Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài vào dịch vụ viễn thông giai đoạn 2005-2010 (88tr)

Chương 1. Vai trò của dịch vụ viễn thông và sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ Viễn thông I.Khái quát về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài Quyền sở hữu và sự khác nhau về các yếu tố sản xuất, vị trí địa lý, TNTN và trình độ phát triển không đồng đều về LLSX.v.v.. đã thúc đẩy sự trao đổi và phân công lao động quốc tế dựa trên lợi thế so sánh giữa các quốc gia, đồng thời cùng với sự khác nhau giữa nhu cầu

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài vào dịch vụ viễn thông giai đoạn 2005-2010 (88tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và khả năng tích luỹ về vốn ở các nước đã làm gia tăng nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường và tìm kiếm lợi nhuận.v.v.. Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là sự bỏ vốn đầu tư dài hạn vào kinh doanh từ nước này sang nước khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp 1.1.1. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Indirect Investment – FII) Đầu tư gián tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia, trong đó người sở hữu vốn không trực tiếp quản lý và điều hành các hoạt động sử dụng vốn mà chỉ được hưởng lãi suất theo tỷ lệ vốn góp, thông qua việc mua chứng khoán có giá trị như trái phiếu, cổ phiếu. Đầu tư gián tiếp nước ngoài gồm có một số hình thức. Hình thức của đầu tư gián tiếp phụ thuộc chính vào nguồn vốn của chủ đầu tư. Nguồn vốn này rất đa dạng, có thể là của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ... Các nguồn vốn này có thể dưới hình thức viện trợ hoàn lại và không hoàn lại, cho vay ưu đãi và không ưu đãi. Nếu đó là vốn của các tổ chức quốc tế thì nó thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi, nên thường tập trung vào các dự án có mức độ đầu tư tương đối lớn, thời gian dài và gắn chặt với thái độ chính trị của các chính phủ và các tổ chức quốc tế khác nhau. Nếu là vốn đầu tư của tư nhân thì chủ đầu tư nước ngoài bị khống chế bởi mức độ góp vốn theo luật đầu tư của nước sở tại. Một số bộ phận quan trọng của đầu tư gián tiếp nước ngoài là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ một số nước công nghiệp phát triển và các tổ chức đa phương. 1.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) Trên thế giới có nhiều cách diễn giải về Khái niệm FDI, tùy theo góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế. Tuy nhiên, cách định nghĩa được sử dụng rộng rãi hơn cả là do quỹ tiền tệ quốc tế (IFF) đưa ra. Theo IMF: “FDI là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”. Khái niệm này nhấn mạnh vào hai yếu tố chính là tính lâu dài của hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là dành quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động quản lý doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo qui định của luật này”. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này”. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài, nhằm xác định được tư bản được chuyển dịch trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vị một quốc gia. 1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án, ở Mỹ quy định 10% và một số nước lại quy định là 20%. Đặc điểm nổi bật của hình thức đầu tư FDI là chủ ĐTNN được tham gia trực tiếp vào các quan hệ sản xuất kinh doanh, được tự mình quản lý kinh doanh trên phần góp vốn góp của mình khi đầu tư vào nước nhận đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phục thuộc vào tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. Nếu doanh nghiệp góp 100% vốn trong vốn pháp định thì doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và cũng do họ quản lý toàn bộ. Quan hệ đầu tư FDI là quan hệ có mục đích kinh doanh rõ ràng, lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của nhà đầu tư. Lợi nhuận mà nhà đầu tư được phân chia sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định. Quan hệ này chịư sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường, ít chịu ảnh hưởng của các quan hệ chính trị, chính sách của các chính phủ. Đồng thời nó còn phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về đầu tư FDI của nước nhận đầu tư bởi nó gắn liền với các yếu tố di chuyển tư bản từ nước này sang nước khác để kinh doanh. FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau. Đầu tư FDI được thực hiện giữa ít nhất hai bên có hai quốc tịch khác nhau, một bên là nước sở tại và một bên là đối tác nước ngoài. Đặc điểm này đòi hỏi các bên phải sử dụng ngôn ngữ quốc tế và ngôn ngữ nước sở tại trong các văn bản của dự án FDI và trong quá trình hoạt động của dự án. Đầu tư FDI thường đi kèm với hoạt động chuyển giao công nghệ. Đặc điểm này khiến các nước đang phát triển ngày càng thu hút nhiều FDI, bởi lẽ bên cạnh yếu tố vốn thì công nghệ cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngoài ra, FDI có thể tạo hướng phát triển cho nhiều ngành nghề mới, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác nó có thể chi phối ở môt mức độ nhất định nền kinh tế nước nhận đầu tư. Chính vì vậy mà phải có những chính sách đầu tư hợp lý, một mặt vừa phát huy sức mạnh của đầu tư nước ngoài, mặt khác phải có những biện pháp đúng đắn để ngăn chặn sự chi phối này, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế lâu dài. 1.3. Các hình thức FDI Quá trình thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thực tế diễn ra rất phức tạp, đa dạng và biến chuyển không ngừng. Để có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ đầu tư nước ngoài có thể bỏ vốn đầu tư, đồng thời để các nhà quản lý có thể thực hiện tốt chức năng của mình đòi hỏi hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài phải được hoàn thiện, có những điều chỉnh hợp lý và kịp thời khi cần thiết. Sau hai lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990 và 1992, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 là cột mốc thể hiện sự tương đối hoàn thiện trong pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tiếp đến là sự ra đời của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 09 tháng 6 năm 2000. Chính phủ đã ban hành Nghị định số24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000, quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Gần đây nhất Chính phủ đưa ra Nghị định số 27/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2003 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000. Như vậy, theo pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài sau: 1.3.1. Hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh. a. Khái niệm: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới. b. Đặc điểm: - Hợp đồng được ký giữa hai hoặc nhiều Bên tróng đó có ít nhất một bên là đối tác Việt Nam và một bên là đối tác nước ngoài. - Các Bên hợp doanh tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần lập ra một pháp nhân mới tách biệt với các Bên hợp doanh, tức là không cho ra đời một công ty, xí nghiệp mới. Các dự án đầu tư theo hình thức này được chấp thuận trên cơ sở đồng ý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh. - Theo Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000, quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngành nghề chỉ được phép thực hiện đầu tư kinh doanh nước ngoài theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là: xây dựng, kinh doanh mạng Viễn thông quốc tế, Viễn thông nội hạt. - Trong quá trình kinh doanh, nếu xét thấy cần thiết, các Bên hợp doanh có thể thoả thuận thành lập Ban điều phối để thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban điều phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các Bên hợp doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban điều phối do các Bên hợp doanh thoả thuận. - Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập Văn phòng điều hành tại Việt Nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh và chịu trách nhiệm về hoạt động của Văn phòng điều hành. Văn phòng điều hành của Bên hợp doanh nước ngoài có con dấu, được mở tài khoản, được tuyển dụng lao động, được ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy phép đầu tư và Hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật Đầu tư nước ngoài; Bên hợp doanh Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước. Thuế thu nhập và các nghĩa vụ tài chính khác của các Bên hợp doanh (gồm cả tiền thuê đất, thuế tài nguyên...) có thể được tính gộp vào phần sản phẩm được chia cho Bên hợp doanh Việt Nam và Bên hợp doanh Việt Nam có trách nhiệm nộp cho Nhà nước. c. Thuận lợi khi áp dụng: - Do không thành lập pháp nhân mới nên thủ tục đăng ký không phức tạp như các hình thức khác. Các Bên có thể linh hoạt trong quá trình thoả thuận, từ xác định thời hạn hợp đồng đến việc quản lý hoạt động kinh doanh. - Ban điều phối được thành lập tạo điều kiện giám sát và quản lý việc hợp tác đầu tư một cách công khai và có hiệu quả hơn, giảm bớt các tranh chấp có thể có trong quá trình phân chia kết quả kinh doanh. - Mỗi Bên tham gia thực hiện nghĩa vụ và các nghĩa vụ tài chính khác một cách riêng biệt. - Bên hợp doanh nước ngoài không bị khống chế tỷ lệ góp vốn pháp định tối thiểu là 30% như Bên nước ngoài trong hình thức liên doanh. d. Khó khăn khi áp dụng: - Không tồn tại một thực thể pháp lý riêng biệt ở Việt Nam và không mang tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn, điều này gây nên sự khó khăn trong việc tuyển dụng lao động và ký kết các hợp đồng với các đối tác để thực hiện dự án đầu tư. - Bên hợp doanh nước ngoài trong nhiều trường hợp đóng góp phần lớn vốn đầu tư, trang thiết bị... nhưng không được phân chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp, thậm chí không có nhiều ảnh hưởng lắm trong quá trình điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh. - Không được tự do lựa chọn lĩnh vực đầu tư và không có nhiều ưu đãi về miễn giảm thuế như các hình thức đầu tư khác. 1.3.2. Hình thức Doanh nghiệp liên doanh. a. Khái niệm: Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng liên doanh ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, Doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên co sở Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước khác. Doanh nghiệp liên doanh mới là doanh nghiệp được thành lập giữa Doanh nghiệp liên doanh đã được thành lập tại Việt Nam với: Nhà đầu tư nước ngoài; Doanh nghiệp Việt Nam; Cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Doanh nghiệp liên doanh hoặc Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam. b. Đặc điểm: - Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức Công ty TNHH, mang tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. - Vốn pháp định của Doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn Khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không quá 20% vốn đầu tư và phải được Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chấp thuận. - Tỷ lệ góp vốn của Bên hoặc các Bên liên doanh nước ngoài do các Bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của Doanh nghiệp liên doanh. Trong một vài trường hợp cụ thể, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn pháp định. Việc góp vốn pháp định bằng quyền sở hữu đất của Bên Việt Nam do các Bên liên doanh thoả thuận dựa trên cơ sở giá tiền thuê đất được uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định trong Khung giá do Bộ tài chính ban hành. - Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo của Doanh nghiệp liên doanh có nhiệm kỳ không quá 5 năm. Mỗi bên cử người của mình tham gia Hội đồng quản trị ứng với phần góp vốn trong vốn pháp định. Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ Doanh nghiệp có quy định khác. Tổng Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc thứ nhất do Bên liên doanh Việt Nam đề cử và là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam. - Lợi nhuận và rủi ro được phân chia theo tỷ lệ góp vốn. Công ty liên doanh không được giảm vốn trong quá trình liên doanh, nếu tăng vốn phải làm bản giải trình nộp lên Bộ Kế hoạc và Đầu tư để xem xét giải quyết. c. Thuận lợi khi áp dụng: - Không bị hạn chế về lĩnh vực đầu tư. - Doanh nghiệp liên doanh được phép chuyển nhượng vốn sau khi đăng ký việc chuyển nhượng với Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư. - Dễ tìm kiếm đất để xây dựng công trình do bên Việt Nam thường góp vốn bằng quyền sử dụng đất. - Bên Việt Nam có thể hỗ trợ trong hoạt động của liên doanh, tuyển dụng lao động, tìm kiếm các nguồn nguyên liệu ở trong nước cung cấp cho liên doanh hoặc tiêu thụ hàng hoá tại thị trường trong nước. Bên nước ngoài có thể chủ động hơn trong quá trình điều hành hoạt động kinh doanh, áp dụng và phát huy các công nghệ mới, các kinh nghiệm quản lý có hiệu quả của mình tại Việt Nam. - Rủi ro được chia sẻ giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài. d. Khó khăn khi áp dụng: - Khả năng góp vốn bằng tiền mặt và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của Việt Nam rất hạn chế, điều này dẫn đến một số thiệt thòi của Bên Việt Nam trong việc đưa ra các quyết định về quản lý điều hành kinh doanh cũng như trong việc hưởng lợi nhuận. - Rủi ro cao, thu hồi vốn chậm. Đặc biệt đã xảy ra trường hợp, do phía Việt Nam sau một thời gian không thể chịu đựng các tổn thất từ việc thua lỗ của liên doanh nên đã rút lui khỏi liên doanh, khiến các công ty này sau đó đã chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. 1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. a. Khái niêm: Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà đầu tư nước ngoài, do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. b. Đặc điểm: - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. - Vốn pháp định của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn Khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chấp thuận. - Nhà đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể thành lập Hội đồng quản trị phù hợp với Điều lệ của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp là Tổng Giám đốc, trừ trường hợp Điều lệ doanh nghiệp quy định khác. c. Thuận lợi khi áp dụng: - Độc lập về tổ chức và điều hành hoạt động của doanh nghiệp và không phải chia sẻ lợi nhuận. - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng được phép chuyển nhượng vốn sau khi đăng ký việc chuyển nhượng với Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư. d. Khó khăn khi áp dụng: - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào một sỗ lĩnh vực như: khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản, du lịch lữ hành, văn hoá, trồng rừng, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công cộng... - Việc tìm kiếm đất khó khăn hơn Doanh nghiệp liên doanh và các Bên trong Hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Không có sự hỗ trợ của bên Việt Nam trong việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp cũng như tìm đối tác trong nước. - Hoàn toàn chịu mọi rủi ro nếu hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. 1.3.4. Các phương thức B.O.T – B.T.O – B.T Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đây không phải là các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chúng là các cách thức thực hiện các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh thích hợp mà chủ yếu là trong việc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (Build – Operatate – Transfer, B.O.T) Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình) và kinh doanh trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý; hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (Build – Transfer – Operate, B.T.O) Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình), sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (Build – Transfer, B.T) Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình), sau khi xây dựng xông nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Các phương thức này có những đặc điểm cơ bản là: * Nhà đầu tư nước ngoài chỉ được ký hợp đồng với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của Việt Nam như: đường, cầu, cảng, sân bay, các công trình điện nước... * Được hưởng nhiều ưu đãi của Chính phủ Việt Nam về tiền thuê đất, thuế các loại, thời gian đầu tư, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thu hồi vốn và có lời hợp lý. * Hết thời hạn hoạt động của Giấy phép, chủ đầu tư phải chuyển giao không bồi hoàn công trình cho Chính phủ Việt Nam trong tình trạng hoạt động bình thường. 1.3.5. Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao không được coi là hình thức đầu tư mà chúng có thể được coi như nhà những khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài có tính chất hỗn hợp trong đó diễn ra các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác nhau. Thực chất đây là những khu vực địa lý có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng và được hưởng các ưu đãi về cơ chế, chính sách nhằm mục đích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp hoạt động trong các khu vực đó, sản xuất hàng hoá để tiêu thụ trong nước hoặc để xuất khẩu. Các quy định pháp lý của các hình thức này được nêu trong Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất Khu công nghệ cao, ban hành theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ Tóm lại, việc phát triển mạnh các hình thức đầu tư là rất cần thiết và góp phần quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc đa dạng hoá và hợp lý hoá các hình thức đầu tư tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thêm được các cơ hội đầu tư. Nhờ đó nền kinh tế cũng thu hút được nhiều hơn các nguồn lực về vốn và công nghệ. 1.4. Tác động của FDI FDI là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại, một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. FDI mang lại lợi ích và cả rủi ro cho cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. 1.4.1. Đối với nước đầu tư: Tác động tích cực : - Thứ nhất, thông qua FDI, các nước chủ đầu tư khai thác những lợi thế so sánh của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp giảm giá thành sản phẩm (nhờ giảm giá nhân công, vận chuyển, chi phí sản xuất khác và thuế...), nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như lợi nhuận của vốn đầu tư, đồng thời giảm bớt rủi ro đầu tư so với nếu chỉ tập trung vào thị trường trong nước. - Thứ hai, FDI giúp các nước chủ đầu tư xây dựng thêm được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Nhiều nước nhận đầu tư có tài nguyên dồi dào, nhưng do hạn chế về tiền vốn, kỹ thuật, công nghệ cho nên những tài nguyên đó chưa được khai thác, và sử dụng một cách có hiệu quả. Thông qua việc đầu tư khai thác tài nguyên, các nước chủ đầu tư ổn định được những nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho ngành sản xuất ở nước mình. - Thứ ba, FDI giúp các nước chủ đầu tư tăng thêm sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Thông qua xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, các nước chủ đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước, cũng như có thể thông qua ảnh hưởng về kinh tế tác động chi phối đời sống chính trị nước chủ nhà, có lợi cho nước đầu tư. Tác động tiêu cực: - Thứ nhất, nếu chính phủ các nước đi đầu tư đưa ra các chính sách không phù hợp sẽ không Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầu tư ở trong nước. Khi đó các doanh nghiệp lao mạnh ra nước ngoài đầu tư để thu lợi, do đó các quốc gia chủ nhà có xu hướng bị suy thoái, tụt hậu. - Thứ hai, nếu không nắm vững và xử lý tốt các thông tin thị trường và luật pháp nước sở tại, thì chủ đầu tư có thể gặp rủi ro trong quá trình đầu tư với mức độ thậm chí cao hơn nếu chỉ đầu tư vào thị trường trong nước mình. 1.4.2. Đối với nước nhận đầu tư Tác động tích cực - Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho sự phát triển. Trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều bị thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ nên rất cần nguồn vốn từ bên ngoài bổ sung cho vốn đầu tư phát triển. Loại hình FDI không quy định mức đầu tư vốn tối đa mà chỉ quy định mức tối thiểu do vậy cho phép các nước sở tại khai thác được nguồn vốn bên ngoài. Nguồn vốn FDI có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống KT-XH và thường là vốn đầu tư dài hạn, do các nhà đầu tư nước ngoài tự quản lý, nên có hiệu quả để tăng trưởng kinh tế bền vững. - Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Đối với các nước phát triển thì FDI góp phần bổ sung và hoàn thiện công nghệ của mình. Đối với đang phát triển trình độ công nghệ lạc hâu, thấp kém thì FDI được coi là một phương tiện hữu hiệu để nhập công nghệ có trình độ cao hơn từ bên ngoài bằng các con đường khác nhau như : thông qua việc mua bằng sáng chế phát minh và cải tiến cho phù hợp với nước mình; nắm vững nguyên lý vận hành, sửa chữa của các loại máy móc thiết bị, từ đó học tập và phát triển nó; tiếp cận và ứng dụng kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh... - Thứ ba, bằng kinh nghiêm, công nghệ, vốn từ FDI sẽ cho phép các nước tiếp nhận FDI tận dụng và phát huy các lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý và nguồn lao động... của mình. Đặc biệt nhờ các kênh tiêu thụ sẵn có của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có đièu kiện tiếp cận, mở mang thị trường quốc tế, tăng kim ngạch xuất khẩu. - Thứ tư, FDI giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp và giúp gia tăng thu nhập, tạo phong cách và tư duy lao động mới ở các nước đang phát triển. Trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận, các chủ đầu tư đặc biệt chú trọng đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua việc tạo ra các doanh nghiệp mới hoặc tăng quy mô sản xuất của đơn vị hiện có, FDI đã tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân địa phương. Song song với tạo thêm việc làm, FDI còn làm tăng thu nhập cho người lao động bởi tiền trả lương từ các doanh nghiệp có vốn FDI thường cao hơn doanh nghiệp trong nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Tóm lại, FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện với sự phát triển KT-XH của các nước tiếp nhận đầu tư. Với những ưu điểm nôi bật đó thì việc thu hút ngày càng nhiều FDI trở thành một chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, thu hút tới mức nào thì còn phụ thuộc vào điều kiện, nhu cầu vốn để phát triển kinh tế mỗi nước bởi lẽ bên cạnh các tác động tích cực, FDI cũng có thể tạo ra những ảnh hưởng không tốt tới nền kinh tế. Tác động tiêu cực - Thứ nhất, do chủ đầu tư trực tiếp sở hữu và quản lý vốn và vì các mục tiêu của mình nên họ thường đầu tư vào các nghành, các lĩnh vực nhiều khi không trùng khớp với mong muốn của nước sở tại. Nếu không có những quy hoạch và cơ chế quản lý FDI có hiệu quả, sẽ có thể dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả, cơ cấu kinh tế bị sai lệch, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng... - Thứ hai, nước sở tại phải đương đầu với các chủ đầu tư quốc tế giàu kinh nghiệm trong kinh doanh, nên trong nhiều trường hợp dễ bị thua thiệt hoặc chịu sức ép từ họ trên các lĩnh vực như: giá cả, kỹ thuật, phương thức quản lý...Ngoài ra còn có một nguy cơ nữa, đó là tình trạng “chảy máu chất xám” và dòng ngoại tệ chảy ngược (do các nhà đầu tư sau khi thu được nhiều lợi nhuận thì gửi về nước). - Thứ ba, trong quá trình tiếp nhận đầu tư, nước đầu tư có khả năng sẽ du nhập những công nghệ lạc hậu với giá đắt đỏ gây ra những chi phí lớn cho sự dỡ bỏ, thay thế hoặc khắc phục hậu quả về sau, đồng thời làm tăng thêm ô nhiễm môi trường. - Thứ tư, FDI có thể gây ra thâm hụt cán cân thanh toán và về lâu về dài làm cho tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tư nội địa giảm. Sự lấn át của các doanh nghiệp có vốn FDI sẽ làm tăng sự phá sản của các cơ sở kinh tế và các ngành nghề truyền thống, làm tăng tâm lý sùng bái hàng ngoại. Trên đây là những tác động mặt trái có thể có của FDI tới nền kinh tế của nước sở tại với các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Từ những tác động này đòi hỏi các nước phải có định hướng, chính sách quản lý và sử dụng FDI có hiệu quả, làm sao vừa thu hút được FDI để phục vụ việc phát triển kinh tế vừa giảm thiểu các tác hại mà quá trình thu hút FDI mang lại. Kết luận: Với những ưu điểm của mình, FDI là một nguồn lực không thể thiếu trong qúa trình tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Thông qua rất nhiều hình thức khác nhau, các nhà đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận thị trường, khai thác và tận dụng những lợi thế của nước sở tại đem lại lợi ích cho cả hai phía, đầu tư và nhận đầu tư. Quốc gia nào có chính sách thích hợp và đúng đắn thì sẽ vừa có thể tăng cường thu hút FDI mà vẫn kiểm soát được nó, vẫn đảm được chủ quyền dân tộc. Sau khi đưa ra những co sở lý luận liên quan đến FDI, phần tiếp theo của chuyên đề xin được trình bày về Viễn thông và sự cần thiết phải của FDI trong lĩnh vực này để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm thu hút FDI có hiệu quả hơn. II. Vai trò của dịch vụ Viễn thông và sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này. 2.1. Khái niệm và đặc điểm kinh tế-kỹ thuật của dịch vụ Viễn thông 2.1.1. Khái niệm và phân loại Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội số 43/2002/PL ngày 25 tháng 5 năm 2002 về Bưu chính, Viễn thông và Nghị định số 60/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Bưu chính, Viễn thông về Viễn thông, đã đưa ra khái niệm và cách phân loại Dịch vụ Viễn thông như sau: Khái niệm: Dịch vụ Viễn thông: là dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng Viễn thông. Phân loại dịch vụ Viễn thông: 1. Dịch vụ Viễn thông cơ bản là dịch vụ truyền đưa tức thời thông tin của người sử dụng dưới dạng ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng Viễn thông hoặc Internet mà không làm thay đổi loại hình hoặc nội dung thông tin được gửi và nhận qua mạng. Dịch vụ Viễn thông cơ bản bao gồm : a) Dịch vụ Viễn thông cố định Dịch vụ điện thoại (nội hạt, điện thoại nội tỉnh, điện thoại liên tỉnh, điện thoại quốc tế) + Dịch vụ điện thoại nội hạt: là dịch vụ phục vụ nhu cầu đàm thoại của khách hàng trong phạm vi địa danh theo quy định hành chính là nội thành, nội thị, nội huyện của một tỉnh thông qua mạng lưới viễn thông nội hạt. + Dịch vụ điện thoại nội tỉnh: là dịch vụ cho phép các cuộc gọi điện thoại được thiết lập giữa thành phố, thị xã với các huyện, và ngược lại thông qua mạng lưới Viễn thông nội tỉnh. + Dịch vụ điện thoại liên tỉnh: là dịch vụ cho phép các cuộc gọi điện thoại được thiết lập giữa một máy điện thoại thuộc một tỉnh hoặc thành phố này đến một máy điện thoại thuộc một tỉnh, thành phố khác và ngược lại thông qua mạng lưới Viễn thông liên tỉnh. + Dịch vụ điện thoại quốc tế: là dịch vụ cho phép các cuộc gọi điện thoại được thiết lập giữa một máy điện thoại ở Việt Nam đến một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ khác và ngược lại thông qua mạng Viễn thông quốc tế. Dịch vụ truyền số liệu Là dịch vụ mà khách hàng sử dụng để đảm bảo việc truyền số liệu giữa máy tính với máy tính; giữa máy tính với mạng máy tính (mạng LAN); giữa máy tính (hoặc mạng máy tính) với các cơ sở lưu trữ dữ liệu (database) để truy tìm tin tức Dịch vụ truyền dẫn tín hiệu truyền hình Dịch vụ thuê kênh riêng Là dịch vụ thông tin cho do doanh nghiệp Bưu chính, Viễn thông cung cấp cho các khách hàng là các cơ quan, tổ chức, đoàn thể hoặc các doanh nghiệp các kênh thông tin riêng để họ sử dụng cho mục đích thông tin nội bộ như: truyền thoại, số liệu, ...trong phạm vi những kênh thông tin thuê riêng đó. Dịch vụ telex Là dịch vụ thông tin truyền chữ trao đổi giữa các máy Telex thông qua các máy Telex đầu cuối đấu vào trung tâm chuyển mạc._.h. Máy Telex là thiết bị đầu cuối đặt tại nhà thuê bao, hoặc các cơ sở bưu điện được đấu vào tổng đài trong mạng Telex. Dịch vụ điện báo Là sự truyền đưa tin tức bằng chữ từ nơi này đến nơi khác thông qua hệ thống thiết bị kỹ thuật viễn thông của bưu điện. Điện báo gồm các loại sau: điện báo trong nước, điện báo quốc tế, điện báo đến có nhiều địa chỉ, điện báo có cước trả lời, điện chúc mừng, điện chia buồn. Dịch vụ Fax (Facsimile) Là dịch vụ dùng để truyền đưa nguyên bản các tin tức có sẵn trên giấy như sơ đồ, biểu mẫu, hình ảnh, chữ viết,... qua mạng Viễn thông trong nước hoặc quốc tế. Tuỳ theo đặc điểm sử dụng Fax bao gồm Fax công cộng và Fax thuê bao. b) Dịch vụ Viễn thông di động (nội vùng, toàn quốc) Dịch vụ thông tin di động mặt đất; Dịch vụ điện thoại trung kế vô tuyến Dịch vụ nhắn tin; c) Dịch vụ Viễn thông cố định vệ tinh; d) Dịch vụ Viễn thông di động vệ tinh; đ) Dịch vụ vô tuyến điện hàng hải; e) Các dịch vụ cơ bản khác do Bộ Bưu chính, Viễn thông quy định 2. Dịch vụ cộng thêm là dịch vụ được cung cấp thêm đồng thời cùng với dịch vụ cơ bản, làm phong phú và hoàn thiện thêm dịch vụ cơ bản, trên cơ sở các tính năng kỹ thuật của thiết bị hoặc khả năng phục vụ của Doanh nghiệp Viễn thông. Doanh nghiệp Viễn thông quy định và công bố các dịch vụ cộng thêm do mình cung cấp. 3. Dịch vụ giá trị gia tăng là dịch vụ làm tăng thêm giá trị sử dụng thông tin của người sử dụng bằng cách hoàn thiện loại hình hoặc nội dung thông tin, hoặc cung cấp khả năng lưu trữ, khôi phục thông tin đó trên cơ sở sử dụng mạng Viễn thông hoặc Internet. Dịch vụ giá trị gia tăng bao gồm: a) Dịch vụ thư điện tử (e-mail) b) Dịch vụt thư thoại (voice mail) c) Dịch vụ truy cập dữ liệu và thông tin trên mạng d) Dịch vụ trao đổi dữ liệu điện tử e) Dịch vụ chuyển đổi mã và giao thức g) Dịch vụ xử lý dữ liệu và thông tin trên mạng h) Các dịch vụ giá trị gia tăng khác do Bộ Bưu Chính, Viễn thông quy định . 4.Dịch vụ Internet bao gồm: a) Dịch vụ kết nối Internet b) Dịch vụ truy cập Internet trong Viễn thông c) Dịch vụ ứng dụng Internet trong Viễn thông 2.1.2. Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của dịch vụ Viễn thông Viễn thông là ngành kết cấu hạ tầng của nền kinh tế đồng thời cũng là nghành sản xuất, dịch vụ. Sản phẩm của Viễn thông không phải là sản phẩm vật chất mới, không phải là hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức từ người gửi đến người nhận và được thể hiện dưới dạng dịch vụ do đó dịch vụ Viễn thông có những đặc điểm kinh tế – kỹ thuật sau: 2.1.2.1. Quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm Trong hoạt động của Viễn thông, quá trình sản xuất gắn liền với quá trình tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến các sản phẩm Viễn thông không thể thu hồi lại được và không thể thay thế các dịch vụ vi phạm chỉ tiêu chất lượng. Toàn bộ sản phẩm Viễn thông có chất lượng đảm bảo hay không đảm bảo sẽ được chuyển đến cho người sử dụng. Do tính chất không tách rời được quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ Viễn thông dẫn đến có những yêu cầu cao hơn đối với tính nguyên vẹn của tin tức trong hệ thống liên lạc, độ tin cậy của tin tức được truyền đưa. Do đặc điểm này của dịch vụ Viễn thông dẫn đến để kích thích và thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, mạhg lưới thông tin cần được phát triển rộng khắp, đảm bảo sự tiên lợi nhất cho khách hàng trong việc truyền đưa tin tức. 2.1.2.2. Khối lượng dịch vụ Viễn thông cung cấp phụ thuộc trực tiếp vào mức độ và đặc tính của nhu cầu sử dụng Dịch vụ Viễn thông được tạo ra trong việc thoả mãn các nhu cầu của khách hàng khi truyền đưa tin tức. Trong khi đó, nhu cầu truyền đưa tin tức của khách hàng lại rất đa dạng, phonh phú, xuất hiện không đồng đều theo thời gian (giờ trong ngày, ngày trong tuần, tháng và mùa trong năm) cũng như theo không gian. Tính không đồng đều về thời gian và không gian về nhu cầu sử dụng, tức là tải trọng không đồng đều trong các đơn vị Viễn thông buộc các đơn vị này phải có những biện pháp để san bằng trọng tải vào những giờ cao điểm bằng cách giảm giá cước cho khách hàng sử dụng ngoài giờ cao điểm để sử dụng tốt hơn năng lực mạng lưới. 2.1.2.3. Khả năng thay thế của các dịch vụ Viễn thông Các dịch vụ Viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau. Đặc biệt trong thời gian qua nhờ đạt được nhứng thành tựu khoa học kỹ thuật to lớn trong lĩnh vực công nghệ thông tin, các công nghệ Viễn thông liên tục được đổi mới và cho ra đời hàng loạt các dịch vụ thông tin mới. Nhiều dịch vụ mới này có khả năng thay thế các dịch vụ cũ bởi chúng có những tính năng mới, có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng lên của khách hàng. Bên cạnh đó khách hàng cũng có xu hướng tiếp cận các dịch vụ mới. 2.1.2.4. Tính vô hình của dịch vụ Viễn thông Dịch vụ Viễn thông mang tính vô hình, nó không phải là một sản phẩm vật chất cụ thể. Đây cũng là đặc điểm cơ bản của các loại hình dịch vụ. Tính vô hình của dịch vụ gây nhiều khó khăn cho người quản lý hoạt động cung cấp dịch vụ, hoạt động Marketing dịch vụ và việc nhận biết dịch vụ. Để nhận biết được dịch vụ thông thường phải tìm hiểu qua những đầu mối vật chất trong môi trường hoạt động dịch vụ như các thiết bị Viễn thông, nơi cung cấp dịch vụ, người cung cấp dịch vụ... Cũng so tính vô hình của dịch vụ, trong kết cấu chi phí của dịch vụ Viễn thông không có phần chi phí nguyên vật liệu chính. 2.1.2.5. Quá trình sản xuất ra dịch vụ viễn thông mang tính dây truyền Để tạo ra một dịch vụ Viễn thông hoàn chỉnh thường không phải một mà là hai hay nhiều đơn vị Viễn thông cùng tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức. Các đơn vị này được bố trí ở các làng, xã, quận, huyện, tỉnh, thành phố hoặc các quốc gia khác nhau. Do đó để đảm bảo chất lượng dịch vụ các đơn vị Viễn thông cần phải có những quy định thống nhất về thể lệ, thủ tục khai thác dịch vụ, quy trình bảo dưỡng, khai thác các thiết bị thông tin, đầu tư phát triển mạng một cách đồng bộ. Ngoài ra do có sự tham gia của nhiều đơn vị Viễn thông vào một quá trình truyền đưa tin tức nên cần thiết phải có sự phân chia lại doanh thu giữa các đơn vị đó. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển nghành dịch vụ Viễn thông Trong các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của Viễn thông, quan trọng phải kể đến các yếu tố là: môi trường chính trị, hệ thống chính sách, pháp luật; sự phát triển kinh tế; khoa học công nghệ và yếu tố con người. 2.2.1. Môi trường chính trị, hệ thống luật pháp. Mạng lưới Viễn thông là huyết mạch thông tin của đất nước. Hệ thống chính trị trong và ngoài nước ảnh hưởng tới sự phát triển của Viễn thông. Các thiết bị Viễn thông sử dụng công nghệ cao, giá thành lớn, các nước tư bản có chính sách cấm không cho xuất khẩu các thiết bị sang các quốc gia có xu hướng chính trị đối lập. Trong một thời gian dài trước đây, các nước XHCN hoàn toàn cách biệt với công nghệ Viễn thông phương Tây. Mạng lưới mỗi quốc gia khi hoà vào mạng lưới toàn cầu phải có những thoả thuận giữa các nước trong khuôn khổ của Liên minh Viễn thông thế giới. Quan hệ chính trị đối lập cũng là nguyên nhân dẫn tới mốt số chính phủ một số nước không cho phép cơ quan bưu điện của mình được mở liên lạc trực tiếp với quốc gia nào đó. Liên lạc trực tiếp Mỹ – Việt Nam chỉ được chinh phủ Mỹ cho mở từ tháng 11/1992. Chính sách ưu tiên phát triển viễn thông của chínhp phủ là điều kiện quan trọng nhất nhằm đẩy mạnh phát triển Viễn thông ở các nước. Theo thống kế của ITU, nước nào dành đầu tư cho Viễn thông dưới 2% tổng đầu tư thì nước đó chưa phát triển và Viễn thông không đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế . ITU cũng chia các nước thành 5 nhóm theo tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người và tỷ lệ đầu tư vào Viễn thông so với tổng đầu tư. Bảng thể hiện mối quan hệ giữa thu nhập và đầu tư cho Viễn thông Nhóm GDP/người (USD) ĐTVT/GDP (%) ĐTVT/TĐT (%) 1 60-311 0.25 0.75 2 339-1153 0.39 1.96 3 1163-9816 0.68 2.72 4 4061-8809 0.74 3.18 5 9467-17055 0.62 3.15 (Nguồn: ITU – Liên minh Viễn thông quốc tế) Thống kế trên cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập và tỷ lệ đầu tư cho Viễn thông so với tổng sản phẩm quốc nội và tổng đầu tư, trừ nhóm cuối cùng là các nước phát triển do thị trường đã có phần bão hoà. Chính sách phát triển Viễn thông mở cửa hay khép kín ảnh hưởng trực tiếp tới tính cạnh tranh trong thị trường Viễn thông và sự tham gia của các đối tác nước ngoài trong thị trường này. Xu hướng của thời đại ngày nay la mở cửa có giới hạn để vừa có thể tận dụng được nguồn lực bên ngoài, kích thích cạnh tranh vừa có thể đảm bảo lợi ích cho đât nước, bảo vệ an ninh quốc phòng. 2.2.2. Sự phát triển của nền kinh tế Sự phát triển của nền kinh tế nói chung là nguyên nhân, động lực của việc phát triển Viễn thông. Kinh tế càng phát triển thì Viễn thông càng được chú trọng đầu tư hơn. Loại hình dịch vụ và cường độ sử dụng các dịch vụ hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế, vào thu nhập của người dân. ở các nước nghèo, người dân không thể hàng ngày gọi điện hỏi thăm người quen ở xa trong nước hay nước ngoài kể cả khi có điện thoại. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự ra đời của nhiều loại hình dịch vụ. Lượng thông tin trao đổi không chỉ có tiếng nói mà bao gồm tổng hợp cả tiếng nói, âm thanh, hình ảnh, số liệu với dung lượng lớn. Sự phát triển của các công ty đa quốc gia đòi hỏi xây dựng các mạng truyền số liệu tốc độ lớn, độ an toàn cao nối liền các chi nhánh của các công ty trên khắp các quốc gia để có thể quản lý điều hành. 2.2.3. Sự tiến bộ của khoa học công nghệ Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm thay đổi tận gốc công nghệ Viễn thông. Các thiết bị kỹ thuật số cho phép thay đổi quan niệm về mạng Viễn thông, dịch vụ Viễn thông và các tác nhân tham gia vào quá trình phát triển Viễn thông. Công nghệ quang học cho phép xây dựng các tuyến sợi cáp quang có khả năng truyền hàng trăm ngàn cuộc đàm thoại trên một đôi sợi thuỷ tinh nhỏ như hai sợi tóc. Công nghệ bán dẫn, tin học và các tổng đài kỹ thuật số cho phép truyền các loại tín hiệu âm thanh, số liệu, văn bản, hình ảnh trên mạng lưới đa dịch vụ và đa dịch vụ băng rộng. Các tổng đài có khả năng xử lý hàng trăm ngàn thuê bao với nhiều tính năng khác nhau phục vụ nhu cầu ngày càng đa dạng và khắt khe của khách hàng. Công nghệ vũ trụ cho phép chế tạo các vệ tinh quỹ đạo động thực hiện truyền đưa thông tin toàn cầu. Rõ ràng rằng, quốc gia nào có nền khoa học công nghệ càng hiện đại thì càng có điều kiện phát triển viễn thông. 2.2.4. Yếu tố con người Viễn thông là một ngành đặc biệt sử dụng nhiều lao động chất xám của con người. Lực lượng lao động trong nghành Viễn thông phần lớn phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mới có thể lắp đặt và vận hành các thiết bị máy móc, tận dụng tối đa năng lực hoạt động của mạng lưới Viễn thông. Ngoài ra, người dân cũng chính là đối tượng phục vụ của các dịch vụ Viễn thông. Trong đất nước có nền dân trí cao thì lưu lượng sử dụng các dịch vụ Viễn thông cũng lớn hơn, đòi hỏi chất lượng dịch vụ cao và đa dạng các loại hình. Các nhà đầu tư sẽ căn cứ vào dân số, vào trình độ và năng lực của người dân để đầu tư cho Viễn thông sao cho hợp lý. Như vậy yếu tố con người vừa là chủ thể tạo nên sự phát triển cho viễn thông vừa là động lực cho ngành này tiến bộ hơn. 2.3. Vai trò của dịch vụ Viễn thông trong nền kinh tế quốc dân Viễn thông được ví như "xương sống" của cơ sở hạ tầng một nước. Không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung, Viễn thông cũng không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.3.1.Xét trên phạm vi quốc gia Viễn thông làm tăng thu nhập quốc dân Viễn thông là ngành kinh tế kỹ thuật thuộc cơ sở hạ tầng của một quốc gia, sự phát triển của ngành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác tăng trưởng và phát triển, từ đó tăng thu nhập quốc dân. Theo báo cáo của Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) hàng năm các dịch vụ Viễn thông đóng góp ít nhất 1,5% GDP của mỗi nước. Trung bình đầu tư 1 USD vào Viễn thông sẽ sinh ra 3 USD trong các khu vực kinh tế khác, đầu tư lắp đặt một đường dây điện thoại sẽ thu được lợi nhuận khoảng 40%. Theo báo cáo của tổ chức Viễn thông châu á - Thái Bình Dương (APT), qua thống kê 30 nước thì cứ tăng mật độ máy điện thoại/100 dân lên 1 máy thì sau 7 năm, tổng thu nhập bình quân đầu người so nhân tố Viễn thông tác động có thể tăng lên 3%. Bảng thể hiện sự đóng góp của Viễn thông cho GDP Tên nước Tổng doanh thu (triệu USD) Doanh thu Viễn thông/đầu người Doanh thu/1 máy (USD/máy) % đóng góp cho GDP A. Các nước phát triển 1 USA 246,362.0 911.3 1,378.0 2.9 2 Canada 16,919.4 558.4 881.0 2.7 3 Anh 36,990.9 627.5 1,128.0 2.5 4 Đức 50,008.5 609.6 1,075.0 2.2 5 Nhật 84,027.2 664.3 1,322.0 2.1 6 Italia 26,990.9 451.4 1,002.0 2.0 7 Pháp 27,403.1 459.2 806.0 1.9 B. Các nước đang phát triển khu vực Châu á 1 Nam Triều Tiên 10,703.3 230.50 533.00 3.10 2 Đài Loan 7,032.5 320.70 612.00 2.40 3 Trung Quốc 20,533.8 16.40 235.00 1.90 4 ấn Độ 5,651.1 5.30 284.00 1.20 C. Các nước ASEAN 1 Singapore 2,915.9 921.7 1,640.0 3.5 2 Việt Nam 826.0 10.8 520.0 3.5 3 Malaysia 2,492.1 112.3 568.0 3.3 4 Philippines 1,208.7 16.7 582.0 1.5 5 Thailand 1,621.8 26.9 322.0 1.4 6 Brunei Daussalam 58.7 186.5 756.0 1.3 7 Lao PDR 217.0 4.2 764.0 1.3 8 Indonesia 2,531.1 12.6 508.0 1.2 9 Campuchia 222.0 2.4 268.0 0.7 10 Myanmar 519.0 11.7 2,264.0 0.3 (Nguồn : Liên minh Viễn thông quốc tế ITU) Qua bảng ta thấy, đa số các nước đều có tỷ lệ đóng góp của Viễn thông cho GDP lớn hớn 2%. Trên thực tế, Viễn thông còn hỗ trợ các ngành khác phát triển, tức là gián tiếp đóng góp nhiều hơn nữa cho thu nhập quốc dân. ở Việt Nam Viễn thông làm nên 3,5% tổng sản phẩm quốc nội. Khi so sánh với các nước trên khu vực và thế giới, thì tỷ lệ này đang chiếm vị trí đứng đầu. Điều này khẳng định vai trò trung tâm của Viễn thông trong nền kinh tế Việt Nam. Phát triển Viễn thông nâng cao trình độ khoa học công nghệ cho đất nước Một đặc điểm của ngành Viễn thông là luôn phải cập nhập những công nghệ mới, trang thiết bị hiện đại. Hệ thống Viễn thông của một quốc gia phản ánh khá rõ trình độ khoa học công nghệ của quốc gia đó. Vì vậy đầu tư cho Viễn thông đồng thời là quá trình phát triển khoa học công nghệ cho đất nước. Bên cạnh đó, Viễn thông tạo điều kiện thúc đẩy các nghành công nghệ cao khác như: tin học, điện tử...Đầu tư nước ngoài vào ngành song song với quá trình chuyển giao các công nghệ tiên tiến nhất. Viễn thông là công cụ đắc lực cho các nhà quản lý Nhà nước, các nhà lãnh đạo, các cấp chính quyền địa phương thực hiện chức năng quản lý của mình, bảo đảm an ninh quốc phòng... Viễn thông góp phần nâng cao trình độ dân trí và văn minh xã hội. Người dân có điều kiện tiếp xúc với những thông tin kiến thức của khắp mọi nơi thông qua các thiết bị và dịch vụ Viễn thông khác nhau, đời sống tinh thần phong phú hơn. 2.3.2. Xét trong doanh nghiệp Tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp Dịch vụ Viễn thông giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất. Trước hết là tiết kiệm chi phí đi lại, chi phí lưu kho hàng hoá. Đây là cáckhoản chi phí rất tốn kém ở nhiều doanh nghiệp. Ngoài ra Viễn thông còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí quản lý , tiết kiệm thời gian trong quá trình làm việc, hiệu quả công việc tăng lên rõ rệt nếu hệ thống Viễn thông phát triển. Tăng khả năng tiếp xúc với khách hàng trong và ngoài nước, tăng giao dịch thương mại trong quan hệ quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả kinh doanh. 2.4. Sự cần thiết phải thu hút vốn FDI trong việc phát triển dịch vụ Viễn thông 2.4.1. Do nhu cầu về vốn Viễn thông đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng do đó tất yếu phải đầu tư vào nghành này. Tuy nhiên đặc điểm của viễn thông là không chỉ đầu tư ở một khu vực nhất định mà phải đầu tư rộng khắp trên quy mô quốc gia, hơn nữa chi phí đầu tư xây dựng, lắp đặt, vận hành, duy trì, bảo dưỡng trong viễn thông đều lớn. Bên cạnh đó, yêu cầu phải đổi mới công nghệ trong ngành này là rất nhanh chóng, tức là đầu tư rồi lại tái đầu tư bổ sung. Do những nguyên nhân chủ yếu trên mà Viễn thông đặc biệt cần nhiều vốn đầu tư. Đồ thị sau sẽ phản ánh mức đầu tư của các quốc gia vào lĩnh vực Viễn thông. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực viễn thông của các nước châu á Thái Bình Dương các năm 1993-2001 Nhìn vào đồ thị trên có thể dễ dàng nhận ra Việt Nam đang ở nhóm có mức đầu tư thấp nhất. Năm 1996, đầu tư của Nhật Bản đạt kỷ lục là 37500 triệu USD, sau đó giảm xuống nhưng vẫn ở mức rất cao trong khu vực, tới 25000 triệu USD. Năm 2001,Trung Quốc đầu tư 32500 triệu USD, Hàn Quốc 8000 triệu USD, Singapore 2500 triệu USD, Thái Lan 1300 triệu...Trong khi đó, tổng vốn đầu tư cho Viễn thông của Việt Nam năm 2001 chỉ đạt 400 triệu USD.Việt Nam đang thiếu một nguồn vốn lớn để đầu tư cho lĩnh vực này. Giai đoạn 2005-2010, vốn đầu tư dự tính cần có cho Viễn thông là 75 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 5000 triệu USD). Tuy nhiên, vì tất cả các doanh nghiệp Viễn thông Việt Nam đến nay đều chưa được cổ phần hoá và quá trình cổ phần hoá nếu có thực hiện thì cũng mất nhiều thời gian, do đó, vốn đầu tư trong nước chủ yếu là từ ngân sách. Nhưng nếu chỉ dựa vào vốn trong nước thì chắc chắn chúng ta không thể đủ vốn đầu tư cho Viễn thông, nhất là khi đất nước còn quá nhiều khoản chi khác phải dựa vào ngân sách. Vì vậy, một trong nhứng cách thức huy động vốn có hiệu quả là khuyến khích sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. FDI sẽ là nguồn vốn vô cùng quan trọng và không thể thiếu cho phát triển Viễn thông Việt Nam. 2.4.2. Do yêu cầu về công nghệ Viễn thông là một ngành sử dụng công nghệ hiện đại và luôn đòi hỏi phải cập nhật những công nghệ mới. Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng có đủ khả năng tự nghiên cứu khoa học, tự sáng chế và áp dụng những công nghệ tân tiến nhất. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các nước nghèo và lạc hậu phải tận dụng con đường chuyển giao công nghệ để hiện đại hoá đất nước. Một phương thức thực hiện chuyển giao công nghệ hiệu quả nhất là thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút đầu tư nước ngoài vào Viễn thông sẽ là cách duy nhất để các nước lạc hậu tiếp nhận các công nghệ mới mà trong nước không có. Là một quốc gia nghèo và lạc hậu, nền khoa học công nghệ của Việt Nam còn thua kém nhiều so với thế giới. Theo xếp loại của Worldbank thì chỉ số công nghệ của Việt Nam chỉ đứng thứ 80 trên tổng số 102 nước được điều tra. Do đó, để xây dựng và phát triển một nghành dịch vụ Viễn thông hiện đại nhất thiết Việt Nam phải cần sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, cái lợi của Việt Nam không chỉ là tiếp nhận được máy móc, trang thiết bị tối tân mà còn là học hỏi kinh nghiệm quản lý trong kinh doanh Viễn thông, luyện tập kỹ năng vận hành bảo dưỡng những công nghệ hiện đại. 2.4.3. Do yêu cầu phải nâng cao tính cạnh tranh trong thị trường Viễn thông Viễn thông là một ngành có lợi nhuận cao, hơn nữa nó còn liên quan đến vấn đề an ninh quốc phòng nên chính phủ một số nước muốn duy trì sự độc quyền trong khai thác Viễn thông cho các doanh nghiệp trong nước. Chính điều này dẫn đến sự ỷ lại của các doanh nghiệp trong nước vào sự bảo hộ của chính phủ. Doanh nghiệp trong nước chậm cải tiến công nghệ, chất lượng dịch vụ thấp mà giá thành cao. Cho phép doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường Viễn thông sẽ bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh thực sự. Trong bảng xếp hạng về tính cạnh tranh của lĩnh vực viễn thông, Việt Nam đứng thứ 85 trong số 102 nước. Doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước chiếm vị trí độc tôn trên thị trường Viễn thông Việt Nam, chiếm hơn 95% thị phần. Thực tế này đã và đang tạo ra nhiều cản trở cho sự phát triển nghành dịch vụ Viễn thông. Do đó thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Viễn thông là hết sức cần thiết để nâng cao tính cạnh tranh, giảm bớt sự độc quyền. Trước tiềm lực về vốn, công nghệ của các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Viễn thông trong nước sẽ phải tự tìm con đuờng đi cho mình, không thể chỉ dựa vào nhà nước. 2.4.4. Do yêu cầu phải mở cửa nền kinh tế Xu hướng thế giới ngày nay là mở cửa nền kinh tế, là hợp tác, là toàn cầu hoá. Một quốc gia đi ngược lại với xu hướng này đồng nghĩa quốc gia đó tự cô lập mình và không thể phát triển đi lên. Có một số ngành trước đây luôn được xem là độc quyền của một nước, không cho phép sự có mặt của nước ngoài, thì nay cũng dần mở cửa đón nhận đầu tư nước ngoài. Viễn thông là một ngành như thế. Những cam kết về Viễn thông của các nước khi tham gia vào các tổ chức quốc tế thể hiện rất rõ điều này. Ví dụ điển hình là để trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tất cả các quốc gia đều phải đàm phán và chấp thuận các vấn đề liên quan lượng vốn đầu tư, hình thức, lĩnh vực, phạm vi đầu tư... của các nhà đầu tư nước ngoài khi muốn đầu tư vào Viễn thông. 2.4.5. Xu hướng hợp tác trong viễn thông của toàn cầu Liên minh Viễn thông thế giới gọi tắt theo tiếng Anh là ITU (International Telecommunication Union) là tổ chức của Liên hợp quốc có lịch sử từ năm 1865 khi các nước Châu âu thiết lập tổ chức Liên minh điện báo thế giới hiện nay gồm 183 quốc gia thành viên khắp các châu lục. Mục đích ra đời của tổ chức này là phối hợp quan hệ giữa các cơ quan Viễn thông các nước đẻ thiết lập các cuộc liên lạc với nhau. Điều đó phần nào nói lên tính quốc tế của Viễn thông. Vai trò của Viễn thông trong nền kinh tế càng trở nên quan trọng, nền kinh tế thế giới vận động theo hướng toàn cầu hoá đã tác động sâu sắc tới Viễn thông của mỗi quốc gia nói riêng và đối với Viễn thông toàn cầu nói chung. Trước đây, chức năng chủ yếu của ITU là xây dựng, thống nhất giữa các nước thành viên các quy trình khai thác, đầu mối liên lạc quốc tế, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như những khuyến nghị trong xây dựng và khai thác mạng lưới Viễn thông. Ngày nay, để theo kịp với xu hướng toàn cầu hoá, vai trò của ITU cũng thay đổi. Cuối năm 1992, tại Hội nghị toàn quyền bổ sung Giơnevơ, ITU đã thông qua hiến chương và điều lệ mới với động cơ thực hiện vai trò “chất xúc tác” trong việc điều phối phát triển Viễn thông trên toàn thế giới. Bổ trợ cho tổ chức quốc tế này là các tổ chức liên chính phủ về Viễn thông của các khu vực như Tổ chức Viễn thông châu á Thái Bình Dương APT (Asia Pacific Telecommunication). Tổ chức này được thành lập từ năm 1979 với chức năng hỗ trợ các nước thành viên trong việc phát triển viễn thông ở nước mình đồng thời thúc đẩy hợp tác về kỹ thuật, phát triển nhân lực và phát triển mạng lưới Viễn thông trong khu vực. Như vậy, xu hướng của Viễn thông thế giới là hợp tác khăng khít với nhau. Sự gắn kết trong Viễn thông không chỉ ở chiều rộng, mà còn ở chiều sâu, không chỉ trong khu vực mà là toàn thế giới. Một quốc gia khó thể tự phát triển Viễn thông của mình nếu nó nó đứng ngoài các liên minh, liên kết với quốc gia khác. Do đó, mở cửa đón nhận sự đầu tư nước ngoài để cùng hợp tác, cùng phát triển Viễn thông là vô cùng cần thiết. 2.5. Kinh nghiệm thế giới về thu hút FDI vào lĩnh vực Viễn thông Bởi vì Viễn thông là ngành có lợi nhuận cao, lại liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia nên ban đầu đa số các Chính phủ đều muốn hoàn toàn độc quyền trong ngành này và không ưa thích sự có mặt của nước ngoài. Trước những năm 80, hầu hết các công ty kinh doanh khai thác Viễn thông đều hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Nhưng cùng với quá trình phát triển kinh tế và hợp tác quốc tế, khoảng giữa thập kỷ 80, liên tiếp các nước bắt đầu thực hiện cải tổ Viễn thông. Nhà nước không còn là chủ nhân duy nhất mà đã dần xuất hiện các tư nhân, các nhà đầu tư nước ngoài cũng tham gia vào thị trường. FDI dần trở thành một nguồn vốn không thể thiếu cho phát triển Viễn thông ở nhiều nước. Những chính sách hạn chế đầu tư nước ngoài vào Viễn thông ngày càng giảm bớt, thay vào đó là sự cởi mở và đón nhận. Lấy ví dụ khu vực Châu á, ta có bảng sau: Quốc gia Hạn chế FDI Chú thích Australia Hoàn toàn không FDI có thể chiếm tới 35% trong số 49% cổ phần của Telstra (Tập đoàn Viễn thông của úc) Bangladesh Hoàn toàn không Viễn thông quốc tế vẫn là công ty thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc 49% FDI có thể lên tới 50% trong lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng Hồng Kông, Trung Quốc Hoàn toàn không Hoàn thành tự do hoá từ năm 2003 ấn Độ 49% Mọi thị trường đều mở Nhật Bản Hoàn toàn không FDI chiếm 33% của Tập đoàn Viễn thông Nhật Bản (NTT) Hàn Quốc 49% Nhà đầu tư nước ngoài có thể chiếm cổ phần lớn hơn trong Công ty Viễn thông Hàn Quốc KINH Tế Malaysia 30% Cho phép FDI>50% nhưng phải giảm sau 3 năm Philippines 40% Mở cửa mọi thị trường Singapore 49% 49% áp dụng cho việc cung cấp dịch vụ dựa trên cở sở hạ tầng mạng đã có Đài Loan 49% Chuẩn bị tự do hoá 100% đầu tư trực tiếp nước ngoài nng Indonesia 49% Các dịch vụ địa phương đượccung cấp bởi KOS (Nguồn: FDI in Telecommunication Services in Asia trên trang web: ở Châu á, chỉ còn một số ít các nước vẫn duy trì độc quyền hoàn toàn của công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước, trong đó có Việt Nam. Quốc gia Hạn chế FDI Chú thích Papua New Guinea Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước Đang trong quá trình xem xét cho phép FDI vào Viễn thông Lào Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước Đầu tư nước ngoài qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh được khuyến khích Myarmar Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước FDI được đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ giá trị gia tăng Brunei Darussalam Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước FDI được phép đầu tư vào các dịch vụ bán lại Việt Nam Hạn chế do có sự độc quyền của Công ty thuộc vốn sở hữu nhà nước FDI được cho phép dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (Nguồn: FDI in Telecommunication Services in Asia trên trang web: Như vậy, kinh nghiệm chung của các nước về thu hút FDI trong viễn thông đó là xoá bỏ sự độc quyền hoàn toàn của công ty thuộc sở hữu nhà nước, tạo cạnh tranh trên thị trường, tháo rỡ bớt rảo cản và mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hình thức đầu tư có thể là mua cổ phần của các công ty hoặc không chỉ dừng ở mức hợp đồng hợp tác kinh doanh mà có thể thành lập liên doanh giứa nhà đầu tư nước ngoài và công ty liên doanh trong nước. Với những chính sách thích hợp trong việc thu hút FDI vào Viễn thông, đa số các nước đều đạt được những thành công nhất định. Để minh chứng cho điều này, ta quan sát bảng sau: Bảng thể hiện FDI trong lĩnh vực dịch vụ Viễn thông các nước năm 2003 (đơn vị: Triệu USD) Một số nớc Châu á Một số nớc thuộc ASEAN Trung Quốc 120000 Indonesia 1000 Nhật Bản 10000 Philippin 700 Hàn Quốc 4000 Singapore 1000 Australia 2000 Thái Lan 600 Đài Loan 2000 Malaysia 550 ấn độ 1500 Việt Nam 250 (Nguồn: FDI in Telecommunication Services in Asia trên trang web: Nhìn vào bảng trên, ta thấy lượng FDI trong Viễn thông của Việt Nam còn quá ít ỏi so với các nước. Việc học tập kinh nghiệm của cac nước trong vấn đề này là rất cần thiết. Sau đây, xin được nói rõ hơn về giải pháp thu hút FDI vào phát triển Viễn thông của hai quốc gia điển hình thuộc hai nhóm trình bày trong bảng. Trung Quốc: Chính sách thu hút FDI vào Viễn thông thể hiện rõ nhất trong cam kết của nước này với WTO. Trung Quốc đã cam kết cho nước ngoài hoạt động trong một lĩnh vực trước đây không được phép. Hơn nữa, đây là lĩnh vực do Công ty Viễn thông Trung Quốc chi phối cho tới năm. Trung Quốc cam kết tuân thủ văn bản tham chiếu về khuôn khổ pháp lý với Viễn thông (WTO 1996). Mục tiêu của văn bản này là đảm bảo môi trường cạnh tranh thuận lợi cho sự liên kết giữa hệ thống và duy trì các điều kiện hợp lý. Văn bản này cũng đòi hỏi thành lập cơ quan điều hành độc lập với bên cung cấp dịch vụ và thiết lập các tiêu chuẩn về gia nhập thị trường và phân bổ các hàng hoá khan hiếm như điện thoại di động. - Trung Quốc thực hiện các nguyên tắc điều tiết theo hướng ủng hộ cạnh tranh đã được nêu trong Hiệp định Viễn thông cơ bản (bao gồm quyền kết nối và thẩm quyền điều tiết độc lập) và sẽ cho phép các nhà cung cấp nước ngoài sử dụng bất cứ công nghệ nào mà họ chọ để cung cấp dịch vụ Viễn thông. - Trung Quốc chia giai đoạn giảm dần các hạn chế địa lý cho tất cả các dịch vụ truyền tín hiệu (Paging) và giá trị gia tăng trong vòng 2 năm, các dịch vụ trong nước và quốc tế trong vòng 6 năm. - Trung Quốc sẽ cho phép các công ty nước ngoài được sở hữu 50% cổ phần đối với các dịch vụ giá trị gia tăng và truyền tín hiệu 2 năm sau khi gia nhập, 49% cổ phần đối với các dịch vụ âm thanh và dứ liệu di động trong nước và quốc tế 6 năm sau khi gia nhập. Indonesia Có hai nhân tố thúc đẩy Indonesia tiến hành mở cửa thị trường viễn thông. Một là hiệp định về các dịch vụ Viễn thông cở bản của Indonesia với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Hai là cam kết với quỹ tiền tệ quốc tế IMF Ban đầu Indonesia dự định: độc quyền đối với điện thoại đường dài trong nước là tới năm 2006, đối với điện thoại đường dài quốc tế là tới năm 2005. Nhưng do có hiệp định ký kết khi gia nhập WTO và các điều kiện trong Biên bản Ghi nhớ gởi cho IMF về cam kết của Indonesia trong lĩnh vực Viễn thông, Viễn thông Indonesia đã có những thay đổi lớn. Indonêsia đã chấm dứt độc quyền của Telkom, Indosat và Satelindo (3 hãng Viễn thông lớn nhất của Indonesia) sớm hơn dự định. Chính phủ đã ra Nghị định vào tháng 8 năm 2000 quy định việc chấm dứt độc quyền về điện thoại nội hạt vào tháng 8 năm 2002, còn điện thoại đường dài trong nước và quốc tế là vào tháng 8 năm 2003. Như vậy, mỗi quốc gia tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của mình sẽ đưa ra những chính sách, giải pháp khác nhau. Việt Nam hiện nay vẫn bị đánh giá là một quốc gia chưa thu hút được nhiều FDI vào Viễn thông do muốn duy trì chế độ độc quyền trong nước và bó hẹp hình thức tham gia đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Để hiểu rõ hơn thực tế nghành dịch vụ Viễn thông Việt Nam, sự phát triển ._.y tính và sự hội tụ công nghệ, thông tin, Viễn thông và phát thanh, truyền hình. Một kết quả nữa mà các dự án BCC mang lại là việc đào tạo nguồn nhân lực, yếu tố quyết định cho sự phát triển lâu dài và ổn định. Các dự án BCC đã từng bước nâng xao kỹ năng kỹ thuật và quản trị cho các nhân viên của VNPT và các doanh nghiệp khác, cho phép các doanh nghiệp nghiệp này có thể vận hành một cách có hiệu quả các mạng lưới Viễn thông hiện đại. Tuy nhiên, hình thức BCC đang dần bộc lộ nhiều yếu điểm gây cản trở cho các nhà đầu tư tiêp tục đầu tư vào Viễn thông Việt Nam. Vấn đề này sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần sau. 2.2.4. Những hạn chế của hình thức đầu tư BCC Nói chung, có nhiều hạn chế vốn có của hình thức BCC. Những hạn chế đáng chú ý nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài là: Không có tư cách pháp nhân rõ ràng, và do cơ cấu tài chính, BCC không thể cầm cố tài sản để vay vốn, do đó không thể vay, và vì vậy chỉ dựa chủ yếu vào vốn tự có. Do không có tư cách pháp nhân, các nhà đầu tư nước ngoài không có giá trị tài sản lâu dài trong việc đầu tư vào BCC. Vì vậy, họ có thể không quyết định được có nên tiếp tục đầu tư hay bán tài sản đó. Do hạn chế này, họ có thể không chấp nhận việc thu hồi vốn thấp tại thời điểm ban đầu để có thể tiếp tục thực hiện dự án, rồi sẽ có được lợi nhuận cao hơn về sau. Phí giao dịch cao (cả tiền lẫn thời gian) do có hai cơ chế quản lý và hai quy trình phê chuẩn. Sự giới hạn chặt chẽ của phạm vi hợp đồng: thông thường chỉ cho phép hoạt động trong một lĩnh vực (ví dụ dịch vụ cố đinh hoặc di động), và một ranh giới được phân định (ví dụ Hà Nội cho NTT và TP.HCM cho France Telecom). Tỷ lệ khấu hao cao , điều đó làm cho chi phí dịch vụ cao một cách không cần thiết. Điều này một phần là do, khi nhà đầu tư nước ngoài không tham gia vào quá trình mua sắm, chi phí mua sắm thiết bị thông thường sẽ cao hơn: nhà đầu tư nước ngoài đã được thành lập biết rõ hơn về các nhà cung cấp, do đó có thể có được giá chiết khấu, chi phí bảo hiểm rẻ hơn.v.v... Khuynh hướng đầu tư ngắn hạn nhằm thu lợi cao hơn là đầu tư cho phát triển ổn định của nghành Không có những ưu đãi lâu dài cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào công nghệ hiện đại hoặc tái đầu tư. Không chịu trách nhiệm trực tiếp trong hoạt động và dịch vụ đối với các nhà đầu tư. Ví dụ, một nhà quản lý của một nhà đầu tư nước ngoài nói rằng, mặc dù vốn được rót từ công ty của họ, nhưng trên thực tế, VNPT quyết định hầu hết các vấn đề mua sắm: công ty của họ được tham gia (mặc dù chỉ mang tính hình thức) vào việc chọn nhà cung cấp co một dự án chuyển mạch lớn, trong khi VNPT đã tự mình quyết định hần hết các vấn đề trong việc tuyển chọn nhà cung cấp cho các mạng lưới ngoài biên. Việc chuyển giao kỹ năng thấp hơn mức có thể đạt được nếu có đầu tư cổ phần Khó tập trung vào khách hàng. Không có một khoản đầu tư đáng kể nào được hoạch định cho việc marketing và thu hút thêm khách hàng, là tài sản lớn nhất trong lĩnh vực Viễn thông. Tuy nhiên, trên thực tế, VNPT vẫn có thể yêu cầu các nhà đầu tư hỗ trợ về tài chính cho một số hoạt động thị trường và xúc tiến thương mại. Lo lắng về điều gì sẽ xảy ra trong tương lai khi các điều kiện về thị trường, công nghệ, tài chính, và luật pháp thay đổi. Sự ngắn hạn về thời gian dành cho việc thu hồi vốn đầu tư. Môt lượng vốn lớn thường được yêu cầu phải trả trước (ví dụ, đối với một mạng di động toàn quốc, khoảng 500 triệu USD cần cho 10 năm, và ít nhất 200-300 triệu USD cho 5 năm đầu tiên. Vì vậy, cơ chế chia lợi nhuận 50:50 phải cần đến 6-7 năm để thu hồi vốn đầu tư ban đầu. Những hạn chế trên của hình thức BCC đã ảnh hưởng rất nhiều đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Viễn thông từ đó tác động bất lợi đến nghành Viễn thông và nền kinh tế. Những tác động này là: Kìm hãm quá trình phát triển kinh tế Sự phát triển nguồn lực bị chậm lại Làm chậm sự phát triển sản xuất Không phát triển các dịch vụ khách hàng Sự phát triển theo đường vòng của công nghệ Sự đầu tư cho cơ sở hạ tầng không được sử dụng hiệu quả Ngành Viễn thông không đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế Các công ty thành lập ở các nước khác sẽ có các dịch vụ khách hàng và dịch vụ Viễn thông tốt hơn. Chương 3. Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nước ngoài vào dịch vụ Viễn thông giai đoạn 2005 - 2010 I. Chiến lược phát triển Viễn thông đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 Ngày 18 tháng 10 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra Quyết định số 158/2001/QĐ-TTG phê duyệt Chiến lược phát triển Bưu chính-Viễn thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Trong nội dung của Quyết định có các phần đề cập đến Chiến lược phát triển Viễn thông đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 như sau: 1.1. Quan điểm của chiến lược a) Bưu chính, Viễn thông Việt Nam trong mối liên hệ với tin học truyền thông tạo thành cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia, phải là một ngành mũi nhọn, phát triển mạnh hơn nữa, cập nhập thường xuyên công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Phát triển đi đôi với quản lý và khai thác có hiệu quả, nhằm tạo điều kiện ứng dụng và thúc đẩy công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực của toàn xã hội, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao dân trí. b) Phát huy mọi nguồn lực của đất nước, tạo điều kiện cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia phát triển Viễn thông trong môi trường cạnh tranh, công bằng, minh bạch do Nhà nước quản lý với cơ chế thích hợp. Phát triển nhanh, chiếm lĩnh và đứng vững ở thị trường trong nước, đồng thời chủ động vươn ra hoạt động kinh doanh trên thị truờng quốc tế c) Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển đi đôi với đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.2. Mục tiêu của chiến lược a) Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia có công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực, có độ bao phủ rộng khắp trên cả nước với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, hoạt động hiệu quả, tạo điều kiện để toàn xã hội cùng khai thác, chia sẻ thông tin trên xa lộ thông tin quốc gia đã xây dựng, làm nền tảng cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. b) Cung cấp cho xã hội, người tiêu dùng cac dịch vụ Viễn thông hiện đại, đa dạng, phong phú với giá cả thấp hơn hoặc tương đương mức bình quân của các nước trong khu vực; đáp ứng mọi nhu cầu thông tin phục vụ kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng. Thực hiện phổ cập Viễn thông tới tất cả các vùng miền trong nước với chất lượng phục ngày càng cao. c) Xây dựng Bưu chính, Viễn thông trong xu thế hội tụ công nghệ thành nghành kinh tế-kỹ thuật mũi nhọn hoạt động hiệu quả, đóng góp ngày càng cao vào tăng trưởng GDP của cả nước, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội. 1.3. Định hướng phát triển các lĩnh vực a) Phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới Viễn thông Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới Viễn thông quốc gia tiên tiến, hiện đại, hoạt động hiệu quả, an toàn và tin cậy, phủ rộng trong cả nuớc, đến vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Hình thành xa lộ thông tin quốc gia có dung lượng lớn, tốc độ cao, trên cơ sở hội tụ công nghệ và dịch vụ Viễn thông, tin học truyền thông, quảng bá ứng dụng các phương thức truy cập băng rộng tới tận hộ tiêu dùng: cáp quang vô tuyến băng rộng, vô tuyến băng rộng, thông tin vệ tinh (VINASAT) v.v..., làm nền tảng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, thương mại điện tử, Chính phủ điện tử, dịch vụ công và các lĩnh vực khác. b) Phát triển các mạng thông tin dùng riêng Phát triển các mạng thông tin dùng riêng hiện đại, phù hợp với sự phát triển của mạng công cộng quốc gia, vừa đáp ứng nhu cầu thông tin riêng của các nghành, vừa sử dụng có hiệu quả cơ sở hạ tầng thông tin của các mạng công cộng đã xây dựng. Ưu tiên phát triển mạng thông tin dùng riêng hiện đại phục vụ Đảng, Chính phủ, quốc phòng, an ninh, đảm bảo chất lượng dịch vụ, yêu cầu bảo mật và an toàn thông tin. c) Phát triển dịch vụ Phát triển nhanh, đa dạng hoá, khai thác có hiệu quả các loại hình dịch vụ trên nền tảng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia nhằm cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ Viễn thông với chất lượng cao, an toàn, bảo mật, giá cước thấp hơn hoặc tương đương bình quân các nước trong khu vực. Đẩy nhanh tốc độ phổ cập các dịch vụ Viễn thông. Bên cạnh các dịch vụ cơ bản, đẩy mạnh phát triển dịch vụ di động, Internet, thương mại điện tử, dịch vụ phục vụ Chính phủ điện tử, dịch vụ công, dịch vụ cộng đồng và các dịch vụ giá trị gia tăng khác. đ) Phát triển thị trường Phát huy mọi nguồn lực của đất nước kết hợp với hợp tác quốc tế hiệu quả để mở rộng, phát triển thị trường. Tiếp tục xoá bỏ những lĩnh vực độc quyền doanh nghiệp, chuyển mạnh sang kinh tế thị trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ Viễn thông trong mối quan hệ giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp mới (ngoài doanh nghiệp chủ đạo) đạt khoảng 25-30% vào năm 2005, 40-50% vào năm 2010 thị phần thị trường Bưu chính Viễn thông và Internet Việt Nam. Tích cực khai thác thị trường trong nước, đồng thời vươn ra hoạt động trên thị trường quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã cam kết đa phương và song phương. e) Phát triển khoa học công nghệ Cập nhật công nghệ hiện đại, tiên tiến trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia. Các công nghệ được chọn lựa phải mang tính đón đầu, tương thích, phủ hợp với xu hướng hội tụ công nghệ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứư, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong tất cả các lĩnh vực: mạng lưới, dịch vụ, quản lý, nhân sự...Làm chủ công nghệ nhập, tiên tiến sáng tạo càng nhiều sản phẩm mang công nghệ Việt Nam. 1.4. Một số chỉ tiêu cụ thể Đến năm 2010, số máy điện thoại, số người sử dụng Internet trên 100 dân phải đạt mức trung bình khu vực. Năm 2005, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước được kết nối bằng cáp quan băng rộng. Năm 2010, xa lộ thông tin quốc gia nối với với tất cả các huyện và nhiều xã trong cả nước bằng cáp quang và các phương thức truyền dẫn băng rộng khác, ít nhất 30% số thuê bao có khả năng truy cập Viễn thông và Internet băng rộng. Năm 2010, mật độ điện thoại bình quân đạt 15-18 máy/100 dân; đạt bình quân hơn 60% số hộ gia đình có máy điện thoại; cung cấp rộng rãi dịch vụ Internet tới các viện nghiên cứu, các trường đại học, trường phổ thông, bệnh viện trong cả nước. Các doanh nghiệp mới (ngoài doanh nghiệp chủ đạo) đạt khoảng 25-20% vào năm 2005, 40=50% vào năm 2010 thị phận thị trường bưu chính, Viễn thông Việt Nam Vốn huy động trong nước sẽ vào khoảng 60% và vốn nước ngoàI 40% tổng số vốn đầu tư II. Nhu cầu thu hút FDI vào lĩnh vực Viễn thông giai đoạn 2005-2010 2.1. Tổng nhu cầu vốn đầu tư và lượng FDI cần thu hút cho lĩnh vực dịch vụ Viễn thông giai đoạn 2005-2010 2.1.1. Dự báo nhu cầu các dịch vụ Viễn thông trong các năm 2005-2010 Phương pháp dự báo: sử dụng phương pháp toán học và phương pháp tổng hợp (kết hợp với các yếu tố tác động khác) Hàm hồi quy về tốc tộ tăng trưởng điện thôại được ITU sử dụng có dạng như sau: Y = ec(1)*xc(2) Với x là thu nhập trên đầu người (GDP), y là mật độ điện thoại. Các số liệu thống kê của 2 năm sẽ xác định các tham số c(1) và c(2). Các kết quả dự báo sẽ là ngoại suy với các tham số này. Sử dụng chương trình Eview với số liệu đầu vào là kết quả thống kê năm 2000 đến năm 2002, các tham số trong hàm số của mật độ điện thoại thu được như sau: Chỉ tiêu dự báo C(1) C(2) Mật độ điện thoại cố định đến năm 2005 16.355360 2.963778 Mật độ điện thoại cố định đến năm 2010 8.6095960 1.719100 Mật độ điện thoại di động đến năm 2005 29.827460 5.101181 Mật độ điện thoại di động đến năm 2010 16.791560 3.004349 Mật độ thuê bao Internet đến năm 2005 55.951630 3.119307 Mật độ thuê bao Internet đến năm 2010 35.244530 5.791538 Với các phương án tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm (g) tương ứng bằng: g=6,1%; g=6,8% và g=7,5% ta có bảng kết quả dự báo như sau: g=6.1% g=6.8% g=7.5% Năm Cố định Di động Thuê bao Internet Mật độ điện thoại Cố định Di động Thuê bao Internet Mật độ điện thoại Cố định Di động Thuê bao Internet Mật độ điện thoại 2005 6.84 5.11 1.33 11.95 7.25 5.65 1.60 12.90 7.68 6.25 1.91 13.93 2006 7.94 6.52 2.10 14.46 8.31 7.06 2.58 15.37 8.69 7.64 2.84 16.33 2007 8.60 7.50 2.74 16.10 9.10 8.28 3.32 17.37 9.62 9.13 4.01 18.75 2008 9.31 8.63 3.59 17.94 9.97 9.71 4.51 19.68 10.66 10.92 5.66 21.59 2009 10.09 9.93 4.71 20.02 10.93 11.40 6.15 22.33 11.82 13.08 8.01 24.90 2010 10.95 11.44 6.19 22.39 11.99 13.40 8.40 25.39 13.11 15.68 11.37 28.79 Giả thiết tăng trưởng kinh tế hàng năm duy trì ở mức 7,5% tao có kết quả dự báo như sau: Năm Mật độ điện thoại cố định Mật độ điện thoại di động Mật độ thuê bao Internet Mật độ điện thoại 2005 7.68 6.25 1.91 13.93 2006 8.69 7.64 2.84 16.33 2007 9.62 9.13 4.01 18.75 2008 10.66 10.92 5.66 21.59 2009 11.82 13.08 8.01 24.90 2010 13.11 15.68 11.37 28.79 Như vậy dựa vào hàm hồi quy tốc độ tăng trưởng điện thoại của ITU, và giả thiết tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì hàng năm là 7,5% ta có bảng dự báo nhu cầu các dịch vụ tương ứng trong bảng. Tuy nhiên, nhu cầu dịch vụ Viễn thông không chỉ phụ thuộc vào GDP, tốc độ phát triển kinh tế mà được quyết định bởi các yếu tố khác như: - Khả năng chi tiêu của xã hội cho Viễn thông - Xu hướng đổi mới công nghệ - Chiến lược phát triển ngành dựa trên năng lực huy động vốn - Xu hướng tiêu dùng của người dân Kết hợp sự tác động nhiều yếu tố khác nhau, đưa ra kết quả dự báo như sau. Và đây cũng là chính là mục tiêu cụ thể cho phát triển Viễn thông nước ta giai đoạn 2005-2010: Mật độ điện thoại và Internet (trên 100 dân) Năm Mật độ điện thoại cố định Mật độ điện thoại di động Mật độ điện thoại Mật độ thuê bao Internet Mật độ số người sử dụng Internet 2005 7,5-8 6,5-8 14-16 2,5-3 10-12 2006 8,5-9 9,5-10 18-19 3,5-4 14-16 2007 9,5-10 11,5-12 21-22 5-6 20-24 2008 10,5-12 13,5-15 24-27 7-8 28-32 2009 12,5-13 15,5-17 28-30 9-10 36-40 2010 14-15 18-20 32-35 12-13 48-52 2.1.2 Dự kiến tổng vốn đầu tư cần có cho ngành dịch vụ Viễn thông và lượng FDI cần thu hút Để thực hiện các chỉ tiêu về điện thoại ta cần lượng vốn là: Đầu tư phát triển điện thoại cố định và di động Năm Suất đầu tư cố định Suất đầu tư di động Thuê bao cố định Thuê bao di động Nhu cầu vốn đầu tư cố định (tỷ) Nhu cầu vốn đầu tư di động (tỷ) Tỷ trọng đầu tư /GDP 2005 5.27 3.42 6633021 6633021 6912 6560 1.88% 2006 4.47 3.08 7559157 8399063 4388 4892 1.20% 2007 4.26 2.77 8507411 10208893 4044 4512 1.30% 2008 3.84 2.49 10338546 12923183 7028 6090 1.47% 2009 3.45 2.24 11340093 14829352 3460 3849 0.76% 2010 3.11 2.02 13241739 17655652 5912 5912 1.07% Tổng 31745 31042 Tuy nhiên, trong quá trình ước lượng nhu cầu và cân đối khả năng đáp ứng, trong Bản Quy hoạch phát triển Viễn thông Việt Nam giai đoạn 2004-2010, Bộ Bưu chính Viễn thông đã đưa ra danh mục các dự án cần thực hiện nhằm phát triển Viễn thông với số vốn đầu tư tương ứng như sau: Tổng đầu tư toàn mạng STT Nội dung Suất đầu tư (triệu đồng) Số lượng (nghìn) Chi phí đầu tư (tỷ đồng) 1 Mở rộng mạng nội hạt ( tổng đài, truyền dẫn, cáp...) 3.50 5,000.00 17,500.00 2 Nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới mạng truyền dẫn quang 1.00 5,000.00 5,000.00 3 Phổ cập điện thoại nông thôn 4.00 3,000.00 12,000.00 4 Phổ cập Internet nông thôn 1.00 2,000.00 2,000.00 5 Phát triển mạng điện thoại di động 1.50 20,000.00 30,000.00 6 Thông tin vệ tinh VINASAT 3.50 1,000.00 3,500.00 7 Dự án cáp quang biển 1.00 5,000.00 5,000.00 Tổng 75,000.00 Vốn FDI chiếm 40% trong tổng số vốn đầu tư, như vậy, lượng vốn FDI cần thiết là 30 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 2000 triệu USD) 2.2. Các giải pháp thu thút vốn FDI cho lĩnh vực dịch vụ Viễn thông giai đoạn 2010 2.2.1. Chuyển đổi hình thức đầu tư Những hạn chế của hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh đã và đang là ngăn cở chính đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Xét trong bối cảnh của Việt Nam và theo kinh nghiệm, xu hướng quốc tế, có hai phương án để thay thế cho hình thức BCC như sau: Phương án thứ nhất Đối tác trong nước của BCC sẽ thành lập một công ty liên doanh theo Luật Doanh nghiệp, sau đó bán cổ phần cho đối tác nước ngoài. Vì hình thức này đâ được quy định trong Luật Doanh nghiệp, nên không cần phải sửa đổi luật, mà chỉ cần sửa đổi các quy định có liên quan của Chính phủ, và vì vậy, đây là phương án thực tiễn và dễ thực hiện nhất. Một trong những hạn chế chính của hình thức đầu tư này là nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể mua tối đa là 30% cồ phần của doanh nghiệp đó. Điều này có thể tạo ra rào cản cho việc đầu tư vào các dự án Viễn thông lớn, thường là các dự án quan trọng, và tỷ lệ sở hữu cổ phần nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết. Tuy nhiên, bất kể giới hạn cổ phần 30%, đối tác nước ngoài vẫn có quyền quản lý. Trong thực tế, Comvik và VNPT đã thảo luận và nhất trí với phương án này, và đã trình đề xuất lên Chính phủ Việt Nam về việc chuyển đổi BCC này thành công ty cổ phần. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có phản hồi từ Chính phủ và Bộ Bưu chính Viễn thông. Phương án thứ hai Đó là phương án chuyển BCC hiện nay thành một công ty liên doanh. Rào cản chính về pháp lý là, để phương án được thực thi, Chính phủ phải sửa đổi Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, xét nhu cầu về một môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ, việc triển khai Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam-Hoa Kỳ, và việc đàm phán để gian nhập WTO, điều này cần được thực hiện nhanh chóng. Lợi ích của phương án tham gia cổ phần hoặc liên doanh Đối với Việt Nam Tránh được quá trình ra quyết định quản lý trùng lặp Nhanh chóng nâng cao kỹ năng dịch vụ khách hàng của Việt Nam Tạo điều kiện truy cập ngay cho hệ thống dịch vụ khách hàng và các quá trình cần thiết để tồn tại trong môi trường cạnh tranh Giá dịch vụ cho khách hàng thấp hơn Thu hút đầu tư nhiều hơn Chuyển giao các kỹ năng một cách trực tiếp và nhanh hơn Thúc đẩy việc áp dụng các sản phẩm và công nghệ mới (ví dụ: thương mại điện tử) để đáp ứng nhu cầu của khách hàng Về tổng thể, tạo ra nhiều thu nhập hơn và cung cấp vốn cho tái đầu tư ở Việt Nam Tạo ra nhiều doanh thu hơn Tạo ra các cơ hội xuất khẩu dịch vụ (ví dụ: thông qua việc thành lập trung tâm điện thoại khu vực của đối tác nước ngoài trong công ty liên doanh ở Việt Nam) Đối với nhà đầu tư nước ngoài Làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn với đầu tư Có nhiều động cơ hơn để có những cam kết lâu dài và có lợi cho các bên Có quyền kiểm soát quản lý đối với một số chức năng Sử dụng ưu thế tốt nhất của các bên một cách hiệu quả hơn Dễ huy động vốn hơn Tận dung kỹ năng nhiều hơn Có thể hoà nhập với các hoạt động kinh doanh trong khu vực. 2.2.2. Từng bước xây dựng thị trường Viễn thông cạnh tranh lành mạnh 2.2.2.1. Tái cơ cấu VNPT Vì VNPT hiện đang là doanh nghiệp gần như độc quyền hoàn toàn trên Thị trường Viễn thông Việt Nam nên để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn, nhất thiết phải tái cơ cấu VNPT. Cụ thể hoá điều này, ngày 23/3/2005, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định 58/2005/QĐ-TTg phê duyệt đề án Tập đoàn Bưu chính Viễn thông theo đề nghị của Bộ Bưu chính Viễn thông và Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. a) Các đặc trưng cơ bản của Tập đoàn Theo đề nghị của Bộ Bưu chính Viễn thông thì Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam là tập đoàn có quy mô lớn, kinh doanh đa ngành, trong đó bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin là nghành kinh doanh chính, chuyên môn hoá cao, có sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước; chuyển liên kết theo kiểu hành chính với cơ chế giao vốn hiện nay sang liên kết theo mô hình công ty mẹ công ty con. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông sẽ là một tổ hợp kinh tế bao gồm các doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo có sự tham gia của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Các thành viên liên kết với nhau theo mô hình công ty mẹ - công ty con thông qua quan hệ về sở hữu về vốn là chủ yếu, đồng thời có sự gắn kết về công nghệ, thị trường, nghiệp vụ… Tập đoàn được quản lý toàn bộ bởi Hội đồng quản trị; điều hành Tập đoàn là Tổng Giám đốc và có các Giám đốc phụ trách lĩnh vực là người đứng đầu các cơ quan điều phối. Cơ quan giúp việc quản lý điều hành và tư vấn chuyên môn nghiệp vụ cho lãnh đạo Tập đoàn là Ban kiểm soát, Văn phòng và các ban chuyên môn của Công ty mẹ. b) Các bộ phận của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông có liên quan đến hoạt động quản lý, kinh doanh Viễn thông 1. Công ty mẹ: Công ty mẹ là công ty Nhà nước được tổ chức quản lý hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 và mang tên là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Công ty mẹ sẽ bao gồm bộ phận quản lý đường trục (được hình thành trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại các Công ty Viễn thông Quốc tế - VTI, Công ty Viễn thông liên tỉnh - VTN); bộ phận quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn (được hình thành trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Công ty tài chính Bưu điện) và cơ quan quản lý điều phối (gồm các ban chức năng giúp việc). Theo đề án, Công ty mẹ có nhiệm vụ thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào các công ty con, giữ quyền chi phối các công ty con thông qua vốn, công nghệ, thương hiệu và thị trường. Công ty mẹ đầu tư vào công ty con thông qua cơ quan điều phối và người đại diện phần vốn Nhà nước đầu tư vào các công ty con; điều hành thống nhất mạng lưới; thực hiện các hoạt động công ích. Công ty mẹ trực tiếp quản lý kinh doanh mạng lưới viễn thông đường trục. Việc kinh doanh mạng lưới đường trục phải hạch toán riêng theo quy định của Nhà nước về giá cước và quản lý kết nối để tránh sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài Tập đoàn khi sử dụng các dịch vụ trên mạng thông tin đường trục quốc gia. 2. Các công ty con do Công ty mẹ sở hữu 100% vốn gồm: Các công ty viễn thông vùng: các công ty viễn thông vùng được thành lập trên cơ sở sát nhập các công ty quản lý mạng viễn thông tại các bưu điện tỉnh, thành phố, các đơn vị sự nghiệp có thu trong lĩnh vực đào tạo nghề. Có 3 tổng công ty viễn thông vùng miền trên cả nước. Tổng công ty Viễn thông I (từ Quảng Bình trở ra), Tổng công ty Viễn thông II (từ Bình Thuận trở vào) và Tổng công ty Viễn thông III (từ Quảng Trị với Ninh Thuận và các tỉnh Tây Nguyên). Các Tổng công ty này được hình thành trên cơ sở sáp nhập các công ty quản lý và khai thác mạng viễn thông của Bưu điện các tỉnh, thành phố hiện nay. 3. Công ty con 100% vốn nhà nước và hoạt động độc lập trực thuộc công ty mẹ là Công ty Phần mềm và Truyền thông (VASC) và Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC). 4. Các công ty mà công ty mẹ sở hữu trên 50% vốn sẽ bao gồm 2 công ty thông tin di động sẽ được cổ phần hoá là Công ty Thông tin (VMS - MobiFone); Công ty dịch vụ Viễn thông (GPC -Vinaphone). Ngoài ra còn có Công ty dịch vụ Tài chính; các công ty Tư vấn chuyên ngành; các công ty dịch vụ Internet. 5. Các công ty do Công ty mẹ sở hữu dưới 50% vốn gồm các công ty sản xuất thiết bị, các công ty công nghiệp phần mềm, xây lắp, thương mại, các công ty cung cấp dịch vụ gia tăng, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Bưu điện, Du lịch Bưu điện, các công ty liên doanh với nước ngoài về viễn thông và công nghệ thông tin c) Tác động của việc hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam - Hình thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ chấm dứt sự liên kết theo kiểu hành chính giữa các thành viên thuộc VNPT như hiện nay. Không còn cơ chế cấp vốn nữa mà sẽ chuyển sang đầu tư vốn theo mô hình công ty mẹ-công ty con. Có nghĩa là với mô hình tập đoàn, công ty mẹ sẽ đầu tư vốn cho công ty con, công ty con sẽ phải bảo toàn và phát triển nguồn vốn đó. Cơ chế hạch toán độc lập khiến các công ty con phải tự tìm lấy con đường đi riêng, phải cạnh tranh nhau trên thị trường. - Có sự phân định tõ cấu trúc sở hữu – phân định các loại hình thành viên: doanh nghiệp 100 vốn nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hoá trong đó Nhà nước nứam giứ trên 50% vốn hoặc dưới 50% vốn và các công ty liên kết dưới hình thức công ty cổ phần, liên doanh...Điều này có ba tác động lớn. Thứ nhất, tạo sự phong phú các loại hình doanh nghiệp trong ngành Viễn thông. Thứ ba, đẩy mạnh tính cạnh tranh trong thị trường nhưng doanh nghiệp Nhà nước vẫn có thể chiếm ưu thế và nắm quyền kiểm soát. Thứ ba, việc cho phép hình thành công ty liên doanh về Viễn thông Nhà nước giữ dưới 50% cổ phần là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Xây dựng tập đoàn sẽ tách rõ hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp Viễn thông đều có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ công ích thông qua cơ chế hoạt động của Quỹ dịch vụ Viễn thông công ích Việt Nam. Như vậy, việc thực hiện cung cấp dịch vụ công ích vấn được đảm bảo mà hoạt động kinh doanh lại hiệu quả hơn. - Công ty mẹ bao gồm hai bộ phận là: bộ phận quản lý đường trục; bộ phận quản lý, đầu tư và kinh doanh vốn và cơ quan quản lý điều phối. Cấu trúc này sẽ giảm bớt chồng chéo, hạn chế những bất cập trong quản lý và khai thác hệ thống đường trục. Trong đề án thành lập Tập đoàn còn nêu rõ: “Việc kinh doanh mạng lưới đường trục phải hạch toán riêng theo quy định của Nhà nước về giá cước và quản lý kết nối để tránh sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài Tập đoàn khi sử dụng các dịch vụ trên mạng thông tin đường trục quốc gia.” Với quy định này, nhà đầu tư nước ngoài sẽ bớt khó khăn hơn trong việc thuê kênh, sử dụng mạng đường trục và thực hiện kết nối. 2.2.2.2. Thành lập cơ quan chống độc quyền Viễn thông Theo kinh nghiệm của các nước và theo sự khuyến nghị của WTO, Viễn thông Việt Nam cần có một cơ quan giám sát độc lập với Chính phủ và Bộ chủ quản để có thể quản lý các vấn đề cạnh tranh. Vừa qua, Bộ Bưu chính Viễn thông đã đề nghị thành lập Cục quản lý Viễn thông có nhiệm vụ chính là thúc đẩy cạnh tranh, thực thi các chính sách của Bộ Bưu chính Viễn thông, đặc biệt xử lý khiếu nại của doanh nghiệp liên quan đến vấn đề kết nối. Một số vụ thuộc Bộ Bưu chính Viễn thông như: Vụ Kế hoạch Tài chính Viễn thông hiện nay vừa ban hành, vừa thực thi chính sách khiến công việc nhiều khi chậm, lại không công bằng. Việc ra đời Cục quản lý Viễn thông sẽ tách bạch chức năng hoạch định và thực thi chính sách của Bộ trong các vấn đề liên quan đến Viễn thông. Điều này rõ ràng sẽ làm thúc đẩy tính cạnh tranh, giảm độc quyền trong Viễn thông. 2.2.3. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, chính sách liên quan đến Viễn thông. Một trong những nhân tố quan trọng nhất để tạo môi trường cạnh tranh, để tạo sự hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài là sự hoàn thiện, sự minh bạch của hệ thống chính sách, pháp luật. Vấn đề bức thiết trong Viễn thông hiện nay là bổ sung xây dựng, minh bạch hoá các văn bản pháp luật, các chính sách của Nhà nước. Trong Chiến lược phát triển Bưu chính Viễn thông đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 nêu rõ, “ Đẩy nhanh việc xây dựng Pháp lệnh, Luật Bưu chinh-Viễn thông cùng hệ thống các văn bản pháp quy khác tạo điều kiện chuyển mạnh bưu chính, viễn thông sang thị trường cạnh tranh, chủ động thực hiện lộ trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.” Tuy nhiên, tiến trình này đang diễn ra tương đối chậm chạp. Khi trả lời phỏng vấn của VnExpress, Thứ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông Mai Liêm Trực đã nói, “Chúng tôi thừa nhận năng lực quản lý của Bộ còn nhiều hạn chế, hệ thống văn bản pháp lý còn thiếu, chẳng hạn, Pháp lệnh Viễn thông đã có và cho phép các công ty tư nhân được tham gia kinh doanh dịch vụ không có hạ tầng mạng song việc cấp phép rất chậm vì quy định hướng dẫn cụ thể chưa có. Cấp phép kết nối còn lung tung vì những quy định về mẫu, tiêu chuẩn cho doanh nghiệp xin kết nối còn thiếu.... Bản thân tôi cũng cho rằng duy trì doanh nghiệp chiếm thị phần khống chế lâu không có lợi cho cạnh tranh và phát triển. Trong hệ thống văn bản pháp luật tới đây, Bộ sẽ ban hành các quy định làm tăng thêm thẩm quyền cho các doanh nghiệp chiếm thị phần không khống chế...”. Như vậy, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến Viễn thông còn thiếu và một vài điểm còn chưa phù hợp. Thực tế này khiến các nhà đầu tư nước ngoài vừa e ngại vừa khó thực hiện đầu tư vào Viễn thông Việt Nam. Nếu có thể, cần sớm chuẩn bị những văn bản pháp lý tạo điều kiện cho thành lập doanh nghiệp liên doanh về kinh doanh dịch vụ Viễn thông. Sớm cho ra đời Luật chống độc quyền, Luật chống cạnh tranh. 2.2.4. Lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ Một trong những mục tiêu của thu hút FDI không chỉ là lợi dụng nguồn vỗn mà còn nhằm lựa chọn công nghệ hiện đại, phù hợp. Để làm được điều này phải trước hết hú ý đến việc chọn lựa nhà thầu, chính là những nhà đầu tư nhận xây dựng các cơ sở hạ tầng mạng hay cung cấp các dịch vụ mà doanh nghiệp Việt Nam không để đảm nhiệm. Trên thế giới hiện nay tồn tại hai nhóm nhà thầu chính: Nhóm 1: các nhà đầu tư có công nghệ Viễn thông, ví dụ: Teltra, NTT Nhóm 2: các nhà đầu tư có rất nhiều vốn và dùng lượng vốn đó mua lại công nghệ, ví dụ: Hutchison Telecom. Xu hướng hiện nay là lựa chọn các nhà đầu tư thuộc nhóm hai. Các nhà đầu thường có nhiều kinh nghiệm kinh doanh hơn, mục đích của họ không phải là nghiên cứu phát triển công nghệ mà dùng tiềm lực về vốn để mua những công nghệ mới nhất. Còn các nhà đầu tư thuộc nhóm 1 có khả năng sẽ sáng tạo những bí quyết công nghệ riêng, nên có thể gây sức ép cho phía Việt Nam trong tương lai. Bên cạnh đó, trong quá trình lựa chọn công nghệ cần tìm kiếm các công nghệ, thiết bị đồng bộ và tương thích. Một trong những hạn chế của hạ tầng mạng Viễn thông Việt Nam hiện nay là sử dụng thiết bị thuộc nhiều hãng khác nhau. Các công nghệ này không đồng bộ đã làm giảm năng suất của toàn bộ hệ thống. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT202.doc
Tài liệu liên quan