Giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá và chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là : Lê Anh Quân Lớp : Kế hoạch 48B Khoa : Kế hoạch & Phát triển Trường : Đại học Kinh tế quốc dân Tôi xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HÓA VÀ CHUYỂN ĐỔI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM” là một công trình nghiên cứu, nỗ lực của bản thân tôi trong suốt thời gian thực tập cùng với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các cán bộ t

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy cổ phần hoá và chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại ban cải cách và phát triển doanh nghiệp thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương. Những thông tin và số liệu được sử dụng trong bài là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2010 Sinh viên Lê Anh Quân MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Số lượng doanh nghiệp tăng thêm trong các năm từ 2000 đến 2008 35 Bảng 2.2 Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo lĩnh vực hoạt động ( tháng 7-2008) 37 Bảng 2.3 Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo ngành kinh tế tính đến ngày 1-7-2008 39 Bảng 2.4 Tỷ trọng thành phần kinh tế trong tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 43 Bảng 2.5 Số lượng công ty TNHH một thành viên được chuyển đổi 45 Lời nói đầu Kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt Nam đã có những biến đổi to lớn. Cột mốc đánh dấu sự thay đổi lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam chính là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO trong năm 2007 sau quá trình chuẩn bị 11 năm với hơn 200 cuộc đàm phán. Gia nhập vào WTO cũng có nghĩa là Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào sân chơi chung của thế giới, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Một trong những thách thức to lớn mà Việt Nam sẽ gặp phải đó là sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài trên một sân chơi bình đẳng theo qui định chung khi gia nhập vào ngôi nhà WTO. Đứng trước tình hình sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh khi hội nhập, khối doanh nghiệp Việt Nam nói chung và hệ thống các doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém như: công nghệ lạc hậu, tài sản manh mún, cơ chế quản lý cứng nhắc, trình độ quản lý thấp kém, tinh thần người lao động sa sút.... Nói chung phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ, làm ăn cầm chừng. Nhận thức được điều đó, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Khu vực kinh tế Nhà nước như: cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước, sắp xếp chuyển lại các doanh nghiệp Nhà nước theo mô hình công ty mẹ-con, công ty trách nhiệm hữu hạn hay thực hiện các hình thức bán khoán, cho thuê, hay giải thể các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... trong đó cổ phần hoá được coi là giải pháp hàng đầu, có khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như cho nhiều bộ phận xã hội khác. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, đòi hỏi Việt nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế và chính trị , như vậy sẽ chủ động trong vấn đề hội nhập và quan hệ quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công cuộc chuyển đổi doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng là điều kiện bắt buộc không chỉ để có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài mà còn để có thể tham gia sân chơi theo đúng điều lệ từ WTO. Việc cải cách hệ thống pháp luật theo hướng phù hợp với qui định của WTO là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Do đó bộ luật doanh nghiệp Việt Nam đã được ban hành vào các năm 1999, 2003 và 2005 đã có những tác động to lớn trong công cuộc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước với trọng tâm là cổ phần hóa diễn ra dù đã đạt được những thành tựu nhất định xong vẫn còn diễn ra chậm và khó có thể hoàn thành theo đúng mốc thời gian khi luật doanh nghiệp nhà nước năm 2005 sẽ hết hiệu lực vào ngày 1-7-2010 trong khi vẫn còn khoảng 1507 doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại. Đứng trước khó khăn đó chính phủ đã ban hành nghị quyết chuyển đổi những doanh nghiệp đang tồn tại sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên để giải tỏa áp lực về mặt thời gian. Sau đó khối doanh nghiệp vẫn được hướng đến mục tiêu cổ phần hóa như đã định. Chính vì vậy thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đã trở thành một mục tiêu vô cùng quan trọng và cần thiết đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời điểm này. Với những lí do nêu trên em xin mạnh dạn trình bày những quan điểm, nghiên cứu trong chuyên đề thực tập với đề tài: “Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.” Chuyên đề thực tập của em gồm 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Phần II: Thực trạng cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Phần III: Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Trong khuôn khổ bài viết, mặc dù đã cố gắng tìm hiểu, sưu tầm tài liệu và nghiên cứu về đề tài trên xong em vẫn không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Vì vậy em rất mong có được sự chỉ bảo của thầy cô để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn cùng các cô bác, anh chị trong ban cải cách và phát triển doanh nghiệp thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã nhiệt tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành chuyên đề thực tập này. Phần I: Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước I. Cơ sở lý luận về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 1. Cổ phần hóa Cho đến nay, trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội là không thể phủ nhận. Khi nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo hạn chế là sự cạnh tranh khốc liệt và bất bình về mặt xã hội tăng lên. Để giảm bớt và kìm hãm những hạn chế trên, đồng thời thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước sử dụng một công cụ hữu hiệu là bộ phận kinh tế Nhà nước, mà trung tâm là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng việc lạm dụng quá mức sự can thiệp của khu vực kinh tế Nhà nước sẽ kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Từ đó vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển xã hội đồng thời vai trò quản lý của Nhà nước vẫn được giữ vững. Một hiện tượng kinh tế nổi bật trên toàn thế giới trong những năm 1980 là sự chuyển đổi sở hữu Nhà nước : Chỉ tính từ năm 1984 đễn năm 1991, trên toàn thế giới đã có trên 250 tỷ USD tài sản Nhà nước được đem bán.Chỉ riêng năm 1991 chiếm khoảng 50 tỷ USD. Đến nay đã có hàng trăm nước phát triển trên thể giới đều xây dựng và thực hiện cổ phần hoá một cách tích cực. Do đó, việc cổ phần hoá được coi như là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự yếu kém trong kinh doanh của bộ phận doanh nghiệp Nhà nước.Vậy cổ phần hoá là gì, vai trò, đặc điểm của nó ra sao, mà nhiều nước trên thế giới sử dụng nó trong công tác quản lý kinh tế như vậy. Theo tài liệu của hầu hết các học giả nước ngoài thì việc xem xét vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn đó là quá trình Tư nhân hoá. Tư nhân hoá theo như định nghĩa của Liên Hợp Quốc là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ các chính sách, thể chế, luật lệ nhằm khuyến khích, mở rộng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt quyền sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế tế cơ sở, giành cho thị trường vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh đáng kể thông qua tự do hoá giá cả, tự do lựa chọn đối tác và nghành nghề kinh doanh. Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính doanh nghiệp Nhà nước thông qua đấu thầu công khai, hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành lên các Công ty TNHH hay Công ty Cổ phần. Như vậy cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu -chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước thành công ty Cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại. Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể đưa ra khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là: việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp. 2. Nội dung của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 2.1. Đối tượng cổ phần hóa Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện kinh tế nước ta, đối tượng thực hiện cổ phần hoá là những doanh nghiệp Nhà nước hội tụ đủ 3 điều kiện: có quy mô vừa và nhỏ; không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư; có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn nhưng triển vọng tốt. Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 (doanh nghiệp không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư) được coi là quan trọng nhất bởi những doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, là đòn bẩy kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định theo đúng định hướng XHCN. 2.2. Về lựa chọn hình thức tiến hành Cổ phần hóa Theo quy định thì có 4 hình thức Cổ phần hoá, Ban cổ phần hoá sẽ lựa chọn một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và người lao động. Các hình thức đó là: giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp; bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp; tách một bộ phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá; bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. 2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian, công sức nhất trong quá trình Cổ phần hoá. Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp được đưa ra, đó là: Giá trị thực tế là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Người mua và người bán cổ phần sẽ thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại các nước có nền kinh tế phát triển, thoả thuận này diễn ra trên thị trường chứng khoán, còn ở nước ta thoả thuận có thể diễn ra thông qua các công ty môi giới, kiểm toán( đã diễn ra trên thị trường chứng khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác định được giá trị thực tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sẽ là phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả. Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm Cổ phần hoá và giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm Cổ phần hoá. Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá trị doanh nghiệp. Thực tế việc Cổ phần hoá các doanh nghiệp cho thấy, các doanh nghiệp đăng ký Cổ phần hoá thường có xu hướng định thấp giá trị doanh nghiệp, thông qua việc khai báo không chính xác như khai thấp giá trị TSCĐ của doanh nghiệp, khai không đúng lượng vốn…từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc định giá trị doanh nghiệp và gây thiệt hại cho Nhà nước. Ngược lại, hiện tượng cơ quan kiểm toán định giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp lại có thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần. 2.4. Về việc xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ phần Các đối tượng được phép mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư ở Việt Nam trong đó cná bộ công nhân viên tại các doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng được ưu tiên mua cổ phần. Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau: - Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. - Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 20%, một cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. - Loại doanh nghiệp Nhà nước không tham gia cổ phần: không hạn chế số lượng cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp. Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như mức mua cổ phần, tuy nhiên nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh nhằm khuyến khích việc mua cổ phần. Cụ thể là mọi người mua cổ phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền mặt. Với người lao động, họ sẽ được Nhà nước bán cổ phần với mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác, mỗi năm làm việc tại doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối với người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng cổ tức, số tiền này sẽ trả dần trong 10 năm không phải trả lãi. 3. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 3.1. Khái niệm về chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước Đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một trong những trọng tâm và là lĩnh vực cải cách nhạy cảm, khó khăn nhất của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Đó là vì đây không phải là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề mang tính tư tư tưởng, chính trị, xã hội và tâm lý. Đổi mới doanh nghiệp nhà nước thường có 2 nội dung chủ yếu là giảm qui mô khu vực doanh nghiệp nhà nước và cải cách thể chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn lại. Có hai cách tiếp cận trong công tác tiến hành đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Cách thứ nhất đó là tư nhân hóa nhanh chóng hầu hết các doanh nghiệp nhà nước và cách thứ hai đó là vừa tiến hành từng bước quá trình cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu, vừa chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty hiện đại. Đây cũng chính là cách thức mà Việt Nam đang tiến hành áp dụng. Việc chuyển đổi doanh nghiệp sang hoạt động theo chế độ công ty hiện đại đã được chính phủ thông qua trong nghị định số 95/2006 và theo qui định của luật doanh nghiệp năm 2005 các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải chuyển đổi thành công ty TNHH 1 thành viên hoạt động theo luật doanh nghiệp. Có thể hiểu khái niệm chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty trong đó không thay đổi bản chất sở hữu mà chỉ thay đổi hình thức pháp lý của doanh nghiệp nhà nước. Vốn của các doanh nghiệp này vẫn do nhà nước nắm giữ 100% nhưng doanh nghiệp được chủ động hơn, quyền hạn, nghĩa vụ, tổ chức, quản lý sau chuyển đổi sẽ tương tự như các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp. Việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty không chỉ là giải pháp để giải tỏa sức ép chuyển đổi doanh nghiệp mà còn là phương tiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển khu vực doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh, hoạt động theo thị trường để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững và nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. 3.2. Các hình thức chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 3.2.1. Chuyển đổi DNNN sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con Công ty mẹ- công ty con là loại hình liên kết mới mang bản chất đầu tư hoặc liên kết tài chính giữa các doanh nghiệp sau khi cơ cấu lại các đơn vị thành viên tổng công ty, hoặc cơ cấu lại các đơn vị thuộc các công ty nhà nước độc lập quy mô lớn, hoặc doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. Kết quả của quá trình này là các công ty tự đầu tư, góp vốn mua cổ phần của nhau hoặc của các doanh nghiệp khác ngoài tổng công ty, dẫn đến hình thành loại doanh nghiệp chi phối doanh nghiệp khác. Hiện nay hầu hết các tổng công ty đều đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa sở hữu các đơn vị thành viên, có tổng công ty đã cổ phần hóa hơn 50% đơn vị thành viên của mình. Trong cơ cấu của tổng công ty này có loại hình công ty nhà nước qui mô lớn( là công ty mẹ) nắm giữ quyền chi phối công ty khác( là công ty con). Bên cạnh đó cũng có các doanh nghiệp độc lập ngoài tổng công ty, thậm chí doanh nghiệp thành viên của tổng công ty cũng thực hiện các hoạt động đầu tư, góp vốn mua cổ phần tương tự và trở thành công ty mẹ- công ty con. Hiện nay có hai con đường để các tổng công ty và công ty nhà nước độc lập chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Một số doanh nghiệp chuyển đổi theo đề án do Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp đã hoạt động theo mô hình này một cách thực chất, không bằng giải pháp hành chính chuyển đổi mà thông qua nhiều biện pháp kinh tế khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp, cổ phần hóa và đa dạng hóa đơn vị sở hữu thành viên, mua cổ phần hoặc góp vốn, trong đó tổng công ty hoặc công ty nhà nước độc lập giữ cổ phần, vốn góp chi phối. Đến nay có 70 DNNN là tổng công ty, công ty nhà nước độc lập hoặc là thành viên của tổng công ty được chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Trong đó, có 52 DNNN chuyển đổi theo đề án của Thủ tướng chính phủ phê duyệt và 18 doanh nghiệp do các Bộ, UBND cấp tỉnh phê duyệt, mà thực chất trong số đó nhiều doanh nghiệp trên thực tế đã hình thành cơ cấu công ty mẹ - công ty con. Mô hình công ty mẹ-công ty con không còn giới hạn trong khu vực DNNN mà đã mở rộng ra khu vực kinh tế tư nhân, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mô hình này đã tạo ra hướng liên kết hoàn toàn mới, bền chặt hơn bằng đầu tư, góp vốn giữa các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, phù hợp với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Liên kết bằng vốn đầu tư này là hoàn toàn tự nguyện, phụ thuộc vào năng lực tài chính của các công ty tự đầu tư vào nhau này. Những nhược điểm cố hữu của mô hình tổng công ty nhà nước đang được khắc phục, nhất là nhược điểm về liên kết và tính đơn điệu trong cơ cấu đơn vị thành viên. 3.2.2. Chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên Các doanh nghiệp thuộc đối tượng chưa chuyển đổi sở hữu, nhà nước còn nắm giữ 100% vốn sẽ được chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên hoạt động theo luật doanh nghiệp. Cho đến nay có khoảng 200 doanh nghiệp chuyển đổi theo hình thức này và nhiều công ty TNHH một thành viên được thành lập mới từ vốn nhà nước. Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 qui định các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ 100% vốn sẽ phải chuyển sang công ty TNHH một thành viên trong thời hạn tối đa là 4 năm. Như vậy, số 1800 doanh nghiệp mà Nhà nước còn nắm giữ 100% vốn theo kế hoạch đến cuối năm 2006, kể cả tổng công ty, các công ty mẹ, sẽ phải chuyển dần sang công ty TNHH một thành viên và hoàn thành chuyển đổi vào thời điểm ngày 1 tháng 7 năm 2010. Việc chuyển công ty nhà nước sang công ty TNHH một thành viên không chỉ là sự chuyển đổi về hình thức pháp lý mà quan trọng hơn là thông qua sự chuyển đổi tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước phát huy đầy đủ quyền chủ động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bình đẳng với các doanh nghiệp khác về quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức quản lý và môi trường hoạt động kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, tiến dần đến việc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều hoạt động theo một quy luật chung. 3.2.3. Chuyển đổi cơ chế quản lý đối với DNNN Đối với các DNNN mà Nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn, dù đã chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên hay chưa chuyển đổi, vẫn phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Đối với những DNNN đã chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, thì hoạt động hoàn toàn theo luật doanh nghiệp bình đẳng với các doanh nghiệp khác. Những DNNN chưa chuyển đổi theo nghị quyết TW3(khóa IX) cần xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển, trừ những bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những ngành, lĩng vực, sản phẩm quan trọng. Nghị quyết TW9 (khóa IX) đã phát triển thêm một bước về cơ chế quản lý là yêu cầu kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý, sớm khắc phục bao cấp bao gồm khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan, yêu cầu khẩn trương xóa đặc quyền và độc quyền kinh doanh của DNNN theo lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm qua đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như luật DNNN năm 2003, 2005, các Nghị định, quyết định và các văn bản hướng dẫn nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của công ty nhà nước, ngăn chặn khả năng kém hiệu quả của DNNN ngay từ khi thành lập, ban hành cơ chế quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với DNNN, thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, ban hành chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN… Yêu cầu đối với DNNN phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, lấy suất sinh lời trên vốn là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả. Sau khi ban hành luật DNNN và Nghị định 31/2005/ ND-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, không còn loại DNNN chuyên sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước bắt đầu khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần mà pháp luật không cấm và chuyển sang đặt hàng và đấu thầu sản phẩm công ích. Cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động theo luật DNNN được đổi mới cơ bản, theo hướng tiến tới sự ngang bằng về quyền tự chủ so với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh với các nguyên tắc thị trường, giảm thiểu tình trạng lãng phí nguồn lực nhà nước đầu tư, phải đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích cùng với các thành phần kinh tế khác, chuyển dần sang cơ chế thuê giám đốc, có thể thuê cả người nước ngoài… Công ty nhà nước có các quyền chiếm hữu và sử dụng đối với vốn và tài sản như các loại hình doanh nghiệp khác. 3.2.4. Chuyển đổi quyền chủ sở hữu Đây là vấn đề đề khó khăn nhất của chuyển đổi DNNN, mặc dù là nội dung quan trọng và được đề cập nhiều trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Từ Đại hội Đảng VII và các Đại hội Đảng tiếp theo, cũng như trong nhiều nghị quyết Trung ương của các kỳ Đại hội Đảng đã đưa ra các chủ trương như: xóa bỏ chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản, phân biệt quyền chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, chuyển sang thực hiện chế độ quản lý công ty đối với DNNN, đầu tư vốn qua các công ty đầu tư tài chính nhà nước, thành lập các công ty đầu tư tài chính nhà nước; Hội đồng quản trị là đại diện trực tiếp sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp; Chính phủ thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với DNNN, chính phủ ủy quyền cho các bộ, phân cấp cụ thể cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu của nhà nước phù hợp với các loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước, bảo đảm ở đâu có vốn của nhà nước thì phải có tổ chức hoặc cá nhân được giao quyền đại diện nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp với nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm rõ rang, không phân biệt DNNN do Trung ương hay địa phương quản lý… II. Các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 1. Các nhân tố chủ quan 1.1. Xây dựng và phê duyệt phương án chuyển đổi Một trong những thủ tục mà doanh nghiệp cần phải làm khi chuyển đổi thành mô hình công ty là xây dựng điều lệ công ty sau chuyển đổi. Tuy nhiên, do vướng mắc về mô hình tổ chức (đa số doanh nghiệp mong muốn chọn phương án Chủ tịch công ty kiêm Tổng giám đốc nhằm tạo sự đơn giản, gọn nhẹ về bộ máy và tiết kiệm chi phí), nhưng chưa có quy định cụ thể có cho phép hay không cho phép Chủ tịch kiêm Giám đốc công ty, nên việc xây dựng, phê duyệt phương án chuyển đổi và xây dựng, phê duyệt điều lệ bị kéo dài. Một số địa phương và doanh nghiệp tự quyết định chọn phương án kiêm nhiệm giữa 2 chức danh này. Bên cạnh đó, việc kết hợp tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp (trong cùng một ngành, lĩnh vực) với quá trình chuyển đổi cũng dẫn đến quá trình chuyển đổi bị kéo dài tại một số tỉnh. Hoặc, việc chưa hướng dẫn cụ thể xác định vốn điều lệ của các công ty đặc thù như các công ty thủy nông (trong thực tế chỉ được giao quản lý và sử dụng tài sản nhà nước) cũng gây khó khăn, tùy tiện trong xác định vốn điều lệ, kéo dài thời gian chuyển đổi (có địa phương xác định vốn điều lệ bằng tổng giá trị tài sản nhà nước giao cho công ty quản lý và sử dụng, nhưng cũng có địa phương xác định vốn điều lệ bằng 30% tổng giá trị tài sản nhà nước giao cho công ty quản lý và sử dụng). Ngoài ra, những vướng mắc về cơ chế hoạt động xảy ra trong thực tế ở một số doanh nghiệp đã chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới nỗ lực của các doanh nghiệp đang chuẩn bị chuyển đổi; chưa tạo ra sự thống nhất và đồng thuận giữa cấp phê duyệt với cán bộ quản lý và người lao động trong doanh nghiệp. 1.2. Hoạt động đăng ký kinh doanh Hoạt động đăng ký kinh doanh của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chuyển đổi từ công ty nhà nước vẫn còn một số vấn đề phát sinh, tạo tâm lý không tốt cho doanh nghiệp về môi trường hoạt động sau chuyển đổi. Thực tế này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do chưa quy định rõ ràng và cụ thể, thiếu nhất quán trong nhận thức giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và doanh nghiệp chuyển đổi,... Cụ thể là: - Chưa quy định, nhận thức rõ về sở hữu vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nên đã dẫn đến tình trạng cán bộ đăng ký kinh doanh tại một số địa phương yêu cầu doanh nghiệp phải có quyết định chia vốn điều lệ cho các thành viên Hội đồng thành viên nắm giữ, sở hữu như công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; yêu cầu doanh nghiệp phải ghi thêm lời giải thích vào ngành nghề đăng ký trong khi ngành, nghề này đã được ghi rõ trong quyết định chuyển đổi. - Tuy luật doanh nghiệp qui định doanh nghiệp có quyền chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn kinh doanh đầu tư, nhưng vẫn còn có ý kiến cho rằng ngành nghề kinh doanh của công ty con phải đúng như ngành nghề kinh doanh của công ty mẹ. Vì vậy dẫn đến tình trạng cấp giấy đăng kí kinh doanh cho công ty con hoạt động trong mô hình công ty mẹ - công ty con ở một số sở kế hoạch và đầu tư còn lúng túng làm chậm hoặc cấp phép cho doanh nghiệp chưa đúng theo qui định hiện hành. 1.3.Về mặt tài chính và tư tưởng Nhiều doanh nghiệp (gồm cả lãnh đạo và người lao động) cũng như nhiều cấp quản lý vẫn ngại chuyển đổi do sợ mất đi nhiều quyền lợi. Có người lại nhận thức sai về chuyển đổi cho rằng việc việc chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ dẫn đến mất chế độ, chệch hướng XHCN…Có tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp đã Cổ phần hoá nhất là tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Việc tìm đối tác liên doanh, liên kết ở các công ty cổ phần cũng gặp khó khăn. Doanh nghiệp Nhà nước vẫn được ưu đãi nhiều hơn. làm ăn thua lỗ vẫn được vay không phải trả lãi, bù lỗ từ ngân sách Nhà nước và một số ưu đãi khác. Tất cả đều tác động lớn tới tâm lý của các doanh nghiệp chuẩn bị bước vào chuyển đổi, cổ phần hóa. Mặt khác, nhiều giám đốc của các doanh nghiệp Nhà nước sợ rằng chuyển đổi DNNN sẽ làm mất đi quyền lực vốn có bấy lâu nay. Tư tưởng bao cấp đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều doanh nghiệp nên cố tình trì hoãn chuyển đổi, lảng tránh nhiệm vụ mới. Nhiều quan niệm cho rằng các hình thức chuyển đổi DNNN ở Việt Nam là một quá trình rối rắm, phức tạp và tốn thời gian, làm hao tổn các nguồn lực tài chính và làm giảm sút sự kiên nhẫn của các doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam chưa có một phương pháp đánh giá tài sản doanh nghiệp thống nhất theo đúng chuẩn mực quốc tế. Sự phức tạp này còn gia tăng bởi những yếu tố đi kèm như: việc xử lý nợ khó đòi, thẩm định giá trị nhà xưởng máy móc thiết bị và quyền sử dụng đất. Do đó việc định giá tài sản doanh nghiệp thường là khâu kéo dài nhất (khoảng trên 3 tháng). Hiện nay, việc thiếu một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ làm cho chúng ta khó khăn rất nhiều trong việc huy động vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, một yếu tố không thể xem nhẹ trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay. 2. Các nhân tố khách quan 2.1. Pháp luật và cơ chế chính sách Các quy định về chế độ với doanh nghiệp sau khi chuyển đổi vẫn chưa rõ ràng. Các quy định được sửa đổi và bổ sung thường thì càng về sau càng có lợi, càng có nhiều ưu đãi. Chính vì vậy, về mặt tâm lý, các doanh nghiệp không muốn triển khai nhanh mà chờ đợi để được hưởng ưu đãi nhiều hơn. Các văn bản quy định về Cổ phần hoá đã được ban hành cũng có nhiều vấn đề cần xem xét lại. Quy định về bán cổ phần ưu đãi cho người lao động cũng không được cụ thể hóa, linh hoạt. Có nơi người lao động không có tiền mua cổ phần ưu đãi; lại có nơi do vốn Nhà nước ít, số lượng cổ phần bán ra hạn chế, không đủ cho nhu cầu. Cho đến nay, quá trình Cổ phần hoá còn chưa có một phương hướng chiến lược rõ ràng. Từ trước đến nay, Cổ phần hóa được chủ yếu tiến hành trên cơ sở tự nguyện mà không có quy định phải ưu tiên Cổ phần hoá đối với loại hình doanh nghiệp hay thành phần kinh tế nào. Trên thực tế, Chính phủ dường như đi theo con đường Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhỏ trước, các doanh nghiệp lớn sau. Do đó, tỷ lệ các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm một phần nhỏ trong số các doanh nghiệp đã được Cổ phần hoá . Bên cạnh đó, nhiều địa phương không thực sự quan tâm đến vấn đề Cổ phần hoá và coi đó là nhiệm vụ của các cấp ban nghành cao hơn. Sự phân quyền, hướng dẫn và phối hợp giữa địa phương và TW chưa thực sự thông suốt cũng là những nhân ._.tố góp phần kéo dài quá trình CPH. 2.2. Chính quyền TW và chính quyền các cấp Trong một thời gian dài, việc chỉ đạo,tổ chức điều hành chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước được tiến hành một cách rời rạc bị động. Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước không chủ động giao chỉ tiêu và chỉ đạo sát sao việc thực hiện mà ngồi đợi các doanh nghiệp tự động đăng ký. Bản thân Ban đổi mới doanh nghiệp Nhà nước chưa hoạt động chuyên trách, đội ngũ quá mỏng, chưa đủ trình độ và kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề phức tạp, lại chưa có đủ thẩm quyền chức năng để tổ chức hoạt động phối hợp làm cho các bước thủ tục thường dây dưa kéo dài… 2.3. Xác định tiêu chí, đối tượng chuyển đổi Tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ chưa có tính ổn định, dài hạn dẫn tới đối tượng chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hay thay đổi, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện chuyển đổi. Theo quy định, việc phân loại để sắp xếp doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước ban hành theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; chỉ các doanh nghiệp thuộc danh mục chuyển đổi sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trong Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của các bộ ngành, địa phương, tổng công ty đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mới được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiên, trong giai đoạn 8 năm vừa qua (từ khi ban hành văn bản pháp quy hướng dẫn việc chuyển đổi từ năm 2001 đến nay), đã 3 lần thay đổi tiêu chí phân loại: Quyết định 58/2002/QĐ-TTg (ban hành năm 2002); Quyết định 155/2004/QĐ-TTg (ban hành năm 2004); Quyết định 38/2007/QĐ-TTg (ban hành năm 2007). Điều đó dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp đã được đưa vào danh mục chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên đang triển khai chuyển đổi thì bị dừng lại để chuyển sang hình thức cổ phần hoá, đa dạng hóa sở hữu; hoặc doanh nghiệp đã chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên lại phải chuyển đổi thêm một lần nữa sang hình thức cổ phần hóa, gây tốn kém về tài chính, công sức và thời gian cho doanh nghiệp cũng như các cơ quan nhà nước có liên quan. Các tiêu chí phân loại chưa đủ cụ thể, chưa bao quát hết được yêu cầu thực tế ở các ngành, vùng nên đã gây khó khăn hoặc dẫn đến tùy tiện trong xác định danh mục công ty nhà nước chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Cụ thể là: - Hiện nay, tiêu chí phân loại doanh nghiệp để sắp xếp (trong đó có chuyển sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) chủ yếu phân theo từng ngành, lĩnh vực, địa bàn. Nhưng trong thực tế, nhiều công ty nhà nước không chỉ hoạt động trong một ngành, một lĩnh vực, tại một địa bàn mà hoạt động trong một số ngành, lĩnh vực, tại một số địa bàn khác nhau, kể cả vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, dẫn đến các khó khăn, lúng túng trong áp dụng tiêu chí để phân loại hoặc dẫn đến sự tùy tiện trong việc xác định các doanh nghiệp này thuộc loại giữ lại 100% vốn nhà nước hay cổ phần hóa ở mức chi phối hoặc không chi phối, hoặc phải tách ra thành các bộ phận để sắp xếp cho phù hợp với tiêu chí phân loại. - Quy định tiêu chí doanh nghiệp phải có quy mô vốn nhà nước trên 30 tỷ đồng mới thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn và được chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên tại Quyết định 155/2004/QĐ-TTg và trên cơ sở đó đưa vào Nghị định 95/2006/NĐ-CP đang gây lúng túng cho việc chuyển đổi đối với một số doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích, doanh nghiệp thuỷ nông, nông lâm trường, doanh nghiệp ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; cụ thể là: (i) Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích và lâm trường quốc doanh đang hoạt động trong lĩnh vực trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn, nhưng chỉ có dưới 30 tỷ đồng vốn nhà nước ở doanh nghiệp nên không đáp ứng tiêu chí về quy mô vốn quy định tại Nghị định 95/2006/NĐ-CP dẫn đến tình trạng các Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương rất lúng túng trong việc sắp xếp đối với các doanh nghiệp này; (ii) Hiện có một số lượng khá lớn các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích, doanh nghiệp thuỷ nông, nông lâm trường thuộc diện cổ phần hoá nhưng do đặc điểm ngành nghề không hấp dẫn các nhà đầu tư nên không thể cổ phần hoá được (ví dụ các công ty thuỷ nông nhỏ lẻ không thể tạo thành hệ thống thuỷ nông hoặc doanh nghiệp vệ sinh môi trường hoặc kết hợp giữa vệ sinh môi trường và cấp thoát nước ở các tỉnh miền núi hoặc các tỉnh nghèo miền Trung, Tây nguyên không được xếp vào nhóm Nhà nước giữ 100% vốn). Vì vậy, không thể chuyển những doanh nghiệp này sang thực hiện các hình thức cổ phần hóa, giao hoặc bán trong khi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa đáp ứng được yêu cầu cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích đó. Đối với 2 loại doanh nghiệp trên, các địa phương đã gặp khó khăn, lúng túng trong việc sắp xếp, chuyển đổi công ty nhà nước, phải trình Thủ tướng Chính phủ xin phép như những trường hợp đặc biệt. - Tiêu chí phân loại doanh nghiệp chưa đủ cụ thể, nên gặp trở ngại trong việc đẩy nhanh chuyển đổi doanh nghiệp sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp để thực hiện chủ trương “khẩn trương chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của Đảng và quy định của Luật Doanh nghiệp. Cụ thể là: các quyết định về tiêu chí phân loại doanh nghiệp (Quyết định 155/2004/QĐ-TTg; Quyết định 38/2007/QĐ-TTg) chỉ xác định định hướng doanh nghiệp thuộc loại Nhà nước giữ 100% vốn mà không xác định cụ thể là phải chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Vì vậy, Nghị định 200/2004/NĐ-CP về sắp xếp và chuyển đổi các nông lâm trường quốc doanh chỉ cho phép các lâm trường đủ điều kiện thì chuyển thành công ty nhà nước, mà chưa đề cập đến việc cho phép các lâm trường đáp ứng đủ điều kiện được chuyển ngay thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp quy định trong thời hạn 4 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực (tức đến 30/6/2010) thì toàn bộ công ty nhà nước phải chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần hay nói cách khác là các lâm trường đáp ứng đủ điều kiện cũng phải chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Hơn nữa, một số địa phương cũng muốn chuyển đổi sớm các lâm trường đáp ứng đủ điều kiện sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nhằm tránh phải chuyển đổi nhiều lần, đỡ tốn kém về thời gian, công sức và tiền của doanh nghiệp và của Nhà nước nhưng lại chưa được quy định tại Nghị định 200/2004/NĐ-CP nên phải xin phép như trường hợp đặc biệt. Vì vậy, có thể nói quy định tại Nghị định 200/2004/NĐ-CP chưa thật phù hợp với tình hình thực tế và yêu cầu chuyển đổi nhanh khu vực nông lâm trường quốc doanh sang hoạt động theo mô hình mới, phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường. III. Sự cần thiết trong việc thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 1. Sự thiếu hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước khi chưa cải cách chuyển đổi 1.1. Hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp, tốc độ phát triển chưa cao  Mặc dù tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước của doanh nghiệp nhà nước nói chung có tăng lên, nhưng trong những năm trước đây khi chưa tiến hành cải cách, đổi mới khối doanh nghiệp nhà nước tình trạng nợ nần của doanh nghiệp vẫn gia tăng. Năm 2005 chỉ có 71,9% doanh nghiệp có lãi, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước trung ương là 77,3% và doanh nghiệp nhà nước địa phương là 69%. Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm do các doanh nghiệp nhà nước làm ra trên thị trường quốc tế và trong nước còn thấp. Một số mặt hàng sản xuất trong nước như sắt thép, phân bón, xi măng, kính xây dựng… có mức giá cao hơn mức giá nhập khẩu cùng loại từ 20- 40%. Riêng mặt hàng đường thô cao hơn đến 70%. Tốc độ phát triển sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, còn thấp hơn của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Không ít doanh nghiệp nhà nước xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh không gắn với định hướng phát triển chung của ngành, không phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ thị trường. Nhiều dự án đầu tư chưa khả thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham nhũng, hậu quả khó khắc phục. Việc bảo toàn và phát triển vốn nhiều doanh nghiệp thực hiện chưa tốt, tình trạng ăn vào vốn, mòn vốn, mất vốn vẫn còn. Không ít doanh nghiệp chưa thực hiện tốt qui chế dân chủ tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là công khai tài chính, việc chi tiêu còn tùy tiện, lãng phí. Các doanh nghiệp còn phải dựa khá lớn vào sự bao cấp của nhà nước. Ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước gần 8000 tỷ đồng hàng năm trong đó có 6482 tỷ đồng bổ sung và 1464,2 tỷ đồng cấp bù lỗ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về tài chính. Ngoài ra, từ năm 2000 đến nay, nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng , xóa nợ 1088,5 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng cho các doanh nghiệp nhà nước. Tình hình hiệu quả thấp và sức cạnh tranh yếu vẫn còn kéo dài. Theo số liệu của Bộ tài chính tính đến tháng 12- 2003 cho thấy tỉ lệ lãi trên doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp nhà nước rất thấp : chỉ đạt 4,2%, trong khi đó khu vực có vốn đầu tư nhà nước là 13,6%. Tỷ lệ khu vực doanh nghiệp nhà nước thua lỗ theo thống kê năm 2003 chiếm tới 14,7%. 1.2. Doanh nghiệp nhà nước qui mô vẫn còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và tổ chức quản lý Đến tháng 5-2001 cả nước có 5655 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước khoảng 126030 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp 22 tỷ đồng. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8% trong đó số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2%( tại 14 tỉnh, loại doanh nghiệp này chiếm trên 90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịnh vụ thương mại, du lịch) ; số doanh nghiệp nhà nước có vốn từ 5 tỷ đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 15,2% ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25%. Tổng số vốn lưu động của các doanh nghiệp nhà nước vào khoảng 27 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng trên 21% tổng số vốn nhà nước bình quân mỗi doanh nghiệp có 4,8 tỷ đồng nhưng phần lớn các doanh nghiệp không có hoặc có rất ít vốn lưu động nên chủ yếu phải đi vay để sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn. 1.3. Công nợ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng ; lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn ; trình độ quản lý phần lớn còn yếu kém Công nợ của doanh nghiệp nhà nước còn quá lớn. Nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng. Năm 2004 trong số 15,1% nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại nhà nước thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 74,8% làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động cũng như sự lành mạnh của các ngân hàng. Tổng số nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà nước tính đến 12-2006 theo bộ tài chính đã lên đến 207,8 tỷ đồng, trong đó 76% là vay nợ ngân hàng, còn lại là do chiếm dụng các khoản phải nợ ngân sách, chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác.Tình hình tài chính không lành mạnh một phần là do lịch sử để lại, phần khác là mới tiếp tục phát sinh, nhưng còn lúng túng, chưa có phương pháp khả thi để xử lý dứt điểm, làm cho hạch toán kinh tế của doanh nghiệp bị méo mó, không minh bạch và doanh nghiệp nhà nước luôn trong tình trạng bị động, ứng phó với các khoản nợ khó đòi. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chưa tương xứng với sự đầu tư và trợ giúp của nhà nước. Không ít doanh nghiệp nhà nước vi phạm pháp luật như buôn lậu, gian lận thương mại, lãng phí, tham nhũng, trốn thuế, gian lận để nhận hoàn thuế giá trị gia tăng, lập các giấy tờ khống rút tiền tư ngân sách nhà nước… đã ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp nhà nước. Cũng theo số liệu của bộ tài chính tỉ lệ doanh nghiệp nhà nước thua lỗ chiếm không cao nhưng điều đó có một lý do là vì sự ưu đãi của nhà nước đối với khu vực này là cao hơn hẳn so với các khu vực kinh tế khác. Lao động thiếu việc làm và dôi dư đang là một khó khăn lớn ảnh hưởng đến quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Không ít doanh nghiệp nhà nước tùy tiện tăng biên chế gián tiếp, lao động trực tiếp quá mức cần thiết và bộ máy quản lý cồng kềnh làm cho năng suất lao động giảm, chi phí tăng. Mặt khác, cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp chịu trách nhiệm giải quyết lao động dôi dư. Khi doanh nghiệp chuyển sang cơ chế tự chủ, nhà nước chưa có qui định phù hợp để doanh nghiệp nhà nước quản lý chặt chẽ lao động, trả công lao động gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn tùy tiện, tiếp tục làm tăng thêm lao động vốn đã dôi dư. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước lại rất thiếu các lao động trẻ có trình độ chuyên môn cao, người lao động đang làm việc phần lớn chưa qua đào tạo hoặc làm việc trái nghề nên ảnh hưởng đến năng suất lao động. Trình độ quản lý của các doanh nghiệp nhà nước phần lớn còn yếu kém, chưa đạt yêu cầu mà cơ chế thị trường đòi hỏi, chưa năng động, nhanh nhạy, thích ứng với môi trường và điều kiện mới. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo, đào tạo lại và thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh nên không đáp ứng nhu cầu chuyên môn ; một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý doanh nghiệp sa sút về phẩm chất đạo đức ; trong khi chậm chạp, chưa có cơ chế phù hợp cho việc tuyển chọn những người có năng lực vào quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nước. 1.4. Trình độ kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp nhà nước còn hết sức lạc hậu Theo kết quả khảo sát của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường tại nhiều doanh nghiệp nhà nước thuộc 10 ngành( luyện kim, hóa chất, nhựa, sản xuất phân bón, dệt may, thực phẩm, chế biến nông thủy sản, sản xuất giấy, chế biến gỗ, điện- điện tử, cơ khí chế tạo), thì ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực( như phát, dẫn điện ; sản xuất sợi, dệt ; thi công xây lắp ; sản xuất vật liệu xây dựng), còn lại thì các máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp còn lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm( như cơ khí, sản xuất phôi), trình độ cơ khí hóa, tự động dưới 10%( chế biến thủy sản) ; mức độ hao mòn hữu hình từ 30- 50%, thậm chí có 38% là ở dạng thanh lý, 52% đã qua bảo dưỡng và sửa chữa. Đồng thời theo khảo sát của Viện khoa học và Bảo hộ lao động thuộc tổng liên đoàn lao động Việt Nam ở 12 doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành kinh tế thì trong số 727 thiết bị máy móc và dây chuyền nhập khẩu có tới 76% thuộc thế hệ những năm 1950-1960, trên 70% đã hết thời hạn sử dụng, 50% thuộc loại tân trang. Hậu quả là chưa tạo được nhiều sản phẩm quốc gia, sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất xám và công nghệ cao trên cơ sở kết hợp phát huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác quốc tế. 2. Theo yêu cầu của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2005 Theo qui định của luật doanh nghiệp 2005( có hiệu lực từ ngày 1-7-2005), Luật doanh nghiệp nhà nước chỉ được phép tồn tại trong vòng bốn năm kể từ khi luật doanh nghiệp chính thức có hiệu lực. Đây cũng là một trong những điều khoản cụ thể hóa cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Theo đó luật doanh nghiệp sẽ chính thức hết hiệu lực vào thời điểm ngày 1-7-2010. Hiện có 1507 doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại , nếu không cổ phần hóa kịp sẽ phải chuyển sang công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước. Do đó đây là thời điểm hết sức gấp rút để tiến hành đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa sẽ phải nhanh chóng gấp rút hoàn thành công tác xác định giá trị doanh nghiệp, cơ cấu phân chia cổ phần… còn những doanh nghiệp không thể cổ phần hóa kịp nhà nước đã có giải pháp chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên. Mới đây ngày 19-3-2010 chính phủ đã ban hành nghị định số 25/2010 chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu, thay cho nghị định 95. Nghị định mới sẽ giải tỏa áp lực về mặt thời gian cho việc chuyển đổi vì nó đưa ra các qui định đơn giản hơn như xử lý tài chính thì lấy giá trị sổ sách làm cơ sở, nợ nần được tính sau khi đã chuyển thành công ty TNHH một thành viên. Việc kiểm tra mặt bằng được xem xét về số lượng, kiểm tra mục đích sử dụng mặt bằng được thực hiện sau chuyển đổi. Với nghị định này, tiến trình thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đã được giải tỏa phần nào đó sức ép khi thời hạn luật doanh nghiệp nhà nước sắp kết thúc. Việc ban hành nghị định dù chỉ là một lệnh hành chính và chuyển đổi đơn thuần để đảm bảo mốc thời gian xong đó cũng là một quyết định tốt cho cộng đồng doanh nghiệp vì từ thời điểm đó, môi trường hành lang pháp lý của tất cả các loại hình doanh nghiệp sẽ cùng bằng phẳng hơn. Những lợi thế to lớn mà khối doanh nghiệp nhà nước được hưởng, được dùng từ nay sẽ phải tính toán, cân đong, đo đếm cùng tất cả các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, không hẳn khối doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sẽ có những chuyển biến tích cực, thậm chí vẫn còn có thể xảy ra những chuyện như thất thoát, quản trị kém… Tuy nhiên cột mốc đó là cần thiết cho cả doanh nghiệp có hay không có động lực chuyển đổi. Phương án chuyển sang mô hình công ty TNHH một thành viên về nguyên tắc chỉ thay đổi điều lệ hoạt động, hình thức quản trị doanh nghiệp, xác định rõ chức năng chủ sở hữu. Theo mô hình này, quyền của chủ sở hữu( Nhà nước) là rất lớn. Để thực hiện tốt quyền này việc giám sát phải mạnh, song đế nay, Luật quản lý và sử dụng vốn nhà nước chưa được ban hành, sự chồng chéo giữa chức năng quản lý vốn và quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng vẫn còn tồn tại. Do vậy sẽ khó lòng tránh khỏi những sự hạn chế và chồng chéo khi Nhà nước vẫn sở hữu 100% vốn ở các công ty TNHH một thành viên. Vấn đề quan trọng là thiết kế mô hình quản trị công ty sau chuyển đổi trong đó Luật doanh nghiệp chỉ đóng vai trò là khung hoạt động. Chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước sẽ đồng nghĩa với việc nhà nước cần tiếp tục cắt giảm mạnh sự chi phối của nhà nước trong nhiều lãnh vực ngành nghề kinh doanh như hiện nay. Việc chuyển đổi có thể trước mắt chưa mang lại lợi ích cho nền kinh tế hay chưa thể có thể lập tức tạo nên những thay đổi về chất. Do vậy với việc đưa ra yêu cầu về mốc thời gian, nhà nước cần thực hiện giám sát việc chuyển đổi chặt hơn, cùng với đó là chuẩn bị đánh giá, xác định giá trị của các doanh nghiệp, phương án bán cổ phần, nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp vì đích đến cuối cùng của thay đổi doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hóa. Việc chuyển sang mô hình công ty TNHH một thành viên là một bước đệm trong việc giải tỏa về mặt thời gian công tác chuyển đổi khi luật doanh nghiệp sắp đến hạn hết hiệu lực. IV. Kinh nghiệm về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước trong khu vực 1. Trung Quốc Trên thực tế, cổ phần hóa ở Trung quốc đã được thực hiện từ năm 1984 với sự ra đời của công ty cổ phần Hữu hạn Bách hóa Thiên Kiều (Bắc Kinh). Sau đó, trong văn kiện quan trọng được ban hành tháng 12 năm 1986, Quốc vụ viện Trung Quốc đã cho phép các địa phương có thể chọn ra một vài doanh nghiệp lớn và vừa có điều kiện, thuộc chế độ sở hữu toàn dân để thực hiện thí điểm cổ phần hóa. Đến cuối năm 1993, Trung Quốc đã có hơn 3.000 đơn vị thực hiện thí điểm cổ phần hóa.Tính đến cuối năm 1996, Trung Quốc có hơn 9.200 DNNN đã chuyển thành công ty cổ phần, với tổng số vốn là 600 tỷ NDT, hơn 4.300 công ty cổ phần hữu hạn đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, với tổng số vốn cổ phần đạt 358 tỷ NDT, trong đó 150 tỷ NDT là vốn huy động từ xã hội, 35 tỷ NDT là giá trị cổ phần phát hành trong nội bộ doanh nghiệp, 80 tỷ NDT là vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Nhiều công ty cổ phần đã tham gia thị trường chứng khoán Thượng Hải, Thâm Quyến, một số công ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường. Các công ty cổ phần của Trung Quốc được hình thành chủ yếu theo 3 cách: Bán cổ phiếu cho CNVC trong nội bộ doanh nghiệp; Phát hành cổ phiếu công khai ra xã hội; Công ty cổ phần hình thành bằng cách nắm giữ cổ phiếu giữa các doanh nghiệp… Sau khi tiến hành cổ phần hóa, cơ cấu của doanh nghiệp Trung Quốc được tổ chức như sau: Năm 1997, Trung Quốc có 655 công ty phát hành cổ phiếu A (cổ phiếu phát hành cho các nhà đầu tư đại lục), tăng 23,6% so với năm 1996; 93 công ty phát hành cổ phiếu B (cổ phiếu chuyên bán cho các nhà đầu tư nước ngoài), tăng 9,4% so với năm 1996; Tổng giá trị thị trường cổ phiếu A và B đạt 1.666,5 tỷ NDT, tăng 69% so với năm 1996; Có 35 công ty tham gia thị trường chứng khoán nước ngoài với tổng số vốn 7,9 tỷ NDT. Từ năm 1993 đến nay, kết quả đạt được trong giai đoạn thí điểm CPH cho thấy, doanh nghiệp hoạt động theo các quy luật kinh tế cơ bản là cách đi đúng đắn và hợp quy luật, Trung Quốc đã thực hiện cổ phần hóa DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên quan đến sự vận hành của DN. Lần lựợt “Luật phá sản doanh nghiêp”, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, “Các nguyên tắc tài chính doanh nghiệp”, “Điều lệ tạm thời về quản lý phát hành và giao dịch cổ phiếu, “Luật Lao động”, “Luật Công ty”, “Điều lệ quản lý đăng ký công ty”, “Luật Ngân hàng nhân dân Trung Quốc”, “Luật ngân hàng thương nghiệp”, “Luật xí nghiệp hương trấn”…, đã được ban hành và đi vào cuộc sống của doanh nghiệp. Trong đó, hai văn bản có tầm quan trọng đặc biệt là “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” và “Luật Công ty. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” được thông qua ngày 13/4/1998, đã quy định cụ thể về các quyền lợi của DNNN như: Cho phép DN tự sản xuất một số sản phẩm theo yêu cầu của thị trường; có quyền điều chỉnh vật tư được cung ứng theo kế hoạch; có quyền từ chối các nhiệm vụ sản xuất ngoài kế hoạch của các ban, ngành; có quyền tự tiêu thụ sản phẩm làm ra; có quyền lựa chọn đơn vị mua hàng… Có thể thấy, “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn trong sản xuất-kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày 23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh. Năm 1997, Hội nghị Trung ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến một số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh nghiệp, cổ phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần, trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất-kinh doanh, thì sẽ được tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v… Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ vai trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc. Thành quả nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc trong 25 năm qua là một quá trình tìm tòi sáng tạo về lý luận và không ngừng thử nghiệm trong thực tiễn, nhằm làm cho doanh nghiệp nhà nước có sức sống, đạt hiệu quả kinh tế cao. Quá trình đó có thể được chia làm 2 thời kì: trước và sau cổ phần hóa. Thời kì trước cổ phần hóa là từ năm 1978, khi bắt đầu cải cách, tới năm 1997, khi đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc ra chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Khi bắt đầu cải cách, chủ trương của Trung Quốc là khắc phục tình trạng quyền lực và lợi ích quá tập trung vào cơ quan quản lý trung ương bằng cách tăng thêm quyền lợi và lợi ích cho các doanh nghiệp . Tất nhiên, như vậy có lợi ích cho địa phương và doanh nghiệp, nhưng mặt khác, thu nhập tài chính của nhà nước giảm sút. Từ năm 1978 đến năm 1983, tỉ trọng thu nhập ngân sách của nhà nước trong toàn bộ thu nhập quốc dân giảm từ 37,2% xuống còn 26,5%. Tình trạng đó bất lợi cho việc nhà nước tập trung nguồn lực cho các dự án trọng điểm, cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Từ năm 1983, nhằm có thu nhập ngân sách nhà nước ổn định, Trung Quốc đã áp dụng chính sách chuyển quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với chính phủ từ phân chia lợi nhuận sang chế độ nộp thuế. Kết quả thực hiện chủ trương này là nguồn thu nhập ngân sách nhà nước tăng ổn định, nhưng do chế độ thuế không hợp ly, một loạt các doanh nghiệp nhà nước đã thua lỗ trong sản xuất kinh doanh. Từ năm 1987 đến năm 1993 nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước năng động hơn, Chính phủ đã thực hiện chính sách” khoán kinh doanh”. Cụ thể là sau khi hoàn thành chi tiêu nhận khoán, các doanh nghiệp được quyền sử dụng phần lợi nhuận thặng dư. Chính sách này đã tăng thêm tính chất tự chủ của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Nhưng do tính phức tạp trong chế độ khoán, thu nhập ngân sách của nhà nước một lần nữa bị giảm sút. Mặt khác, nhà nước chỉ hưởng lợi từ các doanh nghiệp làm ăn có lãi, còn các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì hoặc nhà nước không thể quản nổi, hoặc buộc phải bù lỗ quá nhiều. Còn các doanh nghiệp thì chỉ lo sản xuất, kinh doanh kiếm lãi trước mắt mà không quan tâm đến việc tăng cường đầu tư, đổi mới thiết bị để làm ăn lâu dài. Có thể nói sau khi lần lượt thực hiện 3 chủ trương trên, mặc dầu có một số tiến bộ so với thời kì kinh tế kế hoạch tập trung, nhưng Trung Quốc vẫn chưa tìm ra được con đường chuyển đổi thực sự đưa doanh nghiệp nhà nước ra khỏi tình trạng lạc hậu bế tắc. Năm 1992 Đại hội Đảng Cộng sản XIV chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường. Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV năm 1994 đã đưa ra chủ trương “ xây dựng chế độ xí nghiệp hiện đại”, thực hiện chế độ công ty, xác định rõ quyền sở hữu tài sản, xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm; phân tách chính quyền với doanh nghiệp. Hội nghị Trung ương 5 khóa XIV Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1996 tiến thêm một bước đưa ra chủ trương tinh giảm để tăng hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước chọn 500 doanh nghiệp lớn làm trọng điểm, thực hiện các chính sách ưu đãi để phát triển. Còn các doanh nghiệp nhỏ thì tùy điều kiện cụ thể, có thể áp dụng các hình thức liên doanh, sát nhập, cổ phần hóa hoặc phá sản… Thời kì sau khi cổ phần hóa là Đại hội XV của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1997 đến nay. Có thể nói đây là thời kì quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc đã tiến hành dưới sự chỉ đạo của lý luận mới về chế độ sở hữu trong nền kinh tế thị trường XHCN. Những luận điểm mới về chế độ sở hữu do Đại hội XV đưa ra được coi là “ lần giải phóng thứ 3” trong quá trình cải cách thể chế kinh tế ở Trung Quốc. Đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc đã xác định “ chế độ kinh tế cơ bản” của Trung Quốc trong giai đoạn đầu của CNXH là “ chế độ công hữu là chủ thể, kinh tế thuộc nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển”. Với sự chỉ đạo của lý luận mới về chế độ sở hữu, từ năm 1998 đến năm 2000 Trung Quốc đã tiến hành một đợt cải cách doanh nghiệp nhà nước rộng lớn bằng giải pháp cổ phần hóa, với phương châm” nắm lớn, buông nhỏ”. Nhà nước tập trung nắm khoảng 500 doanh nghiệp lớn và vừa, tiến hành cải cách để tăng cường sức mạnh của các doanh nghiệp đó và tập hợp chúng lại thành những tập đoàn lớn, còn hàng vạn các doanh nghiệp nhỏ thì có thể tùy tình hình cụ thể áp dụng các giải pháp liên doanh, cổ phần hóa, bán, cho phá sản… Đợt cải cách này đã mang lại những hiệu quả đáng ghi nhận, nhiều doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn và vừa trước đó sản xuất kinh doanh thua lỗ, qua cải cách đã chuyển sang có lãi. Từ năm 1998 đến cuối năm 2001, ở Trung Quốc có 406 doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nhà nước chi phối cổ phần đã được tổ chức lại và đi vào hoạt động. Trong 5 năm từ 1997 đến 2002, mặc dầu số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm rất nhiều, nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước chi phối cổ phần đã tăng gấp 4,6 lần; tài sản doanh nghiệp nhà nước tăng 23,7%. Trong danh sách 500 doanh nghiệp mạnh nhất thế giới, năm 1997 có cả 3 doanh nghiệp Trung Quốc, nhưng đến năm 2002 đã có 11 doanh nghiệp Trung Quốc. Hội nghị Trung ương khóa XVI Đảng cộng sản Trung Quốc đã ra quyết định về một số vấn đề hoàn thiệt thể chế kinh tế thị trường XHCN. Nghị quyết khẳng định “ kiên trì vai trò chủ thể của chế độ công hữu, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế sở hữu nhà nước”, đồng thời chủ trương “đẩy mạnh các hình thức thực hiện có hiệu quả chế độ công hữu, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế sở hữu nhà nước”. Đó là một quan điểm lý luận mới về kinh tế thị trường XHCN nói chung và về kinh tế sở hữu nhà nước nói riêng. Với sự chỉ đạo của lý luận đó, trong kế hoạch 5 năm lần thứ 10 (2001-2005) Trung Quốc đã có những bước tiến đáng kể trong cải cách doanh nghiệp ._.ển giao công nghệ. Thực hiện tích cực các giải pháp nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính; khắc phục tình trạng hình sự hóa trong xử lý vi phạm về kinh tế. 2. Mục tiêu Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự tồn tại hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả đặc biệt đem lại gánh nặng lớn cho Ngân sách Nhà nước và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, do vậy quá trình Cổ phần hoá và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước hướng tới những mục tiêu sau: - Phải xây dựng khối doanh nghiệp đủ mạnh thông qua các hình thức chuyển đổi, cổ phần hóa góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước theo cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả và sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong những ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt để nhà nước chi phối, điều khiển được nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. - Làm nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. - Đảm bảo được các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và nhu cầu cần thiết cho quốc phòng và an ninh. - Hoàn thành cơ bản việc sắp xếp , cơ cấu lại và đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện có trên cơ sở phân định rõ, doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn, doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối, doanh nghiêp nhà nước thực hiện đa dạng hóa sở hữu... - Giải quyết cơ bản nợ tồn đọng không có khả năng thanh toán; lao động dôi dư mà những nhiệm vụ xã hội mà doanh nghiệp nhà nước không phải làm. - Đổi mới và hiện đại hóa một bước quan trọng công nghệ và quản lý của đại bộ phân doanh nghiệp nhà nước sau khi tiến hành chuyển đổi, cổ phần hóa nhất là trong điều kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, nhằm nâng cao sức cạnh tranh cũng như đáp ứng được những nhu cầu căn bản của WTO. - Bổ sung, sửa đổi cơ chế chính sách, hình thành khung pháp lý đồng bộ, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng trong cơ chế thị trường cho mọi thành phần kinh tế, trong đó khối doanh nghiệp sau chuyển đổi phát huy được đầy đủ quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xóa bỏ bao cấp và có động lực mạnh mẽ trong sản xuất, kinh doanh. - Thực hiện việc chuyển đổi toàn diện đối với khối doanh nghiệp nhà nước theo mô hình công ty hiện đại, hoàn thành cơ bản cổ phần hóa đối với những doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, đặc biệt đẩy mạnh việc cổ phần hóa và đổi mới cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa những tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm… tiếp tục cổ phần hóa những công ty nhà nước đang thuộc diện phải cổ phần xong đã chuyển sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo nghị định ngày 19-3. Hoàn tất việc sáp nhập, cho thuê hoặc giao, bán giải thể, phá sản đối với những doanh nghiệp nhỏ, không cổ phần hóa được và nhà nước không cần nắm giữ. II. Các giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 1. Giải pháp thúc đẩy cổ phần hóa 1.1. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về mặt tài chính Xác định giá trị của doanh nghiệp là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình tiến hành CPH doanh nghiệp. Để làm tốt công việc này không phải là một điều dễ dàng và nhanh chóng. Xác định giá trị doanh nghiệp không phải là công việc mang tính kỹ thuật nghiệp vụ thuần tuý mà nó còn có ý nghĩa kinh tế - xã hội trọng yếu vì nó liên quan đến việc bảo toàn vốn của Nhà nước, đến quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp và đến khả năng đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty cổ phần trong tương lai. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp cần bảo đảm: không gây nên những thất thoát tài sản và vốn của Nhà nước; tạo tiền đề tài chính thuận lợi cho doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Trên thực tế trong việc xác định giá trị doanh nghiệp cần chú ý thêm một số vấn đề sau: Thứ nhất: Tiến hành phân loại các tài sản mà trước đây Nhà nước đầu tư cho doanh nghiệp để có biện pháp sử lý hợp lý, theo đó: - Những tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp phù hợp với phương án kinh doanh mới của công ty cổ phần sẽ chuyển giao lại cho công ty cổ phần theo giá thị trường tại thời điểm tiến hành cổ phần hoá. - Những tài sản của Nhà nước không phù hợp sẽ được chuyển giao lại cho Nhà nước để điều chuyển cho doanh nghiệp khác hoặc thanh lý, chứ không ép buộc công ty cổ phần mới phải nhận. - Những tài sản đã hết thời hạn khấu hao sẽ được chuyển giao lại cho công ty cổ phần mà không tính vào giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Thứ hai: Với những tài sản trước đây doanh nghiệp vay vốn để đầu tư, nay đã hoàn lại đủ vốn cho người cho vay, nên được chia làm 2 phần: - Một phần thuộc sở hữu Nhà nước theo tinh thần doanh nghiệp của Nhà nước đầu tư, phần vốn tăng thêm thuộc sở hữu Nhà nước. - Một phần tính cho người lao động trong doanh nghiệp, coi đó là sự ưu đãi khuyến khích tính tích cực và chủ động phát triển vốn của người lao dộng trong doanh nghiệp. Thứ ba: Xác định hợp lý những tồn đọng tài chính mà công ty cổ phần có thể kế thừa từ doanh nghiệp Nhà nước. Có thể xoá bỏ cho doanh nghiệp những khoản nợ khó đòi, khoản lỗ phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh trước đây do những nguyên nhân khách quan. Thứ tư: Đổi mới việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp: - Mời các chuyên gia kinh tế - kỹ thuật ở các cơ quan khoa học vào việc đánh giá tài sản, tôn trọng ý kiến của họ trong việc đánh giá giá trị thực tế của các tài sản. - Đề cao vai trò của Đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp - Mở rộng sự phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp có giá trị trên 10 tỷ đồng, thay vì Bộ Tài chính thẩm định và Thủ tướng Chính phủ quyết định, nên quy định là " cấp nào ra quyết định thành lập doanh nghiệp sẽ có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần". Điều này sẽ góp phần rút ngắn thời gian cổ phần hoá. 1.2. Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá Nghị định 44/CP ra đời đã tăng cường ưu đãi, tạo điều kiện cho người lao động được sở hữu cổ phần và thực hiện quyền làm chủ của mình đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên việc thực hiện các quy định này trong thực tế lại nảy sinh thêm những vấn đề mới cần phải bổ sung và điều chỉnh. Dưới đây là một số vấn đề liên quan đến chính sách ưu đãi đối với người lao động. Tăng cường mức độ ưu đãi cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước theo thâm niên công tác và mức độ đóng góp của họ với doanh nghiệp. Mức độ ưu đãi này thể hiện ở chỗ Nhà nước sẽ cho người lao động làm ở doanh nghiệp một số cổ phần. Nên có điều này bởi lẽ người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp thì khi doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu người chủ sở hữu nên trích một phần vốn cho họ. Mặt khác, việc điều chỉnh này còn bảo đảm cho người lao động có khả năng trở thành người chủ thực sự của công ty cổ phần khi năng lực tài chính của bản thân họ không đủ để mua cổ phần theo giá mà Nhà nước bán ưu đãi cho họ. Tiến hành điều chỉnh sự ưu đãi đối với người lao động tương ứng với ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, thay vì quy định sự ưu đãi cho người lao động của tất cả các loại doanh nghiệp thuộc các ngành nghề và lĩnh vực hoạt động. Sự điều chỉnh này nhằm hướng tới sự bình đẳng, tránh sự ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến quyền lợi của người lao động. Như vậy, mức ưu đãi cho người lao động trong các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, xây dựng, giao thông vận tải, thương mại, du lịch, khách sạn…. sẽ khác nhau. Chế độ ưu đãi đối với người lao động nghèo được mua chịu cổ phần và trả chậm cho Nhà nước trong thời hạn 10 năm cũng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế. Việc xác dịnh một chuẩn mực chung về lao động nghèo cho tất cả các vùng rõ ràng là không hợp lý do mức giá sinh hoạt và mức sống của các vùng là rất khác nhau. Vì vậy, Chính phủ cần phải xem xét lại chuẩn mực nghèo theo vùng trên cơ sở những tài liệu điều tra về mức sống đã thực hiện trong những năm trước đây. Những thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng…có mức giá cả sinh hoạt cao hơn các địa phương khác nên tiêu chuẩn lao động nghèo ở đây cũng phải khác. Tạo điều kiện cho người lao động tham gia mua cổ phiếu làm sao để không có sự chênh lệch quá lớn giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động. Khắc phục tình trạng hạn chế mức cho hưởng cổ tức trên số cổ phần thuộc về sở hữu Nhà nước. Khắc phục tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần, lưu ý đến tình trạng cách biệt về số lượng mua cổ phần giữa công nhân và cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp. Giải quyết hợp lý lao động dôi dư trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Phương án giải quyết số lao động dôi dư được xét trên 2 mặt: Bảo đảm việc làm và cuộc sống của người lao động; bảo đảm điều kiện để công ty cổ phần đạt được yêu cầu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó có hiệu quả sử dụng lao động. Trên cơ sở nhận thức rõ ràng quan điểm giải quyết việc làm là trách nhiệm của cả người lao động, doanh nghiệp và Nhà nước. Xoá bỏ quy định mức khống chế cổ phần tối đa được mua của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp (Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng) không được mua cổ phần quá mức bình quân chung của người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này bộc lộ những khiếm khuyết trong việc tạo tâm lý tin tưởng của người lao động trong doanh nghiệp, hạn chế khả năng huy động vốn. Bởi vậy, để bảo đảm sự công bằng xã hội, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ kinh tế khác chứ không nên quy định hạn chế mức mua cổ phần của mọi người trong doanh nghiệp. 1.3. Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước - Xác định đối tượng thực hiện CPH: Trong quá trình thực hiện CPH, cần linh hoạt và mềm dẻo trong việc xác định doanh nghiệp cổ phần hoá, tránh sự gò ép khiên cưỡng và cứng nhắc. Tiến hành phân loại doanh nghiệp là hoạt động vô cùng quan trọng trong việc xác định doanh nghiệp CPH. Thông qua phân loại, chúng ta sẽ có chính sách cụ thể áp dụng cho từng loại doanh nghiệp. Từ sự phân loại doanh nghiệp đó, bản thân mỗi doanh nghiệp đã tự xác định được sự tất yếu phải tiến hành CPH. Bên cạnh đó, khi chỉ định doanh nghiệp CPH cần có sự trao đổi,giải quyết những vướng mắc tư tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền về chủ trương CPH cho người lao động trong doanh nghiệp. Đó chính là điều kiện rất quan trọng đảm bảo quá trình CPH của doanh nghiệp được tiến hành một cách thuận lợi. - Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch CPH doanh nghiệp Nhà nước Ở cấp Trung ương, kế hoạch Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng trên cơ sở chiến lược đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước mà Đảng, Nhà nước đề ra. Còn ở cấp doanh nghiệp, trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình Cổ phần hoá cần chú ý tới những vấn đề sau: Xác định rõ những công việc phải làm trong toàn bộ quá trình cổ phần hoá, những công việc trọng tâm trong từng giai đoạn của quy trình Cổ phần hoá. Từ đó có kế hoạch bố trí lực lượng hợp lý thực hiện các công việc đó. Phân chia trách nhiệm cụ thể rõ ràng trong Ban cổ phần hoá của doanh nghiệp, quy định rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của từng bộ phận trong Ban, đề ra được kế hoạch chung trong tiến trình hoạt động của Ban. Từ kế hoạch chung, Trưởng ban sẽ tổ chức sự điều hoà, phối hợp chung bảo đảm sự nhịp nhàng cân đối trong thực hiện các công việc của quá trình Cổ phần hoá. Đề cao trách nhiệm của Ban chỉ đạo Cổ phần hoá, Ban này không chỉ có chức năng đôn đốc và kiểm tra quá trình Cổ phần hoá mà còn phải hết sức coi trọng việc hướng dẫn thực hiện các công việc của quá trình này và trực tiếp giải quyết các vấn đề phát sinh thuộc thẩm quyền của mình. Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho công ty cổ phần có nguồn gốc từ doanh nghiệp Nhà nước. Coi trọng việc sử dụng các tổ chức và cá nhân làm tư vấn cho cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp trong việc triển khai các công việc của quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần cũng như các vấn đề liên quan đến hoạt động của nó sau khi chuyển đổi. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là công tác được tiến hành lâu dài. Bởi vậy, để tiến hành công tác này một cách có hiệu quả cần đổi mới Ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có tính chất chuyên trách. Ban này sẽ có trách nhiệm trực tiếp lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các công việc liên quan đến chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần và những vấn đề hậu cổ phần hoá. 1.4. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, ngày càng đồng bộ hơn cho tổ chức và hoạt động của công ty Cổ phần Để công cuộc Cổ phần hoá thực sự đi vào đúng quỹ đạo, việc tạo dựng khung pháp lý đầy đủ và thuận lợi cũng hết sức cần thiết. Chúng ta cần phải sửa đổi nội dung các văn bản pháp quy về cổ phần hoá trước đây cũng như ban hành các văn bản mới sao cho thật phù hợp với tình hình hiện nay. Nhà nước và Chính phủ nên ban hành những tài liệu đầy đủ và hoàn chỉnh về công tác Cổ phần hoá: từ các văn bản mang tính chủ trương chính sách, các văn bản pháp lý cho tới những hướng dẫn cho các doanh nghiệp thực hiện các bước Cổ phần hoá một cách chi tiết nhất, cụ thể nhất. Thực ra như đã nói ở trên, trong số các doanh nghiệp muốn Cổ phần hoá, có tình trạng các cấp lãnh đạo không nắm rõ mình phải làm theo trình tự nào, có những văn bản nào hướng dẫn việc Cổ phần hoá… do vậy đó cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ Cổ phần hoá. Như vậy một mặt cần thêm các văn bản để tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ về Cổ phần hoá, mặt khác cũng nên tránh việc ban hành quá nhiều văn bản hướng dẫn Cổ phần hoá như trước đây, bởi điều này sẽ gây ra nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp. Chẳng hạn như hầu hết các nghị định của Chính phủ về Cổ phần hoá khi ban hành đều có sửa đổi so với tình hình thực tế nhưng sau một thời gian ngắn lại không phù hợp nên phải bổ sung hoặc sửa đổi. Đối với các doanh nghiệp Cổ phần hoá, đây là một khó khăn, gây ảnh hưởng đến quá trình Cổ phần hoá. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách nên nghiên cứu kỹ để ban hành các văn bản sao cho các văn bản thực sự tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh và ổn định để các cấp các ngành thuận lợi trong công tác Cổ phần hoá. Bên cạnh đó cũng cần phải tạo một khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ cho việc tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Chú trọng việc hướng dẫn thi hành các điều khoản về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán vì nếu hoạt động của nó phát triển sẽ giúp công ty cổ phần tạo và tăng được nguồn vốn và định mức được giá thị trường cổ phần của công ty. 2. Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước 2.1. Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng - Nghiên cứu việc mở rộng phạm vi chuyển đổi, bao gồm việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và tổ chức quản lý doanh nghiệp sau chuyển đổi do Nhà nước làm chủ sở hữu nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ, chi tiết, cụ thể cho việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. - Mở rộng đối tượng áp dụng Nghị định bao gồm các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc chuyển đổi, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi do Nhà nước làm chủ sở hữu cho phù hợp với việc mở rộng phạm vi điều chỉnh nêu trên. Trong đó, đối với đối tượng chuyển đổi cũng được mở rộng bao gồm: các doanh nghiệp được quy định tại Nghị định 95/2006/NĐ-CP; các công ty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh; doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ cho phép tạm thời chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trước khi chuyển thành công ty cổ phần (để kịp thời hạn chuyển sang Luật Doanh nghiệp trước ngày 1/7/2010). Đồng thời, cho phép các tổ chức sự nghiệp có thể không thuộc diện chuyển thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ được áp dụng những quy định của chuyển đổi. 2.2. Về điều kiện chuyển đổi - Nghiên cứu việc bỏ quy định điều kiện về mức vốn điều lệ nhằm đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi và giải quyết vướng mắc, phiền hà do phải thêm thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi đối với từng trường hợp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp công ích ở các địa phương không đạt quy mô vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng của Nghị định 95/2006/NĐ-CP. - Cân nhắc việc quy định cụ thể điều kiện chuyển đổi phù hợp với đặc điểm của từng loại doanh nghiệp: Loại doanh nghiệp độc lập, công ty mẹ thuộc diện chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu; Loại đơn vị hạch toán phụ thuộc tổng công ty, công ty mẹ thuộc diện chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu; Loại doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ cho phép chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trước khi chuyển thành công ty cổ phần. 2.3. Về trình tự chuyển đổi và nguyên tắc xử lý tài chính, tài sản và lao động khi chuyển đổi và việc xác định vốn điều lệ - Cần quy định chi tiết và cụ thể về trình tự thủ tục chuyển đổi để tránh phải ban hành thông tư hướng dẫn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp chuyển đổi. - Rà soát để sửa đổi, bổ sung những quy định về xử lý tài chính, lao động, đất đai cho phù hợp những quy định mới về cơ chế, chính sách xử lý tài chính, lao động, đất đai và yêu cầu thực tiễn đòi hỏi. Đồng thời, để tạo điều kiện chuyển một số doanh nghiệp (là đối tượng của cổ phần hóa, nhưng không kịp hoàn thành cổ phần hóa trước thời điểm ngày 01/07/2010 nên tạm thời chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, sau đó sẽ chuyển thành công ty cổ phần) nên cân nhắc việc quy định không thực hiện xử lý tài chính, lao động, đất đai đối với các doanh nghiệp thuộc diện này nhằm giảm bớt công sức, thời gian, chi phí cho việc xử lý khi chuyển đổi và phù hợp với nguyên tắc mỗi doanh nghiệp chuyển đổi, cổ phần hóa chỉ được xử lý lao động dôi dư một lần. 2.4. Về vấn đề chủ sở hữu - Sửa đổi hoặc ban hành các quy định pháp luật để tách bạch chức năng làm chủ sở hữu (đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và phần vốn nhà nước) ra khỏi các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó: loại bỏ chức năng thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận (tại Điều 82 Luật tổ chức Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân năm 2003) và nghiên cứu “hình thành tổ chức chuyên trách thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước đối với công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty nhà nước quy mô lớn quan trọng, kể cả Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước” tại Quyết định 1715/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án đổi mới quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp theo hướng không phân biệt hình thức sở hữu và điều chỉnh quản lý, hoạt động, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức thương mại thế giới nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi các tổng công ty, tập đoàn kinh tế sang hoạt động theo các nguyên tắc quy định tại Điều 168 Luật Doanh nghiệp. Đồng thời, nghiên cứu ban hành các văn bản quy định về quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp khác thay thế cho các văn bản pháp lý quy định về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước (Nghị định 132/2005/NĐ-CP và Nghị định 86/2006/NĐ-CP). - Bổ sung quy định cụ thể về việc chỉ những cơ quan, tổ chức được giao chức năng là chủ sở hữu mới được quyền ban hành văn bản với tư cách là chủ sở hữu nhà nước. Đồng thời, ban hành quy định hướng dẫn hình thức văn bản do chủ sở hữu ban hành và loại hình văn bản chỉ áp dụng để điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhằm khắc phục tình trạng hành chính hoá việc ban hành các quyết định và mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức được giao thực hiện chức năng chủ sở hữu với công ty. - Xoá bỏ tình trạng cơ quan quản lý nhà nước, kể cả cơ quan kiêm nhiệm chức năng chủ sở hữu nhà nước bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. - Quy định rõ trách nhiệm Chủ sở hữu nhà nước phải đầu tư đủ vốn điều lệ đã cam kết; có nguồn lực và chính sách rõ ràng về bổ sung vốn điều lệ cho các doanh nghiệp để tăng thêm năng lực tài chính cho các doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Đối với các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty, tập đoàn kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sanh sách chuyển đổi, đề nghị Chính phủ giao quyền chủ động cho các tổng công ty, tập đoàn kinh tế tự quyết định chuyển đổi doanh nghiệp thành viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. - Ban hành quy định và triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin và báo cáo thường xuyên cho chủ sở hữu về các vấn có liên quan của công ty; bổ sung các quy định về cơ chế cho phép Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty tiếp cận các thông tin thuộc quyền kiểm soát của Giám đốc, đồng thời đa dạng hóa các kênh thông tin ngoài chế độ báo cáo bằng sổ sách như hiện nay. - Nghiên cứu bổ sung quy định về nội dung quản lý, giám sát của chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; mối quan hệ giữa chủ sở hữu với Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty trong quản lý, giám sát công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Trong đó quy định chủ sở hữu quản lý, giám sát đối với công ty trách nhiệm hữu hạn về các vấn đề trọng đại trong các lĩnh vực sau: Về thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng hoạt động; Về vốn và tài chính; Về tổ chức và cán bộ. 2.5. Về tổ chức quản lý - Quy định cụ thể việc áp dụng mô hình và cơ cấu tổ chức quản lý đối với từng loại công ty: Công ty mẹ của tập đoàn kinh tế, công ty mẹ thuộc nhóm công ty mẹ-công ty con, công ty quy mô lớn, kinh doanh đa ngành, hoạt động tại nhiều địa bàn có cơ cấu tổ chức gồm Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc và các Kiểm soát viên; Đối với công ty mẹ hoạt động trong các ngành, lĩnh vực đặc biệt, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty mẹ do Thủ tướng Chính phủ quyết định; Đối với các công ty khác: căn cứ vào quy mô, đặc điểm ngành nghề và hoạt động của từng công ty: chủ sở hữu quyết định áp dụng cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc và các Kiểm soát viên hoặc theo mô hình Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; việc Chủ tịch công ty kiêm hoặc không kiêm Tổng giám đốc. - Hướng dẫn và cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng thành viên; cơ cấu, tiêu chuẩn thành viên Hội đồng thành viên; Chủ tịch Hội đồng thành viên; Tổng giám đốc công ty; Mối quan hệ giữa Hội đồng thành viên và Tổng giám đốc công ty trong quản lý, điều hành; Kiểm soát viên; Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của thành viên Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc, Kiểm soát viên. Trong đó, quy định cụ thể những vấn đề Hội đồng thành viên được tự quyết định và những vấn đề mà Hội đồng thành viên được quyết định sau khi được sự chấp thuận của chủ sở hữu (những quyết định của Hội đồng thành viên có giá trị pháp lý sau khi được sự chấp thuận của chủ sở hữu) nhằm đảm bảo quyền quản lý của chủ sở hữu đối với những vấn đề quan trọng của công ty và nhóm công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước. - Hướng dẫn và cụ thể về quyền hạn, nhiệm vụ, tiêu chuẩn Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Kiểm soát viên; Mối quan hệ giữa Chủ tịch công ty và Tổng giám đốc công ty trong quản lý, điều hành; Thù lao, tiền lương và lợi ích khác của Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Kiểm soát viên; việc Chủ tịch công ty kiêm hoặc không kiêm Tổng giám đốc. 2.6. Về quản trị doanh nghiệp - Về người đại diện theo pháp luật của công ty: cần quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là đại diện theo pháp luật của công ty. Theo thông lệ quản trị hiện đại và kinh nghiệm ở Trung Quốc thì việc Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty hoàn toàn vốn nhà nước được giao là người đại diện theo pháp luật của công ty sẽ tách bạch được quyền quản lý và quyền điều hành doanh nghiệp cũng như tạo điều kiện cho Chủ tịch thay mặt Hội đồng thực hiện đúng chức năng nhân danh công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty và để Tổng giám đốc (Giám đốc) tập trung vào việc điều hành công việc hàng ngày của doanh nghiệp; Tổng Giám đốc (Giám đốc) được ủy quyền ký kết hợp đồng và điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Đồng thời thực tế ở nước ta cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc thuê Tổng giám đốc (Giám đốc) ở các công ty nhà nước gặp nhiều vướng mắc là do Tổng giám đốc (Giám đốc) được thuê được pháp luật hoặc Điều lệ công ty quy định là người đại diện theo pháp luật của công ty và là chủ tài khoản của công ty; vì vậy, việc quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật của công ty cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê Tổng giám đốc (Giám đốc). - Nghiên cứu việc quy định chức danh Giám đốc lĩnh vực tại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo thông lệ tốt nhất và quản trị doanh nghiệp hiện đại (giám đốc lĩnh vực như giám đốc marketing, giám đốc tài chính, giám đốc đầu tư, giám đốc nội chính, giám đốc quan hệ công cộng,...) nhằm tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực và nâng cao vị thế, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong từng lĩnh vực cũng như việc triển khai và quyết định nhanh, sát hơn và giảm tải công việc cụ thể cho Tổng giám đốc. - Rà soát để sửa đổi, bổ sung những quy định chưa rõ trong Luật Doanh nghiệp (vấn đề kiêm nhiệm hay không được kiêm nhiệm giữa Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc; đảm bảo sự nhất quán giữa quy định về nguyên tắc thực hiện quyền chủ sở hữu Nhà nước tại Điều 168 Luật Doanh nghiệp và các quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ...). - Cải thiện năng lực quản trị doanh nghiệp của chủ sở hữu, nâng cao năng lực tổ chức, quản lý theo yêu cầu của đổi mới quản trị doanh nghiệp. 2.7. Giải pháp về tổ chức, cán bộ, lao động, tiền lương - Tiếp tục tiến hành tập huấn, tuyên truyền tới tất cả các đối tượng liên quan: cơ quan, ban, ngành, tổng công ty, doanh nghiệp và người lao động để nhận thức được đúng đắn mục tiêu và bản chất của chuyển đổi. - Sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc thuê Tổng giám đốc (Giám đốc) điều hành để thu hút được người tài trong quản lý, điều hành, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty sau chuyển đổi. - Sớm ban hành hướng dẫn về cơ chế quản lý lao động, tiền lương bình đẳng giữa công ty do Nhà nước là chủ sở hữu với các loại hình doanh nghiệp khác theo hướng công ty là Nhà nước được tự chủ về hợp đồng lao động, tuyển dụng lao động, chế độ trả lương, cơ chế trả lương, được tự chủ xây dựng hệ thống thang, bảng lương trên cơ sở hướng dẫn của Nhà nước. Kết luận Cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là một quá trình khó khăn và lâu dài, hơn nữa lại không có một con đường chung nào cho mọi doanh nghiệp đi theo mà tùy thuộc vào từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp để có thể thực hiện. Tuy nhiên, khi đã hội nhập vào sân chơi chung là tổ chức thương mại thế giới WTO thì việc cổ phần hóa cũng như chuyển đổi khối doanh nghiệp nhà nước là việc làm vô cùng cần thiết, quan trọng nếu các doanh nghiệp muốn tồn tại và cạnh tranh trong xu thế toàn cầu như hiện nay. Mặc khác việc cổ phần hóa cũng như chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước cũng góp phần xóa bỏ những yếu kém, hạn chế đã tồn tại rất lâu trong khối doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đẩy mạnh hiệu quả hoạt động của khối doanh nghiệp này, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Trong suốt quá trình phát triển của khối doanh nghiệp nhà nước, kể từ khi nhà nước ban hành chủ trương cổ phần hóa cũng như chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đã trải qua những khó khăn cũng như thách thức to lớn, từ mặt thời gian, tiến độ thực hiện cổ phần, chuyển đổi doanh nghiệp sang mô hình công ty cho đến những khó khăn về hình thức chuyển đổi, nội dung chuyển đổi vậy nhưng song hành cùng những khó khăn đó là những nỗ lực từ phía chính phủ và từ phía những doanh nghiệp, những bài học kinh nghiệm và những tác động hỗ trợ cần thiết đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới khối doanh nghiệp. Những doanh nghiệp sau cổ phần, những tổng công ty, tập đoàn đã phát triển mạnh, năng suất lợi nhuận tăng cao hơn hẳn, cơ chế quản lý, bộ máy hoạt động trở nên nhanh nhạy, trơn tru là những thành công to lớn sau chuyển đổi, góp phần giúp các doanh nghiệp vững tin đi đương đầu với mọi sức ép cạnh tranh. Tuy nhiên vẫn còn có những doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại và hoạt động yếu kém, tác động tiêu cực đến nền kinh tế nhà nước. Công cuộc thúc đẩy cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp vẫn là mục tiêu chính đối với Chính phủ và các Ban, ngành lãnh đạo nhất là khi bô luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2005 sắp đến thời hạn hết hiệu lực. Danh mục tài liệu tham khảo Luật doanh nghiệp nhà nước các năm 1999, 2003, 2005. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 13-2010. Sách hội thảo khoa học quốc tế: Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Báo cáo thường niên- doanh nghiệp Việt Nam 2008. Cơ sở khoa học của việc chuyển doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo mô hình công ty của kinh tế thị trường ( đề tài cấp bộ- chủ nhiệm: TS Trần Tiến Cường). Cải cách doanh nghiệp nhà nước: Thực trạng và vấn đề ( Bùi Văn Dũng- Phó trưởng ban cải cách và phát triển DN- Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương). Doanh nghiệp nhà nước trong phát triển KTXH ở Việt Nam đến 2010 (NXB chính trị quốc gia). Sách “Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo luật doanh nghiệp 2005”. Văn bản hướng dẫn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam (NXB Thống kê- năm 1999). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25633.doc
Tài liệu liên quan