Tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam: ... Ebook Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Hình 2.1.Tổng nguồn vốn huy động...........................................................32
Hình 2.2. Doanh số TT XNK .....................................................................34
Hình 2.3. Số thẻ lưu hành ..........................................................................35 Hình 2.4. Doanh số thanh toán thẻ 42
Hình 2.5. Tổng doanh số ngoại tệ mua bán 42
Hình 2.6. Doanh số cho vay xuất nhập khẩu theo kỳ hạn tại NHNT 51
Bảng 2.1.Tốc độ tăng trưởng vốn huy động tại NHNT..............................32
Bảng 2.2. Cơ cấu vốn huy động theo VNĐ và ngoại tệ tại NHNT từ năm 2003 - 2006.................................................................................................33
Bảng 2.3. Tốc độ tăng trưởng DS TTXNK................................................35
Bảng 2.4. Quy mô TDTTXNK tại NHNTVN từ năm 2003 – 2006 50
Bảng 2.5. Cơ cấu dư nợ tài trợ xuất khẩu theo VNĐ và ngoại tệ tại NHNTVN. 53
Bảng 2.6. Cơ cấu tài trợ xuất khẩu theo mặt hàng tại NHNTVN. 55
Bảng 2.7. Tỷ trọng các mặt hàng tài trợ xuất khẩu tại NHNTVN. 55
Bảng 2.8. Cơ cấu tài trợ xuất khẩu theo thành phần kinh tế. 58
Bảng 2.9. Doanh số thanh toán xuất khẩu tại NHNTVN. 61
Bảng 2.10. Tình hình chiết khấu chứng từ hàng xuất tại NHNTVN. 62
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lí do lựa chọn đề tài.
Qúa trình quốc tế hoá tiếp tục diễn ra với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới: trong sản xuất, thương mại đầu tư, tài chính, các hoạt động dịch vụ, trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá và lối sống…Thông qua các hoạt động trên các nước xích lại với nhau hơn, gắn bó với nhau nhiều hơn. Chính điều đó làm cho nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận không tách rời và tuỳ thuộc vào nhau. Sự biến động xảy ra ở bất kỳ nước nào đó tất yếu sẽ dẫn tới sự tác động tới các quốc gia khác trên thế giới. Đặc điểm này đặt ra một yêu cầu tất yếu là mỗi quốc gia cần phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế đối ngoại để có được một khuôn khổ phù hợp cho sự phát triển.
Nhận thức được vấn đề đó, Đảng và Nhà Nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế mở, hội nhập kinh tế, tiến hành hàng loạt các biện pháp cải cách, đổi mới nền kinh tế quốc dân để đảm bảo Việt Nam thực hiện thắng lợi đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kể từ khi mở cửa, hoạt động ngoại thương của Việt Nam diễn ra sôi nổi hơn bao giờ hết, trong đó hoạt động xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng đã góp phần to lớn vào sự đổi mới đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước cũng như đáp ứng đầy đủ hơn nu cầu sản xuất và tiêu dùng.
Vậy phải tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu - một động lực quan trọng để hội nhập kinh tế. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là: do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp xuất khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu, các dây chuyền thiết bị phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu hoặc không đủ vốn thu mua, chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của xã hội.
Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam ( NHNTVN ) ngay từ khi được thành lập đã là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm: cho vay tài trợ xuất nhập khẩu các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác ( vận tải, bảo hiểm,…), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ,…Vì vậy trong nhiều năm qua với bề dày kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng đối ngoại, NHNTVN luôn được đánh giá là ngân hàng có uy tín nhất, ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối. Hiện nay NHNTVN vẫn đang từng bước hoàn thiện hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt cùng với sự phát triển của ngoại thương, NHNTVN đã và đang tìm nhiều biện pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu ( TDTTXK ), vừa để tài trợ các doanh nghiệp trong nước, vừa phát huy lợi thế của mình trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại, vừa đem lại nguồn lợi nhuận lớn lao cho ngân hàng, giúp ngân hàng đứng vững trong cạnh tranh. Tuy nhiên hoạt động TDTTXK của NHNTVN vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế và chưa phù hợp với yêu cầu xuất khẩu của Việt Nam. Do đó việc nghiên cứu và tìm kiếm các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNTVN là một yêu cầu cấp bách về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Được sự giới thiệu của trường Đại học Kinh tế Quốc Dân và sự cho phép của quý NHNTVN, em đã được thực tập tại trụ sở chính NHNTVN – 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Trong thời gian thực tập em đã tìm hiểu về hoạt động TDTTXK của ngân hàng và nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động đó đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và với sự phát triển kinh tế nước ta nói chung. Do vậy đề tài: “Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam” đã được em lựa chọn là đề tài để viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Trên cơ sở xác định bản chất và vai trò của tín dụng ngân hàng ( TDNH ) đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là thực trạng hoạt động TDTTXK của NHNTVN, mục đích nghiên cứu chuyên đề là đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.
Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là: Chuyên đề khảo sát hoạt động TDTTXK tại NHNTVN từ năm 2003 đến năm 2006.
4. Kết cấu của chuyên đề.
Tên chuyên đề: “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam”.
Để đạt được các mục đích trên, ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Mục lục; Danh mục các bảng số liệu, hình vẽ, chữ viết tắt; Danh mục tài liệu tham khảo; Phụ lục, thì chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung về hoạt động TDTTXK tại ngân hàng thương mại ( NHTM ).
Chương 2: Thực trạng và đánh giá hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNTVN.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại ( NHTM ).
Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Qúa trình phát triển kinh tế tạo điều kiện và đòi hỏit sự phát triển của ngân hàng. Đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Trải qua rất nhiều biến động lịch sử của lịch sử cũng như cùng với sự phát triển kinh tế, các hình thức ngân hàng cũng có sự thay đổi.
Ở giai đoạn đầu: từ thế kỷ 15 - cuối thế kỷ 18: các ngân hàng hoạt động với quy mô nhỏ, độc lập với nhau, chưa tạo thành hệ thống và hoạt động chưa ổn định. Mỗi ngân hàng đều có những chức năng nhiệm vụ giống nhau như: nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán chi trả, phát giấy bạc và lưu thông và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác ( đổi tiền, chuyển tiền,... )
Ở giai đoạn 2: từ thế kỷ 18 - thế kỷ 20: Nhà Nước ban hành các đạo luật đối với các hoạt động của ngân hàng để hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành tiền và lưu thông. Sang thế kỷ 18, 19 ở các nước công nghiệp Châu Âu, việc phát hành tiền vào lưu thông được giao cho một số ngân hàng lớn. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Nhà Nước ban hành đạo luật cho phép một ngân hàng duy nhất – đó là tiền đề của ngân hàng trung ương sau này được phép phát hành giấy bạc. Các ngân hàng còn lại cùng với quá trình phát triển trở thành NHTM.
Giai đoạn 3: từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay: Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hàng hoá, của công nghệ thông tin, và sự đa dạng hoá của các đối thủ cạnh tranh là các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các NHTM đã đa dạng hoá và mở rộng phạm vi cung cấp các dịch vụ theo mô hình ngân hàng đa năng hiên đại.
1.2. Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng ( TDNH ).
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm TDNH.
1.2.1.1. Khái niệm.
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có nội dung riêng.
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Trong một số ngữ cảnh cụ thể thì thuật ngữ tín dụng còn đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay.
Mục đích cuối cùng là muốn xem tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng. Vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: “ Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài chính khác ) và các bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán ”.
Trong nền kinh tế thị trường , nếu lấy tiêu thức “ chuyển nhượng ” làm căn cứ để phân chia các hình thức tín dụng thì có hai loại đó là tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại là hình thức cho vay bằng hàng hoá; Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các cá nhân và doanh nghiệp.
1.2.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
Xuất phát từ khái niệm tín dụng ngân hàng, tín dụng ngân hàng có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong quan hệ tín dụng, ngân hàng thể hiện rõ vai trò trung gian tài chính, là người đứng giữa thực hiện nghiệp vụ huy động vốn từ các chủ thể có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế ( ngân hàng là người đi vay ) và sử dụng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp thì ngân hàng lại là người cho vay.
Thứ hai, TDNH đối với đối tượng cho vay là tiền tệ nên không chịu sự ngăn cản về phương hướng tức là có thể cho vay đối với tất cả các ngành kinh tế ( ngành đó hoạt động có hiệu quả, phương án sản xuất có tính khả thi ). Mặt khác, với quy mô lớn về vốn nên các NHTM có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn lớn ở các quy mô khác nhau với các thời hạn khác nhau: ngắn hạn, trung và dài hạn.
Thứ ba, TDNH khác với tín dụng thương mại về hình thức, quy mô và thời gian hoạt động, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. TDNH giúp khắc phục một số hạn chế của tín dụng thương mại về mặt không gian và địa lý, về quy mô tín dụng, về trường hợp khi đến hạn trả tiền nếu vì một lý do nào đó mà người mua không có hoặc không đủ tiền trả. Mối quan hệ gắn bó này là nhờ thông qua việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu thương phiếu tại các ngân hàng khi đối tác có thương phiếu và có nhu cầu về tiền của mình.
Sự phát triển của các hình thức tín dụng, nhất là TDNH nhiều thập kỷ qua và cho đến nay trên thế giới đã có nhiều thay đổi và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Qúa trình vận động và phát triển của TDNH gắn liền với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, TDNH ngày càng đóng vai trò quan trọng trong vai trò là trung gian điều phối luồng tiền tệ để nền kinh tế hoạt động một cách ổn định và phát triển.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện qua những mặt sau:
1.2.2.1. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
Trong quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển của mình, nên để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, họ tìm đến ngân hàng hay các định chế tài chính để nhận được sự tài trợ về nguồn vốn. Như vậy thông qua việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng đã góp phần giúp các doanh nghiệp không những đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn có thể mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ thuật và công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo khả năng và khuyến khích đầu tư vào các ngành,các lĩnh vực các công trình lớn có ý nghĩa đối với quốc kế dân sinh.
Hơn nữa hoạt động tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ hữu cơ giữa sản xuất, lưu thông hàng hoá và tiêu dùng xã hội. Nó làm cho lưu thông hàng hoá mở rộng thị trường trong và ngoài nước.
Hiện nay, khoa học – kĩ thuật và công nghệ phát triển, bùng nổ như vũ bão, chu kì sản phẩm ngày càng rút ngắn lại thì tín dụng ngân hàng càng trở nên quan trọng hơn. Nhờ nguồn vốn tín dụng của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể tiếp cận được với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, từ đó giúp các nước đang và chậm phát triển có thể thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với chiến lược đi tắt đón đầu.
Như vậy, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng là điều không thể phủ nhận.
1.2.2.2. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Trong nền kinh tế mở, các doanh nghiệp phải đối đầu với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Họ không chỉ cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà còn phải cạnh tranh với đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạn tranh, các doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính mạnh để thực hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm…Do vậy các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính thường có nhiều lợi thé hơn, và họ có nguồn vốn lớn nên có thể dễ dang mở rộng sản xuất kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường. Kết quả là các công ty lớn càng lớn mạnh hơn,và các doanh nghiệp nhỏ do không đủ khả năng cạnh tranh nên có thể bị phá sản hoặc bị các công ty lớn mua lại. Để tồn tại thì các doanh nghiệp nhỏ đã tự nguyện liên doanh, liên kết hay sáp nhập lại với nhau hoặc cùng với các công ty lơn thành lập nên các công ty cổ phần, hùn vốn lại với nhau để tạo ra lượng vốn lớn. Như vậy do cạnh tranh mà dẫn đến sự liên kết hay sáp nhập này, và tín dụng ngân hàng là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
Mặt khác, để mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận để thành lập quỹ dự phòng, quỹ đầu tư phát triển, tái sản xuất kinh doanh. Nhưng do đặc điểm của chu chuyển vốn, vốn của doanh nghiệp luôn được luân chuyển liên tục để tạo ra lợi nhuận , nên khi một cơ hội kinh doanh xuất hiện, mà chờ có nguồn vốn đủ lớn để thực hiện tái sản xuất thì sẽ mất nhiều thời gian, và có khi bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh. Trong khi đó doanh nghiệp có thể sử dụng vốn tín dụng của ngân hàng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đóng vai trò tích tụ vốn trước một bước giúp cho doanhnghiệp tiết kiệm thời gian trong sản xuất kinh doanh, nắm bắt kịp các cơ hội kinh doanh.
1.2.2.3. Tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình tiết kiệm chi phí lưu thông của xã hội.
Với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của các giao dịch quốc tế, và các yêu cầu ngày càng cao về đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro đối với các bên tham gia giao dịch thì các hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày càng phát triển với các phương thức, phương tiện thanh toán đa dạng, nhanh chóng và tiện lợi hơn.Nhờ đó, thông qua cơ chế thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng làm giảm giao dịch tiền mặt nên có thể thực hiện được một khoản chi phí cho việc lưu thông tiền mặt. Đồng thời nhờ vào các phương tiện thanh toán khác như là:séc, thương phiếu, hối phiếu nên có thể mở rộng được quy mô lưu thông hàng hoá; tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông, bảo quản tiền, ghi chép sổ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn, tài sản xã hội được đảm bảo an toàn hơn. Đây là bước tiết kiệm quan trọng nhất mà tín dụng đã đạt được thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng thực hiện điều hoà nguồn vốn, phân phối lại vốn trong xã hội. Đây chính là chức năng phân phối của tín dụng ngân hàng. Nó biểu hiện ở cơ chế “ hút ” và “đẩy ” được thực hiện thông qua nhiệm vụ huy động vốn cho vay (thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong xã hội ) và nhiệm vụ cho vay (để đẩy vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ) hoặc thông qua thị trường liên ngân hàng. Dù dưới hình thức nào thì việc điều hoà vốn của tín dụng ngân hàng làm cho xã hội bớt được thừa vốn ở nhiều nơi thừa vốn và giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, đồng thời làm cho phát triển tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn, giảm tình trạng phải phát hành thêm tiền, khắc phục tình trạng lạm phát tiền tệ, từ đó góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả. Tất cả những tác động đó của tín dụng ngân hàng đều giúp tiết kiệm một lượng lớn lưu thông trong xã hôi.
1.2.2.4. Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện chính sách xã hội và là phương tiện để Nhà Nước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Thông qua tín dụng ngân hàng , Nhà nước tài trợ cho các đối tượng chính sách xã hội như học sinh, sinh viên, các hộ nông dân nghèo, các hộ sản xuất, các ngành nghề thủ công truyền thống bằng quỹ. Tính dụng ngân hàng là công cụ quan trọng trong việc tổ chức đời sống dân cư. Dân cư sử dụng tín dụng để tiết kiệm, tăng dự trữ của cải và cũng thông qua tín dụng để cải thiện nâng cao mức sống.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng là công cụ để cân đối thu chi ngân sách của Nhà Nước và góp phần điều chỉnh lượng tiền cung ứng trong lưu thông, bảo đảm sự cân đối tiền hàng, giữ cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và kiểm soát thị trường giá cả và sức mua của đồng tiền. Nó cũng là phương tiện được dùng để tài trợ cho các ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn vươn ra thị trường nước ngoài, nâng cao mức độ cạnh tranh của nền kinh tế.
1.3. Tổng quan về hoạt động tín dụng ngân hàng tài trợ xuất khẩu(TDTTXK ).
1.3.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng tài trợ xuất khẩu.
Ngày nay, xuất khẩu luôn được các quốc gia ( dù ở bất cứ trình độ phát triển nào) coi trọng như “động lực ”của nền kinh tế quốc dân. Khi cạnh tranh xuất khẩu ngày càng trở nên quyết liệt, các nhà xuất khẩu cần tới sự tài trợ của các cơ cấu tài chính hiện đại và mạnh để thắng thế cạnh tranh trong điều kiện ngày càng nhiều biến cố rủi ro. Mà ngân hàng chính là một trung gian tài chính uy tín và hoạt động có hiệu quả cho nên đã dẫn đến quan hệ vay mượn giữa một bên là ngân hàng với một bên là doanh nghiệp có nhu cầu về vốn.
Cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về TDTTXK dẫu cho rằng chỉ ở mặt khái niệm. Điều này đương nhiên sẽ rất khó cho việc sử dụng khái niệm TDTTXK. Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các khái niệm TDTTXK tuỳ thuộc vào các chuyên đề, nội dung phản ánh. Tuy nhiên, có thể hiểu TDTTXK là hoạt động tài trợ của ngân hàng đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu nhằm giúp các doanh nghiệp này thu mua, chế biến, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu trên cơ sở hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây là một cách nhìn chung về TDTTXK, tuy nhiên ở cụ thể ở mỗi nước lại có cách phương thức thực hiện riêng, nhưng theo xu thế ngày một hội nhập như hiện nay thì hoạt động TDTTXK của các nước đang ngày càng đi theo nhiều tiêu chuẩn chung của thế giới.
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế thì TDTTXK cũng ngày càng đa dạng và phong phú. Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các doanh nghiệp xuất khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu động, thu mua, chế biến, sản xuất hàng hoá xuất khẩu theo các hợp đồng đã kí kết; cho vay thanh toán nguyên liệu…Ngân hàng mở rộng hình thức cho vay trung và dài hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Ngân hàng cho vay để mua sắm thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng tính cạnh tram trên thị trường quốc tế.
Ngân hàng còn thực hiện đứng ra bảo lãnh các đơn vị xuất khẩu để giúp cho họ có thể thực hiện các hợp đồng thương mại quốc tế lớn. Với sự bảo lãnh của ngân hàng các doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài loại bỏ được những lo ngại đối với doanh nghiệp xuất khẩu ( về uy tín, khả năng thực hiện hợp đồng ), và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tốt. Nếu doanh nghiệp có hối phiếu hay các chứng từ có giá trong tay có thể đưa đến ngân hàng để chiết khấu . Ngân hàng sẽ mua lại bộ chứng từ và có quyền đòi nhà nhập khẩu theo hối phiếu và các giấy tờ đó.
Như vậy, do trình độ kỹ thuật nghiệp vụ ngày càng phát triển, các phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng thì hoạt động TDTTXK cũng phát triển mạnh với sự ra đời của nhiều hình thức, phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu.
1.3.2. Vai trò của tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Nếu xét hoạt động TDTTXK trên từng giác độ của ngân hàng, của doanh nghiệp và của nền kinh tế thì chúng ta sẽ thấy vai trò quan trọng của nó được biểu hiện rõ nét.
1.3.2.1. Đối với nền kinh tế đất nước.
TDTTXK góp phần làm tăng trưởng kinh tế đất nước cả về mặt lượng và chất. Thông qua việc huy động vốn và cho vay, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói chung và TDTTXK nói riêng tác động trực tiếp đến quan hệ tích luỹ - tiêu dùng và đầu tư - tiết kiệm, góp phần quan trọng vào khai thác các nguồn lực xã hội nhằm thực hiện GDP thực tế cân bằng GDP tiềm năng, từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước đang phát triển thì tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Đặc biệt là đối với các dự án, chương trình lớn phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, cần nhập khẩu thiết bị công nghệ mới, hiện đại, nguồn vốn tài trợ xuất khẩu thường chiếm từ 70% - 80% tổng mức vốn đầu tư. Bằng cơ chế lãi suất ưu đãi và nguồn trung – dài hạn, ngân hàng có thể tập trung cho các dự án này nhằm đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Chúng ta cũng biết khi một nước tham gia vào phân công lao động quốc tế thì cơ chế ngoại thương sẽ tạo ra hiệu quả cho các bên tham gia. Cơ chế đó sinh ra từ lợi thế so sánh dựa trên cơ sở khác biệt giữa chi phí cơ hội một mặt hàng của các nước tham gia. TDTTXK góp phần khai thác lợi thế so sánh và làm tăng kim ngạch xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường, quá trình lưu thông hàng hoá xuất khẩu diênc ra trôi chảy hơn, từ đó tăng tính năng động của nền kinh tế. Với nguồn vốn tài trợ xuất khẩu của ngân hàng, doanh nghiệp có điều kiện đổi mới dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu nên chất lượng sản phẩm hàng hoá được nâng cao, giá thành sản phẩm hạ, tạo khả năng cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác và kinh doanh có lãi. Sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng đã tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
1.3.2.2 Đối với doanh nghiệp.
Trong các giao dịch ngoại thương, có những hợp đồng ngoại thương được ký kết với giá trị lô hàng lớn, và có thể được thực hiện trong thời gian tương đối lâu. Điều đó đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải có nguồn vốn tương đối lớn và ổn định để đáp ứng các yêu cầu từ quá trình thu mua nguyên vật liệu đầu vào, chế biến, sản xuất, vận chuyển đến người nhập khẩu – quá trình này có thể kéo dài hàng năm, có khi nhiều hơn. Doanh nghiệp không thể tập trung hết toàn bộ nguồn lực của mình vào một hoạt động, mà doanh nghiệp cũng cần phải phân bố nguồn vốn vào các hoạt động kinh doanh sản xuất khác, do đó nhu cầu tài trợ vốn từ ngân hàng của doanh nghiệp là rất cần thiết.
Trong bất kỳ một hoạt động ngoại thương nào thì điều khoản thanh toán cũng được chú trọng rất nhiều. Nếu doanh nghiệp đã có được sự tài trợ từ phái ngân hàng có nghĩa là xác định được ngân hàng phục vụ cho mình, thì doanh nghiệp sẽ tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, thương lượng và ký kết hợp đồng. Bởi vì với sự tài trợ của ngân hàng thì doanh nghiệp có sự hậu thuẫn to lớn không chủ về vốn mà còn cả kinh nghiệm thanh toán và uy tín trên trường quốc tế - điều này giúp doanh nghiệp nhập khẩu sẽ an tâm hơn và tin vào khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp xuất khẩu. Như vậy TDTTXK là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện được các hợp đồng (đặc biệt là các hợp đồng có giá trị lớn với các doanh nghiệp nhập khẩu có uy tín).
Ngoài ra, TDTTXK còn làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông qua nguồn vốn tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp có thể mua hàng đúng thời vụ, gia công, chế biến, sản xuất và giao hàng đúng thời điểm, thương vụ được thực hiện trôi chảy, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
1.3.2.3. Đối với ngân hàng thương mại.
TDTTXK của NHTM là hình thức tài trợ thương mại, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác. Gía trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ của ngân hàng trong lĩnh vực xuất khẩu là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh,bởi vì:
Đồng vốn ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu gắn liền với thương vụ. Trong nhiều trường hợp, vốn tài trợ được thanh toán thẳng cho bên thứ ba, mà không qua bên xin tài trợ, như: thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho người xuất khẩu…Rõ ràng việc làm này tránh được tình trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế được rủi ro tín dụng.
Đối với TDTTXK ngắn hạn, thi thời gian tài trợ gắ liên với thời gian thực hiện thương vụ. Thời gian thực hiện thương vụ đối với người xuất khẩu là thời gian kể từ lúc gom hàng xuất đi cho đến lúc nhận được tiền thanh toán của người mua. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các NHTM thường là dưới một năm. Điều này giúp ngân hàng tránh được rủi ro về thanh khoản.
TDTTXK nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoại đã chỉ định việc thanh toán tiền hàng phải thông qua tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng. Do vậy nguồn thu để tra các khoản tài trợ dược ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp trong thơi gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy rủi ro.
Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất khẩu thể hiện thông qua lãi suất. Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu chứng từ, lãi vay bắt buộc ( bằng mức lãi quá hạn)…Tiền lãi thu cao thì thường giá trị tài trợ ở mức vừa và lớn. Ngoài ra, thông qua tài trợ xuất khẩu, ngân hàng còn mở rộng được quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín ngân hàng trên trường quốc tế, đây cũng là hiệu quả.
1.3.3. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế thì TDTTXK cũng ngày càng đa dạng và phong phú với sự ra đời của nhiều hình thức nhằm phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu. Mỗi loại hình thức tài trợ có các hình thức thực hiện khác nhau, phương tiện sử dụng khác nhau, nguồn tài trợ khác nhau và mức giá khác nhau nên người yêu cầu cần cân nhắc kỹ để tránh bị nhầm lẫn.
Căn cứ vào thời hạn tài trợ thì hoạt động TDTTXK có thể được chia thành TDTTXK ngắn hạn và TDTTXK trung – dài hạn. Nếu căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng thì có thể chia thành TDTTXK có bảo đảm và TDTTXK không có bảo đảm.
Trong chuyên đề này, TDTTXK sẽ được phân chia dựa trên căn cứ vào phương thức thanh toán.
1.3.3.1. Tài trợ trong khuôn khổ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ ( L/C).
Tín dụng chứng từ là một thoả thuận được một ngân hàng phát hành theo yêu cầu của người yêu cầu ( người mua / người nhập khẩu ), theo đó, ngân hàng cam kết sẽ thay mặt khách hàng của mình thực hiện thanh toán cho người hưởng ( người bán / người xuất khẩu ) thông qua một ngân hàng thứ hai một số tiền nhất định trong mộ khoảng thời gian nhất định trên cơ sở xuất trình bộ chứng từ theo yêu cầu phù hợp với các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng.
Như vậy, L/C không những là công cụ thanh toán, công cụ bảo đảm thanh toán mà còn là công cụ tín dụng. Đây là công cụ được các ngân hàng sử dụng phổ biến hiện này để thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu. Đối với việc tài trợ xuất khẩu theo L/C thí được thể hiện qua các hình thức sau:
Cho vay thực hiện hàng xuất theo L/C đã mở.
Khi nhận được L/C do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu có thể dựa vào đó để để nhờ ngân hàng phục vụ mình cấp một khoản tín dụng để thực hiện xuất hàng theo L/C quy định. Trên cơ sở L/C đã được chấp nhận ngân hàng có thể cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu để tiếp tục sản xuất , nghĩa là sẵn sàng chấp nhận chiết khấu các hối phiếu của L/C này.
Đối với L/C trả chậm cũng được sử dụng như một phương tiện đ vay. Nhà xuất khẩu có thể nhận được tiền dưới dạng tín dụng chuyển nhượng toàn bộ quyền thụ hưởng L/C cho ngân hàng cấp phát tín dụng, đặc biệt thuận lợi hơn khi đó là L/C trả chậm có xác nhận.
Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước chứng từ hàng xuất khẩu: để đáp ứng nhu cầu vốn, nhà xuất khẩu sau khi giao hàng có thể thương lượng với ngân hàng, thực hiện chiết khấu toàn bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền khi bộ chứng từ được thanh toán.
Chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất là hình thức ngân hàng tài trợ nhà nhập khẩu thông qua việc mua lại hoặc cho vay trên cơ sở giá trị bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo được người xuất khẩu trình. Có hai hình thức chiết khấu:
+ Chiết khấu miễn truy đòi ( chiết khấu đóng ): ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của nhà xuất khẩu. Gía mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhập khẩu nước ngoài.Nhà xuất khẩu sau khi bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc ngân hàng. Ở Việt Nam, các ngân hàng ít sử dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng.
+ Chiết khấu được phép truy đòi ( chiết khấu mở ): ngân hàng thực hiện cho vay trên cơ sở người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời gian cho vay được tính bằng thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền nhà nhập khẩu nước ngoài. Khi đó, trách nhiệm người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được._. tiền từ nhà nhập khẩu. Khi chiết khấu được tính dưới hình thức lãi chiết khấu, tính theo ngàyvà mức phí dĩ nhiên thấp hơn trong trường hợp chiết khấu miễn truy đòi vì rủi ro ngân hàng phải chịu thấp hơn.
Tác dụng hoạt động chiết khấu của ngân hàng nhằm tài trợ vốn lưu động cho người xuất khẩu để đảm bảo sản xuất kinh doanh liên tục, không bị gián đoạn trong thời gian chờ nhà nhập khẩu nước ngoài thanh toán tiền hàng. Phạm vi chiết khấu bộ chứng từ thường chỉ được áp dụng trong phương thức thanh toán quốc tế tín dụng chứng từ, do phương thức này có sự ràng buộc chặt chẽ việc giao hàng của nhà xuất khẩu và trách nhiệm thanh toán của nhà nhập khẩu thông qua các ngân hàng phục vụ các bên, rủi ro thấp hơn các phương thức thanh toán quốc tế khác.
Tín dụng ứng trước tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán: đó là việc tạm ứng cho quyền thừa hưởng thanh toán trong khuôn khổ thanh toán tín dụng chứng từ. Thời gian cho thanh toán là một quá trình khá dài, nên nhà xuất khẩu cũng cần một khoản tài trợ của ngân hàng, đó là khoản tín dụng ứng trước. Đối với tín dụng ứng trước loại này , những giấy tờ có giá theo lệnh hoặc những giấy tờ chính như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bao hiểm… đều là những vật thế chấp cho ngân hàng. Do đó, tất cả giấy tờ có giá theo lệnh đều phải có mệnh giá chuyển nhượng khống hoặc chuyển nhượng cho ngân hàng cấp tín dụng ứng trước. Một khi những giấy tờ có giá trị trên không cho phép chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng những hình thức thế chấp khác. Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
+ Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị của hàng hoá dự kiến.
+ Chính sách kinh tế và chính sách chính trị của nước nhập khẩu đối với ngân hàng nhà xuất khẩu.
+ Những rủi ro về tỉ giá hối đoái.
Tín dụng ứng trước dưới hình thức mua lại bộ chứng từ thanh toán: Sau khi hoàn tất nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người mua, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán, lúc này nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu bộ chứng từ thanh toán này. Đồng thời ở họ xuất hiện nhu cầu bù đắp vốn để tiếp tục quá trình kinh doanh trong khoảng thời gian xuất chuyển hàng đến khi nhà nhạp khẩu chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Trong trường hợp như vậy, nhà xuất khẩu có thể đem bán bộ chứng từ thanh toán này cho ngân hàng. Việc ngân hàng mua lại bộ chứng từ thanh toán này tức là đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho nhà xuất khẩu. Trị giá khoản tín dụng ứng trước này phụ thuộc vào trị giá bộ chứng từ, loại hàng hoá mua bán thể hiện trên chứng từ,…Thông thường các ngân hàng mua với giá khoảng 70 – 80% trị giá bộ chứng từ. Ngân hàng vẫn có quyền truy đòi đối với nhà xuất khẩu khi bộ chứng từ gửi đi không thu được tiền.
1.3.3.2. Tài trợ trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
So với tín dụng chứng từ, nhờ thu ít được sử dụng hơn trong thanh toán vì đây là phương thức thanh toán có lợi cho bên mua. Từ lúc gửi các chứng từ tới ngân hàng
( ngân hàng bên nhà xuất khẩu ) cho tới khi xuất trình với người thanh toán có thể mất một khoảng thời gian nhất định. Đối với các doanhnghiệp xuất khẩu, thông thường buôn bán hàng hoá từ dầu tới cuối có thể cần đến một khoản tín dụng tạm thời vì lý do thời gian vận chuyển và các điều kiện thanh toán khác nhau ở phía người mua cũng như ở phía người bán.Trong cả hai trường hợp, ngân hàng của nhà xuất khẩu đều có thể tạm ứng trước tương tự như phương thức tín dụng chứng từ. Nhà xuất khẩu có thể chuyển nhượng quyền lợi từ sự uỷ nhiệm cho ngân hàng thu chứng từ. Nhưng giá trị của sự chuyển nhượng này phụ thuộc rất lớn vào khả năng thanh toán của người vay tín dụng vì không có sự bảo đảm chắc chắn rằng các chứng từ của người phải thanh toán được chấp nhận và vào giá trị hàng hoá được thanh toán.Nếu nhà nhập khẩu được giao các chứng từ khi chấp nhận một hối phiếu đòi nợ, thì có thể kèm theo việc chiết kháu hối phiếu ở ngân hàng nhà xuất khẩu cũng như ngân hàng nhà nhập khẩu.
1.3.3.3 Tài trợ trên cơ sở hối phiếu.
Hối phiếu là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện của nhà xuất khẩu ký phát cho nhà nhập khẩu, yêu cầu nhà nhập khẩu khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hối phiếu hoặc theo lệnh của người hưởng lợi trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Tài trợ trên cơ sở hối phiếu có hai hình thức phổ biến sau:
Chiết khấu hối phiếu ( Bill discounting ).
Tín dụng chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng nhận về một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí chiết khấu. Thực chất của hình thức này là ngân hàng tiến hành mua lại các hối phiếu thương mại đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán. Nét đặc trưng của nghiệp vụ này là ngân hàng sẽ chiết khấu trừ đi tiền lãi ngay khi chiết khấu và chỉ chuyển cho khách hàng số tiền còn lại. Các ngân hàng sẽ xác định khối lượng tín dụng cấp ra ( giá trị chiết khấu ) căn cứ vào mệnh giá của hối phiếu được áp dụng làm đối tượng chiết khấu trừ đi lợi tức chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng. Công thức xác định như sau:
TCK = M
Trong đó: TCK: giá trị chiết khấu.
M : mệnh giá hối phiếu.
LCK: lãi suất chiết khấu ( theo năm ).
T : thời gian chiết khấu ( theo ngày ).
P : lệ phí.
Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền hối phiếu.
Chấp nhận hối phiếu ( Banker’s acceptance ).
Chấp nhận hối phiếu là một nghiệp vụ thông thường trong quá trình lưu thông hối phiếu. Trong thời hạn quy định, bên bán phái xuất trình cho bên mua để họ ký chấp nhận trả tiền hối phiếu. Tuy nhiên, nghiệp vụ ngân hàng chấp nhận hối phiếu ở đây lại bàn ở một khía cạnh khác: khía cạnh tài trợ của ngân hàng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của bên mua, họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn. Đây là một sự đảm bảo về tài chính cho bên bán, đương nhiên nếu đến thời hạn thanh toán bên mua có đủ tiền, thì ngân hàng thực sự không phải ứng tiền ra, khoản tín dụng này chỉ là hình thức. Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu trên cơ sở đó có được sự bảo đảm chắc chắn về khả năng thanh toán và họ có thể đem hối phiếu chiết khấu tại bất kỳ ngân hàng nào. Khả năng thương mại của hối phiếu lúc này rất lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu được hưởng một tỷ lệ chiết ưu đãi.
1.3.3.4. Bảo lãnh.
Trong mua bán quốc tế, đôi khi do không nắm rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng.
Bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng, là cam kết của ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền cho người hưởng bảo lãnh, nếu người được hưởng bảo lãnh không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với người hưởng bảo lãnh được quy định cụ thể trong thư bảo lãnh của ngân hàng.
Hình thức tài trợ, khi ngân hàng phát hành thư bảo lãnh, tức là ngân hàng đã cấp cho khách hàng một sự tín nhiệm tài chính trong việc ngân hàng cam kết bồi thường cho khách hàng khi có tổn thất xảy ra. Sự tín nhiệm tài chính này lớn hay nhỏ hoàn toàn phụ thuộc vào địa vị, uy tín và độ tín nhiệm của ngân hàng như thế nào. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng, nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay và thu phí bảo lãnh. Khi nhà xuất khẩu không giao hàng hay giao hàng không đủ, không đúng, vi phạm hợp đồng thì nhà nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng là nhằm ngăn chặn những rủi ro có thể phát sinh trong các dịch vụ mua bán không thường xuyên, đồng thời bù đắp những thiệt hại về mặt tài chính cho người thụ hưởng một cách nhanh chống và chắc chắn.
1.3.3.5. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu khác.
Tín dụng bao thanh toán ( Factoring ).
Đây là hình thức tài trợ đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng sẽ mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu ở nước ngoài. Hiện nay trên thế giới nghiệp vụ bao thanh toán được thực hiện tại các ngân hàng hoặc thành lập ra các công ty riêng gọi là công ty Factoring chuyên mua lại các khoản nợ. Thông thường người mua lại các khoản phải thu phát sinh từ những hợp đồng xuất khẩu gọi là người bao thanh toán (nhà Factor ), và người bán là người nhượng. Như vậy, nhà Factor sẽ giữ trọn bộ chứng từ của nhà xuất khẩu, họ sẽ phụ trách toàn bộ việc quản lý và theo dõi tiến độ thu nợ, xử lý các hoá đơn và theo dõi việc thanh toán tiền hàng xuất khẩu khi đến hạn. Ngay sau khi nhận được hoá đơn của nhà xuất khẩu, nhà Factor sẽ thanh toán ngay cho nhà xuất khẩu một tỷ lệ % trị giá hoá đơn ( thường từ 75% - 85% ), phần còn lại sẽ được cam kết thanh toán sau một thời hạn nhất định ( sau khi trừ đi các chi phí, lãi suất và hoa hồng ). Tuỳ theo tính chất hoàn hảo của chứng từ, tình hình tài chính và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu mà ngân hành quyết định tỷ lệ mua nợ cao hay thấp đối với nhà xuất khẩu. Có hai loại:
Factoring tương đối: là nhà Factor sẽ thanh toán cho nhà xuất khẩu, nhưng với thoả tuận là nhà xuất khẩu vẫn chịu trách nhiệm rủi ro nếu nhà nhập khẩu không trả tiền.
Factoring tuyệt đối: nhà Factor gánh chịu mọi rủi ro nếu nhà nhập khẩu không trả tiền.
Tín dụng bao thanh toán giúp nhà xuất khẩu có vốn ngay để hoạt dộng sản xuất kinh doanh của mình dù bán thu tiền ngay hay bán chịu, đồng thời giúp nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài thời gian. Vì vậy nhà xuất khẩu phải trả một khoản phí khá cao khi được bao thanh toán.Nhìn chung tín dụng bao thanh toán đặc biệt thích hợp với các giao dịch áp dụng phương thức thanh toán ghi sổ, cho phép người mua hưởng tín dụng cung ứng hoặc gặp khó khăn trong việc thu nợ tiền hàng từ nhà nhập khẩu nước ngoài.
Tín dụng thuê mua ( Leasing ).
Thuê mua là hình thức tài trợ vốn ra đời ở Mĩ vào năm 1952, sau đó thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được các nước trên thế giới áp dụng.
Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người sử dụng. Người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc thời hạn họ có thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay được quyền thuê tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký kết hợp đồng thuê. Có hai loại hình thức thuê: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê.
Cho thuê vận hành: Bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian ngắn để sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê.
So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có ưu điểm sau:
Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay lập tức mà trả tiền thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiẹp chủ động hơn về vốn để tập trung sản xuất. Hình thức này có ý nghĩa nhất đối với doanh nghiệp không đủ vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị để sản xuất và dùng một lợi thu được từ tài sản để trả tiền thuê định kỳ.
So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị đơn giản hơn nhiều do thiết bị thuê thộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt thời gian thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thuê có thể láy lạitoàn bộ tài sản cho thuê. Ngày nay các ngân hàng thường lập công ty tài chính riêng để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp và làm phong phú thêm hoạt động của mình.
1.3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu.
Hoạt động TDTTXK của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố khác nhau. Muốn thúc đẩy hoạt động TDTTXK phát triển thì ngân hàng phải xác định được yếu tố nào tác động nhiều đến ngân hàng và mức độ ảnh hưởng đó như thế nào. Nếu lấy ngân hàng làm ranh giới, thì các yếu tố này có thể được chia thành các yếu tố bên trong ngân hàng và các yếu tố bên ngoài ngân hàng.
1.3.4.1. Các yếu tố bên trong ngân hàng.
Nhóm yếu tố này bao gồm các vấn đề liên quan đến mô hình tổ chức quản lý của ngân hàng, trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ tín dụng, năng lực tài trợ của ngân hàng,….Những yếu tố này mạnh hay yếu sẽ đòi hỏi các nhà quản trị của ngân hàng phải tìm ra hình thức tổ chức, sắp xếp sao cho phù hợp với năng lực hiện có của ngân hàng.
Mô hình tổ chức quản lý và các quy trình nghiệp vụ.
Hoạt động của ngân hàng có thuận lợi và đạt hiệu quả cao không thì yếu tố đầu tiên phải xem xét đến là bộ máy tổ chức quản lý và các quy trình nghiệp vụ được thực hiện trong ngân hàng như thế nào. Bộ máy tổ chức và các quy trình nghiệp vụ quy định quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận và sự phối hợp giữa các bộ phận trong việc thực hiện nghiệp vụ TDTTXK. Tổ chức bộ máy và các quy trình nghiệp vụ phù hợp sẽ nâng cao chất lượng thẩm định, hạn chế rủi ro trong công tác tín dụng.
Trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng.
Do nghiệp vụ TDTTXK liên quan đến thông lệ, tập quán quốc tế và luật pháp quốc gia, do đó cán bộ tín dụng, trước hết thạo ngôn ngữ nghiệp vụ, tinh thông nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm thực tế. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng đến với ngân hàng. Các cán bộ này phải được đào tạo kĩ càng theo hướng chuyên nghiệp hoá, ví dụ như: chuyên gia thanh toán hàng xuất, chuyên gia tài trợ xuất khẩu theo hình thức chiết khấu, chuyên gia bảo lãnh…Một khi khách hàng được phục vụ niềm nở với trình độ chuyên môn cao đáp ứng mọi yêu cầu phức tạp nhất, họ sẽ cảm thấy hài lòng và chọn ngân hàng làm nơi giao dịch. Mặt khác trình độ cán bộ vững sẽ xử lý các kỹ thuật nghiệp vụ một cách chính xác và hạn chế rủi ro cho ngân hàng, nâng cao chất lượng hoạt động.
Công nghệ của ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng liên quan đến toàn bộ cở vật chất và mạng lưới truyền thông, thanh toán. Hệ thống mạng máy tính và các chương trình ứng dụng của nó có liên quan chặt chẽ đến chất lượng hoạt động và các sản phẩm tài trợ xuất khẩu. Việc nối mạng thông tin cũng giúp cho ngân hàng quảng bá hoạt động và các sản phẩm dịch vụ của mình tới khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng đến với ngân hàng, khai thác tốt các nguồn vốn tài trợ và thực hiện tài trợ lại cho khách hàng. Chính những hoạt động này là tiền đề thúc đẩy hoạt động TDTTXK
Với thực tiễn môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện tại: các yếu tố trên rất quan trọng. Để thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mĩ và gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng Mĩ sẽ được nới lỏng các quy định về hoạt động của ngân hàng nước ngoài, cho phép cung cấp các dịch vụ mà ngân hàng nước ngoài hơn hẳn các NHTM Việt Nam về công nghệ, trình độ quản lý thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu…, được phép tái cấp vốn và tái chiết khấu từ ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam phải thực hiện tái cơ cấu theo đúng yêu cầu của WTO. Đây thực sự là một thách thức buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá và phát triển dịch vụ ngay từ bây giờ để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn. Trong đó, tài trợ xuất nhập khẩu là vấn đề nhạy cảm nhất vì gắn liền với các yếu tố công nghệ, nguồn vốn, trình độ quản lý.
Năng lực tài trợ của ngân hàng.
Năng lực tài trợ của ngân hàng phụ thuộc vào nguồn vốn của ngân hàng. Đối với bất kỳ một tổ chức tài chính nào thì nguồn vốn là yếu tố xương sống. Nguồn vốn của một tổ chức tín dụng bao gồm: vốn ngân sách Nhà Nước; vốn huy động từ dân cư, các tổ chức kinh tế, từ việc phát hành trái phiếu, trong đó vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Việc thực hiện hoạt động TDTTXK đòi hỏi vốn lớn, nếu nguồn vốn của ngân hàng nhỏ không đáp ứng được nhu cầu về vốn của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ tìm đến với các ngân hàng khác có đủ khả năng cung ứng. Do vậy để thực hiện tốt hoạt động TDTTXK thì ngân hàng phái có tiềm lực về nguồn vốn lớn mạnh.
Hệ thống ngân hàng đại lý.
Xu hướng phát triển mở rộng thị trường hoạt động, phạm vi giao dịch, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, tăng năng lực cạnh tranh và uy tín của ngân hàng là một xu thế tất yếu của bất kỳ ngân hàng nào trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay. Để làm được điều đó thì quy mô kinh doanh của ngân hàng phải đủ lớn để tạo uy tín trên thương trường, trên cơ sở đó hình thành các mối quan hệ ngân hàng đại lý trong các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Các ngân hàng đại lý ở các nước không chỉ là đối tác kinh doanh quan trọng, mà còn là tai mắt và nguồn cung cấp thông tin và tư vấn đáng tin cậy về khách hàng ở nước ngoài trong các thương vụ và các giao dịch khác có liên quan.
Uy tín của ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế.
Một ngân hàng có uy tín lớn là ngân hàng có các hoạt động đa dạng và phong phú cả về quy mô và chất lượng, điều này sẽ thu hút số lượng lớn các khách hàng đến với ngân hàng. Trong hoạt động TDTTXK, uy tín của ngân hàng càng đống vai trò quan trọng, cam kết của ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện của giao dịch thương mại. Cam kết do một ngân hàng có uy tín phát hành sẽ dễ dàng được chấp nhận, giảm các chi phí không cần thiết cho người mua và người bán, gây lòng tin đối với khách hàng, từ đó sẽ có nhiều khách hàng đến với ngân hàng hơn, phát triển được các hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như hoạt động tài trợ xuất khẩu nói riêng. Uy tín của ngân hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán, kĩ thuật xử lý nghiệp vụ, quy mô của nguồn vốn huy động và cho vay, sự đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng…
1.3.4.2. Các yếu tố bên ngoài ngân hàng.
Nhóm yếu tố này bao gồm chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà Nước; môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước; tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu;…Sự biến động của bất kỳ nhân tố nào trong số các nhóm nhân tố trên đều cũng đều tác động đến hoạt động TDTTXK của ngân hàng. Nó sẽ tác động là thu hẹp hoặc là mở rộng hoạt động TDTTXK của ngân hàng.
Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà Nước.
Các hoạt động kinh tế nói cung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng chịu sự tác động lớn bởi chủ trương chính sách, đường lối phát triển kinh tế của Nhà Nước.
Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà Nước có thể tạo điều kiện TDTTXK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà Nước dùng chính sách tiền tệ mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng tài trợ của ngân hàng gia tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách TDTTXK tự do hơn. Chính sách lãi suất linh hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hoạt động TDTTXK chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay ngoại tệ, nên việc ngân hàng Nhà Nước mở rộng biên độ điều hành tỷ giá linh hoạt và đưa các quy định mới về quản lý trạng thái ngoại tệ một cách chặt chẽ sẽ tạo cho các NHTM tăng mua ngoại tệ từ thị trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngoại tệ của khách hàng xuất nhập khẩu.
Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà Nước có thể gây ra nhiều rủi ro cho hoạt động TDTTXK của ngân hàng. Nếu Nhà Nước không có chiến lược hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất hạn chế. Từ đó dẫn đến hoạt động tài trợ của ngân hàng đạt hiệu quả không cao, lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống. Khi Nhà Nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế quan sẽ cản trở sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, như vậy nhu cầu tài trợ cũng giảm.
Tóm lại, cơ chế chính sách của Nhà Nước có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp – khách hàng của ngân hàng. Trong môi trường kinh doanh mà cơ chế chính sách hay thay đổi sẽ tác động đến chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của ngân hàng, tạo ra nhiều rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước.
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hoặc luôn bị biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến sự mất lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, mất lòng tin của nhân dân. Như vậy làm khả năng huy động vốn khó khăn, nguồn vốn tài trợ của ngân hàng bị hạn chế, hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp, trong đó có hoạt động TDTTXK. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam Á đã chứng minh điều đó. Hoạt động của các ngành, các lĩnh vực của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bịảnh hưởng sâu sắc. Hàng loạt các ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia rơi vào phá sản do không thu lại được các khoản nợ, không tài trợ được để bù đắp chi phí khi nhu cầu tiêu dùng giảm. Tình hình chính trị, xã hội bất ổn cũng như thiên tai, dịch hoạ cũng là nguyên nhân bất khả kháng gây ra rủi ro đối với các khoản tài trợ của ngân hàng.
Các yếu tố từ phía doanh nghiệp xuất khẩu như: tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, trình độ nghiệp vụ kinh doanh, hành vi đạo đức của doanh nghiệp. Do hoạt động TDTTXK có liên quan đến thông lệ, tập quán quốc tế và luật pháp quốc gia nên đòi hỏi cả doanh nghiệp và ngân hàng phải có trình độ nhất định về các yếu tố đó. Mặt khác để nhận được nguồn vốn tài trợ của ngân hàng thì các doanh nghiệp cũng phải đáp ứng được các điều kiện mà ngân hàng đưa ra. Việc doanh nghiệp giả mạo các chứng từ để nhận được tài trợ của ngân hàng hoàn toàn có thể xảy ra. Do đó yếu tố hành vi đạo đức của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động TDTTXK của ngân hàng.
Tóm tắt chương 1
Trong chương 1, chuyên đề đã trình bày một số vấn đề lí luận chung về TDTTXK :
_ Sự ra đời và phát triển của NHTM.
_ Khái niệm, đặc điểm và vai trò của TDNH.
_ TDTTXK: khái niệm, vai trò, các hình thức TDTTXK và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động TDTTXK.
Đây sẽ cơ sơ lí luận cần thiết để phân tích thực trạng hoạt động TDTTXK tại NHNTVN trong chương 2.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
2.1.1. Một số thông tin chính về NHNTVN.
Tên tiếng việt: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Tên tiếng anh: Banh for Foreign of Vietnam.
Tên viết tắt tiếng anh: Vietcombank.
Trụ sở chính: số 198, đường Trần Quang Khải, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 84 – 4 – 9.343.137.
Fax : 84 – 4 – 8.241.395.
Telex : 411504/411209 VCB VT.
SWIFT : BFTVVNVX.
Website : www.vietcombank.com.vn
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 105922.
Vốn điều lệ: QĐ số 1476/2001/QĐ – NHNN do Ngân hàng Nhà Nước ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2001 chuẩn y vốn điều lệ của NHNT là 1.100.000 triệu đồng Việt Nam. Vốn điều lệ của NHNT được bổ sung theo từng thời kỳ: tại thời điểm 31/12/2004 là 4.206.527 triệu đồng Việt Nam, tại thời điểm 31/12/2005 là 4.279.127 triệu đồng Việt Nam.
Lĩnh vực kinh doanh: huy động vốn, hoạt động tín dung, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, các hoạt động khác bao gồm: góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng, cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ…
Thời gian hoạt động: 99 năm kể từ ngày Thống đốc NHNN ký quyết định lai NHNT theo quyết định số 286/QĐ – NH5 ngày 21/9/1996.
Mã số thuế: 0100112437 tại Cục thuế Hà Nội.
Tài khoản Việt Nam đồng số 453100301 mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà Nước.
2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNTVN.
Ngày 01 tháng 04 năm 1963 NHNTVN được chính thức thành lập theo quyết định số 115/CP do hội đồng Chính Phủ ban hành ngày 30/10/1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc ngân hàng TW ( nay là NHNNVN ). Ngày 21 tháng 9 năm 1996 Thống đốc NHNN ký quyết định số 286/QĐ – NH5 thành lập lại NHNTVN theo mô hình tổng công ty Nhà nước theo quy định tại quyết định số 90/TTg ngày 07/3/1994 theo uỷ quyền của thủ tướng Chính phủ.
Qúa trình phát triển của NHNT chia làm 3 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1963 – 1975: Trong giai đoạn này, NHNT hoàn thành nhiệm vụ đối nội và đối ngoại được Nhà nước giao phó là tiếp nhận viện trơh nước ngoài phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế ở Miền Bắc xã hội chủ nghiã và chuyển tiền phục vụ cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam.
Giai đoạn 1975 – 1990: Sau ngày giải phóng Miền Nam, NHNT đã tham gia tiếp quản các ngân hàng cũ hoàn tất thủ tục pháp lý thực hiện quyền vai trò hội viên của Việt Nam tại IMF, WB, ADB, xác định quyền sở hữu tài sản quốc gia đối với các tài sản là hàng hoá, ngoại tệ hiện đang ở bên ngoài. Trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế đất nước trước việc bị Mĩ cấn vận, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa bị giảm sút, cán cân thương mại mất cân đối nghiêm trọng, cán cân thanh toán quốc tế luôn bội chi, NHNT đã thực hiện chủ trương mở rộng đầu tư cho xuất khẩu, kiến nghị Nhà Nước ban hành các cơ chế khuyến khích xuất khẩu, mở rộng dịch vụ thua mua ngoại tệ thông qua cơ chế thưởng ngoại tệ, cơ chế cấp quyền sử dụng ngoại tệ góp phần tạo nguồn cung ngoại tệ cho nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất, phân bón, thuốc trừ sâu và lương thực.
Giai đoạn 1990 đến nay: ngày 14 tháng 11 năm 1990, NHNTVN được chính thức chuyển từ một ngân hàng chuyên doanh, độc quyền trong hoạt động kinh tế đối ngoại sang một NHTM Nhà Nước hoạt động đa năng và tự do cạnh tranh với các loại hình NHTM và các tổ chức tài chính khác. Với bề dày kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đối ngoại và sau nhiều bước đi quá độ, NHNT đã từng bước tiếp cận, nhanh chóng thích nghi với kinh tế thị trường, giữ vững vai trò chủ lực trong hệ thống NHTMVN. Đặc biệt, NHNT luôn được đánh giá là ngân hàng có uy tín và hàng đầu Việt Nam trong các lĩnh vực kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế khác. NHNT là một trong những thành viên đầu tiên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và là thành viên của nhiều hiệp hội ngân hàng khác như Hiệp hội Ngân hàng Châu Á, Câu lạc bộ Ngân hàng Châu Á Thái Bình Dương, tổ chức thanh toán toàn cầu SWIFT, tổ chức thanh toán thẻ Visa, MasterCard. Tới nay, NHNT đã có quan hệ ngân hàng đại lý với hơn 1450 ngân hàng và định chế tài chính 90 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngoài ra NHNT còn là NHTM duy nhất tại Việt Nam được tạp chí “ The Banker ”- tạp chí ngân hàng uy tín trong giới tài chính quốc tế của Anh Quốc bình chọn là “ Ngân hàng tốt nhất của Việt Nam ” trong 5 năm 2000 –2004. Song song phát triển các nghiệp vụ và sản phẩm ngân hàng, NHNT tiếp tục mở rộng hệ thống mạng lưới nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng. Tính đến năm 2006, hệ thống NHNT bao gồm: 67 chi nhánh, 01 sở giao dịch, 52 phòng giao dịch và 04 công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 02 phòng đại đại diện và 01 công ty con ở nước ngoài, với đội ngũ cán bộ lên tới trên 63000 người. Tại thời điểm cuối năm 2006, tổng tài sản của NHNT đạt 171.862 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt 62.400 tỷ đồng.
Với bề dày thành tựu của hơn 40 năm xây dựng và phát triển cùng với kết quả đạt được sau 5 năm triển khai Đề án tái cơ cấu ( 2000 – 2005 ), NHNT đang trên con đường trở thành một tập đoàn tài chính đa năng đáp ứng tốt nhất những chuẩn mực về quản trị và tài chính quốc tế, hoạt động sâu rộng và có vị thế hơn nữa trên toàn cầu dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực chất lượng cao đồng thời giữ vững vai trò tiên phong hàng đầu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý tại NHNTVN.
2.1.3.1. Cơ cấu tổ chức.
Hội sở chính: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và điều hành tại trụ sở chính
NHNT gồm có: hội đồng quản trị; ban kiểm soát ( gồm phòng kiểm toán nôi bộ), tổng giám đốc và bộ máy giúp việc.
Sở giao dịch hay chi nhánh: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của Sở giao dịch, chi nhánh của NHNT gồm có: giám đốc; các phó giám đốc; trưởng phòng kế toán; các phòng chuyên môn nghiệp vụ; các phòng giao dịch; bộ phận kiểm tra và kiểm toán nội bộ.
Đơn vị sự nghiệp, văn phòng đại diện: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của đơn vị sự nghiệp và văn phòng đại diện NHNT do Hội đồng quản trị NHNT quy định phù hợp với quy định của pháp luật.
Công ty trực thuộc: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của công ty trực thuộc thực hiện theo quy địn của Chính Phủ đối với từng loại hình công ty trực thuộc được phép thành lập.
2.1.3.2. Bộ máy quản lý.
Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý cao nhất của NHNT. HĐQT của NHNT có 5 thành viên chuyên trách do Thống đốc NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm, trong đó có Chủ tịch HĐQT; 1 thành viên HĐQT kiêm Tổng Giám Đốc; 1 thành viên HĐQT kiêm Trưởng Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ của các thành viên hội đồng quản trị là 05 năm.
Ban kiểm soát: do HĐQT thành lập ra để kiểm tra, giám sát các hoạt động của NHNT. Số thành viên của Ban kiểm soát tối thiểu là 5 người, trong đó ít nhất có 1 nửa thành viên là chuyên trách, có một thành viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính giới thiệu, một thành viên doThống Đốc NHNN giới thiệu. Số lượng thành viên Ban kiểm soát do HĐQT quyết định.
Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc: Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của NHNT, là người chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị, trước pháp luật về việc điều hành hoạt động hàng ngày theo nhiệm vụ và quyền hạn quy định. Bộ máy giúp việc Tổng giám đốc gồm: các Phó Tổng giám đốc; Kế toán trưởng, các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ; phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ ( gọi tắt là phòng Kiểm tra nội bộ ).
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh cơ bản của NHNTVN.
2.1.4.1. Hoạt động huy động và quản trị vốn.
Trong giai đoạn 2003 – 2006,._.m nhìn chiến lược: NHNT chưa có chiến lược cho vay vốn tài trợ xuất khẩu hẳn hoi đối với SME
+ Hạn chế về năng lực quản lý, năng thẩm định cho vay.
+ Là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tiến hành cơ cấu lại ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế nên các quy định, chính sách TDTTXK sẽ rõ ràng, chặt chẽ, chuẩn mực hơn - điều này trong hiện tại sẽ là khó khăn đối với NHNT trong việc phát triển hoạt động TDTTXK, trong khi các NHTM khác trong nước vẫn áp dụng các quy định, chính sách theo kiểu “ Việt Nam ”.
Opportunities ( Cơ hội ):
+ Là ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tiến hành cơ cấu lại ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế nên trong hiện tại NHNT có thể gặp khó khăn, nhưng về sau này trong quá trình hội nhập như hiện nay thì tất cả các NHTM trong nước đều bắt buộc phải áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế thì NHNT sẽ có lợi thế của người đi trước.
+ Trong năm 2007, NHNT sẽ hoàn thành quá trình Cổ phần hoá ngân hàng – như vậy sự quản lý của Nhà Nước đối với NHNT về chính sách tiền tệ, lãi suất,…sẽ giảm dần, cho vay theo chỉ định của Nhà Nước cũng giảm. Như vậy, NHNT sẽ có sự thay đổi về chính sách cho phù hợp với tiềm năng của mình, tạo điều kiện cho NHNT phát triển và mở rộng hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động TDTTXK nói riêng.
+ Có cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ các ngân hàng nước ngoài, trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay để tồn tại và phát triển buộc NHNT phải tìm cách để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, từ đó thúc đẩy hoạt động TDTTXK phát triển.
Threats ( Thách thức ):
+ Từ sự cạnh tranh của các ngân hàng khác: các ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn trong dịch vụ ngân hàng bán buôn, có các công cụ tài chính hữu hiệu hơn, có chiến lược thâm nhập thị trường và lựa chọn khách hàng sắc nét, trình độ công nghệ và năng lực quản lý cao hơn sẽ giúp họ huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Các ngân hàng TMCP như Saocombank, ACB,…- những ngân hàng có quy mô TDTTXK lớn thì dù quy mô hoạt động của họ còn nhỏ nhưng năng lực tài chính của họ khá tốt, hơn nữa do có cơ cấu tổ chức nhỏ và linh hoạt nên các ngân hàng này cũng sẽ linh hoạt hơn trong hoạt động TDTTXK đối với SME.
+ Từ môi trường chính sách không ổn định của Nhà Nước.
+ Từ các khó khăn đang tồn tại của NHNT.
Từ việc phân tích ở trên, ta thấy được những thế mạnh mà NHNT cần phải phát huy, những cơ hội cần phải nắm bắt, những điểm yếu cần phải khắc phục và những thách thức cần phải vượt qua để thúc đẩy hoạt động TDTTXK của ngân hàng phát triển, tiếp tục giữ vững và mở rộng hơn nữa thị phần TDTTXK trên thị trường. Để làm được điều đó đòi hỏi NHNT phải đưa ra được chiến lược và các giải pháp thực hiện thích hợp, đúng đắn.
3.4. Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại NHNTVN.
3.4.1. Giải pháp về nghiệp vụ tín dụng.
3.4.1.1. Tăng cường công tác huy động vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Để đảm bảo việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu, NHNT cần có chính sách huy động nguồn vốn trong và ngoài nước có hiệu quả. Trước hết ngân hàng cần đa dạng hoá các nghiệp vụ huy động vốn, phát triển nhiều công cụ huy động vốn mới nhằm giảm thiểu các tác động của thị trường lên công tác huy động vốn. NHNT cần phải phân loại khách hàng để có chính sách huy động vốn cho phù hợp và hiệu quả:
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp xuất khẩu: nhằm phục vụ cho chính mục đích hoạt động kinh doanh của mình một cách thuận lợi, các doanh nghiệp này thường mở luôn tài khoản tiền gửi, tiền vay bằng ngoại tệ và nội tệ tại ngân hàng. Chính vì vậy nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn này từ các doanh nghiệp thì sẽ cò ý nghĩa rất quan trọng: vì đối với nguồn vốn này, ngân hàng không phải trả lãi hoặc trả lãi rất thấp, rất lợi khi ngân hàng dùng nguồn vốn này để đi cho vay. Để tăng cường công tác huy động vốn từ các doanh nghiệp xuất khẩu, ngân hàng cần thực hiện một số biện pháp như: tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng vốn trên tài khoản của mình một cách linh hoạt, có chính sách về phí trong giao dịch quốc tế của doanh nghiệp hoặc ngân hàng trực tiếp tư vấn cho khách hàng từ khâu ký kết hợp đồng đến khâu thanh toán tạo sự tin tưởng cho khách hàng mở tài khoản và thực hiện các giao dịch trên tài khoản tại ngân hàng.
Đối với khách hàng là tầng lớp dân cư: tầng lớp này thường có một khoản tiền tích luỹ trong cuộc sống, và họ ít khi dùng khoản tiền này để đầu tư kinh doanh sản xuất mà thường gửi vào ngân hàng dưới hình thức sổ tiết kiệm. Để có thể thu hút đông đảo dân cư đến ngân hàng gửi tiền thì NHNT cần đưa ra các sản phẩm dịch vụ hấp dẫn, kết hợp nhiều tiện ích, tạo cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn phong phú, đa dạng, đặc biệt các sản phẩm dịch vụ ấy phải bảo đảm được nhưng đòi hỏi nghiêm ngặt sau: bảo toàn được giá trị tiền gửi, mang lại thu nhập, và có tính linh hoạt cao. Ngân hàng cần đưa thêm đặc tính chuyển nhượng được giữa các cá nhân vào một số công cụ huy động trung – dài hạn, tạo thói quen cho người dân mua bán, cất giữ và chuyển đổi các sản phẩm ngân hàng tài chính, hoặc sử dụng các tài khoản gửi tiết kiệm thay thế cho hình thức gửi tiền bằng sổ tiết kiệm – hình thức này tạo ra sự nhanh chóng, thuận tiện, an toàn hơn trong việc nhận và chi trả tiền gửi.
Đối với các ngân hàng đại lý hay các tổ chức tài chính quốc tế: ngân hàng cần mở rộng mối quan hệ của mình nhằm thu hút nguồn vốn và công nghệ hiện đại của họ. Trên mối quan hệ đó, ngân hàng có thể mở tài khoản để thực hiện các giao dịch thanh toán hoặc tài trợ vốn cho hoạt động xuất nhập khẩu, cho vay thương mại.
Bên cạnh đó, ngân hàng cần phát triển mở rộng nghiệp vụ kinh doanh trái phiếu trong nước, triển khai việc phát hành trái phiếu quốc tế để tăng cường vay vốn từ cả trong và ngoài nước, nhằm hỗ trợ cho nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu là vốn trung – dài hạn.
3.4.1.2. Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án sản xuất kinh doanh.
Nâng cao chất lượng thẩm định các dự án sản xuất kinh doanh xuất khẩu là một yêu cầu luôn được đặt ra trong công tác thẩm định của NHNT để ngân hàng có thể chủ động trong việc ngăn chặn những dự án kém hiệu quả và tài trợ cho các dự án có hiệu quả và khả thi. Khi cấp tín dụng cho bất cứ một khách hàng nào thì ngân hàng đều phải tính toán cân nhắc kỹ càng trên cơ sở tình hình thực tế thu thập, xử lý, phân tích các số liệu, tài liệu liên quan đến khách hàng một cách chính xác và khách quan. Đây cũng là biện pháp để ngân hàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình. Khi tiến hành thẩm địn dự án và phân tích khách hàng thì ngân hàng phải phân tích và đánh giá đầy đủ các khía cạnh sau:
Năng lực pháp lý của khách hàng như: có đủ các điều kiện pháp lý ( theo quy định hiện hành của NHNN, quy chế cho vay của NHNT ) để vay vốn của ngân hàng như: có quyết định thành lập, giấy đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động,…hay không.
Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: đánh giá năng lực bộ máy lãnh đạo và đội ngũ cán bộ chủ chốt; vị thế của doanh nghiệp trên thị trường ( thị trường tiêu thụ, thì phần của doanh nghiẹp,…); đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp ( khó khăn và thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh ). Nếu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ổn định, vững chắc thì việc cấp tín dụng được khuyến khích, ngược lại cần phải cân nhắc.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp trên cơ sở các chỉ tiêu, hệ số tài chính quan trọng ( như: chỉ tiêu về mức độ tăng trưởng và khả năng sinh lời;hệ số về cơ cấu vốn và tài sản, hệ số đòn bẩy tài chính, hệ số khả năng thanh toán,…), tình hình vốn và tài sản và quan hệ với các tổ chức tín dụng khác.
Triển vọng và các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian tới như: những yếu tố môi trường kinh doanhchung, ngành nghề, những yếu tố xuất phát từ nội tại doanh nghiệp.
Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của dự án: kế hoạch, tiến độ triển khai dự án, thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án, nguồn cung cấp đầu vào cho dự án,… đặc biệt là phải tính toán hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án nghĩa là dự án đó có khả năng sinh lãi hay không, nguồn trả nợ gốc cho ngân hàng có bị thiếu hụt năm nào hay không,…
Điều kiện bảo đảm tiền vay: hình thức bảo đảm tiền vay chủ yếu là đảm bảo bằng toàn bộ tài sản hình thành từ nguồn vốn vay và vốn tự có.
Bên cạnh việc đánh giá các khía cạnh đa nêu trên thì ngân hàng cần cùng với khách hàng xây dưng các dự án vay vốn, có như vậy ngân hàng sẽ thâm nhập sâu vào doanh nghiệp, hiểu được khả năng vay trả của doanh nghiệp đối với từng dự án.
3.4.1.3. Tăng cường cho vay trung – dài hạn để đầu tư chiều sâu cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu.
Tín dụng trung – dài hạn là hình thức làm đổi mới và phát triển thêm nhiều tài sản cố định, sẽ tạo ra những năng lực để khai thác mọi khả năng tiềm tàng của nền kinh tế. Nguồn vốn vay trung – dài hạn ngân hàng là nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Hiện nay nhu cầu vốn trung – dài hạn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là rất lớn. Phương thức cho vay trung – dài hạn chủ yếu bao gồm: cho vay mua sắm máy móc thiết bị, tài trợ vốn cho liên doanh liên kết trong kinh doanh, thậm chí còn cả tài trợ cho các khoản nợ. Vậy để mở rộng cho vay trung – dài hạn, NHNT cần phải chuyển mạnh sang cho vay theo các chương trình, dự án sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Như vậy vốn đầu tư sẽ có trọng tâm, trọng điểm vào những ngành, những lĩnh vực quan trọng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế theo xu thế hướng ngoại.
Bên cạnh việc cấp tín dụng trung – dài hạn cho các dự án sản xuất kinh doanh xuất khẩu thì NHNT cần tích cực phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính. Thực chất nghiệp vụ này là hoạt động tín dụng trùn – dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng thuê giữa bên cho thuê và bên thuê.
3.4.1.4. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu, và đối tượng tài trợ.
Việc đa dạng hoá các hình thức TDTTXK và đối tượng tài trợ là bước đi dúng hướng và có nhiều ưu điểm như:
NHNT sẽ tận dụng được các nguồn vốn của mình để sinh lợi, tạo điều kiện cho ngân hàng kế hoạch được quá trình huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Giúp cho ngân hàng lựa chọn được nhiều khách hàng, từ đó lựa chọn được các đối tượng cho vay hợp lý.
Giúp ngân hàng giảm bớt rủi ro do vốn cho vay được phân bổ ở nhiều doanh nghiệp thay vì có thể gặp rủi ro cao hơn nếu tập trung vốn ở một vài doanh nghiệp nào đó.
Ngân hàng có thể thu được khoản lợi tức từ nhiều nguồn khác nhau.
Như vậy đa dạng hoá các hình thức tài trợ xuất khẩu và đối tượng tài trợ là nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết phải tiến hành ngay vì nếu không sẽ bị thụt lùi so với các ngân hàng khác và có thể dẫn đến mất thị phần,…Trước mắt NHNT nên triển khai nghiên cứu và áp dụng hình thức bao thanh toán. Vì hiện nay, các điều kiện cho phép để thực hiện hình thức tài trợ này đã có cũng như triển vọng của hình thức này là rất rõ ràng:
NHNH đã ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán ( kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ – NHNN ngày 06/09/2004-NHNN của thống đốc NHNN).
Hiện tại Việt Nam đã có một số ngân hàng trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện dịch vụ bao thanh toán: Calyon, Citi Bank, Chinfon Bank, HSBC, ACB, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Theo đánh giá, thì hình thức bao thanh toán có hiệu quả hơn L/C , trong tương lai sẽ dần thay thế hình thức L/C.
Đối với các dự án xuất khẩu có giá trị lớn vượt giới hạn vốn tự có của doanh nghiệp, ngân hàng nên sử dụng hình thức cho vay đồng tài trợ thay bằng việc cho vay doanh nghiệp có số dư nợ nhiều tại ngân hàng hiện nay. Để mở rộng hoạt động cho vay đồng tài trợ, NHNT cần phải thực hiện một số giải pháp sau: (i) tạo nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay các dự án lớn; (ii) cần hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng ngân hàng; (iii) nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng; (iiii) quy định một số tiêu chuẩn về thẩm định dự án và dàn xếp đồng tài trợ, quy đinh rõ quyền lợi và trách nhiệm của ngân hàng đầu mối, ngân hàng thành viên.
Bên cạnh đó, NHNT cần mạnh dạn áp dụng nghiệp vụ chiết khấu miễn truy dòi đối với những bộ chứng từ hoàn hảo và có ngân hàng phát hành là ngân hàng đáng tin cậy. Đối với những bộ chứng từ nhờ thu xuất khẩu, ngân hàng cũng nên căn cứ vào tình hình kinh doanh của khách hàng, loại hàng hoá và uy tín của ngân hàng nhờ thu mà tiến hành chiết khấu như đối với chứng từ L/C xuất khẩu. Có như vậy mới đảm bảo khả năng cạnh tranh của NHNT với các ngân hàng khác về nghiệp vụ xuất khẩu.
3.4.2. Các giải pháp khác.
3.4.2.1. Nâng cao năng lực tài chính của NHNT.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, vấn đề nâng cao năng lực của NHNT đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm và cần phải giải quyết. Để nâng cao năng lực tài chính cho NHNT cận thực hiện một số biện pháp như:
Đánh giá vị thế của NHNT so với các doanh nghiệp khác cùng ngành thông qua việc thực hiện kiểm toán, kiểm tra kế toán để đánh giá được thực trạng tình hình hoạt động và tài chính của ngân hàng là tốt, an toàn hay xấu. Đồng thời định giá lại tài sản của ngân hàng nhằm đánh giá khả năng tài chính thực của ngân hàng.
Trên cơ sở kết quả đánh giá ở trên, trước hết ngân hàng cần đưa ra biện
pháp để làm lành mạnh bảng tổng kết tài sản của ngân hàng, xử lý dứt điểm các nợ tồn đọng – đây là điều kiện tiên quyết để NHNT thực hiện cổ phần hoá. Để thực hiện được điều đó thì NHNT cần có sự trợ giúp về nguồn vốn tài chính đặc biệt của Chính Phủ, NHNN để mở rộng tín dụng, tạo điều kiện cơ cấu lại sở hữu vốn để tăng vốn điều lệ; hơn nữa NHNT cần bám sát, thực hiện tốt việc phân loại nợ , trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro theo quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22 / 4 / 2005 của thống đốc NHNN để từ đó tìm ra biện pháp xử lý các nợ đọng như: nếu nợ quá hạn do cơ chế để lại thì NHNT không phải gánh chịu mà chuyển khoản này sang Bộ tài chính, còn nếu là do bản thân ngân hàng thì cần sự tìm hỗ trợ của các ban ngành để có thể mua bán khoản nợ.
Đẩy mạnh nguồn vốn điều lệ: hiện nay vốn điều lệ của NHNT cũng như các NHTM khác còn rất thấp, chưa bằng vốn của một ngân hàng cỡ vừa trên thế giới nên NHNT cần tích cực bổ sung vốn bằng nguồn vốn lợi nhuận để lại, hay phát hành trái phiếu tăng vốn bên cạnh sự trợ giúp của Chính Phủ về việc cấp thêm vốn.
3.4.2.2. Tăng cường hoạt động Marketing.
Trong điều kiện kinh doanh hiện nay, đặc biệt trong giai đoạn các NHTM đều ra sức phát triển để hội nhập kinh tế quốc tế, thì vấn đề cạnh tranh để phát triển ngày càng gay gắt. Trên cùng một thị trường, cùng một địa bàn, các ngân hàng đều đưa ra các loại hình sản phẩm dịch vụ tài trợ xuất khẩu giống nhau, buộc các ngân hàng phải cố gắng hết sức trong việc chào bán sản phẩm dịch vụ của mình. Việc áp dụng Mar trong hoạt động của ngân hàng là điều tất yếu. Tuy nhiên, việc ứng dụng Mar tại NHNT vẫn chưa được chú trọng. Trong môi trường kinh doanh với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như bây giờ, để có thể thu hút thêm được nhiều khách hàng thì NHNT cần phải lập được và đưa vào triển khai một chiến lược Mar linh hoạt và phù hợp. Để làm được điều này, trong chiến lược Mar, NHNT cần chú trọng các vấn đề sau:
Nghiên cứu thị để nắm bắt được tập quán, thái độ và nhất là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng sự lựa chọn ngân hàng để giao dịch của khách hàng thường được thể hiện trên cơ sở nghiên cứu và so sánh các tiêu chuẩn của ngân hàng như: chất lượng phục vụ, sự thuận tiện và dễ dàng khi giao dịch, thái độ của nhân viên giao dịch, uy tín của ngân hàng…
Nghiên cứu khả năng cạnh tranh của ngân hàng hiện tại và trong tương lai để thấy được điểm mạnh cần phát huy và những thiếu sót cần khắc phục.
Dự đoán và phân tích phương hướng phát triển của thị trường, nghiên cứu thử nghiệm để xem xét phản ứng của khách hàng trước những dịch vụ mới trước khi phổ biến rộng rãi.
Trên cơ sở định hướng phát triển dịch vụ nói chung, dịch vụ TDTTXK nói riêng của NHNT để nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút khách hàng, NHNT cần nhanh chóng triển khai các biện pháp sau:
Lựa chọn các biện pháp tiếp thị có hiệu quả:
+ Tập trung quảng cáo trên các báo, tạp chí, ấn phẩm chuyên ngành, nhằm tạo dựng hình ảnh ấn tượng về NHNT.
+ Giới thiệu dịch vụ ngân hàng cung cấp thông qua việc tổ chức các lớp về nghiệp vụ ngân hàng, các chương trình quy mô nhằm giới thiệu ngân hàng và các dịch vụ ngân hàng cung cấp với công chúng.
Hướng dẫn kỹ các dịch vụ chào bán của NHNT thông qua việc thường xuyên in ấn, phát hành các tờ rơi.
+ Có thể tổ chức cung ứng các dịch vụ ngân hàng miễn phí cho một số đối tượng khách hàng quan trọng nhằm tạo thói quen cho người sử dụng, khi các khách hàng đã có thói quen sử dụng dịch vụ thì NHNT có thể thu phí trực tiếp hoặc tạo ra các dịch vụ có liên quan để thu phí.
+ Tổ chức các hội nghị khách hàng để lắng nghe các ý kiến góp ý của khách hàng, tổ chức các buổi hội thảo, thuyết trình cung cấp các thông tin vè dịch vụ của NHNT, các quy định pháp luật mới liên quan đến khách hàng.
Tạo thuận lợi cho khách hàng qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ.
+ Thực hiện cơ chế giao dịch “ trực tuyến “, giảm khâu trung gian, nhiều cửa, nhiều cấp: các khách hàng khi đến giao dịch làm việc trực tuyến với phòng đầu mối. Các công việc xử lý liên quan khác sẽ do nội bộ NHNT tự giải quyết.
+ Rút ngắn thời gian giao dịch thông qua đơn giản hoá các quy trình nghiệp vụ và cung cấp dịch vụ.
+ Đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng, giải quyết kịp thời các khiếu nại của khách hàng.
3.4.2.3. Tăng cường công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng theo mặt bằng trình độ quốc tế.
Năm 2005, NHNT đã hoàn thành xong giai đoạn II của dự án Hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán do Ngân hàng thế giới và Chính phủ Hà Lan hỗ trợ. Đây là nền tảng công nghệ quan trọng để NHNT phát triển các ứng dụng khác và tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ thương mại điện tử sau này. Tuy nhiên trước sự phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thì NHNT vẫn phải tiếp tục tăng cường năng lực nghiên cứu, tiếp cận và triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bởi vì công nghệ càng hiện đại thì càng giúp ngân hàng thu thập được nhiều thông tin nhanh chóng, chính xác, giúp ngân hàng ra các quyết định kịp thời, đúng đắn, tạo nên sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng. Vậy để ứng dụng các thành tựu này vào hoạt động ngân hàng, bên cạnh tranh thủ trợ giúp quốc tế, NHNT cần có chính sách ưu tiên rõ ràng và tập trung nghiên cứu để có thể lựa chọn đúng và làm chủ được công nghệ mới và tiến tới nghiên cứu, cải tiến cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
3.4.2.4. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng nguồn thông tin.
Thông tin là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định các dự án, đến quyết định cho vay của ngân hàng. Trong thời gia qua, ngoài việc xây dựng hệ thống quy trình nghiệp vụ tín dụng hoàn chỉnh làm cơ sở cho việc phát triển hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động TDTTXK nói riêng, thì chất lượn tín dụng của NHNT đã được nâng cao rõ rệt, nợ quá hạn giảm. Tuy nhiên phải khẳng định khó khăn lớn nhất đối với công tác thẩm định tài chính dự án hiện nay là thiếu các nguồn thông tin đầy đủ, kịp thời, tin cậy. Do vậy việc xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thông tin đảm bảo cung cấp chính xác, kịp thời, đầy đủ các thông tin cần thiết phục vụ công tác thẩm định dự án là yêu cầu bức thiết của NHNT. Các nguồn thông tin sử dụng trong thẩm định dự án của NHNT chủ yếu gồm:
Hồ sơ vay vốn của khách hàng ( gồm: đơn xin vay, phương án sử dụng vốn vay và trả nợ, báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp đến ngày gần nhất,…).
Thông tin từ các văn bản pháp quy.
Thông tin từ các trung tâm thông tin tín dụng ( CIC ).
Thông tin nội bộ ngân hàng.
Trên cơ sở hệ thống trang thiết bị được coi là hiện đại nhất trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, NHNT cần phát huy thế mạnh và công nghệ thông tin xây dựng một hệ thống lưu trữ và cung cấp thông tin nội bộ hiện đại, khoa học trong toàn hệ thống NHNTVN. Tất cả các bộ phận trong toàn hệ thống có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, chính xác thường xuyên cho hệ thống thông tin nội bộ này. Ngân hàng không chỉ thường xuyên cập nhật về bản thân khách hàng mà còn về tình hình tài chính, phi tài chính liên quan đến dự báo phương hướng phát triển, áp lực cạnh tranh, các đối thủ của khách hàng. Ngoài ra với các dự án đã thực hiện, ngân hàng cần thu thập kịp thời thông tin về hiệu quả hoạt động của dự án để làm cơ sở sữ liệu so sánh với các dự án khác. Bên cạnh việc thu thập và khai thác thông tin từ các nguồn thông tin trên, bộ phận tín dụng cần tăng cường khai thác thông tin từ bạn hàng, đối thủ cạnh tranh của khách hàng, hiệp hội ngành nghề kinh doanh, từ các ngân hàng khác,….
3.4.2.5. Mở rộng và thực hiện tốt chính sách khách hàng.
NHNT phải thiết lập quan hệ với khách hàng vay vốn một cách lâu dài, thường xuyên. Dựa vào những kinh nghiệm và những hiểu biết trong vay vốn, NHNT phải lựa chọn được những khách hàng thường xuyên vay vốn. Những khách hàng này sẽ nhận vốn vay của ngân hàng một cách ổn định và đem lại cho ngân hàng nguồn thu nhập ổn định. Như vậy ngân hàng sẽ rất yên tâm khi đã tạo được nguồn vốn là không sợ bị ứ đọng, không cho vay được. Việc thiết lập quan hệ lau dài với khách hàng có lợi thế cho hoạt động của ngân hàng và cho cả khách hàng. Cán bộ tín dụng của ngân hàng có thể nhìn vào hoạt động qúa khứ và hiện tại của khách hàng thông qua những diễn biến phát sinh trên tài khoản tiền gửi, tài khoản tiền vay để xác định, dự đoán những khả năng của khách hàng vay vốn, từ đó ngân hàng có những quyết định trong cho vay thích hợp, hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra.
Lựa chọn khách hàng để ưu đãi tín dụng xuất khẩu: NHNT cần đặt ra các tiêu chuẩn trong từng thời kỳ về khả năng tài chính, kim ngạch xuất khẩu, thị trường xuất khẩu ,thị trường xuất khẩu theo hướng sau:
+ Khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh, có uy tín trong quan hệ tín dụng, thanh toán và đặc biệt ưu đãi nhiều hơn đối với khách hàng chỉ quan hệ tín dụng duy nhân với NHNT, có kim ngạch xuất khẩu cao.
+ Ngành hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế như: dầu khí, thu mua và chế biến nông sản, thuỷ sản, dệt may,…
+ Chú trọng khách hàng có đầu tư công nghệ cao, hiện đại để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao.
+ Trong từng thời kỳ NHNT cần nghiên cứu và có chiến lược đầu tư xuất khẩu đối với từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp cụ thể.
Trước hết. NHNT cần lựa chọn một số khách hàng xuất khẩu lớn và có uy tín để thực hiện ưu đãi và tài trợ toàn diện. Tạo cơ sở mở rộng TDTTXK, tăng thu dịch vụ và thu hút ngoại tệ.
3.4.2.6. Chuẩn hoá quy chế, quy trình TDTTXK.
Hiện nay ở NHNT đang áp dụng quy trình tín dụng ba bộ phận Quan hệ khách hàng - Quản lý rủi ro - Quản lý nợ. Quy trình này đã được NHNT áp dụng triển khai thí điểm tại một số đơn vị tiêu biểu của ngân hàng. Như vậy trong thời gian tới NHNT cần hoàn thiện quy trình này để áp dụng trong toàn hệ thống ngân hàng. Việc áp dụng quy trình tín dụng hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế này chắc chắn sẽ giúp NHNT có bước tiến dài và vững chắc trên thị trường tín dụng. Bên cạnh đó NHNT cân phải rà soát hệ thống các văn bản liên quan đến công tác quản lý điều hành và tác nghiệp theo hướng tập trung chỉnh sửa các quy định hiện hành chưa phù hợp và ban hành các quy định mới, nhằm đảm bảo các quy chế, quy trình TDTTXK được chuẩn hoá trong toàn hệ thống, từ đó giúp hoạt đọng của NHNT hoạt động tốt hơn.
3.4.2.7. Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng.
Con người là mấu chốt của mọi thắng lợi. Vì vậy NHNT cần phải từng bước hoạch định, tiêu chuẩn hoá và rà soát sắp xếp lại cán bộ làm công tác TDTTXK, đảm bảo từ cán bộ quản lý đến cán bộ chuyên môn nghiệp vụ phải có đủ các tiêu chuẩn về bằng cáp và trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, vận hành và sử dụng thành thạo máy vi tính, bồi dưỡng các nghiệp vụ về xuất khẩu, ngân hàng quốc tế và luật quốc tế. Xây dựng quy trình tuyển dụng cán bộ đảm bảo yêu cầu chất lượng, mạnh dạn đề cập cán bộ trẻ có năng lực, sắp xếp đúng người đúng việc theo trình độ và yêu cầu công việc.
Tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác TDTTXK theo đúng đối tượng, khuyến khích tinh thần tự học của mọi người. Tổ chức thi kiểm tra chất lượng cán bộ, mở nhiều khoá đào tạo theo nhiều hình thức khác nhau để nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên như: đào tạo tại chỗ, mời các chuyên gia giỏi trong và ngoài nước đến giảng; đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng, thanh toán quốc tế; đào tạo về quản trị ngân hàng;…NHNT cần phối hợp với các trường và trung tâm trong và ngoài nước để gửi cán bộ đi học về chuyên môn nghiệp vụ có liên quan.
NHNT cần có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những cán bộ giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có những thành tích tốt trong quá trình công tác, đồng thời cũng cần có chính sách kỷ luật, xử lý vi phạm đối với các cán bộ có hành vi vi phạm đạo đức, chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Với việc xây dựng được chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn và tạo ra văn hoá làm việc trong ngân hàng, NHNT sẽ tạo được động lực cho người lao động làm việc hăng say và đạt thành tích cao trong công việc.
Tóm tắt chương 3
Căn cứ vào chiến lược xuất khẩu và tín dụng tài trợ xuất khẩu của Việt Nam, chiến lược phát triển của NHNT đến năm 2015, chuyên đề đã ra các giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNT trong thời gian tới, đó là:
_ Nâng cao năng lực tài chính NHNT.
_ Tăng cường công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng theo mặt bằng trình độ quốc tế.
_ Mở rộng và thực hiện tốt chính sách khách hàng.
_ Chuẩn hoá quy chế, quy trình TDTTXK.
_ Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng.
KẾT LUẬN
Trong xu thế hội nhập quốc tế về ngân hàng thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau. Để có thể vượt qua các thách thức, khó khăn của quá trình hội nhập, NHNT đang chủ động từng bước tái cơ cấu, mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao năng lực quản lý điều hành, nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Một trong những lĩnh vực vừa mang lại thu nhập rất quan trọng cho NHNT, vừa mang lại hiệu quả chung cho toàn xã hội đó chính là hoạt động TDTTXK.
Xét về phương diện tổng thể, hoạt động TDTTXK có vai trò vô cùng to lớn đối với việc phát triển kinh tế đối ngoại, tăng trưởng kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống dân cư. Xét về phương diện cụ thể, hoạt động TDTTXK góp phần quan trọng trong việc tạo nên hiệu quả hoạt động kinh doanh tại NHNT, là mắt xích quan trọng thúc đẩy các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, và các doanh nghiệp xuất khẩu phát triển.
Trong thời gian qua, mặc dù TDTTXK đã đóng vai trò tích cực trong việc khuyến khích thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nhưng những gì đã đạt được chưa tương xứng với quy mô, phạm vi và nhiệm vụ của NHNTVN. Chính vì vậy việc tìm ra một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại NHNTVN đang trở thành yêu cầu cấp thiết.
Chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
_ Hệ thống hoá những vấn đề lí luận chung về TDTTXK của NHTM.
_ Đánh giá thực trạng hoạt động TDTTXK tại NHNTVN, những mặt đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân tồn tại trong TDTTXK tại NHNTVN.
_ Đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động TDTTXK tại NHNTVN trong thời gian tới.
Tuy nhiên TDTTXK là nghiệp vụ kinh doanh phức tạp, phạm vi khuôn khổ chuyên đề có giới hạn, điều kiện nghiên cứu còn hạn chế, vì vậy chuyên đề khó tránh khỏi những hạn chế, sai sót và khiếm khuyết. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô về những vấn đề em nêu ra trong chuyên đề.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách:
PGS. TS. Nguyễn Thị Hường ( 2003 ), Giáo trình Kinh doanh quốc tế - tập 2, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội.
GS. TS. Lê Văn Tư ( 2005 ), Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
GS. TS. Lê Văn Tư ( 2005 ), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội.
PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến ( 2005 ), Thanh toán quốc tế & tài trợ ngoại thương, Nxb Thống kê, Hà Nội.
II. Tài liệu của NHNTVN:
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ( 29 / 03 / 2002 ), Quyết định số 407 / QĐ – NHNT – HĐQT của Hội đồng quản trị NHNTVN về việc ban hành hướng dẫn về quy chế cho vay đối với khách hàng, Hà nội.
Ngân hàng Nhà Nước ( 22 / 04 / 2005 ), Quyết định 493 / QĐ – NHNN của Thống đốc NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, Hà nội.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ( 12 / 08 / 2002 ), Quyết định số 130 / QĐ – NHNT về quy trình nghiệp vụ cho vay tại NHNTVN.
Cẩm nang tín dụng của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Bản cáo bạch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ( 2006 ).
Báo cáo thường niên NHNTVN năm 2003, 2004, 2005.
III. Tài liệu khác:
Luận văn các khoá trước.
Lê Thị Thanh Huyền ( 2003 ), Những giải pháp thúc đẩy hỗ trợ tín dụng xuất khẩu tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Luận văn tốt nghiệp, Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Nguyễn Duy Phong ( 2006 ), Giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Luận văn tốt nghiệp, Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Bản cáo bạch của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ( BIDV ) – 2005.
Bản cáo bạch của ngân hàng TMCP xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) – 2004.
Trang web:
www.vietcombank.com.vn
www.mpi.gov.vn
www.sbv.gov.vn
www.moi.gov.vn
www.vnexpress.net
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại.
NHNN : Ngân hàng Nhà Nước.
NHNTVN : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
NHNT : Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
TDNH : Tín dụng ngân hàng.
TDTTXK : Tín dụng tài trợ xuất khẩu.
DNNN : Doanh nghiệp Nhà Nước.
DNCP : Doanh nghiệp Cổ phần
SME : Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
TNHH : Công ty trách nhiệm hữu hạn.
BIDV : Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
ICB : Ng ân hàng Công thương Việt Nam.
VBARD : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
MHB : Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long.
ACB : Ngân hàng Á Châu.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5266.doc