Giải pháp thúc đẩy hiệu quả hoạt động nhập khẩu ở Công ty cổ phần hỗ trợ phát triển công nghệ Detech

Lời nói đầu Trong xu thế chung hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực, mỗi quốc gia đều đứng trước sự thuận lợi và thách thức. Nói đến hội nhập kinh tế là nói đến sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia mà biểu hiện của nó chính là thông qua hoạt động ngoại thương. Một sự vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế sẽ đem lại cho quốc gia những thành tựu to lớn và ngược lại sẽ đưa nền kinh tế quốc gia phục thuộc kinh tế nước ngoài. Thực hiện nghị quyết VII của Đảng là không ngừng mở rộng và hợp t

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hiệu quả hoạt động nhập khẩu ở Công ty cổ phần hỗ trợ phát triển công nghệ Detech, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác kinh tế quốc tế, trong những năm qua Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như: ASEAN, AFTA… Số lượng các đơn vị sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ngày càng tăng. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu của các công ty, đơn vị sản xuất trong nước chưa đáp ứng được sự đòi hỏi của nền kinh tế. Sau thời gian học tập trên lớp được sự dạy bảo tận tình của các thầy cô giáo, bản thân em đã học hỏi và tích lũy được một số kiến thức cơ bản về quản trị nói chung và quản trị tài chính quốc tế nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian thực tập tại Công ty, em đã có thể liên hệ kiến thức đã học vào thực tiễn quản lý của các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, cụ thể là Công ty cổ phần hỗ trợ phát triển công nghệ DETECH, cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Phú Hà và thầy Trưởng khoa Nguyễn Văn Thanh, em đã mạnh dạn chọn đề tài: "Giải pháp thúc đẩy hiệu quả hoạt động nhập khẩu ở Công ty cổ phần hỗ trợ phát triển công nghệ DETECH". Đề tài gồm 3 phần: Chương I. Tổng quan hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay. Chương II. Thực trạng về hoạt động nhập khẩu của Công ty DETECH. Chương III. Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Công ty DETECH. Chương I. Tổng quan hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường việt nam hiện nay I- Sự cần thiết và vai trò của công tác xuất nhập khẩu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. 1. Sự cần thiết của công tác xuất nhập khẩu. Nơi nào có thương mại quốc tế phát triển thì đó cũng là nơi có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, vấn đề này không phải lúc nào cũng được Chính phủ quan tâm đúng mức cần thiết. Thực tế đã chứng minh rằng ngày nay không một quốc gia nào dù to lớn như Liên Xô, Mỹ, Trung Quốc có đủ sức xây dựng một nền kinh tế tự túc tự cấp vì nó vô cùng tốn kém về mặt vật chất và thời gian. Từ Đại hội Đảng VI, nước ta đã thực hiện xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và thực hiện chính sách mở cửa. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn giúp Việt Nam tham gia vào phân công lao động quốc tế và thị trường thế giới. Với mục đích thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc, trong khi Việt Nam còn tương đối lạc hậu về kinh tế, thấp kém về kỹ thuật công nghiệp thì việc làm đó không thể thực hiện nhanh chóng được. Nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế xã hội. Nền kinh tế mở cửa sẽ tạo ra những hướng phát triển mới, tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có của Việt Nam nhằm sử dụng chúng trong phân công lao động quốc tế một cách có hiệu quả. Thương mại quốc tế chỉ ra và xác định cho một quốc gia biết đâu là lợi thế của mình, chỉ ra đúng đắn nên đầu tư vào đâu, không nên đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực nào có hiệu quả nhất. Thương mại quốc tế được hiểu một cách chung nhất là quá trình trao đổi hàng hóa giữa các chủ thể của các quốc gia trên thế giới thông qua hoạt động buôn bán quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế là biểu hiện của mối quan hệ xã hội ở phạm vi quốc tế và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản xuất riêng biệt. Thương mại quốc tế bao gồm hai hoạt động chính là hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu: là một mặt quan trọng của quá trình thương mại quốc tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới. Nó là quá trình bán hàng hóa, dịch vụ của quốc gia đó cho một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức của quốc gia khác trên thế giới với nguồn thu là ngoại tệ. Như vậy, bản chất của hoạt động xuất khẩu cũng như hoạt động buôn bán trong nước đều là quá trình trao đổi hàng hóa, là quá trình thực hiện giá trị hàng hóa của người sản xuất. Tuy nhiên, vì hình thái và phạm vi hoạt động xuất khẩu có nhiều điểm khác biệt mà các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phải nhận thức được để vận dụng cho phù hợp. Hoạt động nhập khẩu: là mặt còn lại của quá trình thương mại quốc tế, nó là hoạt động mua các hàng hóa và dịch vụ của các đối tác nước ngoài để đưa về quốc gia mình sử dụng. Nhập khẩu giúp cho quốc gia thải bỏ những hạn chế mà những nước nghèo thường mắc phải, phương châm đó là mượn công nghệ nước ngoài trong thời kỳ đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xu thế nhập khẩu bổ xung để thoả mãn nhu cầu là một tất yếu, thông qua đó, Việt Nam có thể từng bước thay đổi, hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng của nhân dân theo hướng hiện đại hóa. Điều đó dẫn đến việc đồng thời nâng cao kỹ thuật sản xuất trong nước. Do vậy, Việt Nam đề ra chính sách nhập khẩu chặt chẽ có chọn lọc, nhất là nhập khẩu vật tư thiết bị máy móc, kinh tế công nghiệp để tăng cường tiếp thu công nghệ nước ngoài, từ đó phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. 2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu. Nhập khẩu là một trong số hai hoạt động cấu thành của hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu. Có thể hiểu nhập khẩu là hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc, gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đồng thời cũng quyết định sự sống còn của một nền kinh tế, đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay. Đó là việc các nước thống nhất hoà chung vào nền kinh tế thế giới thì vai trò của hoạt động nhập khẩu đã trở nên quan trọng và rất cụ thể. Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hóa nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, làm tăng mức sống của người dân. Nhập khẩu làm đa dạng hóa mặt hàng vì chủng loại, quy cách, phẩm chất thoả mãn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ, do đó, tạo sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo sự đồng đều trình độ phát triển xã hội. Nhập khẩu tạo sự cạnh tranh giữa hàng hóa ngoại và hàng hóa nội, tức là tạo động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, tạo lực phát triển xã hội và thanh lọc các đơn vị sản xuất. Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, tự cung, tự cấp, đồng thời giải quyết được nhu cầu, đặc biệt là hàng hóa hiếm hoặc quá hiện đại mà trong nước không sản xuất được. Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện cho phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hóa. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động kinh doanh những mặt hàng nhập khẩu đang chiếm vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nâng cao hiệu quả của hoạt động thương mại đối với lĩnh vực nhập khẩu là một việc làm cấp bách mang tính thời sự to lớn. Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ ổn định và phát triển trong chặng đường đầu tiên cũng như sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm phụ thuộc một phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thông qua việc phát triển kinh doanh mặt hàng nhập khẩu thì chúng ta mới có điều kiện mở mang dân trí, tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, đem ứng dụng vào trong sản xuất và đời sống. Có như vậy mới kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở phân công lao động quốc tế, hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế để đẩy mạnh sự kết hợp giữa công nghệ với cuộc sống văn minh của nhân loại, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng và thế mạnh của đất nước. Nước ta khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng trong nước không sản xuất được. Đối với việc nhập khẩu hàng hóa, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải quan tâm đến chất lượng của sản phẩm và giảm giá thành. Vì vậy, có thể nói nhập khẩu có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và sản xuất nói riêng của bất kì một quốc gia nào. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. 3.1- Các chế độ, chính sách, luật pháp quốc tế. Chế độ, chính sách luật phát quốc tế là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bắt buộc phải nắm rõ và tuân theo vô điều kiện bởi tính khách quan của nó. Hoạt động nhập khẩu được tiến hành giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau, bởi vậy, nó chịu tác động của chế độ chính sách luật pháp ở các quốc gia đó. Chế độ, chính sách của một nước thay đổi hoặc khi chế độ ưu đãi của một nước hay một nhóm nước có sự biến động ít nhiều cũng ảnh hưởng đến những nước có quan hệ xuất nhập khẩu với nước đó. Luật pháp quốc tế buộc các nước vì lợi ích chung phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong hoạt động nhập khẩu, do đó, tạo sự tin tưởng cũng như hiệu quả cao trong hoạt động này. 3.2- ảnh hưởng tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng hóa nhập khẩu. Bên cạnh ảnh hưởng của các chính sách và luật pháp quốc tế, tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là nhân tố quyết định trong việc xác định mặt hàng, bạn hàng, phương án và quan hệ kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây ra những biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chẳng hạn, khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá thì thuận lợi cho việc nhập khẩu, bất lợi cho việc xuất khẩu và ngược lại. Trong nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ được hiểu là tổng số tiền bảo tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng đó là có hiệu quả. Nếu tỷ suất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàng trên thị trường thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ chuyển hướng mặt hàng cũng như phương án kinh doanh của mình. 3.3- ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng. Hiện nay, hệ thống tài chính ngân hàng phát triển khá mạnh, nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, dù ở thành phần kinh tế nào, bởi vai trò to lớn của nó. Đó là việc đảm bảo cung cấp vốn, đảm bảo việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng, chính xác cho các doanh nghiệp. Hoạt động nhập khẩu sẽ không thực hiện nếu không có sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Dựa trên các mối quan hệ, uy tín nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận tiện cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động nhập khẩu vì được đảm bảo về mặt lợi ích. Và trong trường hợp có uy tín với ngân hàng, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay vốn, kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội kinh doanh. 3.4- ảnh hưởng của thị trường trong và ngoài nước. Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu giống như một cầu nối thông thường giữa hai thị trường tạo ra sự phù hợp và gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng, phản ánh sự biến động của một thị trường. Cụ thể như sự tồn đọng hàng, giá cả, nhu cầu về một mặt hàng ở thị trường trong nước giảm sẽ làm giảm ngay lập tức lượng hàng đó thông qua chiếc cầu nhập khẩu và ngược lại. Cũng như vậy thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn nhu cầu thị trường trong nước, sự biến động về khả năng cung cấp vì sản phẩm mới, vì sự đa dạng của hàng hóa, dịch vụ cũng như được phản ánh thông qua chiếc cầu nhập khẩu để tác động lên thị trường nội địa. 3.5- ảnh hưởng của nền sản xuất và các doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong và ngoài nước. Sự phát triển của nền sản xuất trong nước tác động mạnh mẽ đến hoạt động nhập khẩu theo hai hướng song song cùng một lúc, cụ thể, nền sản xuất trong nước phát triển sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ..., do đó sẽ cạnh tranh được với sản phẩm cùng loại và có thể làm giảm nhu cầu nhập khẩu loại hàng này. Mặt khác, sản xuất hàng hóa phát triển sẽ tạo ra các sản phẩm bổ sung nguyên vật liệu... mà nếu trong nước không có hoặc không đáp ứng được thì sẽ khuyến khích nhập khẩu mặt hàng này. Cũng như sản xuất, sự phát triển của hoạt động thương mại trong và ngoài nước của doanh nghiệp xuất nhập khẩu quyết định đến sự chu chuyển, lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế quốc tế hay giữa các nền kinh tế bởi vậy tạo điều kiện cho việc đẩy nhanh hoạt động xuất nhập khẩu. Mặt khác, do chủ thể của hoạt động chính là các doanh nghiệp thương mại xuất nhập khẩu, sự phát triển của những doanh nghiệp này đồng nghĩa với việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động nhập khẩu. Trong một nước mà các doanh nghiệp không được tự chủ hoạt động, bị sự can thiệp mạnh của Nhà nước thì hoạt động nhập khẩu cũng không thể phát triển được, không thể vươn mạnh ra nước ngoài từ đó tạo sự bức bách của nền kinh tế. 3.6- ảnh hưởng của hệ thống vận tải và thông tin liên lạc. Việc thực hiện hoạt động nhập khẩu không thể tách rời với việc vận chuyển và thông tin liên lạc mà các bên có thể nắm rõ thông tin một cách nhanh nhất để từ đó cùng nhau thoả thuận, tiến hành các hoạt động kịp thời, còn việc vận chuyển hàng hóa từ nước này sang nước khác là công việc của hoạt động nhập khẩu. Do đó, sự hiện đại hóa cũng như áp dụng các công nghệ khoa học tiên tiến vào hệ thống thông tin liên lạc và giao thông là yếu tố quan trọng cho hoạt động nhập khẩu. Thực tế cho thấy sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc như Fax, Telex, Telephone, EMS, DHL... đã đơn giản hóa công việc của hoạt động nhập khẩu đi rất nhiều, giảm hàng loạt các chi phí, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn. Việc hiện đại hóa các phương tiện vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản... cũng đã góp phần làm nhanh chóng, an toàn quá trình thực hiện nhập khẩu. Có thể nói sự phát triển của các hệ thống thông tin liêc lạc và giao thông là một trong những nhân tố không thể thiếu được của hoạt động nhập khẩu. 3.7- ảnh hưởng của các nhân tố khác. Ngoài những nhân tố trên còn có một số các nhân tố khác ảnh hưởng nhất định đến hoạt động xuất nhập khẩu. ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng của mỗi quốc gia sẽ quyết định đến lượng hàng hóa cũng như hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu. ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ trên thế giới làm đa dạng hóa chủng loại, tạo ra những nhu cầu, do đó cũng ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Sự xuất hiện của các liên kết kinh tế ở phạm vi từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Khi tham gia vào các khối liên kết kinh tế (ASEAN, EU, APEC, AFTA...) thì mọi quốc gia đều dành cho nhau những ưu đãi đặc biệt về thuế quan, các chính sách về giá cả, chất lượng, hạn ngạch... do đó, làm giá cả hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn nên khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Những nhân tố này là khách quan mà bản thân doanh nghiệp chỉ có thể nhận thức và có phương hướng kinh doanh cho phù hợp chứ không thể tự mình tác động biến đổi chúng. Trên đây là một số các nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của bất kỳ một quốc gia nào. Muốn hoạt động nhập khẩu có hiệu quả thì các doanh nghiệp đều phải xem xét phân tích kỹ lưỡng các nhân tố đó để tránh rủi ro. Đây cũng chính là công việc không thể thiếu được trong hoạt động nhập khẩu. 4. Các hình thức nhập khẩu thông dụng trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, nhưng thực tế do tác động của điều kiện kinh doanh, Nhà nước ta đã tạo nhiều hình thức xuất nhập khẩu khác nhau. ở đây, ta chỉ xem xét một số hình thức nhập khẩu phổ biến đang được áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 4.1- Nhập khẩu tự doanh. Hoạt động nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách luật pháp của Nhà nước và quốc tế. Nhập khẩu tự doanh có một số đặc điểm nổi bật là: Trong hoạt động nhập khẩu tự doanh thì các doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào tất cả. Đây là hoạt động phải được xem xét cẩn thận ngay từ bước đầu là nghiên cứu thông tin cho đến việc ký kết hợp đồng bởi doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình, chịu mọi phí tổn giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận lưu kho, chi phí để tiêu thụ hàng hóa, các khoản thuế phải nộp... Khi nhập khẩu tự doanh, doanh nghiệp được trích kim ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ hàng hóa doanh nghiệp phải chịu thuế doanh thu, thuế mặt hàng... Thông thường doanh nghiệp chỉ phải ký một hợp đồng với bên nước ngoài còn hợp đồng trong nước sau khi hàng về sẽ lập sau. 4.2- Nhập khẩu uỷ thác. Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa nhưng lại không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp, đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để nhập khẩu hàng hóa theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. Trong hoạt động nhập khẩu này, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ hàng nhập mà chỉ đứng ra làm đại diện bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp chỉ được tính phí uỷ thác chứ không được tính doanh thu và không chịu thuế doanh thu. Khi nhập khẩu uỷ thác thì các doanh nghiệp nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng ngoại (mua bán với nước ngoài), một hợp đồng nội (uỷ thác nhập khẩu với bên uỷ thác). 4.3- Nhập khẩu liên doanh. Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên, lãi cùng chia và lỗ cùng chịu. So với nhập khẩu tự doanh thì các doanh nghiệp bớt chịu rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh nhập khẩu chỉ phải đóng góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng tăng theo số vốn góp, lãi và lỗ tùy theo hai bên thoả thuận phân chia dựa trên vốn góp cộng với phần trách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong nhập khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhập hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu nhưng khi đưa hàng vào tiêu thụ thì chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu thuế doanh thu trên số hàng đó. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng mua hàng với nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác (không nhất thiết là doanh nghiệp Nhà nước). Sự phân chia trên là dựa vào chủ thể của hoạt động nhập khẩu, nếu quan tâm đến hình thức thanh toán trong hoạt động này thì có thể thấy hai hình thức chính là mua bán, thanh toán bằng tiền và thanh toán bằng hàng (hay còn gọi là mua bán đối lưu). Mua bán bằng tiền là hình thức thông thường và trong phạm vi ở đây chỉ cần quan tâm đến hình thức nhập khẩu đối lưu. 4.4- Nhập khẩu đối lưu. Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà dùng chính bằng hàng hóa. ở đây, mục đích của nhập hàng không chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập khẩu mà còn nhằm để xuất được hàng, thu cả lãi từ hoạt động xuất khẩu. Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc hoạt động xuất và nhập, do đó, có thể thu lãi từ hai hoạt động trên. Hàng xuất và hàng nhập tương đương nhau về mặt giá trị, tính quý hiếm, cân bằng về giá, bạn hàng cũng chính là khách hàng. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, tính doanh số cả trên hàng nhập và hàng xuất. Ngoài ra, chia theo mục đích hàng nhập khẩu có thể phân ra nhập hàng tiêu thụ trong nước và nhập hàng để tái xuất. ở nước ta hiện nay chủ yếu là nhập về tiêu dùng trong nước, nhập tái xuất có nhưng ít, chưa ở mức độ cao, tuy nhiên, trong tương lai sẽ phát triển thông dụng loại hình nhập khẩu này. 4.5- Nhập khẩu tái xuất. Là hoạt động nhập hàng vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ ba nào đó nhằm thu lợi nhuận, những hàng nhập này không được qua chế biến tại nước tái xuất. Như vậy, nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước tham gia: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu. Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu. Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập sao cho có thể thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính kim ngạch xuất và nhập, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu, do đó vẫn phải chịu thuế doanh thu. Hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng sang nước thứ ba, nhưng tiền trả thì luôn do người tái xuất thu từ người nhập khẩu và trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức về tiền hàng do thu được nhanh và trả chậm. Trên đây là một số hình thức nhập khẩu thông dụng ở nước ta hiện nay, cho dù hình thức nào thì các bước tiến hành hoạt động nhập khẩu ở các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đều bao gồm trình tự các bước được xét ở phần tiếp theo. II- Nội dung công tác nhập khẩu của doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức với nhiều nghiệp vụ từ khâu nghiên cứu tiếp cận thị trường đến tiếp nhận hàng hóa nhập khẩu tại cảng nước mình. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt lợi thế nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao nhất, phục vụ đầy đủ, kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Quy trình nhập khẩu hàng hóa có thể biểu diễn theo sơ đồ sau: Ký kết hợp đồng nhập khẩu Xin giấy phép nhập khẩu Mở L/C khi bên bán báo Đôn đốc bên bán giao hàng Thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Nhận hàng Kiểm tra hàng hoá Giao hàng cho đơn vị đặt hàng Làm thủ tục thanh toán Khiếu nại về hàng hoá (nếu có) 1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Từ đó đến nay nền sản xuất hàng hóa đã phát triển và trải qua nhiều thế kỷ, nên khái niệm thị trường rất phong phú và đa dạng. Thị trường theo nghĩa cổ điển được hiểu là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa. Theo nghĩa này thì đặc biệt nhấn mạnh coi thị trường là một địa điểm, khu vực nào đó. Còn theo nghĩa hiện đại thì thị trường là một quá trình mà người mua và người bán tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và lượng hàng hóa mua bán. Như vậy, thị trường là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hóa, lưu thông tiền tệ, các giao dịch mua bán và dịch vụ. Thị trường được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nên các tiêu thức để phân loại thị trường cũng là khác nhau. Sự phân loại thị trường có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên đối với bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào nền kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu do yếu tố đặc thù của mình thì cẩn trọng trong vấn đề này. 1.1- Nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm hiểu triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Qúa trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu thị trường, so sánh, phân tích những số liệu đó và rút ra kết luận. Những kết luận này sẽ giúp cho doanh nghiệp đưa ra quyết định đúng đắn để lập kế hoạch Marketing. Mục đích nhận biết sản phẩm nhập khẩu là để doanh nghiệp lựa chọn cho mình mặt hàng kinh doanh có lợi nhất. Thông qua việc nghiên cứu thị trường xem xét những vấn đề liên quan đến sản phẩm nhập khẩu bằng cách làm rõ các câu hỏi sau: Thị trường trong nước đang cần những sản phẩm gì? Một phương châm quen thuộc của doanh nghiệp nhập khẩu phải tìm hiểu nhu cầu mặt hàng, quy cách, phẩm chất, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu... Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó ra sao? Mỗi mặt hàng có thói quen tiêu dùng riêng thể hiện ở thời gian tiêu dùng và thị hiếu tiêu dùng, sự biến động của quy luật cung cầu của mặt hàng đó. Việc nghiên cứu những nhân tố đó gọi là nghiên cứu tập quán tiêu dùng, có nắm vững tập quán tiêu dùng thì mới có thể đáp ứng được tới nhu cầu thị trường. Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? Mỗi sản phẩm đều có chu kỳ sống riêng, chu kỳ này diễn ra các pha như sau: xuất hiện, phát triển, chín muồi, bão hoà và suy thoái. Nắm vững mặt hàng mà dự định kinh doanh đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống mới xác định được các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của nhập khẩu. Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào? Muốn kinh doanh có hiệu quả người kinh doanh phải nắm vững quan hệ cung cầu về mặt hàng mà mình có. Tỷ suất của mặt hàng đó là bao nhiêu? Trong kinh doanh thương mại quốc tế, do các nước có hệ thống tiền tệ khác nhau cho nên việc tính tỷ suất ngoại tệ rất quan trọng. Tỷ suất ngoại tệ đối với mặt hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ có thể thu được khi chi ra một đơn vị nội tệ. 1.2- Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Đối với người nhập khẩu, nghiên cứu dung lượng thị trường hàng hóa là rất quan trọng. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một hàng hóa là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định (thế giới, khu vực, quốc gia) trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Dung lượng thị trường không cố định mà thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình hình do tác động tổng hợp của các nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường hàng hóa và làm dung lượng thị trường biến đổi có tính chu kỳ. Có thể kể ra một số nhân tố quan trọng như: sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, hoạt động lưu thông và phân phối hàng hóa... Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng đến tất cả thị trường hàng hóa. Do vậy khi phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đối với những biến đổi của dung lượng thị trường không thể không nói đến ảnh hưởng của nhân tố này. 1.3- Nghiên cứu về giá cả trên thị trường thế giới. Trên thị trường thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ cung cầu hàng hóa. Việc xác định đúng đắn giá cả hàng hóa trong xuất nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với hiệu quả thương mại quốc tế. Giá cả hoạt động xuất nhập khẩu là giá cả quốc tế. Giá cả quốc tế có tính chất đại diện đối với một loại hàng hóa nhất định trên thị trường thế giới. Giá cả đó phải là giá giao dịch thông thường không kèm theo một điều kiện thương mại nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi được. Dự đoán xu hướng biến động giá cả và các nhân tố ảnh hưởng đến xu hướng ấy. Xu hướng biến động giá cả hàng hóa thế giới rất phức tạp, có lúc theo chiều hướng tăng, có lúc theo chiều hướng giảm, cá biệt có lúc giá cả hàng hóa có xu hướng ổn định nhưng xu hướng này có tính chất tạm thời. Để có thể dự đoán được xu hướng biến động giá cả của mỗi loại hàng hóa trên thị trường thế giới, trước hết phải dựa vào kết quả nghiên cứu và dự đoán về tình hình thị trường loại hàng đó, đánh giá đúng ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến xu hướng vận động của giá cả hàng hóa. Tuỳ theo mục đích mà dự đoán xu hướng biến động của giá cả hàng hóa trong một thời gian dài (6 tháng đến 1 năm) hay trong một thời gian ngắn (dưới 6 tháng). Kết quả dự đoán xu hướng giá cả trong thời gian dài thường được sử dụng vào mục đích lập kế hoạch xuất khẩu hàng hóa hàng năm. Dự đoán xu hướng giá cả trong thời gian ngắn nhằm phục vụ trực tiếp cho nghiệp vụ kinh doanh hiện tại. Các nhân tố tác động đến giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới có rất nhiều và có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Khi dự đoán xu hướng biến động giá cả trong thời gian dài cần phân tích đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tác động lâu dài đến xu hướng biến động đó như: chu kỳ, giá trị... Dự đoán xu hướng biến động giá cả trong thời gian ngắn cần phân tích đánh giá ảnh hưởng trực tiếp của các biến đổi cung cầu trên thị trường đặc biệt chú ý đến các nhân tố ảnh hưởng mang tính tạm thời như: thời vụ, đầu cơ, nhân tố tự nhiên... 2. Hoạt động nghiệp vụ nhập khẩu hàng hóa. 2.1. Lựa chọn phương thức giao dịch. Sau khi tiến hành công việc nghiên cứu thị trường quốc tế cần lựa chọn hình thức giao dịch thích hợp trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Trên thị trường thế giới những giao dịch ngoại thương (các hoạt động nhập khẩu) đều tiến hành theo những cách thức nhất định, bao gồm thủ tục tiến hành, chứng từ cần thiết. Những cách thức đó chính là giao dịch mua bán. Giao dịch thông thường: là giao dịch thực hiện ở mọi nơi, người bán và người mua có giao dịch với nhau bằng cách gặp gỡ trực tiếp qua thư từ, điện tín... để bàn bạc và thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Nội dung giao dịch được thoả thuận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn liền với việc bán. Giao dịch qua trung gian: trong hình thức giao dịch này có người thứ ba làm trung gian giữa người mua và người bán trong việc quan hệ và quy định các điều kiện mua bán hàng hóa dịch vụ. Người trung gian phổ biến trên thị trường là các đại lý và môi giới. Đại lý: là các tư nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa người uỷ thác với các đại lý là quan hệ hợp đồng đại lý. Căn cứ vào quyền hạn được uỷ thác người ta chia ra làm ba loại đại lý: đại lý toàn quyền, tổng đại lý, đại lý đặc biệt. Đại lý toàn quyền: là người được phép thay thế làm mọi công việc mà người uỷ thác làm. Phạm vi hoạt động của đại lý này chỉ trong một giới hạn nhất định và đòi hỏi đại lý này phải có vốn tự trang trải những chi phí cho hoạt động kinh doanh của mình. Tổng đại lý: là ngườ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36974.doc
Tài liệu liên quan