LỜI MỞ ĐẦU
Kết cấu hạ tầng là một vấn đề cấp bách của các nước đang phát triển trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Bởi kết cấu hạ tầng là tiền đề để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kết cấu hạ tầng luôn phải đi trước một bước để tạo đà phát triển kinh tế xã hội, tạo sức bật cho tăng trưởng kinh tế, tăng sức hút vốn đầu tư của nước ngoài. Nhưng thực tế việc xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi những khoản tiền rất lớn. Do đó dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển đều r
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơi vào tình trạng thiếu vốn. Vì vậy các quốc gia đang phát triển cũng như Việt Nam đều có xu hướng tìm các nguồn vốn khác nhau để xây dựng kết cấu hạ tầng. Các nước ngoài việc huy động vốn trong nước, vốn từ ngân sách còn phải tranh thủ các nguồn vốn nước ngoài: hỗ trợ phát triển chính thức(ODA), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để xây dựng kết cấu hạ tầng. Mặc dù nguồn vốn trong nước là quyết định nhưng nguồn vốn nước ngoài là rất quan trọng trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng của mỗi nước. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Thì việc thu hút nguồn vốn trong nước hay trích từ ngân sách của nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng là một điều hết sức khó khăn. Đứng trước nhu cầu bức thiết hiện nay là phải phát triển kết cấu hạ tầng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế , đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp trong tương lai. Việc tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài – FDI là một giải pháp quan trọng đối với nước ta.
Việc tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là con đường ngắn nhất để nhanh chóng hiện đại hoá đất nước nhằm đáp ứng ngay được sự phát triển kinh tế, đồng thời tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập. Vì vậy để đạt được những kết quả mong muốn chúng ta cần có những chính sách hợp lý và những giải pháp phù hợp nhằm thu hút nhiều hơn nữa và sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng để phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực cũng như trên thế giới. Bởi thế em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng ở Việt Nam”, Để nghiên cứu nhưng do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và sai lầm. Kính mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ FDI
VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ TẦNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ FDI VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ TẦNG
1. Khái niệm và đặc điểm đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
1.1. Khái niệm
Theo từ chuẩn Anh – Mỹ thuật ngữ:”Kết cấu hạ tầng ”(Infeatructure) thể hiện trên 4 bình diện:1) tiện ích công cộng(Public utilities), năng lượng, viễn thông, nước sạch cung cấp qua hệ thống ống khí, khí đốt truyền tải qua ống, hệ thống thu gom và xử lý các chất thải trong thành phố ... 2)Công chánh(public works): đường sá, các công trình xây dựng đập, kênh phục vụ tưới tiêu... 3)Giao thông (transport): các trục và tuyến đường bộ, đường sắt, cảng cho tàu và máy bay, đường thuỷ... Ba bình diện trên tạo thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật vì chúng bao gồm hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của các ngành các lĩnh vực kinh tế.4) Hạ tầng xã hội (Social infeastruture): bao gồm các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công nghệ, các cơ sở y tế, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm xã hội và các công trình phục vụ cho hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao.
Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất –kỹ thuật công trình các phương tiện hiện có tồn tại trên một lãnh thổ nhất định được dùng làm điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo đảm sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, cácluồng thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống. Với sự cố kết chặt chẽ về mặt đặc điểm không gian, sự kết nối với tất cả các cơ quan, tổ chức xĩ nghiệp và các hộ gia đình. Kết cấu hạ tầng là một nhân tố phân bố không gian tác động thường xuyên và lâu đời đối với các ngành, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Kết cấu hạ tầng mang tính xã hội, phụ thuộc vào trình độ xã hội nền sản xuất và tổ chức đời sống gắn liền với từng giai đoạn nhất định trong trình độ phát triển của loài người.
1.2. Đặc điểm của đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Được tổ chức hợp thành tổng thể trong một không gian để tạo nên điều kiện chung cho mọi hoạt động của cả cộng đồng dân cư trên lãnh thổ. Đặc điểm này đòi hỏi việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng phải được bố trí hợp lý và đồng bộ, tránh sự chồng chéo, khắc phục sự manh mún lệch pha giữa các bộ phận.
Các công trình kết cấu hạ tầng được sử dụng liên tục trong mọi thời gian, phải đáp ứng được cả thời kỳ cao điểm hàng ngày và suốt cả năm.Vì vậy việc đầu tư phải được nghiên cứu kỹ tất cả các vấn đề xung quanh để công trình thoải mãn được nhu cầu của mọi người. Và có ý nghĩa cao thiết thực trong cuộc sống hàng ngày của xã hội đáp ứng được nhu cầu xây dựng đất nước công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước.
Các công trình kết cấu hạ tầng thường xuyên tồn tại lâu dài và có giá trị lớn, điều này là do yêu cầu kỹ thuật – kinh tế của nó là trải dài trên một không gian rộng lớn và phục vụ cho mọi đối tượng đông đảo. Vì vậy khi tiến hành thiết kế xây dựng và đảm bảo nguồn vốn đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng đáp ứng hài hoà yêu cầu kinh tế và kỹ thuật của nó.
Gía trị các công trình kết cấu hạ tầng được chuyển từng phần vào sản phẩm hay tạo nên một bộ phân của quỹ tiêu dùng thường xuyên. Điều này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, sử dụng và tái sản xuất các công trình kết cấu hạ tầng phải được chú ý một cách cụ thể theo tính chất và vị trí riêng biệt.
Kết cấu hạ tầng có giá trị rất lớn, việc xây dựng nó rất tốn kém, lại đòi hỏi nhiều thời gian, và thường là một trong những điều kiện tiên quyết cho việc hình thành môi trường đầu tư năng động và có hiệu quả, thu hút của các nhà kinh doanh nước ngoài đến làm ăn.
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi một khoảng thời gian dài. Vì vậy khi tiến hành đầu tư phải nghiên cứu rõ điều kiệnvề môi trường xung quanh để tránh khỏi việc ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Ngoài ra cần bố trí vốn, nguyên vật liệu để đủ cho cả công cuộc đầu tư. Tránh tình trạng đang trong quá trình xây dựng thiếu vốn, thiếu nguyên liệu cản trở việc xây dựng. Tính toán đến giá cả thị trường biến đổi trong quá trình xây dựng để tránh được việc.
Các công trình kết cấu hạ tầng có quy mô lớn và chủ yếu ở ngoài trời, bố trí rải rác trên phạm vi cả nước, chịu ảnh hưởng nhiều của tự nhiên. Vì vậy khi tiến hành đầu tư phải nghiên cứu khảo sát kỹ lưỡng. Tránh mọi sự biến đổi của tự nhiên và xem xét kỹ lưỡng vị trí xây dựng để công trình không bị ảnh hưởng của tự nhiên.
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Vì vậy việc đòi hỏi trước khi tiến hành xây dựng phải có kế hoạch về vốn cụ thể tránh tình trạng thiếu thốn và lãng phí về vốn. Có biện pháp phân bổ vốn một cách khoa học, hợp lý, phù hợp với lượng vốn hiện có.
2.Vai trò của FDI đối với lĩnh vực kết cấu hạ tầng và sự tăng trưởng phát triển kinh tế.
2.1. Trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn quan trọng bổ sung cho nguồn vốn trong nước để xây dựng kết cấu hạ tầng. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) cùng với nguồn vốn trong nước góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng ngày một hoàn thiện và hiện đại hơn. Nước ta là một nước đang phát triển, kinh tế còn nhiều thấp kém và lạc hậu nguồn dự trữ và tiết kiệm từ dân cư cũng như các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Vì vậy nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta. Do đặc điểm của đầu tư kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn nên việc huy động nguồn vốn nước ngoài trong đó có FDI vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng là vô cùng quan trọng.Vẫn biết rằng nguồn vốn trong nước là quyết định nhưng nguồn vốn nước ngoài nói chung và nguồn vốn FDI nói riêng là một trong những nguồn vốn quan trọng giúp nước ta phát triển hơn nữa hệ thống lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Trong những năm vừa qua các quốc gia đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng ở nước ta chủ yếu thông qua nguồn quỹ hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Nhưng nguồn vốn ODA có những nhược điểm đó là: hay có tính ràng buộc về chính trị và thường gây nợ cho nước tiếp nhận đầu tư. Nên nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp mới một hướng đi mới cho Việt Nam tiếp cận với những nền khoa học mới trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng. Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ta tiếp nhận được công nghệ tiên tiến từ các nước giúp cho hệ thống kết cấu hạ tầng của nước ta phát triển hơn và hiện đại hơn. Từ đó thúc đẩy các ngành khác phát triển bởi kết cấu hạ tầng luôn phải đi trước một bước để tạo tiền đề cho các nước phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá
FDI đã thúc đẩy hình thành hệ thống các KCN, KCX, góp phần công nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư hôp lý.
2.2. Đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Thông qua FDI các quốc gia đã có được vốn cho đầu tư phát triển xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển y tế giáo dục... Một số lĩnh vực công nghiệp va khai thác đòi hỏi phải có một khoản đầu tư tương đối lớn mà do thiếu vốn đầu tư, các chính phủ đã phải kêu gọi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong các hình thái của đầu tư nước ngoài, luồng vốn FDI là tương đối ổn định so với các luồng vốn khác. Hơn nữa điểm mạnh của FDI là không tạo ra nợ, lợi nhuận được chuyển về nước đầu tư chỉ khi dự án đã có thu nhập, hay phần lợi nhuận này nhiều khi được tái đầu tư vào nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên FDI được xem là nguồn tài trợ nước ngoài đắt hơn các nguồn khác.
FDI góp phần nâng cao tay nghề và giải quyết việc làm cho người lao động. Không chỉ ở những nước đang phát triển, ngay cả ở những nước phát triển thì vấn đề tạo công ăn việc làm cho người lao động luôn luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, một trong những điều kiện tiên quyết của việc tiếp nhận FDI là phải tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Các dự án FDI sử dụng nhiều lao động tại chỗ, như xây dựng, trung tâm thương mại, khách sạn, văn phòng, các khu du lịch, vui chơi giải trí được khuyến khích và ưu đãi cao. Phần lớn các lao động được nhận vào làm việc tại các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã được đào tạo lại, nâng cao tay nghề, tiếp cận với trình độ kỹ thuật và quản lý tiên tiến. Như vậy FDI góp phần hình thành đội ngũ lao động có đủ năng lực quản lý và kỹ thuật để điều hành sản xuất, kinh doanh trong một môi trường mang tính cạnh tranh cao.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, sức mạnh của mỗi quốc gia, giá trị của mỗi dân tộc đang được đo chủ yếu bằng sức mạnh về kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thì việc thu hút FDI là chìa khoá để giúp nước ta tiếp cận được nền khoa học công nghệ và kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý, góp phần khắc phục yếu kém về kỹ thuật, tụt hậu về khoa học công nghệ.
FDI đã góp phần tăng năng suất lao động của nước tiếp nhân đầu tư, tạo ra những sản phẩm mới dồi dào, thoả mãn đến mức tối đa nhu cầu của nguời tiêu dùng. FDI có đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước của quốc gia nhận đầu tư.
FDI đóng vai trò to lớn đối với quá trình cho tăng trưởng kinh tế, thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghệ, cung cấp know-how, tăng xuất nhập khẩu và tăng việc làm ở nước ta; có tác động lan tỏa đối với nền kinh tế và được coi là một trong những đầu tầu của sự tăng trưởng kinh tế.
FDI góp phần chuyển giao công nghệ: Tại các nước đang phát triển nói chung cũng như Việt Nam nói riêng công nghệ trong nước thường là công nghệ cổ truyền, lạc hậu năng suất thấp; các công nghệ mới, hiện đại ở các nước đang phát triển được đưa ra ngoài thông qua các kênh nhập khẩu công nghệ, viện trợ và trao đổi khoa học, chuyển giao công nghệ.Thực tế cho thấy rằng khẳ năng tự nhập khẩu công nghệ của các nước đang phát triển là rất hạn chế, chính vì vậy, đối với các nước này, việc thực hiện một chính sách đa dạng hoá các kênh chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, đặc biệt là chính sách công nghệ đối với FDI có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình hội nhập. Chính vì vậy thông qua FDI công nghệ hiện đại tiên tiến dần được chuyển sang các nước tiếp nhận đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội, đặc biệt nhiều ngành nghề quan trọng đối với sự phát triển của đất nước đã ra đời như: lắp ráp, sản xuất xe máy, viễn thông quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được Đảng và nhà nước ta thu hút theo hướng chú trọng đầu tư vào những ngành lĩnh vực có tác động lớn cho nền kinh tế, những ngành nghề tạo ra nhiều công ăn việc làm. Thực tế đã cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch nền kinh tế theo hương công nghiệp hóa hiện đại hoá để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp.
FDI tạo ra cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển bền vững. Ngày nay phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của các quốc gia trên toàn thế giới. Phát triển bền vững được hiểu là sự tăng trưởng kinh tế đi liền với cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến độ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo cho Việt Nam chủ động hội nhập với các nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Khu vực hoá và toàn cầu hoá là những xu hướng tất yếu mà mọi nền kinh tế đều bị cuốn hút vào.Tuy thế, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và các nhân tố khác mà mỗi nước có chủ trương riêng trong hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời tác động đến tiến trình đó. Với chủ trương Việt Nam muốn làm bạn với các nước không phân biệt chế độ chính trị, Việt Nam đã tạo ra thế và lực mới trên trường quốc tế. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không những làm cho nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao mà còn tạo ra cơ hội đuổi kịp trình độ phát triển của các nước trong khu vực; làm cho vị thế chính trị của Việt Nam trong ASEAN và từ đó ở Châu Á và trên thế giới ngày được nâng cao, để chủ động và hiệu quả hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Tính tất yếu phải thu hút FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
- Kết cấu hạ tầng là một trong những điều kiện tiên quyết để nước ta xây dựng được mục tiêu là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp trong tương lai. Vì vậy kết cấu hạ tầng luôn phải đi trước một bước để tạo tiền đề cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển sau. Muốn đất nước phát triển được thì hệ thống giao thông, thông tin liên lạc phải thông thoáng nhanh nhậy. Để có được điều đó không có cách nào khác là phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Cơ sở vật chất phải phát triển mới thu hút được sự đầu tư của các nước ngoài vào nước ta từ đó tạo điều kiện phát triển đất nước một cách hài hoà đồng đều không có sự phân biệt và chênh lệch giữa các vùng các miền của đất nước.
Nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường lại chịu ảnh hưởng của nhiều năm chiến tranh. Nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu. Vì vậy cần phải được chú trọng đầu tư lĩnh vực này để thu hút sự đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực khác.
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi một khối lượng vốn lớn. Mà nước ta là một nước đang phát triển việc huy động vốn ngân sách hay nguồn vốn từ dân cư là một việc khó khăn. Vì vậy cần phải có những chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong đó một trong những nguồn vốn quan trong từ các nước trên thế giới là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để xây dựng hạ tầng cơ sở.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm so vốn quỹ hỗ trợ phát triển chính thức là: không bị ràng buộc về chính trị, lợi nhuân thu được tính trên lợi nhuận mà công trình đạt được.Vì vậy khuyên khích cả những người đầu tư lẫn những người tiếp nhân đầu tư đều phải tính toán một cách kỹ lưỡng để hai bên cùng có lợi. Từ đó tránh được việc đầu tư bừa bãi và thất thoát trong đầu tư.
Nước ta là một trong những nước có chiến tranh lâu dài nhất không những chỉ nền kinh tế bị tàn phá nặng nề mà hệ thống cơ sở hạ tầng cũng bị tàn phá nghiêm trọng. Để đưa đất nước phát triển đi lên theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá không còn con đường nào khác là phải phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Để làm được điều đó trong điều kiện hiện nay nguồn vốn trong nước là có hạn và tích luỹ chưa nhiều thì việc thu hút đầu tư nước ngoài trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài là một giải pháp quan trọng. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bổ sung nguồn vốn trong nước và tạo điều kiện hơn nữa cho hệ thống kết câú hạ tầng được khôi phục và phát triển hiện đại hơn nữa.
4. Nội dung đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Theo khái niệm kết cấu hạ tầng ở phần một là:kết cấu hạ tầng bao gồm bốn phương diện đó là: 1) tiện ích công cộng(Public utilities), năng lượng, viễn thông, nước sạch cung cấp qua hệ thống ống khí, khí đốt truyền tải qua ống, hệ thống thu gom và xử lý các chất thải trong thành phố ... 2)Công chánh(public works): đường sá, các công trình xây dựng đập, kênh phục vụ tưới tiêu... 3)Giao thông (transport): các trục và tuyến đường bộ, đường sắt, cảng cho tàu và máy bay, đường thuỷ... Ba bình diện trên tạo thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật vì chúng bao gồm hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của các ngành các lĩnh vực kinh tế.4) Hạ tầng xã hội (Social infeastruture): bao gồm các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công nghệ, các cơ sở y tế, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm xã hội và các công trình phục vụ cho hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao.Thì nội dung đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng bao gồm: Đầu tư vào lĩnh vực giao thông vận tải(Đầu tư vào hệ thống đường bộ, đầu tư vào hệ thống đường sắt, đầu tư vào hệ thống đường thuỷ, nội địa, cảng hàng không); đầu tư vào lĩnh vực bưu chính viễn thông(đầu tư mở rộng hệ thống mạng điện thoại, đầu tư xây dựng các trụ sở bưu điện tại các thôn xã, địa phương…); đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng(Cấp thoát nước, vệ sinh môi trường), Đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê.
Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng là đầu tư vào hệ thống tổng thể các cơ sở vật chất –kỹ thuật công trình các phương tiện hiện có tồn tại trên nước ta được dùng làm điều kiện sản xuất và điều kiện sinh hoạt nói chung, bảo đảm sự vận hành liên tục, thông suốt các luồng của cải vật chất, các luồng thông tin và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính phổ biến của sản xuất và đời sống. Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng là đầu tư Với sự cố kết chặt chẽ về mặt đặc điểm không gian, sự kết nối với tất cả các cơ quan, tổ chức xí nghiệp và các hộ gia đình. Đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng là phải đầu tư trên một phạm vi rộng lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ TẦNG
1. Khái quát chung FDI vào Việt Nam trong thời gian qua
Tính đến cuối năm 2005, cả nước có trên 7.000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký 65.2 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm mở rộng). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có hơn 5.800 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 50,6 tỷ USD.
Bình quân mỗi năm có 390 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký 3,6 tỷ USD. Tuy nhiên, nhịp độ ĐTNN vào nước ta không đồng đều qua các năm. Sau giai đoạn mang tính thăm dò từ năm 1988 đến năm 1990, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam đã tăng nhanh trong thời kỳ từ năm 1991 đến 1996, bắt đầu suy giảm từ năm 1997 do khủng hoảng tài chính khu vực và có xu hướng phục hồi từ năm 2000 đến nay, trong đó năm 2004 thể hiện xu hướng phục hồi rõ rệt nhất.
Từ năm 1998 đến 1990, chỉ có 218 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký 1,58 tỷ USD, chất lượng dự án còn hạn chế, quy mô nhỏ và chủ yếu từ các nước và vùng lãnh thổ châu á, nhất là Hồng Kông, Đài Loan.
Thời kỳ 1991 – 1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam với 1.397 dự án được cấp giấy phép có tổng vốn đăng ký 16,2 tỷ USD. Đặc biệt năm 1996 đã có 365 dự án được cấp giấy phép có tổng vốn đăng ký 8,8 tỷ USD.
Sau khủng hoảng tài chính khu vực, trong 3 năm từ năm 1997 đến 1999, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu giảm sút. Mặc dù, tính chung trong 3 năm này đã có 934 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư 10,11 tỷ USD, nhưng vốn đăng ký của năm 1998 chỉ bằng 83,8% của năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 40,23% của năm 1998. Đồng thời, nhiều dự án được cấp phép trong những năm trước đã phại tạm dừng triển khai do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính. Nhất là các nhà đầu tư châu Á. Từ năm 2000 đến nay, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi tuy chưa vững chắc. Năm 2000 vốn đăng ký tăng 13,5% so với năm 1999; năm 2001 tăng 29,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn ĐTNN đăng ký giảm, bằng 85,5% so với năm 2001, nhưng từ năm 2003 đến nay xu hướng phục hồi đã trở nên rõ rệt hơn với mức vốn đăng ký trong năm 2003 tăng 9,7% so với năm 2002, năm 2004. Riêng 9 tháng đầu năm 2003 đã tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt năm 2005 tăng 61.2% so với năm 2004. Riêng 9 tháng đầu năm 2003 đã tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước và bằng 90,9% mục tiêu đề ra cho cả năm (4,5 tỷ USD).
Tình hình tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất: Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án đã tăng vốn đầu tư, nhất là tư năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2005 có 1.505 dự án tăng vốn đầu tư với 3057 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 13,07 tỷ USD. Riêng năm 2001 vốn bổ sung đạt 632 triệu USD, tăng 33% so với năm 2000 và bằng 24,3% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án mới; năm 2002 tăng 2% so với năm 2001 và bằng 70,08% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án mới; năm 2003 tăng tăng 2% so vơi năm 2002 và bằng 60,08% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án mới, năm 2004 đạt 2,05 tỷ USD, tăng 80,7% so với năm 2003 và bằng 85,3% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án mới. Năm 2005 vốn tăng thêm đạt 1,8 tỷ USD, bằng 87% năm 2004 và chỉ chiếm 45% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án mới. Xét về số lượng dự án và số vốn đầu tư tăng thêm của các dự án mở rộng sản xuất cho thấy xu thế tăng dần từ năm 1991 và đạt mức cao vào các năm 1995 –1997, rồi giảm dần vào năm 1998 -2000 và từ năm 2001 đến 2004 xu thế tăng liên tục. Năm 2005 cho thấy xu thế tăng vốn không mạnh bằng xu hướng đăng ký mới của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Cơ cấu vốn ĐTNN về cơ cấu ngành, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 66% về số dự án và 58,1% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 24.3% về số dự án và 38.5% về số vốn đầu tư đăng ký. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Biểu đồ: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài theo ngành(Vốn đăng ký)
Biểu đồ: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài theo ngành(Vốn thực hiện)
So với vốn đăng ký, vốn thực hiện trong lĩnh vực cong nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lơn hơn, chiếm 68,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 6,4% vốn thực hiện và lĩnh vực dịch vụ chiếm 25,1%. Từ đây, có thể thấy rằng tỷ lệ các dự án đã triển khai thực hiện trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cao hơn so với các lĩnh vực khác.
Về cơ cấu vùng lãnh thổ : tính đến năm 2005, vốn ĐTNN tập trung vào một số tỉnh thuộc khu vực kinh tế trọng điểm phía nam ( Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng tầu) và vùng kinh tế trọng điểm phía bắc ( Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc và Quảng Ninh), theo thứ tự: TRÁI PHIếU. Hồ Chí Minh 30,7% vế số dự án; 23,9% tổng vốn đăng ký và 22,9% tổng vốn đầu tư thực hiện; Hà Nội chiếm 10,8% về số dự án; 18,2% vốn đăng ký và 12,2% tổng vốn thực hiện; Đồng Nai chiếm 17,9% về số dự án; 9,8% tổng vốn đăng ký và 7,0% tổng vốn đầu tư thực hiện.
Vùng kinh tế trọng điểm phía bắc chiếm 26% tổng vốn ĐTNN đăng ký và 28,7% vốn thực hiện của cả nước.
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm trên 58% tổng vốn ĐTNN đăng ký và khoảng 50% vốn thực hiện của cả nước.
Vùng bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chiếm 2,9% về số dự án và 1,8% tổng vốn đăng ký của cả nước, trong đó, vốn thực hiện bằng 48,5% tổng vốn đăng ký.
Biểu đồ: Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư
Về hình thức đầu tư, Tính đến hết năm 2005, hình thức 100% vốn nước ngoài (kể cả BOT) chiếm 74.1% về số dự án và 50.1% về tổng vốn đăng ký; hình thức liên doanh chiếm 22,4% về số dự án và 38.3% về tổng vốn đăng ký; còn lại là hình thức hợp doanh, công ty cổ phần và công ty quản lý vốn. Đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia tăng nhanh chóng về số dự án, tuy nhiên do dự án quy mô nhỏ và vừa chiếm đa số nên mặc dù chiếm đa số vế số dự án nhưng về quy mô đăng ký của các dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài không cao hơn nhiều so với hình thức liên doanh.
Về cơ cấu vốn đầu tư theo đối tác, các nước châu Á vẫn là đối tác đầu tư chính vào Việt Nam, chiếm 70,6% tổng vốn đăng ký, trong đó Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc (3 nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam) và Trung Quốc (kể cả Hồng Kông) chiếm 47,2% tổng vốn đăng ký vào Vịêt Nam, 21,7% là đầu tư từ các nước ASEAN. Các nhà đầu tư từ EU chiếm 21.8% tổng vốn đăng ký, châu Mỹ- chiếm 6%, Australia, New Zealand chiếm 1,4% và các nước khác khoảng gần 2%
2. Thực trạng thu hút và sử dụng FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
2.1. Thực trạng thu hút FDI trong một số lĩnh vực của kết cấu hạ tầng
Tính đến ngày 20 tháng 12 năm 2006 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có tổng số dự án là 5.606 dự án với tổng vốn đầu tư là 96.167.983.160USD. Trong đó FDI vào ngành công nghiệp là 3755 dự án
với tổng vốn đầu tư là 27.919.867.407USD, ngành nông- lâm- ngư nghiệp là 732 dự án với tổng vốn đầu tư là 3.341.291.505USD, ngành dịch vụ là 1119 dự án với tổng vốn đầu tư là 16.822.832.618USD.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phân theo
một số lĩnh vực giai đoạn 1988-2005
ĐƠN VỊ: USD,%
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Tỷ trọng
TVĐT
Tỷ trọng
I
Công nghiệp
3755
67,10
27.919.867.407
29,03
CN dầu khí
28
0,5
1.925.983.340
2
CN nhẹ
1576
28,11
7.484.777.106
7,78
CN nặng
1594
28,26
11.911.695.015
12,39
CN thực phẩm
253
4,51
2.944.302.374
3,1
Xây dựng
314
5,6
3.653.109.572
3,8
II
Nông- lâm- Ngư nghiệp
732
13,06
3.341.291.505
3,47
Nông lâm nghiệp
621
11,07
3.053.290.989
3,2
Thuỷ sản
111
1,98
288.000.516
0,3
III
Dịch vụ
1119
19,96
16.822.832.618
17,49
GT- VT- Bưu điện
153
2,73
3.298.290.445
3,4
KS- Du lịch
167
2,98
3.515.089.648
3,6
Tài chính- ngân hàng
59
1,05
772.550.000
0,8
VH- Y tế- giáo dục
188
3,35
885.547.849
0,92
XD khu đô thị mới
4
0,07
2.551.674.000
2,65
XD văn phòng- căn hộ
112
2
3.756.321.244
3,9
XD hạ tầng KCN- KCX
20
0,36
921.625.046
0,96
Dịch vụ khác
416
7,42
1.121.734.386
1,17
IV
Cả nước
5.606
100
96.167.983.160
100
Nguồn: Vụ Kết cấu hạ tầng- Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp và xây dựng là chủ yếu còn lĩnh vực Nông- Lâm – Ngư nghiệp chiếm tỷ trọng rất ít. Cụ thế là ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 67,10% về số dự án và 29,03% về tổng vốn đầu tư. Tiếp đến là ngành dịch vụ chiếm 19,96% về số dự án và 17,49% về tổng vốn đầu tư. Cuối cùng là ngành Nông- Lâm- Ngư nghiệp chỉ chiếm 13,06% và 3,47% về tổng vốn đầu tư.
Nhìn chung các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ giải ngân cao nhất trên 51%. Các dự án trong lĩnh vực dịch vụ có tỷ lệ giải ngân tương đối thấp so với các ngành khác, đạt 32% vốn đăng ký nếu không tính 2 dự án khu đô thị nêu trên thì tỷ lệ này cũng chỉ đạt 38%.
Đầu tư vào lĩnh vực giao thông vận tải bao gồm đầu tư vào:
Hạ tầng đường bộ bao gồm: Hệ thống các loại đường quốc lộ, đường tỉnh lộ, đường huyện, đường xã, đường đô thị, đường chuyên dùng và hệ thống các loại cầu: cầu chui, cầu vượt… cùng những cơ sở vật chất khác phục vụ cho vận chuyển, trên bộ như: bến bãi, đỗ xe tín hiệu, biển báo giao thông, đèn đường chiếu sáng.
Vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải giai đoạn 2001-2004
Bảng 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
giao thông vận tải giai đoạn 2001-2005
ĐƠN VỊ :1000Tỷ,%
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2005
1.Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
145.6
163.3
170.3
176.8
180
tốc độ gia tăng định gốc
100
12.16
16.96
21.43
24.3
Tốc độ gia tăng liên hoàn
1000
1216
4287
3817
3856
2.VĐT cho ngành GTVT
19
19.16
22.85
28.9
30.1
Tỷ trọng so với tổng VĐT toàn xã hội
13.05
11.73
13.42
16.35
17.2
Tốc độ gia tăng định gốc
100
0.826
20.28
52.11
54.12
Tốc độ gia tăng liên hoàn
100
0.826
19.29
26.47
27.42
3.Vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng GTVT
6.333
10.77
10.42
14.82
15.23
Tỷ trọng so với VĐT toàn ngành GTVT
33.33
56.22
45.58
51.27
52.24
Tốc độ gia tăng định gốc
100
70.05
64.49
134
143
Tốc độ gia tăng liên hoàn
100
70.05
327
42.23
45.23
Nguồn: Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân- Bộ Kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực giao thông vận tải chiếm khá lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Chiếm 19.16% trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Điều đó chứng tỏ định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ta đã đi đúng hướng theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Phát triển hệ thống giao thông để tạo điều kiện và tiền đề cho các ngành khác phát triển. Bởi giao thông đường xá đi lại là một trong những vấn đề rất quan trọng trọng việc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Giao thông có thuận lợi thì mọi công việc và thông tin liên lạc mới được thuận lợi và dễ dàng và nhanh chóng đảm bảo cho mọi thông tin được lưu thông một cách nhanh chóng.
Trong 50 dự án đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng giao thông vận tải chỉ có 2 dự án được sử dụng đó là:
+ Dự án liên doanh đầu tư xây dựng cảng Vic(công ty tiếp cận số 1) với tổng vốn đầu tư là 70 triệu USD.55% là vốn Singapore và 45% của Việt Nam._.(được tính góp vốn băng đất). Quy mô cảng trung bình chủ yếu sắp xếp hàng container có thiết bị hiện đại và năng lực bốc dỡ nhanh.
+ Dự án đầu tư liên doanh giữa Việt Nam 40% và Pháp 60% xây dựng cảng phú mỹ. Quy mô cảng trung bình, chủ yếu nhập hàng khô trang thiết bị hiện đại, có tốc độ bốc dỡ nhanh. Đi vào hoạt động tư năm 2000, nhìn chung 2 dự án trên đều đã phát huy tác dụng tốt, giảm được áp lực cho các Cảng Sài Gòn, hệ thống quản lý cảng tốt, thiết bị bốc dỡ hiện đại nhưng bị hạn chế vì vị trí cảng không thuận lợi bằng cảng Sài Gòn, là các cảng chuyên dùng cho các khu công nghiệp hay trung chuyển đi vào các vùng đồng băng sông cửu long.
2.2. FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo hình thức đầu tư
Từ trước đến nay có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã được thực hiện trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Đó là 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Bảng 4: FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo hình thức đầu tư
giai đoạn 1988-2005
ĐƠN VỊ: USD
HTĐT
KS- du lịch
Văn phòng- căn hộ
Tổng cộng
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
100% vốn NN
3
18.000.000
6.400.000
0
0
0
3
18.000.000
6.400.000
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
4
48.620.000
27.540.140
5
103.890.559
96.222.391
9
152.510.559
123.762.531
Liên doanh
146
3.172.806.699
1.355.953.401
115
7.110.234.990
2.280.021.007
261
10.283.041.689
3.635.974.487
Tổng cộng
153
3.239.426.699
1.389.893.541
120
7.214.125.549
2.376.234.468
273
10.453.552.243
3.766.173.009
Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam
Qua bảng số liệu ta có thể thấy rằng các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chọn đầu tư vào ngành du lịch Việt Nam là doanh nghiệp liên doanh. Trong tổng số 153 dự án đầu tư vào ngành du lịch thì đã có đến 146 dự án là loại hình doanh nghiệp liên doanh. Còn hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có rất ít dự án. Điều đó chứng tỏ ngành du lịch Việt Nam chưa thực sự thu hút đông đảo các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài với nhiều hình thức. Chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bằng vốn và công nghệ còn các doanh nghiệp trong nước góp vốn bằng đất đai là chủ yếu.
Cho đến nay đã có 261 dự án liên doanh chiếm 96,5% tổng số dự án với tổng vốn đầu tư 10,28 tỷ đô la mỹ. Khẳ năng góp vốn của các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn hẹp, bình quân chỉ bằng 20% vốn đầu tư của liên doanh (trong khi mức tối thiểu phổ biến của các ngành khác là 30%)việc góp vốn này chủ yếu được thực hiện trong giá trị quyền sử dụng đất.
Khi doanh nghiệp Việt Nam chưa được chia lãi hay liên doanh bị lỗ thì nhà nước chưa thu được tiền cho thuê đất. Thêm vào đó, với quyết định hiện hành, doanh nghiệp nào có quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp đó có quyền liên doanh với bất kể ngành nghề chuyên môn đã đăng ký có phù hợp với mục tiêu hoạt động của liên doanh hay không. Điều này dẫn đến tình trạng Việt Nam bị”lép vế” do không nắm được chuyên môn.
Về mặt kinh tế các đối tác nước ngoài tham gia liên doanh trong ngành du lịch phần lớn là những công ty con trong những tập đoàn Khách sạn, du lịch lớn hoạt động trên phạm vi toàn thế giới (tập đoàn mẹ). Đây là điều kiện rất thuận lợi để các đối tác này khai vống các chi phí đầu tư, khai vống giá trị thiết bị, máy móc dùng để góp vốn, nâng giá đầu vào, hạ giá đầu ra thông qua việc chuyển giá cho các tập đoàn mẹ để thu lợi nhuận từ đầu và hạch toán lỗ cho cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không có khẳ năng kiểm soát.
Bảng 5 : FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo hình thức kinh doanh
ĐƠN VỊ: USD
Loại hình kinh doanh
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
I)Khách sạn du lịch
153
3.239.426.699
1.389.893.541
1)KD dịch vụ du lịch
9
8.424.800
7.160.361
2)KD dịch vụ KS trong đó:
102
2.583.257.050
978.121.688
2.1)KD khách sạn+ dịch vụ du lịch
96
2.393.957.050
916.056.888
2.2)KD khách sạn
6
189.300.000
62.064.800
3)KD sân golf
12
388.417.000
272.090.000
4)KD khu DL, làng DL
6
79.052.194
30.221.500
5)KD biệt thự
7
43.784.178
27.427.743
6)KD vận chuyển du lịch
4
32.007.000
11.870.000
7)KD câu lạc bộ thể thao- VH- giải trí
9
98.323.225
57.440.997
8)KD nhà hàng
4
6.161.252
5.561.252
II)Văn phòng- căn hộ
120
7.214.125.549
2.376.243.468
Tổng cộng(I+II)
273
10.453.552.248
3.766.137.009
Nguồn: tổng cục đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng nhóm kinh doanh khách sạn du lịch chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số dự án (102 dự án) lẫn tổng vốn đầu tư (gần 2.583 triệu USD). Tuy nhiên trong những năm gần đây cũng là nhóm kinh doanh kém hiệu quả, nhiều công trình bị tạm ngừng hay bên nước ngoài xin rút vốn cho bên Việt Nam hay liên doanh xin chuyển hướng hoạt động, bổ sung ngành nghề.
2.3. FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo đối tác đầu tư
Hiện nay nước ta đã thu hút được trên 30 quốc gia đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Điều đó thể hiện Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Việc thu hút đã đi đúng hướng và đúng đường lối phát triển kinh tế của nước ta là phát triển kết cấu hạ tầng đi trước một bước để tạo tiền đề cho sự tăng trưởng và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Bảng 6 : FDI phân theo vùng lãnh thổ
ĐƠN VỊ: USD
Đối tác đầu tư
Khách sạn du lịch
Văn phòng căn hộ
Tổng số
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
Anh
1
103.000.000
32.628.571
1
103.000.000
32.628.571
Aó
2
8.150.000
3.875.000
2
8.150.000
3.875.000
Ba lan
2
21.080.000
12.244.000
2
8.150.000
3.875.000
Bermuda
2
46.431.043
15.011.247
2
46.431.043
15.011.247
Bỉ
1
12.200.000
4.234.830
1
12.200.000
4.234.830
Bristish virgin Island
12
234.215.818
93.596.277
18
1.388.987.253
447.047.541
30
1.623.203.071
540.643.818
Bristish West Indles
1
7.765.000
1.250.000
1
7.765.000
1.250.000
Câyman Islands
1
15.232.400
6.804.000
1
15.232.400
6.804.000
Đài Loan
11
321.449.000
210.625.000
10
1.077.963.318
371.340.399
21
1.399.412.318
581.965.399
Hà Lan
3
127.188.750
39.002.750
3
28.310.000
10.655.577
6
155.498.750
49.658.327
Hàn Quốc
5
401.179.474
107.168.789
8
268.496.783
86.709.685
13
669.676.257
139.878.474
Hồng Kông
40
647.108.071
309.385.049
26
694.368.261
327.844.249
66
1.341.476.332
637.229.289
Inđonexia
1
57.542.000
11.385.000
0
0
0
1
57.542.000
11.385.000
Macao
1
3.000.000
3.000.000
1
3.000.000
3.000.000
Malaysia
11
247.090.000
99.574.830
1
40.000.000
12.140.200
12
287.090.000
111.715.030
Mỹ
1
558.361
588.361
2
45.733.215
28.371.428
3
462.915.576
28.959.789
Nhật
11
244.949.974
109.875.335
11
138.811.910
45.587.391
22
383.761.884
158.462.726
Philipin
1
58.000.000
34.727.093
1
58.000.000
34.727.093
Pháp
12
156.894.139
50.777.928
1
54.000.000
21.600.000
13
210.894.139
72.377.928
Singapore
17
503.753.069
193.138.631
24
2.844.797.600
820.638.345
41
3.348.550.669
1.013.776.976
ThaiLan
10
122.573.215
73.346.264
2
256.840.000
75.802.000
12
379.413.215
149.148.264
Australia
3
14.427.617
5.672.500
3
60.901.366
16.762.705
6
75.328.983
22.435.205
Nguồn: Vụ kết cấu hạ tầng - Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua bảng trên ta có thể thấy có 5 nước và vùng lãnh thổ có số dự án và tổng vốn đầu tư lơn nhất là: Hồng Kông với 66 dự án, trên 1.342 triệu USD. Singapore với 41 dự án, trên 3350 triệu USD. British Virgin Islands với 30 dự án, trên 1623 triệu USD. Nhật Bản với 22 dự án, trên 383 triệu USD. Đài Loan với 21 dự án, trên 1399 triệu USD.
Thực trạng này thể hiện luồng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam là những dòng đầu tư có trình độ khoa học công nghệ trung bình còn thiếu vắng những luồng đầu tư của các nước đã phát triển với tiềm lực khoa học và công nghệ. Nguồn để chế tạo ra những máy móc, thiết bị và những sản phẩm cao cấp nhằm đạt giá trị tăng trưởng cao. Ngay cả những đối tác của các nước đó vào những lĩnh vực Việt Nam khuyến khích còn rất ít. Điều đó đòi hỏi phải có những nhu cầu sâu hơn để tìm ra được những nguyên nhân thực sự tại sao vẫn chưa thu hút được doanh nghiệp FDI có trình độ, khoa học, công nghệ và quản lý cao, hàm lượng tri thức lớn và có những giải pháp đúng đắn để thay đổi tình trạng này.
Qua đó chúng ta có thể thấy rằng các vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam là những nước thuộc khu vực Châu Á là chủ yếu chưa có sự đầu tư mạnh mẽ của các nước Châu Âu và Mỹ La Tinh. Đó là một trong những nước có nền khoa học tiên tiến và nguồn vốn lớn. Nhưng Việt Nam chưa thực sự có những chính sách thực sự phù hợp để thu hút nguồn vốn dồi dào từ những nước này. Những nước đầu tư vào Việt Nam là những nước trong khu vực nước ta. Một phần là do nền văn hoá của các nước đó có nhiều điểm tương đồng với nền văn hoá nước ta, mặt khác trình độ của nước ta cũng tương đương trình độ khoa học và công nghệ của nước họ, nên có khẳ năng đáp ứng được yêu cầu của công việc cũng như công tác quản lý của các đối tác đầu tư. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng và phát triển như mục tiêu đề ra thì cần có những chính sách và định hướng thu hút FDI phù hợp hơn nữa để nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tận dụng tối đa mọi cơ hội đầu tư từ các nước vào Việt Nam.
2.4. FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng phân theo địa phương
Cho đến nay đã có hơn 30 địa phương thu hút được đầu trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng được phổ biến rộng rãi trên nước t. Nhưng nhìn chung chủ yếu vẫn tập trung ở những vùng kinh tế trọng điểm phia bắc và phía Nam, những vùng kinh tế phát triển. Những vùng sâu vùng xa chưa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng. Mà những vùng này lại đòi hỏi phải được đầu tư hơn nữa vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng để tạo tiền đề cho các ngành khác phát triển. Bởi nhưng vùng đó đường xã thông tin liên lạc còn chậm và lạc hậu đã cản trở sự phát triển của các vùng này. Vì vậy trước hết nước ta cần chú trọng đầu tư vào những vùng này hơn nữa để tạo ra sự phát triển cho những khu vực này đảm bảo cho sự phát triển đi lên của đất nước theo đúng định hướng phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hoá. Đồng thời tạo ra sự phát triển cân đối đồng đều giữa các vùng làm cho các vùng không chênh lệch nhau quá xa về kinh tế và mức sống.
Bảng 7 : FDI phân theo địa phương giai đoạn 1988-2005
ĐƠN VỊ: USD
Địa phương
Khách sạn- du lịch
Văn phòng- Căn hộ
Tổng số
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
Số dự án
Tổng VĐT
Tổng vốn pháp định
An Giang
1
700.000.000
2.500.000
1
700.000.000
2.500.000
Bà Rịa- Vũng Tàu
16
169.978.425
100.070.765
3
36.147.130
15.560.850
19
206.125.555
115.631.615
Bến Tre
1
4.000.000
1.200.000
1
4.000.000
1.200.000
Bình Thuận
4
20.626.700
9.076.700
4
20.626.700
9.076.700
Cần Thơ
1
4.200.000
1.250.000
1
4.200.000
1.250.000
Đồng Nai
1
22.729.000
19.236.000
1
54.000.000
21.600.000
2
76.729.000
40.836.000
Hà Bắc
1
80.000
80.000
1
80.000
80.000
Hà Nội
43
1.080.538.917
396.048.243
43
3.323.756.850
973.599.876
86
4.404.295.767
1.369.648.119
Hà Tây
1
21.875.000
21.875.000
1
21.875.000
21.875.000
Hải Phòng
6
135.610.000
101.432.500
3
49.400.000
13.334.830
9
1.405.500.000
114.767.330
Khánh Hoà
4
32.232.494
15.496.800
1
13.000.000
8.370.000
5
45.232.497
23.866.800
Lâm Đồng
2
55.887.000
45.000.000
2
55.887.000
45.000.000
Lào Cai
1
5.000.000
1.500.000
1
5.000.000
1.500.000
Lạng Sơn
1
818.763
818.763
1
818.763
818.763
Quảng Ninh
9
165.507.896
63.631.402
1
3.000.000
3.000.000
10
168.507.896
66.631.402
TP HCM
47
1.316.240.790
539.244.779
68
3.734.821.569
1.340.777.912
115
5.851.062.359
1.880.022.691
Vĩnh Phú
3
46.050.000
15.500.000
3
46.050.000
15.500.000
Nguồn: cục đầu tư nước ngoài- Bộ kế hoạch và đầu tư
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn và những vùng kinh tế trọng điểm. Hai Thành Phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh thu hút nhiều nhất đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng cả về số dự án và tổng vốn đầu tư. Điều đó là do hai thành phố này có nhiều điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài như: thông tin liên lạc thi nhanh nhạy đường xá giao thông thuận tiện, tập trung nhiều cơ quan đầu mối quan trọng của cả nước.
Qua bảng số liệu có năm Tỉnh Thành phố có số dự án và tổng vốn đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng lớn nhất là:
+ Thành phố Hồ Chí Minh với 115 dự án và tổng vốn đầu tư là 5.851.062.359 USD
+ Thành Phố Hà Nội với 86 dự án và tổng vốn đầu tư là 4.404.295.767 USD
+ Bà Rịa vũng Tàu với 19 dự án và tổng vốn đầu tư là 206.125.555 USD
+ Qu ảng Ninh: với 10 dự án và tổng vốn đầu tư là 168.507.896 USD
+ Hải Phòng: Với 9 dự án và tổng vốn đầu tư là 1.405.500.000. USD
3. Đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
3.1. Kết quả của việc thu hút và sử dụng FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng
Tính hết năm 2005 nước ta đã thu hút được 1119 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng trên 3755 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong cả nước chiếm tỷ trọng 19,96%. Từ đó đã giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Đã nâng cấp chất lượng phục vụ của hệ thống kết cấu hạ tầng. Mạng lưới kết cấu hạ tầng được củng cố và nâng cấp theo hướng đi vào chuẩn hoá, phát triển đồng bộ, nâng cao chất lượng trên toàn hệ thống, một số công trình xây dựng mới nhằm tăng năng lực và mở rộng diện phục vụ. Tập trung xây dựng các nút giao thông đô thị lớn, ưu tiên những vùng khó khăn, khắc phục chênh lệch vùng. Nhờ đó mạng kết cấu hạ tầng đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế xã hội với chất lượng phục vụ cao hơn và điều kiện tiếp cận thuận lợi hơn.
Nước ta đã thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng của trên 30 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư huy động được là 16.822.832.618 USD. Vấn đề giải ngân và sử cũng đã đạt được những thành công nhất định. Nhiều khu đô thi mới với nhiều khách sạn hiện đại đã được xây dựng thông qua nguồn vốn trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đã có 167 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh khách sạn và du lịch với tổng vốn là 3.515.089.648 USD. Lĩnh vực xây dựng khu đô thị mới với 4 dự án và tổng vốn đầu tư là 2.551.674.000 USD.Qua đó tạo ra chỗ ở cho hàng ngàn người chưa có chỗ ở.
Ngành bưu điện và hàng không của Việt Nam chưa thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhưng trong tương lai chắc chắn những ngành đó sẽ thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi chúng có những triển vọng nhất định.
Qua đầu tư trực tiếp nước ngoài hệ thống đường xá, giao thông được củng cố và thông thoáng hơn nhiều. Hệ thống khách sạn du lịch vui chơi giải trí đã được xây dựng đáp ứng nhu cầu vui chơi của người dân Việt Nam. Hệ thống cấp thoát nước cũng đã được xây dựng và phục vụ cho nhân dân các thành phố lớn và một số vùng, miền của nước ta đã được cung cấp nước sạch đến tận nơi
3.2. Những tồn tại và nguyên nhân trong việc thu hút và sử dụng FDI vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Khối lượng FDI thu hút được vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn thấp so với tiềm năng của nó. Chưa tương xứng với tiềm năng của đât nước và yêu cầu đặt ra của chiến lược phát triển kinh tế xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã đặt ra. Tính đến tháng 12 năm 2005 nước ta đã thu hút được 1119 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng chiếm tỷ trọng là 19,96% với tổng vốn đầu tư là 16.822.832.618 USD chiếm tỷ trọng 17,49%. Qua đó có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn tương đối khiêm tốn so với tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trong khi nước ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành như: du lịch, khách sạn, văn phòng, căn hộ, cho thuê… bởi nước ta là một nước nhiệt đới gió mùa, khí hậu mát mẻ, lại có nhiều danh lam thắng cảnh, một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc, với nguồn lao động dồi dào và nhân công rẻ. Vì vậy tiềm năng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là rất lớn. Đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần có những chính sách phù hợp để thu hút nhiều hơn nữa lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Nguyên nhân để khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng của nó là : Nước ta chưa thực sự tạo ra được một môi trường đầu tư hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước ta. Nước ta vẫn tồn tại hai bộ luật song song là luật đầu tư trực tiếp nước ngoài và luật đầu tư trong nước nên tạo ra sự phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách luật pháp còn hay thay đổi, không ổn định và chặt chẽ, đồng tiền còn mất giá và thủ tục đăng ký cấp phép đầu tư còn rườm rà, mất nhiều thời gian và tồn tại nhiều tiêu cực trong đó. Bên cạnh đó nước ta chưa thực sự có những chính sách định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lý.
Hệ thống pháp luật và chính sách điều chỉnh hoạt động FDI nói chung còn chắp vá, hay thay đổi, nhất là trong quản lý đất đai, các chế độ ưu đãi… làm ảnh hưởng tới sự hấp dẫn đối với môi trường đầu tư.
Tốc độ triển khai hoạt động của các dự án còn chậm so với dự kiến ban đầu. Nguyên nhân chủ yếu là các thủ tục sau khi cấp giấy phép tiến độ giải phóng mặt bằng và đền bù cho người dân. Riêng thời gian chờ phê duyệt chờ được cấp đất đã mất 3-6 tháng, có dự án kéo dài tới 2 năm. Theo phản ánh của một số doanh nghiệp tại Hà Nội để được cấp giấy phép quyền sử dụng đất phải qua 11 cơ quan với 8 chữ ký trùng lặp nhiều lần của các cơ quan chức năng thành phố như: phó chủ tịch thành phố(2 nguời):3 lần; giám đốc sở tài chính: 3 lần; kiến trúc sư trưởng thành phố: 2 lần…
Mục tiêu tăng dần tỷ lệ vốn của bên Việt Nam trong liên doanh chưa thực hiện được. Do vậy mà lợi nhuận được chia từ kết quả sản xuất kinh doanh rất nhỏ: nhiều liên doanh thua lỗ, bên Việt Nam không trực tiếp liên doanh được đành bán lại phần vốn góp của mình, xảy ra tình trạng các liên doanh chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực tài chính của bên Việt Nam hạn chế cho nên khi gặp khó khăn cần bàn bạc giải quyết. Bên Việt Nam thường lúng túng thoái thác cho bên nước ngoài. Hơn nữa các liên doanh sản xuât kinh doanh thường thua lỗ 4 -5 năm đầu, yêu cầu tăng vốn góp, tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhưng phía Việt Nam không đáp ứng được đành chuyển phần vốn góp của mình cho bên nước ngoài
Đào tạo lao động trong các doanh nghiệp FDI chưa thực sự được chú trọng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa địa phương và doanh nghiệp FDI trên địa bàn về việc đào tạo công nhân kỹ thuật cho nên có sự bất cập về số lượng cũng như chất lượng người lao động. Một vấn đề nữa là thái độ đối xử của chủ đầu tư nước ngoài với người lao động Việt Nam chưa công bằng cả trong cách cư xử lẫn tiền lương. Một cán bộ kỹ thuật nước ngoài có mức lương gấp 10-13 lần tổng lương của người lao động Việt Nam. Đây đó vẫn xảy ra tình trạng chủ đầu tư nước ngoài có hành vi xúc phạm người lao động Việt Nam. Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường phải làm việc thêm ngày và rất vất vả, quy định của doanh nghiệp rất khắt khe. Bên cạnh đó, mục tiêu nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động Việt Nam cũng chưa đạt yêu cầu. Thực chế lao động Việt Nam kém về trình độ và hạn chế về nhận thức, lao động chưa qua đào tạo chiếm 60-70%, hoạt động của tổ chức công đoàn trong các liên doanh chưa làm tròn vai trò của mình. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo của nước ta trong những năm qua còn nhiềi bất hợp lý, tỷ lệ đại học/ trung học là 4/1 trong khi các nước tiên tiến tỷ lệ đó là 1/6, điều đó dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” như hiện nay. Công nhân có trình độ tay nghề cao không nhiều, lao động chủ yếu chưa qua đào tạo ( chiếm 60-70%)
Công nghệ được chuyển giao còn lạc hậu: Một số doanh nghiệp FDI đưa vào Việt Nam các dây chuyền công nghệ quá hiện đại, công xuất sử dụng thấp cho nên lãng phí. Ngược lại, không ít các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, trung bình tiên tiến. Đối tác nước ngoài chủ yếu là các nước trong khu vực, các nước ASEAN; hiện các nước này đang tiến hành đổi mới công nghệ nên họ chuyển giao công nghệ trung bình tiên tiến sang Việt Nam. Nếu Việt Nam không cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này thì nguy cơ Việt Nam sẽ là bãi thải công nghệ của các nước ASEAN. Hơn nữa nước ta thiếu đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để có thể giám định, cũng như tìm đúng công nghệ mình cần mà hoạt động chuyển giao chủ yếu do bên nước ngoài giới thiệu và thực hiện.
Công tác quy hoạch nói chung, quy hoạch liên quan đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp công nghiệp còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể. Các khu công nghiệp đã thành lập do thiếu thiết kế kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, chưa đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nên mới chỉ lấp kín được 30% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nhiều KCN ở miền bắc và miền Trung tỷ lệ cho thuê đất rất thấp ( KCN Nomurai - Hải Phòng chưa lấp đầy 10%). Quy hoạch tổng thể của nhiều địa phương, nhiều KCN đã được phê duyệt nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, dẫn đến bị động trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư, giá phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các KCN cao đã triệt tiêu lợi thế về giá thuê đất rẻ trong các KCN.
Cơ cấu phân bổ FDI còn nhiều bất hợp lý: FDI chủ yếu tập trung ở các Thành phố lớn, những vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và phía nam như: Thành Phố Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu…Nguyên nhân chính là do các vùng này có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng và tập trung nhiều dân cư, có nguồn lao động dồi dào, thông tin liên lạc thuận tiện và là các đầu mối giao thông quan trọng trong cả nước. Còn các vùng sâu vùng xa và những vùng xa trung tâm thành phố hầu như chưa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực đó.
CHƯƠNG II. GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC KẾT CẤU HẠ TẦNG
1. Quan điểm thu hút
Để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế đến năm 2010 và biến nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp như đại hội IX của Đảng đã đề ra, đòi hỏi phải có sự chuyển biến cơ bản và mạnh mẽ cả trong nhận thức và hành động của tất cả các ngành, các cấp. Đối với lĩnh vực ĐTNN, cần thống nhất nhận thức và khẳng định quan điểm chiến lược thu hút ĐTNN cả đối với trung hạn và dài hạn. Dựa trên quan điểm của Đại hội IX và nghị quyết Trung ương 9 của Đảng, trên cơ sở đánh giá, dự báo tình hình trong nước và quốc tế trong những năm tới, cần khẳng định và quán triệt các quan điểm sau đây:
Quan điểm 1: Phải coi FDI là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, thu hút các dự án FDI trong lĩnh vực khoa học, công nghệ tạo nên nguồn lực quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm”, muốn vậy, “cần phải phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến “ [84, tr. 91]. Vì vậy, việc đưa ra các chính sách và những ưu đãi nhằm thu hút FDI trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ cao là rất cần thiết.
Những thành tựu bước đầu nhưng rất quan trọng trong 18 năm đổi mới cho phép kết luận rằng, vị trí của Việt Nam trong quan hệ chính trị-kinh tế quốc tế phụ thuộc nhiều vào việc Việt Nam có chính sách, biện pháp đúng đắn và kịp thời đến đâu để kết hợp các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, tạo cho Việt Nam chỗ đứng trong nền kinh tế thế giới.
Trước hết, cần nhận thức rằng xu hướng quốc tế hoá trong đời sống kinh tế ngày càng mở rộng. Đây là quá trình mà nền kinh tế của các nước tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và phụ thuộc vào nhau. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương tận dụng những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý để bổ sung và phát huy có hiệu quả lợi thế và nguồn lực trong nước.
Để thực hiện chủ trương trên, việc đa dạng hoá và đa phương hoá trong quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó việc đẩy mạnh thu hút FDI là một nội dung quan trọng cần được đề cao. Điều này đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế trong thời gian vừa qua, kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã chứng tỏ FDI là nguồn lực quan trọng góp phần bảo đảm vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, đóng góp tích cực vào việc tạo ra năng lực sản xuất mới, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, kích thích thị trường nội địa phát triển, mở mang thị trường quốc tế, giải quyết việc làm cho người lao động, đóng góp cho nguồn thu ngân sách và cuối cùng là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu hút FDI qua đó rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có chiến lược tạo nguồn vốn và sử dụng có hiệu quả trên cơ sở khai thác tốt mọi nguồn lực trong nước và sử dụng các nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định và là điều kiện hấp thụ vốn từ bên ngoài. Nguồn vốn FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của Nhà nước. Nhưng cần nhận biết rằng nguồn vốn này không thể điều động được mà phải dùng các biện pháp đặc biệt để thu hút, và phải chủ động làm việc này một cách quyết liệt, bằng cách cải thiện môi trường đầu tư đến những biện pháp khác như xúc tiến đầu tư từ cam kết của các nhà lãnh đạo cấp cao đến những người công chức bình thường trong bộ máy nhà nước. FDI là nhân tố nối kết và phát huy các nguồn lực tăng trưởng kinh tế (vốn, công nghệ, năng lực quản lý, lao động,...), là hình thức đầu tư ít lệ thuộc vào điều kiện chính trị và có tính khả thi cao, tránh được tình trạng nợ của Chính phủ và tạo cơ hội tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế. Tuy vốn FDI không chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhưng nếu được bố trí hợp lý trên bàn cờ chiến lược chung về vốn đầu tư thì FDI sẽ có vai trò tích cực, hỗ trợ cho việc phát huy năng lực sản xuất xã hội. Cần nhìn nhận vai trò của dòng vốn FDI vào Việt Nam và dòng vốn FDI ra từ Việt Nam đầu tư sang các nước khác.
Quan điểm 2: Không nên tuyệt đối hoá vai trò FDI đối với việc giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước
Quan điểm này nhấn mạnh rằng, bên cạnh việc thu hút FDI vào những ngành cần khuyến khích đầu tư, Nhà nước cần chủ động đầu tư vào những lĩnh vực nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và một số ngành công nghiệp nặng then chốt, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh.
Không ai có thể phủ nhận vai trò và những đóng góp quan trọng của FDI đối với nền kinh tế quốc dân nhưng cũng cần tránh quan điểm ảo tưởng về tính màu nhiệm của FDI và tuyệt đối hoá vai trò của FDI. Nếu chỉ có các hoạt động FDI thì cũng không thể quyết định sự thành công của mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, mà nó phải được kết hợp đồng bộ với các nguồn vốn khác được huy động trong nước và nguồn vốn ODA...
Mặt khác, FDI tự thân nó sẽ không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế nếu thiếu sự định hướng đúng đắn của Nhà nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn và công nghệ đầu tư vào Việt Nam với mục đích cuối cùng là lợi nhuận hay sự chi phối mang tính độc quyền. Họ sẽ chỉ đầu tư vào lĩnh vực nào mà họ cho là có tỷ suất lợi nhuận cao và thời gian thu hồi vốn nhanh hay mang lại cho họ lợi nhuận mang tính độc quyền. Do vậy, nếu thiếu sự định hướng của Nhà nước, các nguồn vốn FDI có thể sẽ tập trung vào một số ngành nhất định gây ra sự mất cân đối cho nền kinh tế trong khi đó những lĩnh vực mà Việt Nam cần phát triển để đẩy mạnh công nghiệp, hoá hiện đại hoá thì lại thiếu vốn.
Khi thu hút FDI phải chú ý những vấn đề như:
- Hiệu quả kinh tế của FDI: Một dự án FDI mới sẽ đem lại mức tăng như thế nào về năng lực sản xuất mới của ngành, hình thành nên ngành nghề mới và các sản phẩm mới, có tính cạnh tranh cao trên thị trường. Dự án FDI đó đóng góp như thế nào vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Hiệu quả xã hội của FDI: Vấn đề giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao tay nghề và kỹ năng cho người lao động.
- Hiệu quả tài chính của FDI: Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo nên các cách thức thu hút và tạo vốn mới đối với xã hội, vận dụng những quan niệm mới và thành quả mới trong việc tạo vốn cho doanh nghiệp.
Quan điểm 3: Thu hút FDI trong mối quan hệ với độc lập, tự chủ và an ninh quốc phòng
Thu hút mạnh mẽ FDI vào những ngành Việt Nam có lợi thế cạnh tranh, những ngành cần huy động vốn, công nghệ và mở rộng thị trường quốc tế. Đây chính là yếu tố tạo thêm sức mua của thị trường trong nước, mở rộng thị trường nước ngoài và đẩy mạnh xuất khẩu. Mặt khác, thông qua FDI cũng là một phương thức chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp góp phần vào phát triển kinh tế đất nước một cách nhanh chóng, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở Việt Nam.
Cần tránh quan điểm coi nhẹ, thậm chí lên án FDI và cho rằng nếu triển khai trên quy mô lớn sẽ ảnh hưởng xấu đến tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế và định hướng phát triển của đất nước. Việt Nam là quốc gia độc lập, đất nước có chủ quyền, có hệ thống pháp lý, do vậy, mọi hoạt động của FDI đều phải tuân thủ luật pháp của Việt Nam, cụ thể là Luật Đầu tư nước ng._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BC2248.doc