Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương Mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức hoạt động vào tháng 7/2000 đánh dấu một bước tiến quan trọng của thị trường tài chính Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, hoạt động của Thị trường chứng khoán trong gần 4 năm qua mới đạt được những kết quả rất nhỏ, chưa thực sự đóng vai trò là phong vũ biểu của nền kinh tế hiện đại. Quy mô thị trường còn nhỏ; pháp luật, chính sách cho vận hành thị trường còn chưa phù hợp; cơ sở vật c

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương Mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hất chưa hiện đại; các đối tượng tham gia còn nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng. Đặc biệt là sự tham gia của các Ngân hàng thương mại vào TTCK còn nhiều hạn chế mặc dù đây là những định chế tài chính có tiềm lực kinh tế và có vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển của TTCK Việt Nam. Trong thời gian qua, các Ngân hàng thương mại đã tham gia hoạt động trên TTCK Việt Nam và thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, đây mới chỉ là sự khởi đầu, hoạt động của tổ chức trung gian này mới chỉ mang tính chất thăm dò, thử nghiệm, vì vậy chưa hiệu quả và các Ngân hàng thương mại chưa khẳng định được vị thế của mình trên TTCK. Nhiều Ngân hàng thương mại vẫn ngoài cuộc bởi lẽ còn nhiều các trở ngại về cơ sở pháp lý, các điều kiện tham gia. Xuất phát từ thực trạng và yêu cầu phát triển TTCK trong thời gian tới, đề tài : “ Giải pháp thúc đẩy các hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các Ngân hàng thương mại và hoạt động của các NHTM trên Thị trường chứng khoán Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo 3 chương: Chương I : Hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Chương II : Thực trạng hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam Chương III : Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán Việt Nam Chương I Hoạt động của Ngân hàng thươnG mại trên Thị trường chứng khoán 1.1. Tổng quan về Thị trường chứng khoán 1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên TTCK. Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm, khi đó các hàng hóa thông thường, ngoại tệ và chứng khoán cùng được giao dịch trên một thị trường chung. Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động, thị trường đã không thể đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì vậy, thị trường chứng khoán đã được tách riêng và hình thành cùng với thị trường hàng hóa và thị trường ngoại hối. Quá trình phát triển của TTCK đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ngày thứ năm đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ hai đen tối”, 19/10/1987. Song, trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng TTCK lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thế chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTCK cung ứng phần lớn nhu cầu vốn dài hạn, góp phần phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Trong đó, chứng khoán là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu chứng khoán và thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản. Như vậy, bản chất của TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. 1.1.2. Cấu trúc của thị trường chứng khoán Tùy theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường người ta xem xét theo ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hóa, phân loại theo hình thức tổ chức thị trương và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. 1.1.2.1. Phân loại theo hàng hóa Theo cách thức phân loại này, người ta phân TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các chứng khoán phái sinh. Thị trường trái phiếu (Bond Market) là thị trường mà hàng hóa được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể trung hạn hay dài hạn. Thị trường cổ phiếu ( Stock Market ) là nơi giao dịch, mua bán trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của các cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Việc sở hữu cổ phiếu cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo hạn không xác định. Thị trường các chứng khoán phái sinh (Derivative Markets) là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư. 1.1.2.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn Theo cách phân loại này có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market ) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư. Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market ) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi lại các chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp, đồng thời thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp với việc tích tụ và tập trung vốn. 1.1.2.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường Theo cách thức phân loại này thì có Sở giao dịch chứng khoán, thị trường phi tập trung và thị trường thứ ba. Sở Giao dịch (Stock Exchange) là thị trường chính thức, tại đây người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Vì vậy, Sở giao dịch chứng khoán còn được gọi là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và TTCK. Thị trường phi tập trung hay thị trường giao dịch qua quầy (OTC: Over-The-Counter Market) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường. Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như những nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn nhiều lần so với Sở giao dịch chứng khoán. Quản trị thị trường này là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quốc gia. Hiệp hội này ban hành quy chế thị trường, kết nạp và khai trừ các thành viên, giám sát việc thi hành quy chế thành viên của Hiệp hội. Thị trường thứ ba là thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và OTC. 1.1.3. Vai trò của Thị trường chứng khoán Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò của TTCK trong phát triển kinh tế: Thứ nhất, TTCK thực hiện việc tích tụ, tập trung và phân phối, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Qua TTCK, Chính phủ và các doanh nghiệp phát hành các chứng khoán để huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và chi tiêu. Thông qua TTCK nguồn vốn tiết kiệm được chuyển thành vốn đầu tư. Yếu tố thông tin và yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối vốn một cách có hiệu quả. Trên TTCK, tất cả các thông tin được cập nhật và chuyển tải tới tất cả các nhà đầu tư, nhờ đó, họ có thể phân tích và định giá cho các doanh nghiệp. Chỉ có những công ty có hiệu quả bền vững mới có thể nhận được vốn với chi phí rẻ trên thị trường. Điều này khuyến khích tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, tạo áp lực buộc các doanh nghiệp này phải làm ăn có hiệu quả cao và minh bạch. Hơn nữa, sự tồn tại của TTCK cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế. TTCK cũng tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thứ hai, TTCK góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng, giải tỏa sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc giải tỏa quyền lực tập trung tạo điều kiện cạnh tranh công bằng hơn, qua đó tạo hiệu quả và tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, TTCK tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, yêu cầu về năng lực quản trị, điều hành công ty cũng tăng theo. TTCK tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát cao của TTCK đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. Thứ tư, TTCK cung cấp một dự báo tuyệt vời về chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư và việc phân bổ nguồn lực của họ. TTCK cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. Thứ năm, hiệu quả quốc tế hóa của TTCK. Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước. Ngoài những tác động tích cực trên đây, TTCK cũng có những tác động tiêu cực nhất định. TTCK hoạt động trên cơ sở thông tin hoàn hảo. Song ở các thị trường mới nổi, các thông tin được chuyển tải tới nhà đầu tư không đầy đủ và không giống nhau. Việc quyết định giá cả mua bán chứng khoán của các nhà đầu tư không dựa trên cơ sở thông tin và xử lý thông tin. Như vậy, giá cả chứng khoán không phản ánh giá trị kinh tế cơ bản của công ty và không trở thành cơ sở để phân phối một cách hiệu quả các nguồn lực. Một số tiêu cực khác của TTCK như hiện tượng đầu cơ, hiện tượng xung đột quyền lực làm thiệt hại quyền lợi của các cổ đông thiểu số, việc mua bán nội gián, thao túng thị trường... Như vậy, vai trò của TTCK được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau. Song vai trò tích cực hay tiêu cực của TTCK có thực sự được phát huy hay hạn chế phụ thuộc đáng kể vào các chủ thể tham gia thị trường và sự quản lý của Nhà nước. 1.1.4. Các chủ thể tham gia trên Thị trường chứng khoán 1.1.4.1. Chính phủ Chính phủ tham gia vào TTCK với hai tư cách: Thứ nhất, Chính phủ là người tổ chức, quản lý và giám sát thị trường thông qua đại diện là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK. Vai trò của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là tổ chức, hướng dẫn và quản lý TTCK, đồng thời soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK để trình các cấp có thẩm quyền xem xét quyết định, cũng như tổ chức và hướng dẫn thực hiện các văn bản đó. Ngoài Uỷ ban Chứng khoán Nhà Nước, các cơ quan quản lý Nhà Nước khác như NHNN, Bộ Tài chính, Các bộ chủ quản cũng có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý đối với các thành viên tham gia thị trường. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà Nước trong hoạt động quản lý thị trường, quản lý các thành viên có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động của thị trường. Thứ hai, Chính Phủ tham gia thị trường như là một nhà phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính Phủ có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn như Trái phiếu Chính Phủ, Tín phiếu Kho Bạc nhằm mục đích tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Những chứng khoán này là loại hàng hoá chủ đạo của TTCK. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở NHNN có thể tham gia thị trường để thực thi chính sách tiền tệ. Chính Phủ cũng có thể tham gia thị trường cổ phiếu khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước hoặc muốn tham gia quản lý, nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp. Có thể nói, vai trò của Chính Phủ đối với sự vận hành TTCK một cách ổn định và hiệu quả là rất quan trọng, đặc biệt là đối với những thị trường mới nổi như Thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 1.1.4.2. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng với vai trò của tổ chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tư. Các doanh nghiệp thực hiện việc cung cấp các loại hàng hóa cho TTCK bằng cách phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu, qua đó, doanh nghiệp huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. So với trái phiếu của chính phủ thì chứng khoán của doanh nghiệp có độ rủi ro cao hơn nhưng đổi lại nó có thể mang lại cho nhà đầu tư mức sinh lợi cao hơn, vì vậy đối với các nhà đầu tư đây là những công cụ hấp dẫn. Trong các loại hình doanh nghiệp, công ty cổ phần là hình thức doanh nghiệp chủ yếu có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để huy động vốn trên TTCK. Công ty có thể tự mình phát hành chứng khoán hoặc phát hành thông qua đại lý hoặc bảo lãnh phát hành. Với vai trò là nhà đầu tư trên thị trường, các doanh nghiệp tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK để với hai mục đích: thực hiện nghiệp vụ đầu tư và nghiệp vụ ngân quỹ. Khi thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ, doanh nghiệp chủ yếu mua bán các chứng khoán có độ thanh khoản cao để đáp ứng các nhu cầu thanh toán nhanh, ngược lại, khi thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng khoán, doanh nghiệp thường lựa chọn một danh mục đầu tư theo nguyên tắc đa dạng hóa tài sản và giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra, các doanh nghiệp mua bán chứng khoán còn nhằm mục đích thâu tóm và sáp nhập doanh nghiệp. Phát triển các hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán của doanh nghiệp sẽ làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư cho TTCK đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện các nghiệp vụ như đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn, môi giới, quản lý danh mục đầu tư. 1.1.4.3. Cá nhân và hộ gia đình Các cá nhân và các hộ gia đình tham gia trên TTCK với tư cách là các nhà đầu tư cá thể, họ đầu tư chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Các nhà đầu tư cá thể có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu tư cá thể tạo ra tính sôi động của thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các trung gian tài chính phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường. 1.1.4.4. Trung gian tài chính Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của TTCK. Tùy theo luật pháp của mỗi nước, các trung gian tài chính tham gia trên TTCK không chỉ để huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán hay kinh doanh chứng khoán như một doanh nghiệp thông thường mà còn có thể là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường qua các nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán ... Trong các trung gian tài chính, NHTM là tổ chức quan trọng nhất, tham gia thường xuyên và đa dạng trên TTCK. Sự tham gia của các NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển và tăng tính hiệu quả của thị trường. Điều này được lý giải bởi sự giảm thiểu chi phí giao dịch và giảm thiểu rủi ro. NHTM có thể giảm chi phí giao dịch từ việc tiết kiệm do quy mô. Với lợi thế chuyên môn hoá, các NHTM có thể giảm chi phí cho việc thu thập và xử lý thông tin, từ đó, chi phí thông tin trên một đơn vị giao dịch sẽ nhỏ hơn so với chi phí loại này của cá nhân một nhà đầu tư. Các NHTM cũng có thể tiết kiệm được các khoản chi phí do tận dụng khai thác triệt để cơ sở vật chất, nhân lực trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho các nhà đầu tư. Các NHTM có thể giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá đầu tư và kiểm soát thông tin không cân xứng, lựa chọn đối nghịch, rủi ro đạo đức - điều mà một nhà đầu tư cá thể khó có thể thực hiện được. 1.1.4.5. Các tổ chức khác liên quan đến thị trường Ngoài các chủ thể trên, còn có các tổ chức quan trọng khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của TTCK, như: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành TTCK thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường. Các tổ chức hỗ trợ là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của TTCK thông qua hoạt động như cho vay tiền để mua cổ phiếu, cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho phép thành lập các loại hình tổ chức này. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của các tổ chức phát hành theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành đối với đợt phát hành cụ thể. Các nhà đầu tư có thể dựa vào hệ số tín nhiệm về tổ chức phát hành do các công ty tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình. Như vậy, trên TTCK có rất nhiều các chủ thể tham gia với những mục đích và vai trò khác nhau trong đó NHTM là tổ chức có vai trò rất quan trọng. Mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK và các hoạt động của tổ chức này trên TTCK sẽ được trình bày trong phần dưới đây. 1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán 1.2.1. NHTM và các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK 1.2.1.1. Tổng quan về NHTM NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động, kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và làm các dịch vụ ngân hàng, là một trong các tổ chức tài chính trung gian quan trọng nhất trong nền kinh tế. NHTM thực hiện các hoạt động chủ yếu như: Hoạt động huy động vốn Đây chính là hoạt động tạo vốn cho NHTM và đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu là một bộ phận quan trọng trong nguồn vốn của NHTM. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Tiền gửi của khách hàng là nguồn vốn quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, NHTM cũng có thể tiến hành vay NHTW, các tổ chức tín dụng khác hoặc có thể phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, trái phiếu. Cùng với quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế thị trường các NHTM có thể có những nguồn vốn khác không mang tính thường xuyên từ những hoạt động cung cấp dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, đầu tư, cấp phát, giải ngân... Hoạt động cho vay, đầu tư Với số vốn huy động được, các ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay đối với Chính Phủ, các doanh nghiệp, cá nhân. Cho vay là tài sản lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Các sản phẩm cho vay có thể được phân chia theo các tiêu thức khác nhau như là thời gian, đối tượng vay vốn và tính chất sử dụng. Đây là hoạt động sinh lợi lớn nhất cho ngân hàng song cũng gây ra rủi ro lớn nhất cho ngân hàng nếu như khách hàng không hoàn trả đúng hạn hay không có khả năng hoàn trả. So với hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn song cũng có ý nghĩa rất quan trọng về mặt thu nhập và tạo điều kiện cho các ngân hàng thâm nhập sâu rộng vào nền kinh tế. Hoạt động đầu tư góp phần làm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức không những mang lại cho ngân hàng sự an toàn trong thanh toán mà còn để các NHTM có những phản ứng phù hợp với sự điều tiết của Ngân hàng Nhà nước qua nghiệp vụ thị trường mở. Ngoài ra, hoạt động đầu tư của ngân hàng còn được thể hiện bằng việc mua bán một số loại chứng khoán trên thị trường hoặc có thể góp vốn liên doanh với các tổ chức khác để cùng kinh doanh thu lợi nhuận. Như vậy ngân hàng tiến hành việc đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thanh khoản và sinh lời. Trên thực tế, trước khi thực hiện hoạt động cho vay và đầu tư, các ngân hàng đã dự trữ một phần nguồn vốn của mình để đáp ứng nhu cầu chi trả nhanh chóng, đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh. Khoản mục này được gọi là ngân quỹ. Mỗi ngân hàng đều cố gắng giữ ngân quỹ ở mức thấp nhất có thể được do đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời rất thấp song lại có tính thanh khoản cao. Ngoài ra, NHTM còn có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào các loại tài sản khác như: nhà cửa, các tài sản ngoại bảng... Hoạt động trung gian khác Ngoài hoạt động huy động vốn và cho vay, đầu tư, các NHTM còn thực hiện các hoạt động khác như bảo quản vật có giá, thực hiện các dịch vụ thanh toán, quản lý thu nhập cho khách hàng, môi giới, tư vấn, các dịch vụ bảo hiểm...Đây chính là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM thực hiện các dịch vụ chứng khoán như tư vấn, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, môi giới chứng khoán trên TTCK. 1.2.1.2. Các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK Hoạt động của NHTM trên TTCK theo các mô hình là khác nhau, phụ thuộc vào quy định luật pháp mỗi nước. Tuy nhiên, trên thế giới tồn tại 3 mô hình sau: Mô hình đa năng toàn phần. Theo mô hình này, không có sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các NHTM được phép cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm trong một pháp nhân duy nhất. Mô hình này được áp dụng tại các nước như Đức, Hà Lan, Bắc Âu, Thụy Sỹ và Aó. Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư và tăng khả năng chịu đựng trước những biến động trên TTCK. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh tiền tệ có đội ngũ nhân viên chuyên môn cao, có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế là không tạo cho TTCK phát triển vì hoạt động chủ yếu của ngân hàng là dùng vốn để cho vay và thực hiện dịch vụ thanh toán, do đó ngân hàng quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán. Điều này không những thể hiện rõ ở các TTCK kém phát triển mà ở ngay TTCK Châu Âu khi so sánh với TTCK Mỹ. Đồng thời, trong trường hợp có sự biến động trên TTCK, thì các biến động này có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Ví dụ điển hình nhất là cuộc đại khủng hoảng kinh tế ở Mỹ 1929-1933, hay vụ phá sản của ngân hàng Barings của Anh năm 1995. Ngược lại trong trường hợp thị trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan là một minh chứng. Mô hình đa năng một phần. Theo mô hình này, các ngân hàng muốn hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ, do vậy đã hạn chế được nhược điểm của mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là tạo ra sự trùng chéo về tổ chức, làm giảm hiệu quả hoạt động của các NHTM. Anh, Canada, úc là những nước áp dụng mô hình này. Mô hình ngân hàng đa năng một phần phù hợp với những nước mới thành lập thị trường chứng khoán. Mô hình chuyên doanh. Trong mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán thực hiện, đó là các CTCK. Các NHTM không được phép tham gia vào việc kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan... Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các CTCK chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các nước áp dụng mô hình chuyên doanh đã có xu hướng nới lỏng các điều kiện để cho phép các NHTM tham gia trên TTCK. Từ những phân tích trên cho thấy, mỗi mô hình đều có những ưu nhược điểm riêng và không có mô hình nào là tối ưu đối với một quốc gia. Tùy theo quan điểm của các nhà quản lý thị trường, vào sự phát triển của ngân hàng và sự phát triển của TTCK mà mỗi quốc gia sẽ lựa chọn mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK và có sự điều chỉnh phù hợp cho sự phát triển kinh tế. 1.2.2. Các hoạt động của NHTM trên TTCK 1.2.2.1. Hoạt động phát hành chứng khoán NHTM là một doanh nghiệp và TTCK được xem là kênh dẫn vốn quan trọng đối với doanh nghiệp đặc biệt này. Để huy động vốn trên TTCK, các NHTM có thể phát hành các loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư. Việc phát hành chứng khoán của các NHTM chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau như Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng. Các NHTM muốn phát hành chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện phát hành và tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục phát hành. Điều kiện phát hành được quy định tùy theo luật pháp của mỗi nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc cơ bản trong quy định phát hành là: quy mô về vốn, tính liên tục trong hoạt động kinh doanh, đội ngũ quản lý, phương án khả thi về việc sử dụng vốn từ đợt phát hành... Các NHTM có thể thực hiện các phương thức phát hành chứng khoán: phát hành riêng lẻ (phát hành mang tính nội bộ) hoặc phát hành ra công chúng( phát hành rộng rãi ) tùy theo điều kiện và mục đích. Phát hành riêng lẻ là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định với những điều kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Chứng khoán dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên TTCK tập trung. NHTM chọn hình thức phát hành này khi không đủ điều kiện để phát hành ra công chúng; số lượng vốn cần huy động nhỏ, phát hành nhằm mục đích duy trì các mối quan hệ trong kinh doanh hay phát hành cho cán bộ nhân viên của ngân hàng. Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định, trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ. Ngoài ra, tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng phải đạt mức theo quy định. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán. Hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM cung cấp cho TTCK hàng hóa có chất lượng và tăng hiệu quả của thị trường. Các chứng khoán do các NHTM phát hành thường có độ hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư do uy tín, do mối quan hệ của các NHTM. Các NHTM có thể đứng ra thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, một tổ chức quan trọng trên TTCK nhằm giúp các nhà đầu tư nhỏ, cá thể có thể phân tán rủi ro và giảm chi phí đầu tư. Bằng cách phát hành chứng chỉ quỹ, các NHTM có thể thu hút, tập trung lượng vốn nhỏ lẻ của các nhà đầu tư thành lượng vốn lớn để đầu tư chứng khoán một cách chuyên nghiệp và đa dạng hóa. Là một doanh nghiệp đặc biệt với tính chất chuyên nghiệp và uy tín cao trên TTCK, hoạt động phát hành chứng khoán của các NHTM có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp thông thường khác. Các ngân hàng có thể tự đứng ra phát hành làm giảm chi phí huy động vốn. Do vậy, các NHTM có thể dễ dàng huy động ._.vốn hơn so với các doanh nghiệp khác trên TTCK. 1.2.2.2. Hoạt động đầu tư chứng khoán Tín dụng được coi là hoạt động sinh lời lớn nhất song trong hoạt động này các NHTM thường phải đối mặt với các rủi ro cao nhất có thể xảy ra. Chính vì vậy, các NHTM không ngừng mở rộng những lĩnh vực đầu tư mới. Thực tế cho thấy rằng các NHTM ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy động để tiến hành cho vay mà nó còn thực hiện hoạt động kinh doanh trên TTCK như một nhà đầu tư có tổ chức. Hoạt động đầu tư chứng khoán cuả các NHTM được xem như là yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường. Điều này là do các lợi thế sẵn có của NHTM, đó chính là tính chuyên nghiệp trong thu thập và xử lý thông tin, có quy mô lớn và tính đa dạng hóa cao. Khi đầu tư chứng khoán, NHTM thường quan tâm đến tính thanh khoản và sinh lời. Các nhà quản trị ngân hàng tùy theo mục tiêu, chiến lược trong từng giai đoạn phải liên tục xem xét mối quan hệ đánh đổi giữa tính sinh lời và thanh khoản của các chứng khoán nắm giữ. Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu mà NHTM khi lựa chọn chứng khoán đầu tư là khả năng trao đổi và bán lại trên thị trường. Các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao là những chứng khoán có khả năng được mua và bán nhanh trên thị trường, giá cả ổn định và có khả năng thu hồi vốn đầu tư ban đầu ( tức là có rủi ro về tổn thất vốn đầu tư là thấp ). Mục đích khi đầu tư vào chứng khoán thanh khoản cao song sinh lợi thấp ( như Trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc ) của các NHTM là nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, dự phòng và tích trữ. Còn đối với các chứng khoán có tính thanh khoản thấp hơn, mức độ rủi ro cao hơn và thường có tính sinh lời cao được các NHTM đầu tư dài hạn và xây dựng danh mục đầu tư đa dạng nhằm giảm thiểu rủi ro: danh mục đầu tư trái phiếu, danh mục đầu tư cổ phiếu, danh mục đầu tư hỗn hợp. Hoạt động đầu tư chứng khoán đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động NHTM: cung cấp một nguồn thu nhập bổ sung cho ngân hàng, tạo nguồn thanh khoản, giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế ảnh hưởng của thuế và chứng khoán có thể được sử dụng như những vật thế chấp cho các khoản đi vay của ngân hàng. Có thể nói, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM là cầu nối quan trọng giữa thị trường tín dụng và TTCK. Khi thị trường tín dụng trầm lắng, một bộ phận vốn trên thị trường tín dụng sẽ được dịch chuyển sang TTCK thông qua hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM. Ngược lại, khi nhu cầu tín dụng tăng lên, các NHTM sẽ bán các chứng khoán để tăng lượng vốn cho hoạt động tín dụng. Việc dịch chuyển vốn giữa hai thị trường giúp cho các NHTM có thể sử dụng tối đa các nguồn vốn để nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, dù hoạt động trên thị trường tín dụng hay đầu tư chứng khoán thì các NHTM đều đã thực hiện chức năng tài trợ cho nền kinh tế. Hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM ngày càng phát triển. Sự phát triển của TTCK cùng với sự xuất hiện và phát triển của các chứng khoán phái sinh đã làm tăng khả năng đầu tư chứng khoán của NHTM. Ngược lại, hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM làm tăng tính chuyên nghiệp và sự sôi động của TTCK. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý bởi vì hoạt động này sẽ làm tăng rủi ro không chỉ với các ngân hàng mà còn đối với cả nền kinh tế. Chẳng hạn như, rủi ro về việc người phát hành chứng khoán không thể thanh toán được vốn gốc và lãi đã buộc các nhà chức trách nghiêm cấm các NHTM tham gia hoạt động mua bán chứng khoán mang tính đầu cơ. Hay do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, các ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán và khi TTCK biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Việc mất khả năng thanh toán của các NHTM thường dẫn đến những phản ứng dây chuyền gây đổ vỡ hệ thống ngân hàng và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đây cũng chính là lý do mà các nhà quản lý thường muốn hạn chế hoạt động kinh doanh chứng khoán của NHTM. 1.2.2.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là hoạt động giúp cho chủ thể phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Cơ sở để các NHTM có thể thực hiện được hoạt động bảo lãnh phát hành bắt nguồn từ vị thế là trung gian tài chính trên TTCK. Các ngân hàng với lợi thế kinh nghiệm, thông tin đầy đủ cùng với trình độ chuyên môn hóa cao có thể dễ dàng hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện việc phát hành chứng khoán thành công. NHTM thực hiện các công việc với chi phí thấp hơn, đồng thời tư vấn cho doanh nghiệp các yếu tố pháp lý và kỹ thuật: thủ tục, hồ sơ phát hành, số lượng và loại chứng khoán, chi phí vốn, định giá chứng khoán. Hơn thế nữa, với uy tín sẵn có, mạng lưới tổ chức rộng rãi, quan hệ truyền thống với khách hàng, sự bảo lãnh của NHTM sẽ giúp các chứng khoán phát hành được công chúng đầu tư tin tưởng và chấp nhận dễ dàng hơn. Trong khi đó, nếu doanh nghiệp tự đảm nhận việc phân phối chứng khoán, họ sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề và rủi ro. Khi thực hiện bảo lãnh phát hành, các NHTM đã nhận toàn bộ hay một phần rủi ro trong việc phân phối chứng khoán. Do đó, tổ chức phát hành phải trả cho tổ chức bảo lãnh phí bảo lãnh phát hành. Phí này được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên khối lượng chứng khoán được phân phối. Tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định của pháp luật, vào tính chất của đợt phát hành, loại hình bảo lãnh và phụ thuộc vào quan hệ giữa tổ chức phát hành và tổ chức phân phối chứng khoán. Ngoài phí phát hành, ngân hàng còn có thể được hưởng thu nhập từ khoản chênh lệch giữa giá phát hành và thị giá chứng khoán. Tuy nhiên, cũng có thể không nhận được phần thu nhập này hoặc bị thua lỗ nếu như phán đoán không chính xác. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể được thực hiện bởi sự kết hợp giữa NHTM với các trung gian tài chính khác tạo nên một nghiệp đoàn bảo lãnh phát hành. Việc thành lập nghiệp đoàn này sẽ giúp ngân hàng san sẻ rủi ro, tận dụng lợi thế của các trung gian tài chính khác và có thể thực hiện bảo lãnh phát hành lượng chứng khoán lớn hơn khả năng cho phép của ngân hàng. Các NHTM có thể thực hiện việc bảo lãnh phát hành chứng khoán theo các phương thức là: Bảo lãnh cam kết tối đa: là phương thức bảo lãnh trong đó tổ chức bảo lãnh chỉ cam kết phân phối tối đa số chứng khoán của tổ chức phát hành tới mức có thể. Phương thức này gần giống với phương thức đại lý trong trường hợp không bán hết, số chứng khoán còn lại được trả lại cho nhà phát hành. Vì vậy, với phương thức bảo lãnh này, tổ chức phát hành có thể gặp rủi ro do không huy động đủ vốn như dự định. Bảo lãnh cam kết chắc chắn: là phương thức mà tổ chức bảo lãnh phải cam kết mua toàn bộ số chứng khoán chưa phân phối hết của tổ chức phát hành. Như vậy, tổ chức bảo lãnh phát hành phải đảm bảo mang lại chính xác toàn bộ tổng giá trị của đợt phát hành cho tổ chức phát hành. Mọi rủi ro của đợt phát hành sẽ do người bảo lãnh chịu. Bảo lãnh cam kết tất cả hoặc không: Trong phương thức này, nếu số chứng khoán được phân phối chưa tới một mức tối thiểu như thỏa thuận thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ, số tiền đặt mua chứng khoán sẽ trả lại cho người mua. Bảo lãnh tối thiểu- tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh cố gắng tối đa và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức bảo lãnh phát hành phải cam kết bán tối thiểu một số lượng chứng khoán nhất định ( mức sàn ). Ngoài số lượng này, tổ chức bảo lãnh phát hành có thể tự do chào bán chứng khoán nhưng không vượt quá mức tối đa quy định ( mức trần ). Nếu số lượng chứng khoán bán ra thấp hơn mức tối thiểu đã được quy định thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ. NHTM có thể tham gia hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ. Họ chính là những thành viên chủ yếu của thị trường đấu thầu tín phiếu, Trái phiếu chính phủ và là những nhà đầu tư lớn, đảm nhiệm vai trò nhà tạo thị trường đối với các chứng khoán này. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của NHTM đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của TTCK nói chung và sự phát triển của chính bản thân ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, cũng như các hoạt động kinh doanh chứng khoán khác, sự tham gia vào hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của NHTM phụ thuộc vào quy định cụ thể của mỗi nước. 1.2.2.4. Hoạt động tư vấn chứng khoán Đối với các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán như nhà đầu tư cá thể, tổ chức phát hành, việc đánh giá chất lượng chứng khoán, xác định thời điểm phát hành... là rất khó khăn. Điều này là do họ không có đủ thông tin chính xác, không đủ thời gian và sự hiểu biết cần thiết để theo dõi diễn biến thị trường, thu thập và xử lý thông tin. Với ưu thế của mình trong việc phân tích và xử lý thông tin, phân tích tài chính chuyên nghiệp, NHTM đã giúp những nhà đầu tư, tổ chức phát hành khắc phục những yếu điểm, tiết kiệm chi phí, tránh rủi ro và đưa ra những quyết định đúng đắn thông qua hoạt động tư vấn. Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra các khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Có hai hình thức tư vấn là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Hình thức tư vấn trực tiếp được thực hiện khi phân tích, xử lý các tình huống đầu tư của chính khách hàng, từ đó có những khuyến nghị trực tiếp trên cơ sở một khoản lệ phí tư vấn thỏa thuận. Trong khi đó, thông qua hình thức tư vấn gián tiếp các ngân hàng có thể chia sẻ thông tin của mình bằng việc phát hành các báo cáo phân tích trên các tạp chí, sách báo chuyên đề. Trong mô hình tổ chức của các NHTM trên thế giới đều có bộ phận chuyên môn phòng môi giới, tư vấn chứng khoán. Phòng môi giới và tư vấn sẽ tiếp nhận những thông tin cần thiết và phù hợp sau đó tiến hành phân tích chỉ ra xu hướng và khuyến nghị cụ thể. Khi đó các NHTM phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của những lời tư vấn của mình đối với khách hàng và đôi khi hoạt động tư vấn phải được quản lý và cấp phép. Tuy nhiên, trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, khách hàng vẫn là người tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. 1.2.2.5. Hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là điều kiện cơ bản kiến tạo nên hoạt động của TTCK. Đối với nhiều nước, hoạt động môi giới chứng khoán được xem là hạt nhân của thị trường. Điều này bắt nguồn từ nguyên tắc chủ đạo đối với hoạt động của TTCK - nguyên tắc trung gian. Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hoa hồng. Theo đó, NHTM đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, NHTM sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư mua chứng khoán và nhà đầu tư bán chứng khoán. Và tấc nhiên trong hoạt động này, ngân hàng sẽ được hưởng tiền hoa hồng từ phía khách hàng, thường được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng giá trị giao dịch. Hoạt động môi giới là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới. Sự tham gia ngày càng nhiều hơn của ngân hàng trong hoạt động môi giới làm tăng tính cạnh tranh, và trên cơ sở đó, làm giảm chi phí trong giao dịch chứng khoán cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới. Việc thực hiện nguyên tắc trung gian của TTCK nhằm đảm bảo cho các hoạt động trên thị trường được diễn ra hợp pháp, công khai cũng như đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư và cho cả thị trường. Để được phép hoạt động môi giới chứng khoán, các NHTM phải có đủ điều kiện cần thiết như là: vốn pháp định, giấy phép hành nghề đối với các nhân viên môi giới, các yêu cầu về cơ sở vật chất và phải được UBCK cấp giấy phép hoạt động môi giới. Hoạt động môi giới chứng khoán có những tác động tích cực đối với TTCK, nhưng hoạt động này cần phải có luật pháp đảm bảo với những quy định chặt chẽ nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trường. 1.2.2.6. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo uỷ thác vì quyền lợi của khách hàng. Thực chất hoạt động này là một dạng của hoạt động tư vấn mang tính tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ quyền cho ngân hàng thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được thỏa thuận. Trong hoạt động này, các NHTM phải đảm bảo tách biệt giữa tài sản của khach hàng với tài sản của ngân hàng. Khách hàng có thể uỷ quyền một phần hay toàn bộ đối với chứng khoán của họ tùy theo mức độ tín nhiệm của họ đối với ngân hàng. Ngân hàng phải gửi các bản kê sao về tình hình tài sản trong danh mục cho khách hàng theo định kỳ, hoặc theo yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt các NHTM phải đảm bảo an toàn và bí mật các thông tin về tài sản của khách hàng trừ các trường hợp đặc biệt. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua lệ phí quản lý tài sản từ phía khách hàng. Hoạt động này cũng góp phần tăng uy tín và phát triển hoạt động khác như lưu ký, thanh toán, tư vấn. Song để tạo lòng tin đối với công chúng đầu tư, các ngân hàng phải luôn tôn trọng và đặt quyền lợi của khách hàng trước quyền lợi của ngân hàng. 1.2.2.7. Các hoạt động khác Ngoài các hoạt động chính trên, NHTM có thể tham gia vào các hoạt động phụ trợ khác: Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán lưu ký. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán ( nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ ) hoặc ký gửi chứng khoán ( nếu chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất ). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, NHTM sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Quản lý thu nhập của khách hàng: xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, ngân hàng sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Nghiệp vụ tín dụng: đối với các nước có TTCK phát triên, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, ngân hàng có thể cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện các giao dịch bán khống (short sale ) hoặc cho khách hàng vay tiền để thực hiện việc ký quỹ chứng khoán ( margin purchase ). Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho các khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do ngân hàng ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thanh toán, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc và lãi cho ngân hàng. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, ngân hàng sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư : ở một số TTCK, pháp luật còn cho phép các NHTM được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, NHTM cử đại diện của mình để quản lý quỹ, sử dụng vốn và tài sản của quỹ để đầu tư vào chứng khoán. 1.3. Các điều kiện cần thiết để ngân hàng thương mại hoạt động trên Thị trường chứng khoán Từ những phân tích trên cho thấy, hoạt động của các NHTM trên TTCK có một ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy hiệu quả và sự phát triển của thị trường. Nhận thức được điều đó, hầu hết các nước trên thế giới đã gắn kết hai lĩnh vực hoạt động ngân hàng và chứng khoán nhằm xây dựng và phát triển TTCK trên nền tảng phát triển của ngân hàng. Song để có thể tham gia trên TTCK, các NHTM cần phải đáp ứng các điều kiện về pháp lý; vốn; trình độ công nghệ; năng lực quản trị, điều hành; trình độ nhân sự, hiệu quả kinh doanh... 1.3.1. Các điều kiện pháp lý TTCK là một thực thể phức tạp, ở đó có sự tham gia của rất nhiều đối tượng khác nhau, với các mục đích khác nhau. Vì vậy các hoạt động trên TTCK cần phải có một cơ sở pháp lý chặt chẽ, đầy đủ và đồng bộ để điều chỉnh hoạt động cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia trên thị trường. Các điều kiện pháp lý có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút các NHTM tham gia trên TTCK. Hoạt động của tổ chức này trên thị trường có liên quan đến quyền lợi của nhiều đối tượng khác nhau, do đó thường chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau: Luật Ngân hàng, Luật chứng khoán, Luật doanh nghiệp. Như đã đề cập trong phần các mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK, mỗi nước đều có những quy định khác nhau về việc ngân hàng có được tham gia hay không trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, các nước theo mô hình chuyên doanh cũng đã nới lỏng các điều kiện để ngân hàng có thể hoạt động trên TTCK theo mô hình đa năng. Mặc dù các điều kiện có khác nhau nhưng tựu trung lại các NHTM phải đảm bảo các điều kiện về mặt pháp lý khi tham gia trên TTCK. Việc kiểm soát các hoạt động của NHTM trên TTCK sẽ làm tăng lòng tin của công chúng đầu tư đối với TTCK nói chung và NHTM nói riêng. Song nếu các cơ sở pháp lý quá phức tạp và thiếu hoàn thiện sẽ cản trở sự tham gia của các NHTM. Tùy theo mức độ phát triển của TTCK, mỗi quốc gia sẽ xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp để đảm bảo cho thị trường ổn định và phát triển. 1.3.2. Uy tín, tiềm lực tài chính, quy mô và chất lượng hoạt động Trên TTCK, uy tín là một điều kiện cần thiết để ngân hàng có thể hoạt động hiệu quả. Nguyên tắc hoạt động trung gian của TTCK không cho phép khách hàng được thực hiện mua bán chứng khoán trực tiếp mà phải thông qua một trung gian tài chính hoạt động trên TTCK. Như vậy, khách hàng luôn phải tìm đựơc một người đại diện có uy tín để thực hiện đầu tư theo ý mình. Các ngân hàng có uy tín trên thị trường sẽ nhanh chóng thu hút được các nhà đầu tư có nguyện vọng được tư vấn đầu tư hay môi giới. Hơn thế nữa, khi ngân hàng có uy tín lớn thì họ có thể dễ dàng huy động vốn qua thị trường bằng cách phát hành chứng khoán. Song, uy tín của ngân hàng lại được quyết định bởi tiềm lực tài chính, quy mô và chất lượng hoạt động của ngân hàng. Để tham gia trên TTCK, NHTM cần phải có tiềm lực tài chính đủ lớn. Bởi lẽ khi tham gia trên TTCK, NHTM phải trang bị các cơ sở vật chất kỹ thuật, chi phí đào tạo, chi phí khác cũng như phải đáp ứng mức vốn tối thiểu theo quy định của pháp luật đối với các hoạt động trên thị trường. Hơn thế nữa hoạt động trên TTCK chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho các hoạt động, tạo niềm tin cho các khách hàng và cổ đông vào khả năng quản lý và phát triển của ngân hàng, các NHTM phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh. Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản) là một trong các chỉ tiêu đánh giá khả năng tài chính đảm bảo an toàn cho các hoạt động của ngân hàng. Đây là tỷ lệ xác định mối quan hệ giữa vốn chủ sở hữu với tất cả các khoản nợ, phản ánh khả năng bù đắp các tổn thất của vốn chủ sở hữu đối với các cam kết hoàn trả của ngân hàng. Tuy nhiên, việc quy định tỷ lệ này có thể hạn chế việc mở rộng quy mô của ngân hàng. Quy mô hoạt động của ngân hàng cũng là một yếu tố cần được cân nhắc. Các khách hàng dễ có niềm tin với các ngân hàng lớn hơn là các ngân hàng nhỏ. Tuy nhiên, khi quy mô hoạt động của ngân hàng là quá lớn, mức độ gánh chịu các rủi ro cũng rất lớn, trong khi đó các ngân hàng có quy mô hoạt động nhỏ thì khả năng cạnh tranh thấp. Như vậy là các ngân hàng phải có sự lựa chọn quy mô hoạt động thích hợp với từng giai đoạn cụ thể sao cho có thể phát huy tối đa những điểm mạnh. Chất lượng và hiệu quả hoạt động là một nhân tố quan trọng tạo nên uy tín cho NHTM. Nếu chất lượng hoạt động không tốt như tỷ lệ nợ quá hạn cao, hiệu suất hoạt động và khả năng thu hồi vốn thấp thì tiềm lực tài chính và uy tín của ngân hàng nhanh chóng giảm sút. Vì vậy, để đảm bảo uy tín, các NHTM không phải chỉ có vốn lớn mà còn phải đảm bảo chất lượng hoạt động tốt thông qua các chỉ tiêu tài chính đáp ứng theo yêu cầu. Như vậy, để có thể tham gia và hoạt động hiệu quả trên TTCK, các NHTM phải có uy tín mà thể hiện qua tiềm lực tài chính, quy mô hoạt động và chất lượng kinh doanh. 1.3.3. Công nghệ ngân hàng Nếu như tiềm lực tài chính và chất lượng hoạt động của một NHTM là điều kiện quyết định đến sự tham gia của ngân hàng đó trên TTCK thì trình độ công nghệ lại là cơ sở để thực hiện các hoạt động đó. Để cung cấp các dịch vụ chứng khoán cho khách hàng trong điều kiện hiện nay, các NHTM phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, hệ thống thông tin, xử lý thông tin, hệ thống thanh toán nhanh chóng- chính xác - kịp thời đáp ứng các yêu cầu của khách hàng. Điều này sẽ đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng như các hoạt động của TTCK được diễn ra một cách suôn sẻ. 1.3.4. Trình độ nhân sự Ngoài các điều kiện trên, để có thể tiến hành các hoạt động trên TTCK, NHTM cần phải đảm bảo điều kiện về nhân sự. Có hai loại nhân sự cần thiết hỗ trợ cho các hoạt động của NHTM trên TTCK là đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ nghiệp vụ. Đối với hoạt động phát hành và đầu tư chứng khoán, để có thể thu hút vốn từ những nhà đầu tư trên thị trường, một trong những điều kiện cần phải có các nhà quản lý của ngân hàng phải thể hiện được khả năng quản trị điều hành để có thể sử dụng vốn của các cổ đông một cách hiệu quả. Muốn vậy, Ban giám đốc điều hành và Hội đồng quản trị của ngân hàng phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản lý. Đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ ngân hàng trên TTCK, đội ngũ nhân viên phải có kiến thức, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực để có thể đưa ra những sản phẩm dịch vụ cần thiết và giúp khách hàng đưa ra các quyết định đúng đắn và hiệu quả nhất. Hầu như các nước trên thế giới đều yêu cầu nhân viên phải có giấy phép hành nghề. Những người có chức danh quản lý còn phải có giấy phép đại diện. Qua phân tích chương một cho thấy các NHTM có vai trò rất quan trọng trong phát triển TTCK. Hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam như thế nào, các NHTM Việt Nam đã thực hiện được vai trò quan trọng trên TTCK hay chưa, xin được trình bày tiếp chương hai về thực trạng hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam. Chương 2 Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1. Sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam Nhận thức đúng về vai trò thị trường chứng khoán trong việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế nói chung và việc hoàn thiện thị trường tài chính nói riêng, việc thiết lập và phát triển TTCK đã được đặt ra ngay từ đầu thập niên cuối thế kỷ XX. Sự ra đời của TTCK Việt Nam với việc khai trương và chính thức hoạt động TTGDCK TPHCM vào ngày 20/7/2000 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử phát triển thị trường tài chính Việt Nam, tạo ra một kênh mới thu hút và phân bổ các nguồn vốn trung dài hạn cho công cuộc phát triển kinh tế. Tham gia trên TTCK Việt Nam có các chủ thể: UBCKNN, Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, các CTCK, các tổ chức phát hành chứng khoán, các nhà đầu tư chứng khoán, các tổ chức phụ trợ khác. TTCK mặc dù chưa phát triển như mong muốn, song hơn 3 năm hoạt động đã đạt được kết quả tương đối, bước đầu tạo điều kiện cho sự phát triển sau này. Cho đến ngày 20/12/2003, TTGDCK đã tổ chức được 692 phiên giao dịch chứng khoán liên tục, an toàn với tổng giá trị chứng khoán giao dịch đạt 5189 tỷ đồng. Qua TTCK, đã huy động được một khối lượng vốn cho Nhà nước thông qua bảo lãnh phát hành, đấu thầu trên 100 loại trái phiếu chính phủ và niêm yết trên TTGDCK với khối lượng trên 11000 tỷ đồng. Đã có 23 công ty cổ phần niêm yết trên TTCK với tổng giá trị cổ phiếu niêm yết là 1120 tỷ đồng; trong đó có 5 công ty phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn với tổng giá trị 155 tỷ đồng. Tổng giá trị chứng khoán niêm yết trên tính theo mệnh giá là 12.397 tỷ đồng. Đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian hoạt động trên TTCK bao gồm 13 CTCK, 1 công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán với tổng số vốn điều lệ là 573.75 tỷ đồng; các tổ chức lưu ký, ngân hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán đã hình thành. Các trung gian tài chính đã làm tốt vai trò môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung, tích cực tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho nhà đầu tư; thực hiện tốt việc thanh toán, bù trừ các giao dịch chứng khoán trên thị trường. Công chúng đã dần làm quen với một phương thức đầu tư mới với khoảng trên 20000 tài khoản giao dịch, trong đó có 152 nhà đầu tư có tổ chức và 85 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của TTCK Việt Nam. Hoạt động quản lý, vận hành thị trường của UBCKNN và TTGDCK đã có nhiều cải tiến và từng bước hoàn thiện trên cơ sở rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Trong năm 2003, UBCKNN đã kết hợp với Bộ Tài chính để ban hành các quy định mang tính kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm tác động vào thị trường như tăng số lần khớp lệnh, giảm lô giao dịch, bổ sung thêm lệnh ATO giao dịch tại mức giá khớp lệnh, hạ tỷ lệ ký quỹ giao dịch, cho phép sửa lệnh, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn mở tài khoản lưu ký chứng khoán. Bên cạnh đó, UBCKNN cũng đã tăng cường thực hiện việc kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm những vụ việc vi phạm về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết nhằm ổn định hoạt động của TTCK. Mặc dù đạt được một số kết quả như trên TTCK Việt Nam còn bộc lộ những hạn chế: Quy mô thị trường còn nhỏ bé, tổng giá trị chứng khoán niêm yết mới chỉ chiếm 1.9% GDP, chưa đáp ứng nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chưa tổ chức được thị trường thứ cấp hiệu quả đối với trái phiếu, đặc biệt là Trái phiếu Chính phủ. Hàng hóa trên TTCK tuy đã tăng về số lượng nhưng chưa nhiều, chưa đa dạng về chủng loại và chất lượng chưa cao. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự chủ động huy động vốn qua TTCK, mà trông chờ và ỷ lại vào nguồn vốn vay ưu đãi của nhà nước và vẫn chủ yếu tìm kiếm qua vay ngân hàng. Một số công ty niêm yết tỷ lệ vốn thuộc sở hữu Nhà nước còn khá cao do vậy khối lượng cổ phiếu thực sự đưa vào giao dịch rất thấp. Các công ty niêm yết cổ phiếu có quy mô không lớn và chưa phải là những doanh nghiệp hấp dẫn đối với nhà đầu tư. Một số công ty sau khi niêm yết đã bộc lộ những yếu kém trong quản trị kinh doanh, đầu tư không có hiệu quả ảnh hưởng lòng tin của giới đầu tư. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hóa DNNN chưa gắn liền với với phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết trên TTCK. Về phía các nhà đầu tư, kiến thức và sự hiểu biết về hoạt động đầu tư còn hạn chế, họ chưa thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Số lượng các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài với lượng vốn lớn và dài hạn góp phần tăng tính ổn định, chuyên nghiệp cho thị trường chưa nhiều. Các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay đến 99% là các nhà đầu tư cá nhân. Một bộ phận các nhà đầu tư đã suy giảm lòng tin và thoái lui do công tác công khai hóa thông tin thị trường nói chung và công ty niêm yết nói riêng còn chưa đáp ứng được mong đợi của họ. Hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là sự tham gia của các NHTM trên TTCK còn hạn hẹp về quy mô, phạm vi và chưa đạt được hiệu quả cao mặc dù đây là những tổ chức có tiềm lực tài chính khá mạnh. Các NHTM chưa tham gia niêm yết chứng khoán nhằm tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho thị trường. Các NHTM cũng chưa đóng vai trò tích cực là các nhà đầu tư chuyên nghiệp và tạo lập thị trường. Các dịch vụ chứng khoán được ngân hàng thực hiện thông qua các CTCK nhằm định hướng và ổn định thị trường. Các CTCK chưa triển khai đầy đủ các nghiệp vụ luật cho phép, phần lớn chỉ tập trung chủ yếu tại 2 địa bàn Hà Nội và TPHCM. Nghiệp vụ thực hiện chủ yếu là môi giới, các nghiệp vụ khác như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư còn hạn chế. Hơn thế nữa, do quy mô nhỏ nên các công ty chưa thể sử dụng nghiệp vụ như một công cụ tăng tính thanh khoản cho giao dịch cổ phiếu niêm yết. Việc quản lý và giám sát thị trường còn nhiều bất cập do sự thiếu chủ động và kinh nghiệm. Đặc biệt là hệ thống pháp lý về TTCK còn thiếu đồng bộ, hiệu lực pháp lý chưa cao. 2.2. hoạt động của các NHTM trên ttck việt nam 2.2.1. Khái quát về các NHTM Việt Nam Từ khi thành lập đến cuối những năm cuối thập kỷ 80, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức theo mô hình một cấp, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Từ tháng 6/1987, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, mô hình ngân hàng dần được hình thành, thay thế cho mô hình ngân hàng một cấp trước kia. Tháng 5 năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ( pháp lệnh NHNN; pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng) ra đời, được đánh giá là những văn bản pháp quy khá toàn diện, góp phần khẳng định thêm mô hình ngân hàng hai cấp với NHNN đóng vai trò Ngân hàng Trung ương, nằm trong cơ cấu chính phủ; các NHTM là các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Đánh giá chung về hoạt động của các NHTM Việt Nam, Bộ chính trị đã có nhận định “Từ khi chuyển sang chuyên doanh, các NHTM đã huy động một khối lượng vốn đáng kể thúc đẩy đầu tư cho sản xuất của các thành phần kinh tế ”. Tuy nhiên, các NHTM Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã tác động mạnh tới các NHTM Việt Nam, đặc biệt là các NHTM cổ phần, có nguy cơ de dọa tới tính an toàn của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Để tiếp tục cải cách các NHTM ngày 12/12/1997, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật các tổ chức tín dụng đánh dấu một giai đoạn phát triển mới và tạo điều kiện cải cách mạnh mẽ các NHTM Việt Nam._. bản pháp lý cao nhất đối với các NHTM là Luật các tổ chức tín dụng. Mới đây, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong luật này chưa đề cập cụ thể đến việc tham gia của NHTM vào TTCK. Trong khi đó, các văn bản dưới luật hướng dẫn về việc tham gia kinh doanh chứng khoán của các NHTM mới chỉ có Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg về việc các tổ chức tín dụng thành lập CTCK tham gia niêm yết chứng khoán; thông tư 04/1999/TT- NHNN5 của Thống đốc ngân hàng nhà nước hướng dẫn về việc thành lập CTCK của các NHTM. Vì vậy, trong thời gian tới, khi triển khai việc sửa đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng, Chính Phủ nên nghiên cứu đưa ra những quy định rõ ràng về phạm vi tham gia của các NHTM vào TTCK và việc thành lập CTCK của các NHTM. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tham gia vào hoạt động chứng khoán. Sửa đổi luật các tổ chức tín dụng về việc kiểm soát sự thay đổi mức vốn điều lệ, mức vốn góp, mua cổ phần: Nới lỏng và tiến tới loại bỏ các quy định về việc chấp thuận của NHNN về tăng, giảm vốn và phát hành các giấy tờ có giá của các NHTMCP. NHNN cho phép các ngân hàng tiếp tục gọi vốn cổ đông nước ngoài khi đủ điều kiện. Trong số 36 ngân hàng cổ phần hiện nay, số lượng ngân hàng được NHNN cho phép gọi vốn cổ đông nước ngoài chưa nhiều. Đây được coi là nguồn vốn quan trọng bởi nó không chỉ giúp các ngân hàng nâng cao năng lực tài chính, quy mô vốn mà còn giúp các ngân hàng có thêm kinh nghiệm quản lý, điều hành khi có thêm cổ đông nước ngoài tham gia góp vốn. Tuy nhiên, các quy định và thủ tục đảm bảo an toàn tài chính và hoạt động của các NHTM cổ phần vẫn phải được đảm bảo. Quy định về cổ đông, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTMCP cần có những sửa đổi. Đặc biệt là cơ cấu cổ đông, NHNN cần có những nới lỏng hơn nữa về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài khi mua cổ phần của các NHTMCP, bởi điều này, sẽ giúp các ngân hàng tăng được vốn điều lệ, mở rộng hoạt động, năng lực quản trị, điều hành cùng công nghệ ngân hàng sẽ được nâng cao đáp ứng được xu thế cạnh tranh với các NHTM hiện đại. Hơn thế nữa để nâng tính thanh khoản của các chứng khoán do NHTMCP phát hành, cần cho phép các ngân hàng này được phép phát hành nhiều loại cổ phiếu ngoài cổ phiếu thông thường và ưu đãi như cổ phiếu có thể chuyển đổi, các loại chứng khoán phái sinh. 3.2.1.2. Phát triển TTCK Thứ nhất, cần sớm hoàn thiện xây dựng và ban hành Luật chứng khoán Thứ hai, tăng cung chứng khoán cho TTCK về số lượng, chất lượng và chủng loại. Cải tiến phương thức phát hành Trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành Trái phiếu Chính phủ; đa dạng hóa các kỳ hạn Trái phiếu này để tạo lãi suất chuẩn cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK. Ngoài ra, cần khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên niêm yết, giao dịch trên TTCK tập trung. Đặc biệt cần tăng tính thanh khoản cho Trái phiếu Chính phủ tại thị trường thứ cấp. Thực hiện các giao dịch thỏa thuận Trái phiếu Chính phủ trong đó các NHTM, các CTCK chính là các nhà tạo lập thị trường. Tiếp tục thực hiện việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Sự phát triển các doanh nghiệp và của các NHTM có quan hệ mật thiết với nhau. NHTM thực hiện việc cho vay đối với các doanh nghiệp trong kinh doanh. Sự phát triển của các NHTM tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và qua đó, tạo nhu cầu mới về huy động và vay vốn từ phía các doanh nghiệp. Đây chính là cơ hội để các NHTM phát triển các dịch vụ trung gian tài chính trên thị trường vốn. Sự ra đời của Nghị định 64/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về cổ phần hóa DNNN và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp trong 2 năm qua. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện còn chậm theo kế hoạch đề ra. Theo đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN của Chính phủ thì trong giai đoạn 2002- 2005 với 4704 DNNN hiện có, chỉ giữ nguyên 1847 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, chiếm 39.3%; còn lại là thuộc diện sắp xếp lại. Thế nhưng trong năm 2002, 2003, mới cổ phần hóa và sắp xếp được 1177 DNNN, chỉ đạt 69.36% mức kế hoạch. Các nguyên nhân của tình trạng này là hạn chế về vấn đề nhận thức về cổ phần hóa, quyền lợi của các doanh nghiệp được cổ phần hóa, việc xác định giá trị doanh nghiệp chưa thống nhất, các thủ tục hành chính, do sợ bị chia sẻ quyền lợi của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp ...Vì vậy, Chính phủ, Bộ tài chính, các Bộ ngành liên quan cần tiếp tục có những biện pháp thích hợp thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa các DNNN. Thứ nhất, thực hiện cổ phần hóa bắt buộc đối với các DNNN thuộc diện cổ phần hóa theo Nghị định 64/2002/NĐ-CP, cần nâng cao tỷ lệ cổ phần bán cho các cổ đông bên ngoài doanh nghiệp, tỷ lệ này hiện nay là quá thấp. Đặc biệt, đối với các Tổng công ty nhà nước, cần nhanh chóng thực hiện tổ chức lại theo hướng cổ phần hóa, hình thành nên các tập đoàn kinh tế dựa trên nền tảng sự liên kết về mặt tài chính, lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và chiến lược kinh doanh giữa các doanh nghiệp thành viên thay vì mối liên kết hành chính. Thứ hai, hoàn thiện các cơ chế chính sách tài chính của Nhà nước theo hướng thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật; bổ sung chính sách ưu đãi về tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN. Thứ ba, cần đẩy mạnh các định chế trung gian tham gia vào quá trình cổ phần hóa như công ty đầu tư tài chính, công ty mua bán nợ. Thứ tư, áp dụng chế độ ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa trong những năm đầu, đặc biệt cần nghiên cứu hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu của các doanh nghiệp này, tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn đọng về tài chính trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp. Việc tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp nên thông qua đấu giá công khai để các tài sản của doanh nghiệp sẽ được chính thị trường định giá và do đó không cần đến vai trò của hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, việc định giá các doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính, kiểm toán có kinh nghiệm, uy tín trong và ngoài nước. Đây chính là cơ hội cho các NHTM có uy tín thực hiện dịch vụ của mình. Đặc biệt, cần gắn tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK. Lựa chọn các doanh nghiệp lớn có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên TTCK tập trung. Ngoài ra, Chính phủ cần tiếp tục mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường tập trung. Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp ngoài ý nghĩa tăng số lượng và chất lượng hàng hóa cho TTCK mà còn tạo cơ hội thuận lợi cho các NHTM phát triển các hoạt động của mình trên TTCK như đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn, đầu tư chứng khoán. Phát triển các loại chứng khoán khác như: quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và giao dịch trên TTCK. Việc phát triển các loại chứng khoán này sẽ cung cấp thêm hàng hóa cho thị trường và đưa ra nhiều sự lựa chọn hơn đối với các nhà đầu tư cá nhân, chuyên nghiệp. Điều này cũng tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện các dịch vụ chứng khoán hay đầu tư đa dạng hóa. Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông lệ tốt nhất về quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo quy định của pháp luật. Tăng cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin và các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư. Thứ ba, thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK. Thực hiện chính sách khuyến khích đối với các nhà đầu tư như chính sách thuế. Đặc biệt cần có những khuyến khích cụ thể đối với các nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường, phát triển hệ thống quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia TTCK. Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp vốn, mua cổ phần hoặc thành lập CTCK liên doanh với các pháp nhân trong nước, cho phép các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam. Cần nới lỏng các hạn chế, rào cản về kiểm soát các giao dịch tài khoản vốn và cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành phần nào làm giảm sức hấp dẫn của TTCK Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK tới rộng rãi công chúng nhằm hình thành nhận thức và thói quen đầu tư cho họ. UBCKNN cần mở rộng hình thức đào tạo, tăng cường phổ cập kiến thức về chứng khoán và đầu tư chứng khoán cho công chúng. TTCK cũng như các thị trường khác, hoạt động theo quy luật cung cầu. Hệ thống TTCK phải được thiết lập để người mua và người bán có thể gặp nhau và thực hiện các giao dịch. Các chương trình đào tạo phải chỉ ra cho công chúng đầu tư những lợi ích và rủi ro mà họ có thể gặp phải khi tham gia TTCK. Việc nâng cao kiến thức cho công chúng đầu tư được thực hiện qua các chương trình đào tạo và tư vấn đầu tư. Cần giới thiệu cho công chúng đầu tư được lợi ích của tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư, hướng họ đầu tư dài hạn hơn là ngắn hạn, đồng thời giới thiệu và giúp họ tiếp cận các dịch vụ tài chính trong hoạt động đầu tư như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư. Ngoài ra, UBCKNN cần đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất, có sự hỗ trợ về tài chính, xây dựng quy trình đào tạo và cấp chứng chỉ đối với đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán để tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư khi sử dụng các dịch vụ trên TTCK. Thứ tư, nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với TTCK Tăng cường năng lực quản lý nhà nước nhằm đảm bảo sự linh hoạt, nhạy bén đối với TTCK. Cần có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất về chủ trương, chính sách phát triển TTCK. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, các công cụ kinh tế tài chính - tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác. Chính sách thuế: Theo quyết định 39/2000/QĐ-TTg ngày 27/3/2000 của Thủ tướng chính phủ quy định tạm thời về ưu đãi thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán đối với các chủ thể CTCK, công ty quản lý qũy, tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết, cá nhân đầu tư chứng khoán. Theo đó, miễn thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong thời gian 3 năm đầu từ năm 2000- 2002. Đối với CTCK, công ty quản lý quỹ ngoài được hưởng các ưu đãi về thuế phù hợp với Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành còn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thêm 1 năm, giảm 50% số thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Đối với các tổ chức phát hành chứng khoán được niêm yết ngoài được hưởng ưu đãi về thuế phù hợp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn được giảm 50% số thuế phải nộp trong 2 năm tiếp theo kể từ khi niêm yết chứng khoán lần đầu trên TTGDCK. Đối với các nhà đầu tư cá nhân ( trong nước và ngoài nước ) được miễn thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu và chênh lệch mua bán chứng khoán. Thực tiễn việc thực thi chính sách thuế đối với TTCK bước đầu đã phát huy hiệu quả, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường. Tuy nhiên, các ưu đãi này còn mang tính hình thức, không phát huy hiệu quả. Chính sách thuế cần phải cải tiến theo hướng đơn giản hóa và minh bạch. Chính sách thuế cho TTCK cần hài hòa và thống nhất trong tổng thể chính sách thuế trên thị trường tài chính và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của TTCK. Hơn nữa, trước mắt cần có những ưu đãi dài hạn hơn nhằm tăng cung và cầu cho thị trường. Chính sách thuế tạo điều kiện thu hút sự tham gia TTCK của đông đảo các nhà đầu tư cá nhân, tổ chức. Đối với tổ chức phát hành chứng khoán cần hướng những ưu đãi có tính lâu dài hơn nhằm thúc đẩy quá trình đa dạng hóa và nâng cao chất lượng hàng hóa trên TTCK. Để phát triển của thị trường trái phiếu thỉ việc ưu đãi về thuế cho các nhà tạo lập thị trường và nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu là rất cần thiết. Chính sách thuế cũng cần khuyến khích phát triển các tổ chức trung gian trên TTCK. Trong những năm đầu hoạt động, các tổ chức này rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trên nhiều phương diện, đặc biệt là chính sách thuế, khi thị trường phát triển đến mức độ nhất định các chính sách hỗ trợ cần điều chỉnh cho phù hợp. Chính sách lãi suất : Lãi suất luôn là một nhân tố rất quan trọng tác động đến thị giá chứng khoán và sự sôi động, hiệu quả của thị trường. Lãi suất được xác định trên cơ sở thị trường sẽ luôn phản ánh đúng nhu cầu cũng như chi phí sử dụng, vì vậy, là nhân tố quan trọng trong việc phân bổ vốn có hiệu quả. NHNN cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hóa. NHNN điều chỉnh lãi suất thông qua các nghiệp vụ thị trường mở và tái chiết khấu. Lãi suất phải được hình thành trên cơ sở thị trường và Nhà nước chỉ can thiệp bằng các công cụ gián tiếp để tạo điều kiện ổn định về lãi suất. Thứ năm, nhanh chóng triển khai đưa vào hoạt động trung tâm giao dịch các loại chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, hiện mới chỉ có 24 doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên TTCK. Các doanh nghiệp còn lại hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tiềm năng phát triển tốt song vì không có đủ điều kiện về vốn, tỷ lệ cổ phiếu ra công chúng mà không được niêm yết. Cổ phiếu của các công ty này chủ yếu được giao dịch, mua bán tại thị trường tự do, việc phát hành chứng khoán ra công chúng chưa được quản lý, chưa đảm bảo công khai và công bằng...do đó gây bất lợi cho nhà đầu tư, thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, thực sự chỉ có lợi cho một số người đầu cơ trục lợi. Việc đưa vào hoạt động trung tâm giao dịch của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ làm tăng hàng hóa cho TTCK đồng thời góp phần tăng các hoạt động của NHTM trên TTCK. 3.2.2. Các giải pháp vi mô 3.2.2.1. Tăng cường tiềm lực tài chính cho các NHTM Từ những phân tích về thực trạng của các NHTM cho thấy vấn đề cấp bách hiện nay là phải tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTM nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng hiệu quả hoạt động. Theo đề án những nhiệm vụ chiến lược của ngân hàng giai đoạn 2000- 2010 do NHNN đưa ra, trong vòng 5 năm tới, Việt Nam cần có một số NHTM mạnh có quy mô vốn chủ sở hữu từ 300-500 triệu $ Mỹ, tương đương 7000 tỷ đồng Việt Nam. Để thực hiện được điều này, cần thực hiện các giải pháp sau: Đối với NHTM cổ phần: tiếp tục thực hiện chủ trương chấn chỉnh các NHTMCP. Thực hiện sáp nhập các NHTMCP để có thể giảm về số lượng các ngân hàng và tăng trưởng về quy mô. Cần ban hành những quy định cụ thể và lựa chọn một số các NHTMCP phát hành, niêm yết và giao dịch cổ phiếu trên TTCK tập trung. Việc phát hành, niêm yết và giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp trên TTCK vốn chứa đựng nhiều rủi ro. Vì thế khi lựa chọn NHTM cổ phần niêm yết trên thị trường phải hội đủ các điều kiện cần thiết như hoạt động lành mạnh, hiệu quả, có khả năng chống đỡ rủi ro trên thị trường. Có thể đưa ra một số tiêu thức sau: Mức vốn cần thiết Phải hoạt động lành mạnh và hiệu quả. Phải có thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm và liên tục 2 năm gần nhất hoạt động kinh doanh có lãi. Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay dưới 5%. Đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động kinh doanh. Không vi phạm các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng được lựa chọn phải có bộ máy quản trị, kiểm soát, điều hành hoạt động có hiệu quả để có thể điều hành ngân hàng và sử dụng vốn của công chúng đầu tư có hiệu quả. Trước mắt, NHNN cùng UBCKNN cần đẩy mạnh việc cho phép một vài NHTMCP làm ăn hiệu quả, và đáp ứng điều kiện niêm yết trên TTCK. Khi một ngân hàng đủ điều kiện và được phép niêm yết thì toàn bộ cổ phiếu mới và cũ của ngân hàng đều được niêm yết bằng cách chuyển đổi các cổ phiếu có ghi tên hiện hành thành cổ phiếu có mệnh giá phù hợp với yêu cầu của UBCKNN. Đối với các NHTM Nhà nước Đối với NHTMNN, Chính phủ cần thực hiện chủ trương tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTM này thông qua nguồn tái cấp vốn. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp trước mắt. Việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các NHTM nhằm đưa cổ phiếu ngân hàng lên niêm yết trên TTCK tập trung là một trong các chủ trương nhằm phát triển TTCK nói chung và tăng tiềm lực tài chính cho các ngân hàng nói riêng. Trước mắt, Nhà nước cần sớm ban hành những quy định cụ thể về việc cổ phần hóa như tỷ lệ nắm giữ của nhà nước sau khi cổ phần hóa, cổ phiếu bán cho những đối tượng nào, định giá ngân hàng như thế nào đặc biệt là giá trị thương hiệu. Trong giai đoạn đầu, các NHTM Nhà nước nên cổ phần hóa một bộ phận của mình như công ty tài chính, công ty chứng khoán hoặc hình thành các công ty cổ phần thuộc ngân hàng để huy động vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này. Khi thực hiện cổ phần hóa, để đảm bảo vai trò định hướng trong hệ thống ngân hàng còn chưa lớn mạnh và nhiều rủi ro, Nhà nước nên nắm gĩư phần vốn đa số, tuy nhiên, phần bán ra ngoài cho các cổ đông, đặc biệt là các định chế tài chính quốc tế sẽ giúp tăng vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, sự tham gia của các định chế tài chính nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng học hỏi, nâng cao năng lực quản trị điều hành kinh doanh, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm kinh doanh. 3.2.2.2. Nâng cao trình độ nhân sự Thứ nhất, đảm bảo bộ máy quản trị, kiểm soát và điều hành hoạt động có hiệu quả. Các NHTM phải chú trọng ngay từ khâu bầu, bổ nhiệm vào các chức danh quản trị, kiểm soát, điều hành ngân hàng. Lựa chọn những người phải thực sự có hiểu biết, kinh nghiệm trong hoạt động tài chính ngân hàng và có đạo đức trong kinh doanh cùng một số các phẩm chất khác của người lãnh đạo. Trong quá trình đương nhiệm, yêu cầu những người giữ chức danh quản trị, kiểm soát điều hành phải thường xuyên tự đào tạo để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phải kiên quyết loại bỏ những cá nhân có hành vi trái pháp luật, hoạt động vì bản thân hơn là sự phát triển của ngân hàng. Thứ hai, nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ: Mỗi ngân hàng phải xây dựng cho mình một kế hoạch đầu tư và phát triển nguồn nhân lực thích đáng. Cần nâng cao chất lượng cán bộ nghiệp vụ về nghiệp vụ, ngoại ngữ, pháp luật, công nghệ thông tin thông qua các hình thức đào tạo, đào tạo lại, học hỏi kinh nghiệm, kiến thức về ngân hàng, TTCK. Đặc biệt trong lĩnh vực chứng khoán còn mới mẻ ở Việt Nam, các ngân hàng cần phải có một đội ngũ nhân viên có trình độ phân tích, đánh giá cũng như giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực chứng khoán để có thể đưa ra những sản phẩm dịch vụ cần thiết, cũng như giúp khách hàng đưa ra các quyết định đầu tư đúng đắn và có hiệu quả nhất. 3.2.2.3. Phát triển công nghệ ngân hàng Các NHTM cần hiện đại hóa và quốc tế hóa công nghệ ngân hàng công nghệ thanh toán, công nghệ thông tin và xử lý thông tin. Xây dựng và tiêu chuẩn hóa hệ thống thông tin khách hàng bao gồm nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, hình thành ngân hàng dữ liệu phục vụ cho việc khai thác với các mục đích khác nhau. Chuẩn hóa hệ thống mạng thông tin gồm mạng rộng kết nới trực tiếp các mạng nội bộ của từng hệ thống. Mạng nội bộ cần phải được tiêu chuẩn hóa và thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng mạng Internet, Intranet cho phép khách hàng sử dụng các tiện ích của ngân hàng qua mạng. Điều này tạo tiền đề nâng cấp chất lượng dịch vụ của ngân hàng, đảm bảo chính xác, kịp thời, an toàn. Hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống thanh toán nội bộ các ngân hàng và đảm bảo sự tương thích các hệ thống này với nhau và với hệ thống thanh toán liên ngân hàng của NHNN nhằm tạo môi trường để mở rộng các dịch vụ mới trong tương lai. 3.2.2.4. Nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng Để nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh, các ngân hàng phải không ngừng mở rộng hoạt động đầu tư, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng hiện đại. Trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng phải phân loại mức độ rủi ro của nợ quá hạn, đánh giá nguyên nhân từ đó có các biện pháp xử lý thích hợp. Đối với tình trạng nợ quá hạn, các NHTM phải thực sự chủ động và kiên quyết, không nên trông chờ vào chính sách xóa nợ, khoanh nợ và giãn nợ của chính phủ và NHNN. Cần có các biện pháp xử lý nợ tồn đọng, nợ xấu của các NHTM thông qua việc thành lập các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, thực hiện việc chứng khoán hóa các khoản nợ của ngân hàng. Ngoài ra cần tiến hành việc phát mại, bán đấu giá, cho thuê các tài sản cầm cố thế chấp để thu nợ cho ngân hàng. Đặc biệt các ngân hàng cần phải có các biện pháp ngăn chặn các khoản nợ xấu phát sinh, nâng cao chất lượng tín dụng bằng cách thu thập xử lý thông tin đầy đủ, chính xác về khách hàng, thị trường, phân loại đánh giá khách hàng theo mức độ rủi ro của việc sử dụng vốn.. đặc biệt các ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc tách hoạt động tín dụng thương mại và chính sách, nâng cao năng lực tự chủ. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM cũng cần triển khai thực hiện các định chế hoạt động ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế như: quản trị rủi ro, quản trị vốn và đầu tư, quản trị tài sản - nguồn vốn; xây dựng hệ thống kế toán và kiểm toán theo tiêu chuẩn quốc tế. 3.2.2.5. Xây dựng mô hình hoạt động của NHTM trên TTCK Việc lựa chọn mô hình các CTCK khi thành lập rất được các NHTM quan tâm. Theo Nghị định 144/NĐ-CP/2003, các NHTM muốn tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập các CTCK độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Hiện nay, các CTCK thuộc NHTM đều được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà sở hữu chính là Ngân hàng mẹ. Tuy nhiên, qua gần 4 năm hoạt động, hình thức này tỏ ra nhiều hạn chế đối với các hoạt động của NHTM trên TTCK. Chẳng hạn như hoạt động tự doanh của CTCK phải được thông qua Hội đồng đầu tư thuộc ngân hàng mẹ. Đặc biệt, khi mà TTCK phát triển, các CTCK này cần phải có số vốn đủ lớn để thực hiện các hoạt động, trong khi đó các CTCK thuộc ngân hàng chủ yếu là dựa vào sự cấp vốn của ngân hàng mẹ, không được quyền phát hành cổ phiếu. Rõ ràng là điều này sẽ hạn chế khả năng tham gia của các CTCK thuộc NHTM trên thị trường. Vì vậy, trong thời gian tới, cần chuyển đổi các CTCK này theo hình thức công ty cổ phần để tăng tính tự chủ, quy mô vốn và tiến tới sẽ thực hiện việc niêm yết trên TTCK. Như vậy, mô hình của các NHTM hoạt động trên TTCK trong thời gian trước năm 2010 là sự kết hợp giữa mô hình chuyên doanh và mô hình đa năng một phần. Điều này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của TTCK và tránh những biến động lớn tới TTCK cũng như hệ thống NHTM Việt Nam. Trước xu thế hội nhập, các NHTM phải không ngừng đổi mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được ký vào ngày13/7/2000 mở ra cho các NHTM Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Theo Hiệp định, các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng có lộ trình kéo dài từ 3 - 10 năm. Đặc biệt, sau 9 năm, tức là vào năm 2010, Ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng 100% vốn tại Việt Nam và các tổ chức tín dụng Hoa Kỳ được phép hoạt động kinh doanh chứng khoán - một phạm vi khá rộng nằm ngoài hoạt động truyền thống của NHTM Việt Nam. Theo Luật các Tổ chức tín dụng, các NHTM Việt Nam không được trực tiếp thực hiện các hoạt động chứng khoán. Điều này có nghĩa là phạm vi hoạt động của ngân hàng Hoa Kỳ rộng hơn hoạt động của các NHTM Việt Nam. Thiết nghĩ, Luật các tổ chức tín dụng nên có những quy định cho phép các NHTM Việt Nam được phép hoạt động trực tiếp trên TTCK khi mà Hiệp định Thương mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực vào năm 2010. Theo đó, hình thành Ngân hàng đầu tư, định chế tài chính chuyên nghiệp trên TTCK tức là phát triển các NHTM Việt Nam theo mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. 3.2.2 6. Kết hợp các hoạt động của NHTM với hoạt động của CTCK thuộc ngân hàng Hiện nay, cả 7 CTCK của ngân hàng đều được cấp phép cung cấp đầy đủ các dịch vụ trên TTCK. Tuy nhiên, các CTCK này mới chỉ thực hiện chủ yếu các hoạt động môi giới, tự doanh. Các hoạt động khác chưa được chú trọng phát triển như hoạt động bảo lãnh, quản lý quỹ đầu tư, quản lý danh mục đầu tư. Để phát triển các hoạt động, đặc biệt khi có lợi thế là các CTCK thuộc ngân hàng cần có sự liên kết chặt chẽ các hoạt động giữa NHTM và CTCK. Ví dụ như ngân hàng có thể kết hợp với CTCK cho phép các khách hàng được mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại ngân hàng. Đây là một tài khoản đặc biệt mà khách hàng vừa sử dụng như một tài khoản tiền gửi thanh toán vừa để sử dụng để giao dịch chứng khoán. Bên cạnh đó, đối với khách hàng có chứng khoán lưu ký tại CTCK khi có nhu cầu vay vốn, các NHTM nên ưu tiên cho vay với thủ tục gọn nhẹ, lãi suất ưu đãi. Để phát triển hoạt động môi giới chứng khoán, các NHTM thực hiện việc cung cấp các thông tin miễn phí cho khách hàng của ngân hàng về chứng khoán, TTCK hướng họ quan tâm tới thị trường này. Đối với hoạt động quản lý danh mục đầu tư, cần có chiến lược cụ thể thích hợp đối với các chứng khoán niêm yết, các chứng khoán trên thị trường tự do, và các hình thức đầu tư khác. Đối với hoạt động bảo lãnh chứng khoán, cần có sự liên kết với các trung gian tài chính khác nhằm thực hiện bảo lãnh cho các đợt phát hành lớn, đồng thời san sẻ rủi ro. Đặc biệt, đối với các hoạt động như thanh toán, lưu ký chứng khoán, ngân hàng giám sát vốn là các thế mạnh của NHTM cần được phát triển hơn nữa nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động ổn định, nhanh chóng. Kết luận Thực tế cho thấy, sự phát triển của TTCK Việt Nam không thể thiếu sự tham gia của NHTM bởi các hoạt động của tổ chức này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng chất lượng và hiệu quả hoạt động của TTCK. Hơn thế nữa, phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán là hướng chiến lược của các NHTM Việt Nam trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, thúc đẩy các hoạt động của NHTM trên TTCK Việt Nam là một tất yếu khách quan. Với mục đích đó, những nội dung sau được trình bày trong luận văn: Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về TTCK và hoạt động của các NHTM trên TTCK. Các NHTM tham gia trên TTCK với 3 tư cách: tổ chức phát hành, nhà đầu tư chuyên nghiệp và trung gian tài chính hỗ trợ hoạt động cho thị trường. Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam, từ đó đánh giá các điều kiện, nhân tố hạn chế sự tham gia của tổ chức này trên thị trường. Các phân tích cho thấy hoạt động của NHTM trên TTCK còn hạn chế về loại hình hoạt động, quy mô hoạt động còn nhỏ, nghiệp vụ đơn giản. Các nguyên nhân là sự thiếu hoàn thiện hệ thống pháp lý về hoạt động của NHTM trên TTCK, sự kém phát triển của TTCK, và sự yếu kém của chính các NHTM về tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ, nhân sự, chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh. Thứ ba, đề xuất hệ thống các giải pháp vĩ mô và vi mô để thúc đẩy hoạt động của các NHTM trên TTCK Việt Nam. Các giải pháp vĩ mô nhằm cải tạo môi trường hoạt động cho các NHTM và các giải pháp vi mô nhằm hoàn thiện và phát triển các NHTM. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực còn mới và phức tạp, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc. Danh mục các bảng biểu Bảng 2.1. Số lượng tài khoản mở tại các CTCK của NHTM từ năm 2000- 2003 Bảng 2.2. Doanh thu từ hoạt động môi giới của các CTCK Bảng 2.3. Một số chỉ tiêu của NHCĐTT Bảng 2.4. Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn Bảng 2.5. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM Việt Nam Bảng 2.6. Tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTMNN Các ký hiệu viết tắt TTCK : Thị trường chứng khoán NHTM : Ngân hàng thương mại NHTMNN : Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần NHNN : Ngân hàng Nhà nước DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước NHCĐTTCK : Ngân hàng chỉ định thanh toán chứng khoán CTCK : Công ty chứng khoán NHĐT&PTVN : Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam NHCTVN : Ngân hàng công thương Việt Nam NHNTVN : Ngân hàng ngoại thương Việt Nam NHNN&PTNTVN : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sacombank : NHTMCP Sài gòn Thương Tín Vpbank : NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Acb : NHTM cổ phần á Châu Vcbs : CTCK Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Arsc : CTCK NH Nông nghiệp và phát triển Nông thồn Bsc : CTCK Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Ibs : CTCK Ngân hàng Công thương Việt Nam Tsc : CTCK Thăng Long Acbs : CTCK Ngân hàng á Châu Danh mục tài liệu tham khảo Luật các tổ chức tín dụng, 1997 Luật doanh nghiệp, 1999 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán. Nghị định 144/2003/ NĐ- CP ngày 28/11/2003 của Thủ tướng Chính phủ thay thế Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và Thị trường chứng khoán. Đề án cải cách hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2001. Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động của TTCK, UBCK, 2003 Peter S.Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản tài chính, 2001 Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, 2001, 2002 Báo cáo thường niên của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, TTGDCK, 2002, 2003. TS. Nguyễn Sơn(2004), TTCK năm 2003 có nhiều biến động, Thời báo kinh tế Việt Nam, (1/2004) TS. Nguyễn Văn Nam & TS. Vương Trọng Nghĩa, Giáo trình TTCK, Nhà xuất bản tài chính, 2002. TS. Phan Thị Thu Hà & TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Giáo trình Ngân hàng thương mại- Quản trị và nghiệp vụ, Nhà xuất bản thống kê, 2002. TS. Trần Đăng Khâm, Giải pháp thúc đẩy các trung gian tài chính trong tiến trình xây dựng và phát triển Thị trường chứng khoán ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ- 2002. Tạp chí đầu tư chứng khoán các số 189, 216, 217, 219 Chứng khoán Việt Nam các số 1, 3, 7, 10, 12 (2003) Tạp chí ngân hàng các số 1, 14 (2003) Thời báo ngân hàng các số 12, 14, 23, 32 (2004) Doanh nghiệp số 8, 20 ( 2004) Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 4- 2004 Một số tài liệu tham khảo khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0270.doc
Tài liệu liên quan