng chức năng, với tổng số cán bộ công nhân viên trong danh sách 1011 người. Số ngày làm việc trong năm: 350 ngày Số ca làm việc trong ngày: 3 ca Số giờ làm việc trong ca: 8h Thu nhập bình quân đầu người: 900.000 đ/người/tháng Công ty dệt Minh Khai là một doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong nghành công nghiệp địa phương của Hà Nội, đóng góp một phần đáng kể vào GDP của địa phương, đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động của thành phố và của các tỉnh lân cận. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty là sản xuất các loại khăn bông, khăn tắm, khăn ăn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Cho đến nay cơ cấu sản phẩm của công ty đã được mở rộng và đa dạng hơn, gồm: các loại khăn bông thường, khăn bông in hoa, khăn bông dệt Dobby, khăn bông dệt Jacquard, áo choàng tắm, khăn nhà bếp, màn tuyn... Các sản phẩm này chủ yếu là phục vụ xuất khẩu , ngoài ra được tiêu thụ tại các đại lý, siêu thị, khách sạn trong nước. 2. Quá trình phát triển: * Giai đoạn 1974-1980: Trong thời gian đầu mới thành lập và đi vào hoạt động, công ty gặp rất nhiều khó khăn do nhà xưởng xây dựng chưa hoàn chỉnh, thiết bị do Trung Quốc viện trợ về lắp đặt không đồng bộ, khâu đầu của dây chuyền sản xuất không hoạt động được phải làm theo phương pháp thủ công. Số máy ban đầu của công ty chỉ có 260 máy dệt thoi khổ hẹp của Trung Quốc, tài sản cố định của công ty khi đó mới chỉ có gần 3 triệu đồng. Là đơn vị đầu tiên của miền Bắc sản xuất mặt hàng khăn bông nên nhiều thông số kỹ thuật không có sẵn, mà phải vừa làm vừa mò mẫm tìm tòi. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề thiếu nhiều. Do vậy, những năm đầu sản xuất công ty mới chỉ đưa vào hoạt động được hơn 100 máy dệt, số cán bộ công nhân viên là 415 người. Năm 1975, năm đầu tiên đi vào sản xuất, công ty mới chỉ đạt: - Giá trị tổng sản lượng gần 2,5 triệu đồng - Sản phẩm chủ yếu gần 2 triệu khăn các loại. Những năm tiếp theo, hoạt động của công ty dần đi vào ổn định, việc xây dựng và hoàn thiện dây chuyền sản xuất được tiếp tục, năng lực sản xuất được tăng thêm, lao động được bổ sung, năng suất lao động và doanh thu ngày càng tăng. * Giai đoạn 1981-1989: Đây là thời kỳ phát triển cao của công ty. Những năm này, công ty được thành phố đầu tư thêm cho một dây chuyền công nghệ dệt kim đan dọc của CHDC Đức (cũ) để dệt các loại vải tuyn, rèm, valide. Như vậy, về mặt sản xuất, công ty đã được giao cùng một lúc quản lý và triển khai thực hiện 2 quy trình công nghệ dệt khác nhau là dệt kim đan dọc và dệt thoi. Công ty cũng đã tập trung đầu tư chiều sâu, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, bằng mọi phương pháp kinh tế và kỹ thuật đưa dần toàn bộ máy móc thiết bị ở khâu đầu dây chuyền sản xuất như: nồi hơi, nồi nấu áp lực, máy nhuộm, máy sấy sợi đi vào hoạt động, phục vụ cho sản xuất. Nhờ đó công ty đã chấm dứt được tình trạng khâu đầu của sản xuất phải làm thủ công và đi thuê ngoài gia công. Cũng trong thời kỳ này, để tháo gỡ những khó khăn về vấn đề nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ, chủ động sản xuất kinh doanh, công ty đã chỉnh hướng sản xuất kinh doanh từ chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa sang lĩnh vực sản xuất phục vụ cho xuất khẩu là chủ yếu (xuất khẩu sang cả 2 thị trường XHCN và TBCN). Năm 1981, thông qua công ty xuất nhập khẩu hàng dệt TEXTIMEX, công ty đã ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn sang CHDC Đức và Liên Xô . Năm 1983, công ty bắt đầu sản xuất khăn ăn xuất khẩu cho thị trường Nhật Bản với sự giúp đỡ của UNIMEX Hà Nội, và từ đó đến nay, lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này ngày càng lớn, thị phần của công ty trong thị trường Nhật Bản ngày càng tăng. Đặc biệt từ năm 1988, công ty được Nhà nước cho phép thực hiện xuất khẩu trực tiếp, trở thành công ty đầu tiên ở miền Bắc được Nhà nước cho phép làm thí điểm về xuất nhập khẩu trực tiếp sang thị trường nước ngoài. Trong thời kỳ 1981-1989, mức tăng trưởng trong sản xuất kinh doanh của công ty luôn ở mức cao (từ 9-11%/năm) , đặc biệt là chỉ tiêu xuất khẩu. * Giai đoạn 1990 đến nay: Bước vào thời kỳ những năm 90, nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế quản lý mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội VI - VII của Đảng. Tình hình chính trị ở các nước cũng biến động nhiều. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ, các quan hệ bạn hàng của công ty với các nước này cũng không còn, công ty mất đi một thị trường quan trọng và truyền thống. Trong lịch sử hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, có thể nói đây là thời kỳ mà công ty gặp nhiều khó khăn lớn nhất, những thách thức khắc nghiệt nhất. Vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh thiếu trầm trọng, máy móc thiết bị đầu tư ở giai đoạn trước đã cũ và lạc hậu, không đủ đáp ứng cho yêu cầu mới. Đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty quá đông và đã quen với cơ chế bao cấp nay chuyển sang cơ chế mới không dễ thích nghi. Trước tình hình đó, bằng những nỗ lực cố gắng, chủ động sáng tạo của bản thân công ty, cùng với sự quan tâm của lãnh đạo cấp trên, sự hỗ trợ của các đơn vị bạn, công ty tập trung sức tháo gỡ những khó khăn, giải quyết từ những vấn đề quan trọng nhất về thị trường, về vốn, và về tổ chức lại sản xuất, lựa chọn bố trí lại lao động... Nhờ đó công ty đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường, ổn định và phát triển theo hướng xuất khẩu là chính, hoàn thành các nghĩa vụ với Nhà nước, bảo toàn và phát triển được vốn cho sản xuất kinh doan, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Nhìn lại quá trình hơn 20 năm xây dựng và phát triển của công ty, tuy có lúc thăng trầm, song đó chỉ là những bước nhất định trong một tiến trình phát triển và đổi mới đi lên. Điều này được thể hiện thông qua kết quả như sau: Giá trị tổng sản lượng năm 1975, công ty mới chỉ đạt được gần 2,5 triệu đồng, năm 1990, đã đạt hơn 9,1 tỷ đồng. Sản phẩm chủ yếu, những năm đầu mới chỉ đạt được gần 2 triệu sản phẩm khăn các loại cho nhu cầu nội địa. Năm 1995 đã có sản phẩm xuất khẩu (85% sản phẩm khăn ) và sản xuất thêm mặt hàng màn tuyn. Doanh thu đạt gần 3,5 triệu đồng năm 1975, những năm 1990 đã đạt 13,5 tỷ đồngvà đến năm 1997 đạt 54,6 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 đạt 1.635.666 USD. Năm 1997 đạt 3.588.397 USD. Nộp ngân sách năm đầu tiên gần 68.000 triệu đồng, năm 1990 nộp 525,9 triệu đồng và đến năm 1997 nộp 1.534,8 triệu đồng. Công tác khoa học kĩ thuật được đặc biệt chú ý và được coi là biện pháp hàng đầu để thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong hơn 20 năm, công ty đã chế thử được hơn 300 mẫu sản phẩm và đã đưa vào sản xuất trong đó 100 mẫu được khách hàng chấp nhận. Bước sang năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và thế giới, công ty dệt Minh Khai lại phải đối mặt với thử thách to lớn về tài chính và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường chủ yếu của công ty là Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính, đồng Yên mất giá nhiều so với đồng đô la Mỹ, do đó chính phủ Nhật Bản hạn chế việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và người dân Nhật cũng phải cắt giảm chi tiêu. Các khách hàng Nhật Bản của công ty liên tiếp yêu cầu giảm giá và cắt giảm lượng đặt hàng, điều này gây ảnh hưởng lớn tới tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Hơn thế nữa, tình hình cạnh tranh giữa các ngành sản xuất trong nước với nhau và với hàng khăn bông Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt. Trước tình hình đó, một mặt công ty áp dụng mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào, tổ chức lại sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm để giảm giá thành sản phẩm. Mặt khác đẩy mạnh hơn nữa công tác kỹ thuật đầu tư đổi mới các thiết bị công nghệ nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước trong khu vực. Qua đó công ty đã có thể giữ được thị phần tại Nhật trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt, đồng thời có những bước chuẩn bị điều kiện và khả năng để mở rộng thị trường sang khu vực Âu- Mỹ. Trên đây là sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công tydệt Minh Khai. Với lịch sử phát triển của mình, công ty dệt Minh Khai đã đạt được một số thành tựu lớn, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta, hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, xứng đáng là một công ty lớn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và thành phố Hà Nội . II. Những đặc điểm chủ yếu của công ty có ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu : 1. Tính chất và nhiệm vụ sản xuất: Công ty dệt Minh Khai là một công ty chuyên sản xuất và xuất khẩu các loại khăn bông, áo choàng tắm, màn tuyn và vải tuyn, đồng thời đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng trong nước. Sản phẩm của công ty được sản xuất hàng loạt trên dây chuyền với số lượng lớn, kiểu dáng phong phú, đa dạng, nhiều màu sắc do phòng kỹ thuật thiết kế trên máy vi tính. Công ty không đặt ra kế hoạch sản xuất trong thời gian dài mà đề ra kế hoạch theo năm, năm trước đặt kế hoạch cho năm sau tren cơ sở phân tích năng lực sản xuất hiện có của công ty về các mặt vốn, công nghệ, lao động...Bên cạnh đó công ty cũng căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm của năm trước và những biến động trên thị trường. Công ty chủ yếu sản xuất theo đơn đặt hàng của khách hàng mà chủ yếu là các khách hàng Nhật Bản nên tính chất và nhiệm vụ khó ổn định. Thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt làm cho công tác lập kế hoạch của công ty gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do khách hàng chủ yếu của công ty là các bạn hàng Nhật Bản cộng với sự cạnh tranh gay gắt nên vấn đề đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã, chủng loại, cải tiến chất lượng và giá cả phù hợp với người tiêu dùng là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty. 2. Đặc điểm về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm của công ty; Sản phẩm của công ty là sản phẩm thiết yếu đối với người tiêu dùng, là vật dụng không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngàycủa người tiêu dùng như khăn mặt, khăn tắm , màn tuyn... Sản phẩm của công ty mang tính chất sử dụng nhiều lần, có tác dụng giữ gìn vệ sinh, và bảo vệ sức khoẻ. Sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân nên đòi hỏi bền, mềm, thấm nước, màu sắc, mẫu mã phong phú, không phai màu, nhiều kích cỡ khác nhau, độ dày mỏng phù hợp. Do nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của người dân ngày càng cao, cùng sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật nên công ty đã không ngừng cải tiến, thiết kế ra những mẫu mới. Hơn nữa các sản phẩm của công ty không những chỉ phong phú về kiểu dáng, mẫu mã, mà ngày càng được nâng cao về chất lượng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm của công ty đã phong phú hơn rất nhiềuvà có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nướcvà thị trường xuất khẩu (sản phẩm xuất khẩu chiếm xấp xỉ 90% khối lượng sản phẩm sản xuất). Sản phẩm của công ty gồm 2 loại chủ yếu: -Khăn bông các loại -Vải màn tuyn Với sản phẩm khăn bông công ty sản xuất từ nguyên liệu sợi bông 100% nên có độ thấm nước, độ mềm mại cao, phù hợp với yêu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Đây là nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của công ty, bao gồm: +Khăn ăn: dùng trong các nhà hàng và gia đình. Đối với các loại khăn ăn dùng cho nhà hàng công ty bán cho các cơ sở cung cấp khăn cho nhà hàng làm khăn ướt. Loại khăn này chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, chỉ có một phần rất ít tiêu thụ trong nước. +Khăn rửa mặt: Đối với loại khăn này, công ty cũng có các loại khăn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, song chủ yếu là tiêu thụ qua các nhà bán buôn và các siêu thị. +Khăn tắm: Loại khăn này công ty chủ yếu sản xuất cho nhu cầu xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Song hiện nay, xu hướng sử dụng khăn tắm trong nước cũng tăng nhiều nên công ty đã có hướng nghiên cứu mặt hàng khăn tắmphù hợp với nhu cầu tiêu dùng và còn phục vụ cho nhu cầu quảng cáo, khuyến mãi các sản phẩm khác như: dầu gội đầu, sứ vệ sinh, dụng cụ thể thao... +Bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm khăn tắm, khăn mặt, khăn tay, thảm chùi chân, và áo choàng tắm. Công ty có hợp đồng cung cấp loại sản phẩm nàycho gần 100 khách sạn tại Nhật Bản thông qua các công ty thương mại Nhật Bản là ASAHI, HOUEI, DAIEI, VINASEIKO, DAIWABO, FUKIEN, FUJIWARA... Ngoài ra, các khách sạn trong nước nhất là các khách sạn liên doanh với nước ngoài tại các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh cũng đặt hàng tại công ty. - Các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũ giày phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như: giày Ngọc Hà, may X40. -Với sản phẩm vải màn tuyn, công ty sản xuất từ nguyên liệu 100% sợi PETEX nên đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao và chống được oxy hoá gây vàng màn. Loại sản phẩm này mới được đưa vào sản xuất trong công ty hơn 10 năm, nên khối lượng sản xuất ra chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn. Ngoài ra công ty cũng ký các hợp đồng xuất khẩu màn tuyn sang các nước Châu Phi theo chương trình phòng chống sốt rét cuả Liên Hợp Quốc. 3. Đặc điểm thị trường xuất khẩu của công ty; Thị trường tiêu thụ chính của công ty dệt Minh Khai là thị trường nước ngoài với lượng sản phẩm chiếm 90% số lượng sản phẩm sản xuất. Trong đó thị trường xuất khẩu truyền thống của công ty là các khách hàng Nhật Bản (chiếm 85% số lượng sản phẩm xuất khẩu ), còn 5% là xuất khẩu sang các thị trường Châu Âu và Châu á. Trước đây sản phẩm của công ty chỉ xuất khẩu sang các nước Đông Âu và Liên Xô cũ là chính.. Song từ khi XHCN sụp đổ ở những nước này thì công ty đã mất đi các bạn hàng, và đặc biệt từ khi thực hiện nền kinh tế mở cửa thì sản phẩm xuất khẩu của công ty hướng mạnh về các nước có nền kinh tế TBCN. Vì đây là những thị trường có tiềm năng xuất khẩu lớn đối với công ty. Nếu biết cách khai thác, sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn cho công ty, giúp công ty có thể cải thiện đời sống cho đội ngũ cán bộ công nhân viên, hoàn thành nghĩa vụ ngân sách với Nhà nước, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước trở thành một nước công nghiệp. 3.1. Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn của Việt Nam và cũng là thị trường xuất khẩu truyền thống của công ty dệt Minh Khai. Kể từ năm 1983 công ty bắt đầu tiếp cận thị trường này, cho tới nay, công ty đã thiết lập và duy trì được mối quan hệ làm ăn lâu dài với các bạn hàng Nhật Bản. Có thể thấy đó là những nỗ lực rất lớn của công ty. Bởi thị trường Nhật Bản vẫn nổi tiếng là rất khắt khe và khó tính. Khách hàng Nhật Bản đòi hỏi khắt khe về chất lượng, mẫu mã, giá cả và thời gian giao hàng trong đó chất lượng là yêu cầu cơ bản và họ duy trì những tiêu chuẩn chất lượng bằng cách kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt, kiểm tra nguyên liệu sản xuất, kiểu dáng và công nghệ, kiểm tra bao bì đóng gói. Chính phủ Nhật Bản quy định hàng dệt may nhập vào Nhật Bản phải an toàn, trên bao bì phải ghi rõ kích cỡ, chất liệu và cách sử dụng. Giá cả cũng là một yếu tố mà người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm. Nếu sản phẩm của công ty không có ưu thế gì so với sản phẩm khác cùng chủng loại thì công ty có thể cạnh tranh bằng giá cả, tức là bán với ._.u. 2. Hoàn thiện kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường truyền thống, mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới - đồng thời củng cố vững chắc thị trường nội địa 2.1. Hoàn thiện kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu truyền thống Thị trường xuất khẩu truyền thống của công ty là Nhật Bản. Từ năm 1983 công ty đã thực hiện xuất khẩu sang thị trường này. Bằng những nỗ lực và cố gắng không ngừng phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng, công ty dêt Minh Khai đã dần chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản, thị phần ngày càng tăng lên. Công ty dệt Minh Khai trong kế hoạch phát triển, công ty luôn xác định rõ quá khứ, hiện tại, tương lai thị trường Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu truyền thống chủ lực của công ty. Tuy nhiên trong thời gian qua, do sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia...đặc biệt là Trung Quốc, đã làm giảm thị phần, khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường Nhật Bản.Vì vậy trong những năm tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường này, bên cạnh những biện pháp cạnh tranh, công ty còn phải mở rộng, hoàn thiện kênh phân phối sản phẩm trên thị trường này. Vì hiện nay hệ thống kênh phân phối của công ty còn quá nhỏ bé đơn giản, các nhà phân phối sản phẩm của công ty luôn tìm cách ép giá buộc công ty phải giảm giá xuất khẩu, nên hiệu quả và lợi nhuận mang lại cho công ty chưa cao. Hơn nữa sản phẩm của công ty chính vì vẫn phải tiêu thụ qua các nhà phân phối trung gian này bằng việc sử dụng thương hiệu của họ để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Vì vậy đây là một bất lợi lớn cho công ty trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Trong thời gian tới, bên cạnh việc xuất khẩu trực tiếp cho các nhà phân phối Nhật Bản, công ty cần lập kế hoạch đầu tư, thành lập một số cửa hàng bán sản phẩm xuất khẩu của công ty trực tiếp trên thị trường Nhật Bản. Đồng thời tích cực tìm kiếm mở rộng quan hệ bán hàng xuất khẩu với các nhà bán lẻ trên thị trường Nhật Bản là các cửa hàng, tạp hoá, siêu thị, khách sạn Nhật Bản. Hiện nay ở Nhật Bản đang phát triển cách thức bán hàng theo đơn đặt hàng, chọn hàng qua cataloge. Mẫu mã các sản phẩm giới thiệu trên cataloge nên thay đổi thường xuyên. Công ty có thể áp dụng cách này để chủ động giới thiệu sản phẩm cho công ty trên thị trường Nhật Bản, đồng thời gửi các sản phẩm mẫu đến chào hàng tới các nhà bán lẻ trên thị trường Nhật Bản kèm theo các điều kiện ưu đãi,phục vụ tốt nhất, đảm bảo trong thời gian không lâu sẽ thiết lập được mối quan hệvới các nhà bán lẻ bên cạnh các nhà bán buôn sản phẩm của công ty. Hệ thống kênh phân phối của công ty trên thị trường Nhật Bản có thể được xây dựnh như mô hình sau: Mô hình 2: Mô hình kênh phân phối mới trên thị trường Nhật Bản của công ty dệt Minh Khai Công ty dệt Minh Khai Nhà bán lẻ Nhà bán buôn Đại lý bán hàng Nhà bán lẻ Người tiêu dùng cuối cùng Theo mô hình này, tốt nhất là công ty nên thành lập một đại lý bán hàng xuất khẩu của công ty trên thị trường Nhật Bản. Việc bán hàng xuất khẩu trực tiếp có thể sử dụng là lực lượng bán hàng của công ty, hoặc người bán hàng là người nước ngoài, nếu là người Nhật Bản thì càng tốt có hiểu biết kinh nghiệm về thị trường Nhật Bản. Sử dụng lực lượng bán hàng xuất khẩu là người Nhật Bản sẽ góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩmcủa công ty trên thị trường Nhật Bản. 2.2. Mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới Trong điều kiện xuất khẩu hiện nay của công ty, bên cạnh thị trường xuất khẩu truyền thống Nhật Bản, thì để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hơn nữa công ty dệt Minh Khai cần có sự đầu tư nghiên cứu, bằng các chiến dịch quảng cáo, khuếch trương giới thiệu sản phẩm để thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng khác. Dự định của công ty trong thời gian tới là tìm cách thâm nhập thị trường Mỹ, đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Để thực hiện mở rộng thị trường xuất khẩu sang Mỹ, EU thì các công việc công ty cần phải làm là: - Đầu tư chiều sâu cho công tác nghiên cứu thị trường . - Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. - Xúc tiến quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, đài, báo, tạp chí, các băng rôn khẩu hiệu, áp phích, quảng cáo trên mạng Internet. -Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm hàng tiêu dùng trên các thị trường Mỹ và EU nhằm giới thiệu sản phẩm của công ty tới người tiêu dùng. Các công việc nghiên cứu quảng cáo tham gia hội chợ triển lãm sẽ do các nhân viên phòng marketing đảm nhiệm. Lưu ý đối với công ty trên thị trường EU là trong thời gian hiện nay công ty cần khai thác hiệu quả các quy định về hạn ngạch, tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của người dân EU đối với mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Các nhân viên marketing sau khi đã tiến hành nghiên cứu kỹ về thị trường, phối hợp với phòng kỹ thuật để nghiên cứu và thiết kế đưa ra những sản phẩm có mẫu mã, chất lượng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng EU. 2.3 Củng cố vững chắc thị trường tiêu thụ nội địa Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như ngày nay, các công ty xuất khẩu không chỉ phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà sự cạnh tranh còn diễn ra ngay tại thị trường nội địa của chính công ty xuất khẩu. Thị phần của công ty xuất khẩu trên thị trường nội địa rất quan trọng, nó nói lên vai trò và vị trí của công ty trong ngành, vị thế của công ty trên thị trường. Công ty xuất khẩu muốn thành công trên thị trường xuất khẩu thì trước hết cần phải đạt được thành công bước đầu ngay trên thị trường nước nhà. Uy tín và danh tiếng của công ty trên thị trường nội địa sẽ là yếu tố góp phần tạo điều kiện cho công ty đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Chiếm lĩnh được thị trường nội địa là cơ sở vững chắc, tạo tiềm lực vững vàng để công ty có thể mở rộng xuất khẩu, đồng thời phần nào gây được thiện cảm và sự tín nhiệm đối với khách hàng nước ngoài. Những năm qua công ty dệt Minh Khai đã có định hướng sai lầm để ngỏ thị trường nội địa. Công ty chỉ chú trọng tới xuất khẩu mà quên mất thị trường tiêu dùng nội địa, trong khi thị trường này đang có nhu cầu tiêu dùng loại sản phẩm cuả công ty ngày càng tăng lên. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng đắn tới thị trường nội địa. Hiện tại việc tiêu thụ sản phẩm khăn bông của công ty trên thị trường nội địa mới chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ trên một số tỉnh miền Bắc (mà chủ yếu là Hà Nội). Sản phẩm được tiêu thụ thông qua những người bán buôn, bán lẻ siêu thị nhà hàng và qua hai cửa hàng giới thiệu sản phẩm, một ở Hà Nội và một ở Hải Phòng. Tuy nhiên cả hai cửa hàng này đều chưa được đặt ở ngay trung tâm thương mại và các khu đông dân nên hiệu quả bán hàng không cao. Công ty nên di chuyển các cửa hàng này tới các khu đông dân, tổ chức thêm một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các khu trung tâm thương mại. Ngoài ra trong tương lai công ty cần mở thêm một số đại lý tiêu thụ để tạo điều kiện thuận lợicho các khách hàng ở xa có thể trực tiếp liên lạc với các đại lý. Bởi vì hiện tại các khách hàng khi muốn mua hàng của công ty đều phải thông qua phòng kế hoạch thị trường . Các đại lý mới thành lập chỉ được phép bán sản phẩm của công ty và sẽ được hưởng hoa hồng theo số lượng sản phẩm bán được. Công ty có thể lựa chọn đại lý dựa trên các tiêu chuẩn cơ bản sau: - Người làm đại lý phải có đủ tư cách pháp lý. - Có khả năng về tài chính. - Có địa điểm bán hàng thuận lợi, có khả năng hoạt động thương mại. - Quan điểm kinh doanh đại lý với mặt hàng của công ty . Đặc biệt với sự xuất hiện của một đại lý có ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm thì công ty không nên mở đại lý mới. Chẳng hạn như sự xuất hiện của đại lý khiến cho người bán lẻ không mua hàng của người bán buôn như trước đây thì sự xuất hiện của đại lý này thực sự không cần thiết. Mặt khác để giữ vững và củng cố vị trí của mình trên thị trường nội địa, công ty cần tạo nên mối quan hệ gần gũi hơn với khách hàng. Thông qua các đợt quảng cáo, tham gia hội chợ triển lãm để tìm kiếm khách hàng, đồng thời công ty cần phải làm tốt các công tác xúc tiến bán hàng để tăng nhanh số lượng tiêu thụ sản phẩm, khuyến khích khách hàng mua hàng như: - Tạo điều kiện cho quá trình mua hàng của khách hàng được nhanh chóng thuận lợi. Đối với những khách hàng mua với số lượng lớn thì công ty có thể khuyến khích bằng các dịch vụ vận chuyển miễn phí, xong chỉ áp dụng với khách hàng có lô hàng vận chuyển trong phạm vi nội thành Hà Nội. Với các khách hàng ở xa công ty có thể áp dụng các biện pháp chiết khẩu giảm giá. Thủ tục mua hàng, thanh toán tiền hàng phải được giải quyết linh hoạt, nhanh gọn, tránh phiền phức cho khách hàng. - áp dụng các biện pháp chiết khấu giảm giá: + Đối với các biện pháp chiết khấu, công ty nên áp dụng các biện pháp chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương mại. Chiết khấu thanh toán được coi là một khoản tiền thưởng của công ty cho khách hàng mua với số lượng lớn, thanh toán nhanh hoặc đúng thời hạn. Trong thời gian tới công ty nên áp dụng chiết khấu thanh toán với tỉ lệ 1,3% doanh thu/ tháng để có thể thu tiền nhanh về trả cho các khoản vay ngân hàng với lãi xuất 1,1 %/ tháng của công ty. Như vậy thực chất công ty sẽ chỉ phải trả 0,2% / tháng cho chiết khấu thanh toán và chắc chắn sẽ kích thích được khách hàng mua hàng nhiều hơn. Chiết khấu thương mại được coi là khoản tiền thưởng của công ty với khách hàng có mối quan hệ thường xuyên và tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm của công ty. Đối với hình thức này công ty nên áp dụng nhiều mức chiết khấu khác nhau, lũy tiến theo số lượng sản phẩm mà khách hàng tiêu thụ. + Đối với các hình thức giảm giá. Giảm giá là cách đền bù thiệt hại do sản phẩm của công ty kém chất lượng chokhách hàng. Những sản phẩm xuất khẩu không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu công ty thường để lại tiêu thụ trong nước, song mức giá thành chưa thực sự có tác dụng khuyến khích đối với người tiêu dùng. Trong thời gian tới công ty cần phải giảm giá cho loại sản phẩm này của công ty. 3. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm * Cơ sở thực tiễn để áp dụng giải pháp này Đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng thì biện pháp hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao lợi nhuận là một công việc tất yếu mà bất kỳ nhà quản trị nào cũng phải nghĩ đến. Công ty dệt Minh Khai hiện nay đang phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong nước và quốc tế. Các sản phẩm của công ty có chất lượng tốt nhưng giá bán còn cao. Giá xuất khẩu sản phẩm của công ty trên thị trường Nhật thường cao hơn các đối thủ cạnh tranh rất nhiều nên công ty thường bị các công ty thương mại Nhật Bản ép giá. Vì vậy công ty phải có hướng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, mà muốn hạ giá bán sản phẩm thì cách tốt nhất là hạ giá thành sản phẩm sản xuất. Các biện pháp hạ giá thành sản phẩm có thể được thực hiện như sau: * Nội dung giải pháp hạ giá thành sản phẩm Giảm chi phí nguyênvật liệu. Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu sẽ làm cho chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm giảm nhiều vì trong kết cấu giá thành sản phẩm của công ty tỉ trọng nguyên vật liệu chiếm 60-70%. Hiện tại công ty đang chủ yếu sản xuất bằng nguyên liệu ngoại nhập( chiếm khoảng 80% số nguyên vật liệu đầu vào của công ty). Giá mua nguyên vật liệu của nước ngoài bao giờ cũng đắt hơn trong nước vì khi nhập nguyên vật liệu công ty phải chịu thêm thuế nhập khẩu, phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Mặt khác hiện nay ở nước ta có một số doanh nghiệp có thể sản xuất sợi bông và sợi polieste có chất lượng khá cao, hầu như không thua kém nước ngoài và các loại hóa chất, thuốc nhuộm như: NAOH, H2O2(50%), HCl, axit axêtíc (1%) chất lượng tốt. Bảng 11. Giá cả nguyên vật liệu chính Khoản mục Nhập khẩu Trong nước Giá mua một kg sợi 24.2 22.3 Chi phí vận chuyển 0.2 0.03 Chi phí nhập khẩu 0.1 0 Chi phí khác 0.05 0.02 Tổng giá mua 1kg sợi 24.55 22.35 Vì vậy trong thời gian tới để giảm giá thành sản phẩm công ty có thể sử dụng tăng số lượng nguyên liệu nội địa lên. Hiện tại tỉ trọng nguyên liệu chính( sợi bông,sợi Polieste) chiếm khoảng 35% trong tỉ trọng giá thành sản phẩm( công ty sử dụng khoảng 1.338.400 kg nguyên liệu này mỗi năm, trong đó nhập khẩu 80% còn 20% là từ trong nước. Trong nước công ty sử dụng nguyên vật liệu chính của 4 công ty Miền Bắc: dệt 8-3, dệt 19-5, công ty dệt may Hà Nội và sợi Hà Nội. Hiện nay một số công ty miền Nam có thể đảm bảo ch công ty 30% nguyên vật liệu chính và chất lượng vẫn đảm bảo tốt, tổng giá mua là 22.700 đồng/ kg. Nếu công ty sử dụng thêm 30% nguyên liệu chính ở trong nước thì sẽ tiết kiệm được: + Chi Phí nguyên liệu chính trước khi áp dụng: 24,55 *0,8*1,338.400 + 22,35*0,2*1.388.400 = 32.268.824 (nghìn đồng/ năm). + Chi phí nguyên vật liệu chính sau khi áp dụng: 24,55*0,5*1.338.400 + 22,35*0,2*1.338.400 + 22,7*0,3*1.338.400 =31.532.704(nghìn đồng/năm) + Công ty tiết kiệm chi phí nguyên liệu chính: 32.268.824 - 31.532.704 = 736.120 Một nguyên nhân nữa làm cho chi phí nguyên vật liệu cao là nhân viên mua nguyên vật liệu chưa có ý thức trách nhiệm trong việc mua nguyên vật liệu. Việc nhập nguyên liệu phải vận chuyển trên đường xa nhưng họ bảo quản không tốt làm cho một số lượng lớn nguyên vật liệu bị hỏng và doanh nghiệp phải bỏ đi số nguyên vật liệu đó. Ước tính số nguyên liệu chính công ty phải bỏ đi chiếm khoảng 0,5% số nguyên vật liệu chính mua về. Vì vậy, doanh nghiệp cần giáo dục và áp dụng các biện pháp hưởng phạt vật chất đối với những người đi nhập liệu làm hỏng nhiều. Cụ thể, nếu làm hỏng từ 0,25% đến 0,3% lượng nguyên liệu chính nhập về thì trừ 15% lương của họ, nếu làm hỏng từ 0,3% đến 0,4% lượng nguyên liệu chính nhập về trừ 25% lương của họ, nếu làm hỏng từ 0,4% đến 0,5% lượng nguyên liệu chính nhập về thì trừ 35% lương của họ. Nếu làm hỏng dưới 0,1% thì sẽ được thưởng. Nếu công ty phấn đấu giảm được số nguyên liệu chính phải bỏ đi xuống còn 0,2% thì mỗi năm công ty sẽ tiết kiệm được: (0,05 -0,02) * 0,8 *1.338.400*24,55 = 788.585,28 (nghìn đồng/năm). Như vậy với biện pháp giảm chi phí nguyên vật liệu này, công ty đã tiết kiệm được mỗi năm là 736.120 + 788.588 = 1.524.678 (nghìn đồng/ năm). Đây sẽ là điều kiện rất cần thiết để công ty có thể giảm giá bán được một số sản phẩm của mình góp phần duy trì mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm. Công ty muốn tăng năng suất lao động cần phải tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công nhân. Nhìn chung đội ngũ cán bộ công nhân của công ty thường có tay nghề chưa cao, chưa có kinh nghiệm, chưa có tác phong công nghiệp, do đó ảnh hưởng đến năng xuất lao động. Thực tế cấp bậc công việc yêu cầu chung là 4 nhưng bậc thợ bình quân của công ty mới chỉ đạt 3,6%. Vì vậy, công ty cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động để họ có thể thích ứng với công nghệ mới. Hiện tại công ty có nhu cầu đào tạo khoảng 30% số công nhân. Nhưng do hạn chế về tài chính và họ phải tiến hành sản xuất nên trước mắt công ty cho 10% số công nhân đi đào tạo lại, họ sẽ được đào tạo trong 2 tháng, một nửa số người này đi học buổi sáng và đi làm chiều, một nửa còn lại học buổi chiều và đi làm buổi sáng. Học phí do công ty trả với mỗi người hết 400 nghìn đồng/tháng. Do đó chi phí để đào tạo họ là: 0,1*1187*400*2 = 94960 (nghìn đồng) = 94,960 (triệu đồng). Với mức chi phí này là không nhiều và chắc chắn rằng sau khóa học số công nhân này có thể làm những công việc mà có trình độ công nghệ cao, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cho công ty. - Giảm chi phí cố định và hạ giá thành sản phẩm. Muốn giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm cần phấn đấu tăng và tăng nhiều sản phẩm, hàng hóa sản xuất ra. Có thể nói ở công ty hiện nay máymóc thiết bị của công ty chưa hoạt động hết công suất, mới hoạt động 60% công suất nên đẩy giá thành sản phẩm của công ty lên. Vì vậy, công ty cần nhanh chóng tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới để máy móc thiết bị hoạt động hết công suất. * Điều kiện thực hiện. - Nhân viên mua nguyên liệu phải nhanh nhậy đi tìm kiếm nguyên vật liệu để vừa đảm bảo chất lượng đề ra vừa góp phần hạ giá mua nguyên vật liệu. - áp dụng các biện pháp thưởng phạt vật chất đối với nhân viên đi mua nguyên liệu. - Dành riêng một khoản tiền cho việc thực hiện giải pháp này. - Công ty cần tiến hành nghiên cứu thị trường và áp dụng các biện pháp quảng cáo, tạo ra kênh phân phối có hiệu quả nhất để công ty có thêm khách hàng, thị trường. * Lợi ích thu được: Nếu hạ giá thành sản phẩm thì công ty sẽ hạ được giá bán sản phẩm. Nó khắc phục được một một số khó khăn lớn nhất của công ty hiện nay là giá bán sản phẩm của công ty còn cao nên nhiều người Việt Nam không dùng được và giảm tốc độ tiêu thụ mặt hàng chủ lực của công ty ở các thị trường xuất khẩu trong mấy năm gần đây, qua đó góp phần duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. 4. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ công nhân tay nghề cao tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay của công ty dệt Minh Khai là công nhân quen với lối làm việc cũ nên mặt yếu của họ là tác phong công nghệ chưa có hoặc chưa rõ nét, trình độ tay nghề và tính kỷ luật chưa cao chưa có niềm say mê với công việc mình đảm nhận. Bởi vậy công ty cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề của người lao động. Bên cạnh đó công ty cần phải có các biện pháp nâng cao chất lượng người lao động bằng cách: Xây dựng tác phong công nghiệp, giao dục về chủ trương, đường lối, giáo dục ý thức lao động. Xoá bỏ tâm lý và phong cách của nền sản xuất nhỏ như cá nhân, chủ nghĩa ghen ghét, đố kị. Có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Việc tuyển dụng đào tạo công nhân cần phải có định hướng chiến lược lâu dài có thể cho công nhân đi học ở các trường đào tạo công nhân kỹ thuật, đào tạo hợp đồng đối với công nhân đứng máy với thời gian ngắn nhất là 6 tháng, còn đối với công nhân bảo toàn, bảo dưỡng thì ít nhất là hai năm. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về chất lượng tay nghề của thợ. Song song với việc dạy nghề phải giáo dục lớp thợ mới nhận thức được vai trò, vị trí của người công nhân trong nền kinh tế có cồng nghiệp phát triển, sự cần thiết phải có tác phong công nghiệp tầm quan trọng hay giá trị của sản phẩm do công ty hoặc ngành sản xuất ra trong đời sống xã hội. Làm cho người công nhân biết được chất lượng sản phẩm rất cần thiết đối với hoạt động xuất khẩu, với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. + Đối với lớp công nhân cũ cũng phải tiến hành hoạch định kế hoạch đào tạo huấn luyện một cách liên tục, có hệ thống để cho họ nắm bắt kịp thời những thay đổi về công nghệ, thiết bị. Song song với việc đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao công ty còn phải bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý bằng cách: Công ty cử cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu của công ty cũng như của thị trường . Công ty nên tuyển mới một số cán bộ kinh tế nhằm cân bằng với tầm quan trọng của công ty. Trong thời gian tới công ty nên đào tạo các cán bộ có thể kiêm nhiệm hoặc bổ sung thêm để công ty có thể tiến xa hơn. Để hoạt động xuất khẩu ngày càng được đẩy mạnh công ty cần đào tạo và tuyển chọn một đội ngũ chuyên việc Marketing có năng lực, đầu tư tài chính cho đội ngũ đó để đi khảo sát trên thị trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc...để tìm hiểu thị hiếu, thói quen các yêu cầu quy định về sản phẩm... trên các thị trường. Cần quan tâm hơn nữa đến việc huấn luyện chuyên môn đào tạo nhân lực bằng cách cử đi du học ở các nước có ngành công nghệ dệt phát triển để từ đó công ty có điều kiện học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu lâu hơn về văn hóa, truyền thống dân tộc, thị hiếu tập quán cách tiêu dùng.. Vì vậy công ty có thể nắm bắt được sở thích tâm lý của khách hàng, dự đoán chính xác xu hướng tiêu dùng của thị trường để có phương án xâm nhập hiệu quả. Cũng bằng cách đó công ty nên đào tạo đội ngũ chuyên gia thiết kế những mẫu mã, nghiên cứu sáng tác các mẫu thêu phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của các vùng thị trường khác nhau về kiểu dáng, mầu sắc, kết cấu chất liệu hoa văn trang trí... của người tiêu dùng. Đồng thời công ty nên tạo dựng và duy trì nét đặc thù của sản phẩm dệt nhằm tạo ra nhãn hiệu riêng và củng cố uy tín của các sản phẩm của công ty. Để tiến hành đào tạo bồi dưỡng công nhân, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có hiệu quả thì công ty phải dành một khoản vốn đầu tư cho giáo dục bồi dưỡng con người, tổ chức kiểm tra rà soát đội ngũ lao động để biết thực lực tay nghề và triển vọng phát triển của từng cá nhân để có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp, quan hệ chặt chẽ với các trường đào tạo nghề cũng như các trường đào tạo quản lý. IV. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị với nhà nước Ngành dệt may là ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta, chuyên sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu , ngành có thể mang lại nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên công ty dệt Minh Khai nói riêng và ngành dệt may nói chung đang gặp rất nhiều khó khăn trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đặc biệt là từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, phải đương đầu với nhiều thách thức mới là hàng Trung Quốc đã rẻ nay lại được giảm thuế nhiều hơn nên giá xuất khẩu lại càng rẻ. Bản thân mỗi doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sẽ rất khó vượt qua những khó khăn này. Vì vậy Nhà nước cần phải có nhiều biện pháp đồng bộ hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy ngành dệt may phát triển trong đó tập trung vào các biện pháp sau: Có chính sách đầu tư thỏa đáng đối với ngành dệt may và chính sách ưu tiên cho ngành dệt may. Hiện nay ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn nhưng nguyên nhân chủ yếu là số máy móc thiết bị đã quá cũ và lạc hậu, không đủ vốn để đầu tư cho máy móc thiết bị, công nghệ mới. Vì vậy sản phẩm sản xuất theo công nghệ cũ tất nhiên sẽ rất khó khăn trong cạnh tranh. Vậy kiến nghị với Nhà nước tăng vốn đầu tư cho ngành dệt may, có các chính sách ưu đãi đối với ngành như: Giảm thuế VAT xuống còn 5% chứ không phải 10% như hiện đang áp dụng, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 25% bằng với thuế thu nhập doanh nghiệp đang áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho vay với lãi xuất ưu đãi hơn và ngân hàng nên nới lỏng điều kiện cho vay, cho các doanh nghiệp trong ngành vay vốn trung và dài hạn nhiều hơn với lãi xuất thấp hơn; cho phép các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành giữ lại nhiều lợi nhuận hơn để đầu tư phát triển. Mặt khác hiện nay các thủ tục hải quan kiểm tra xuất nhập khẩu còn rất rườm rà, gây chậm trễ việc giao hàng của các doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần cải tiến thủ tục hành chính trong việc quản lý xuất nhập khẩu, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu được dễ dàng. Ngoài ra, Nhà nước nên phối hợp với các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài môi giới khách hàng và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may; cung cấp những thông tin về thị trường xuất khẩu ; tổ chức các khóa đào tạo miễn phí nâng cao trình độ cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp. Chính sách phát triển các ngành phụ trợ cho ngành dệt may Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp trong ngành dệt may phải nhập nguyên liệu ở nước ngoài với giá cao. Ngành nguyên vật liệu cho ngành dệt may mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ về số lượng và nhiều khi chất lượng không đảm bảo. Vì vậy Nhà nước nên có chính sách phát triển các ngành trồng bông và các ngành chế biến sợi, ngành hóa chất phục vụ cho ngành dệt may. Có chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu Hiện nay các mặt hàng dệt may nước ngoài tràn vào Việt Nam với số lượng lớn và rất nhiều sản phẩm nhập lậu qua biên giới quốc gia đặc biệt là hàng nhập lậu Trung Quốc đã ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của hàng dệt may nội địa, kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Vì vậy đối với những sản phẩm dệt may nào mà ta có thể sản xuất được thì Nhà nước nên đánh thuế nhập khẩu cao và có biện pháp xử lý nghiêm minh các hoạt động nhập khẩu trái phép, buôn lậu. Tuy nhiên việc đánh thuế nhập khẩu cao chỉ có thể áp dụng trong một thời gian ngắn, bởi vì đến năm 2003 khi Việt Nam chính thức gia nhập AFTA, xóa bỏ hàng rào thuế quan. Vì vậy một mặt đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng không ngừng mặt khác ngành dệt may chưa đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế vì giá còn cao hơn nhiều, Nhà nước nên chăng giảm thuế mà không phải là xóa bỏ hoàn toàn đối với hàng dệt may xuất khẩu . Nhà nước nên đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, Nhà nước cần cung cấp các thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tìm kiếm thị trường và lựa chọn đối tác kinh doanh; tạo điều kiện cho công ty gặp gỡ giao lưu với các đại diện nước ngoài thông qua các hội nghị. Tóm lại nếu Nhà nước làm được các điều này chắc chắn sẽ giúp không chỉ cho công ty dệt Minh Khai nói riêng mà còn cho cả ngành dệt may nói chung vượt qua những khó khăn này và ngày càng phát triển, có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thế giới; các mặt hàng dệt may của Việt Nam ngày càng có chất lượng cao và có khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn. 2. Kiến nghị với công ty Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, công ty dệt Minh Khai muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì sự quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi của nhà nước là hết sức cần thiết, song quan trọng hơn cả là công ty phải dựa vào nội lực của chính mình. Với những khó khăn còn tồn tại hiện nay của công ty thì việc áp dụng các giải pháp nhằn giải quyết các khó khăncần phải được xem xét và triển khai thực hiện ngay. Cụ thể ở đây công ty dệt Minh Khai cần phải -Nhanh chóng thành lập phòng marketing, tăng cường đầu tư cho các hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường Điều chỉnh lại chính sách giá mà hiện tại công ty đang áp dụng. Vì chính sách giá này làm cho giá cả sản phẩm của công ty trở nên cứng nhắc, không phân biệt giữa giá bán buôn và bán lẻ; đồng thời hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu. Việc điều chỉnh giá cả là một công việc hết sức quan trọng, nó liên quan trực tiếp tới khả năng xuất khẩu cũng như kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty. Tích cực, tăng cường đầu tư hơn nữa cho việc đổi mới, sửa chữa máy móc thiệt bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra đáp ứng được yêu cầu của xuất khẩu. Quan tâm hơn nữa tới môi trường làm việc và đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty, có các chính sách khuyến khích đãi ngộ hợp lý cũng như các chế độ thưởng phạt nghiêm minh nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với công việc. Kết luận Thúc đẩy xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng, liên quan tới sự tồn tại và phát triển của công ty Dệt Minh Khai nói riêng và toàn ngành dệt may Việt Nam nói chung. Thúc đẩy xuất khẩu dệt may được xem như là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may đem lại nhiều lợi ích to lớn, phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trở thành một nước công nghiệp. Trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu, công ty dệt Minh Khai đã tận dụng được những tiềm lực sẵn trong nước, tích cực đầu tư nâng cấp, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại , đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của công ty trên thị trường quốc tế, nhờ đó đã mang hiệu quả xuất khẩu cao, giải quyết được công ăn việc làm cho hơn 1000 lao động của công ty, đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu, công ty Dệt Minh Khai nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nói chung gặp phải không ít những khó khăn, đối mặt với những thử thách cam go khốc liệt đến từ sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong khu vực và trên thế giới, trong đó đặc biệt là từ Trung Quốc. Vì vậy trong thời gian tới đòi hỏi công ty cũng như toàn ngành dệt may Việt Nam phải tìm ra những phương hướng, giải pháp thích hợp nâng cao khả năng cạnh tranh cho mặt hàng dệt may xuất khẩu để có thể đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu. Quá trình thực tập tại công ty dệt Minh Khai cũng là quá trình em tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu cũng như những thuận lợi và khó khăn của công ty, trên cơ sở nắm vững những vấn đề lý luận cơ bản có liên quan tới hoạt động xuất khẩu, đã giúp em có được cái nhìn cụ thể và bao quát hơn về những vấn đề của công ty. Với một số giải pháp nêu ra ở trên mà em thấy là thiết thực và có tính khả thi đối với công ty, em hy vọng sự đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình có thể giúp công ty từng bước khắc phục được những khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển đi lên vững mạnh hơn nữa, xứng đáng là đơn vị chủ lực của ngành công nghiệp dệt may Hà Nội. Danh mục tài liệu tham khảo PGS.TS Nguyễn Duy Bột , “Giáo trình thương mại quốc tế “, Nhà xuất bản Thống Kê- Hà Nội –1997 PTS Nguyễn Cao Văn < Marketing quốc tế “, Nhà xuất bản Giáo dục - Hà Nội- 1997 Lê Hiếu Tiến , “ Nghiệp vụ buôn bán quốc tế “, Nhà xuất bản Thanh niên , Hà Nội- 1996 PGS.TS Trần Minh Đạo - TS Vũ Trí Dũng , “ Giáo trình marketing quốc tế “, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội - 2002 PGS.TS Trần Chí Thành , “ Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế “, Nhà xuất bản Giáo dục , Hà Nội -1996 PGS Vũ Hữu Tửu trường đại học Ngoại thương, “ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”, Nhà xuất bản Giáo dục , Hà Nội - 1998 PGS.TS Trần Chí Thành, “ Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU “, tạp chí Kinh tế và phát triển số 141/2001 Minh Hương, “ Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam “, tạp chí Tài chính số 9/2002 Đoàn Nghiệp , “ Thị trường dệt may còn khó khăn”, tạp chí Thương mại số 21/2001 Th.S Thân Danh Phúc -Đại học thương mại , “ Những thay đổi cơ bản trong thương mạo hàng dệt may thế giới và ảnh hưởng tới cạnh tranh xuất khẩu hiện nay”, tạp chí Thương mại số 23/2000 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33847.doc