Giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội

MỤC LỤC 2.4.2. Chính sách tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất. 38 2.5. Đánh giá chung về việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. 42 2.5.1. Kết quả đạt được 42 2.5.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại. 44 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 47 3.1. Cơ sở để đưa ra các giải pháp tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất 47 3.1.1. Định hướng phát triển kinh tế xã hội Hà Nội đến năm 2020. 47 3

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.1.2. Dự báo nhu cầu việc làm của người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. 47 3.2. Các quan điểm, mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. 49 3.2.1. Quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. 49 3.2.2. Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. 49 3.3. Các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. 51 3.3.1. Nghiên cứu và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ người lao động bị thu hồi đất. 51 3.3.2. Tạo sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế, xã hội . 55 3.3.3. Chú trọng đến đào tạo nghề cho người lao động. 59 3.3.4. Tăng cường hoạt động hệ thống thông tin thị trường lao động. 62 3.3.5. Hỗ trợ nguồn vốn cho người lao động bị thu hồi đất. 62 KẾT LUẬN 64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thực trạng sử đụng dất thành phố Hà Nội. 23 Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu về lao động. 26 Bảng 2.3. Kết quả giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất theo tuổi. 30 Bảng 2.4. Kết quả giải quyết việc làm 5 năm 2006 -2010. 36 Biểu đồ 2.1.Cơ cấu việc làm mới theo ngành kinh tế. 32 Biểu đồ 2.2.Cơ cấu việc làm mới theo trình độ chuyên môn kỹ thuật. 33 Biểu 3.1. Dự báo cơ cấu sử dụng lao động bị thu hồi đất. 48 LỜI MỞ ĐẦU Việc làm cho người lao động là một vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, hướng tới tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp như hiện nay, Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng đã đạt được những kết quả khả quan trong việc phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nguy cơ tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm cho người lao động ngày càng trở thành một sức ép không nhỏ trong nền kinh tế. Đặc biệt, tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, không thể thiếu việc quy hoạch lại thành phố cho phù hợp, nhằm tăng nhanh sự phát triển. Do đó, sau khi thu hồi đất để thực hiện các dự án, nhiều người lao động bị rơi vào tình trạng mất việc làm, tạo sự trì hoãn cho việc phát triển cũng như chuyển dịch nền kinh tế. Chính vì vậy, tạo việc làm cho người lao động, nhất là lao động bị thu hồi đất trở thành chủ trương lớn của thành phố Hà Nội nói riêng và là một vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, nhằm đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước mà còn góp phần nâng cao được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chính vì vậy, tôi xin chọn đề tài: “Giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.” mong muốn góp một phần nhỏ bé cho việc giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất tại Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung. Kết cấu bài viết bao gồm 3 chương: Chương 1: Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. Chương 3: Các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và tập thể các bác, các cô chú tại sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ trong quá trình thực tập để tôi có thể hoàn thành tốt được bản báo cáo chuyên đề này. CHƯƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT Cơ sở lý luận về lao động. Khái niệm chung về lao động. Lao động là một trong những hình thức hoạt động của con người vào thực tiễn nhằm biến đổi và tạo ra các của cải vật chất nhằm phục vụ cho lợi ích đời sống của con người. Hoạt động lao động giúp con người tồn tại, hình thành và phát triển nhân cách thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân, từ đó, thể hiện được giá trị của mình trong xã hội. Lao động là điều kiện chủ yếu cho sự tồn tại của loài người, là cơ sở tiền đề tạo động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính vì vai trò của con người vô cùng quan trọng, nên chúng ta cần tìm cách khai thác được tối đa sức lao động của con người, nâng cao tri thức và khả năng sáng tạo của con người, nhằm tạo sự phát triển cho nền kinh tế của đất. Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Nguồn lao động là bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đến hết 55 tuổi). Lực lượng lao động của một quốc gia hay một địa phương là bộ phận dân số trong tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động, có mong muốn lao động, đang có việc làm hoặc đang tìm việc làm. Lực lượng lao động bao gồm những người có việc làm và những người chưa có việc làm nhưng đang tìm việc làm (gọi là người thất nghiệp). Các yếu tố ảnh hưởng tới lực lượng lao động. Dân số. Dân số của một quốc gia bao gồm dân số trong độ tuổi lao động và dân số ngoài độ tuổi lao động. Dân số trong độ tuổi lao động được chia ra làm hai bộ phận gồm dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động kinh tế là những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Đây chính là lực lượng lao động. Chính vì vậy mà dân số là yếu tố cơ bản quyết định đến lực lượng lao động . Qui mô và cơ cấu dân số cũng ảnh hưởng đến qui mô và cơ cấu của lực lượng lao động. Có nhiều yếu tố tác động đến sự biến động của dân số như các phong tục, tập quán, trình độ phát triển kinh tế,xã hội của từng nước, các cơ chế chính sách của từng nước về việc khuyến khích hoặc hạn chế việc sinh đẻ đối với từng hộ gia đình. Thông thường, ở các nước phát triển, người dân có đời sống cao, trình độ giáo dục cao,họ có ý thức về những ràng buộc khi có con như ảnh hưởng đến việc làm, kinh tế, phải chăm sóc con cái, nên họ thường không muốn có con. Hơn nữa họ cũng không phải chú trọng đến việc nối dõi tông đường như một số nước đang phát triển. Chính vì vậy những nước này thường có mức độ tăng dân số thấp. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, mức độ tăng dân số thường ở mức độ cao. Các nước này thường được thừa hưởng các thành tựu của nên khoa học kỹ thuật nên cuộc sống của người dân được chăm lo đến sức khỏe, khả năng phòng chống và kháng bệnh cao, sức khỏe sinh sản được đảm bảo. Do vậy, trẻ em được sinh ra có khả năng sống sót cao, tỉ lệ tử vong giảm nên sự gia tăng tự nhiên cao.Mặt khác, các nước đang phát triển còn có nền sản xuất lạc hậu, hệ thống máy móc lạc hậu, còn dùng nhiều đến sức người nên đòi hỏi cần có nhu cầu lao động rất lớn trong việc phát triển kinh tế. Ở các nước nghèo, tỉ lệ sinh đẻ cao, do việc kế hoạch hóa gia đình chưa được tuyên truyền rộng rãi, đồng thời người dân còn chịu nhiều quan niệm, hủ tục lạc hậu dẫn đến tỉ lệ sinh đẻ ở các quốc gia này cao. Hiện nay, tỷ lệ tăng dân số của thế giới là 1,8%, ở các nước châu Á là 2 – 3% và các nước châu Phi là 3 – 4%. Còn ở Việt nam là 1,44%. Hiện có 3/4 dân số trên thế giới sống ở các nước đang phát triển, ở đó dân số tăng nhanh trong khi nền kinh tế tăng chậm, làm mức sống của người dân thấp, tạo áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm. Do đó vấn đề kế hoạch hóa dân số đi đôi với việc phát triển kinh tế là một trong những vấn đề quan trọng cần được quan tâm đối với các nước phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động và dân số trong độ tuổi làm việc (những người đủ 15 tuổi trở lên). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động xác định quy mô lao động của một đất nước tham gia hoạt động kinh tế. Tỷ lệ này là một chỉ tiêu đánh giá quy mô của nguồn cung lao động sẵn có phục vụ cho việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế. Chỉ tiêu tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là trung tâm trong việc nghiên cứu các nhân tố xác định quy mô, kết cấu các nguồn nhân lực trong nền kinh tế và dự đoán được nguồn cung lao động trong tương lai, giúp đánh giá mức độ hoạt động của thị trường lao động trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, chỉ tiêu cũng giúp cho việc hoạch định các chính sách việc làm, đánh giá nhu cầu đào tạo và xác định thời gian lao động và tính toán được số lượng lao động tham gia trên thị trường lao động. Hiện nay tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của Việt Nam có xu hướng giảm, nhưng vẫn đang còn ở mức cao (trên dưới 71%) so với các nước trên thế giới. Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp. Thất nghiệp là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời điểm điều tra ở trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Nhu cầu này thể hiện thông qua các hoạt động tích cực tìm việc. Thất nghiệp là vấn đề đặc trưng mà quốc gia nào cũng gặp phải. Nó không chỉ tác động về mặt kinh tế mà còn ảnh hưởng đến các vấn đề mang tính xã hội. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ % số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động của xã hội.Thông thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp của một quốc gia cao, đồng nghĩa với việc các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí đi các cơ hội sản xuất tham sản phẩm, dịch vụ, làm giảm hiệu quả sản xuất theo quy mô. Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cho cả người lao động và chủ sử dụng lao động. Khi đó, người lao động có thể tìm được những công việc khác phù hợp với khả năng, mong muốn và điều kiện cư trú. Còn với những người chủ, tình trạng thất nghiệp giúp cho họ tìm được những người lao động phù hợp, nâng cao sự trung thành đối với người lao động. Ở một khía cạnh nào đó, thất nghiệp giúp các doanh nghiệp tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, tỷ lệ thất nghiệp không hoàn toàn phản ánh được đúng sự thực về nguồn lao động chưa được sử dụng hết. Nguyên nhân là do số người nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ, khi gặp thất nghiệp họ thường cố gắng không để tình trạng này kéo dài, vì họ không có nguồn lực dự trữ nên họ buộc phải chấp nhận mọi việc nếu có. Tình trạng này xảy ra phổ biến ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Thời gian lao động. Khi người lao động tham gia vào quá trình lao động, ngoài việc hao phí nguồn lực, còn hao phí về mặt thời gian lao động. Qua việc xem xét thời gian lao động, làm việc của mỗi người lao động, ta có thể đánh giá được hiệu quả sử dụng và chất lượng của lực lượng lao động. Nếu hiệu quả sử dụng cao, doanh nghiệp sẽ tiếp tục thuê lao động và đề ra các phương án phù hợp để giữ chân người lao động. Ngược lại, nếu hiệu quả sử dụng lao động thấp, doanh nghiệp có thể sẽ sa thải người lao động, dẫn đến tình trạng thất nghiệp cho người lao động. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lực lượng lao động. Số lượng lao động mới phản ảnh được một mặt sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh tế. Mặt khác, cần được xem xét đến chất lượng nguồn lao động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, sức khỏe của người lao động, nhờ bố trí điều kiện lao động tốt hơn. Giáo dục được coi là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển tiềm năng của con người. Yêu cầu chung đối với giáo dục là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người có thể thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Mặc dù không phải là tất cả, nhưng thông thường những người có học thức cao thường có mức thu nhập cao hơn rất nhiều so với những người có học thức thấp. Nhưng để đạt được trình độ giáo dục nhất định cần phải chi phí khá nhiều, kể cả chi phí của gia đình và của quốc gia. Đó chính là khoản đầu tư cho con người. Ở các nước đang phát triển giáo dục được thực hiện dưới nhiều hình thức nhằm không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cho mọi người. Kết quả giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trình độ tạo khả năng thúc đẩy đổi mới công nghệ. Công nghệ càng thay đổi nhanh càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối với việc tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức. Giống như giáo dục, sức khỏe làm tăng chất lượng cả nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp từ việc nâng cao sức lao động, khả năng tập trung cao khi làm việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ em sẽ là yếu tốt làm tăng năng suất lao động trong tương lai, giúp trẻ em phát triển thành những người khỏe về thể chất, lành mạnh về tinh thần. Hơn nữa, điều đó còn giúp trẻ em nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua giáo dục ở nhà trường. Những khoản chi cho sức khỏe còn làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng bằng việc kéo dài tuổi lao động. Ngoài yếu tố giáo dục và sức khỏe, động lực lao động cũng là 1 yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động. Đây là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động. Cơ sở lý luận về việc làm. Khái niệm về việc làm. Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Một người lao động có việc làm khi có một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Thông qua việc làm, người lao động thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm và thu nhập. Ở mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế xã hội, khái niệm việc làm lại được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trước đây, trong nền cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những người lao động làm việc trong khu vực thể chế kinh tế, khu vực nhà nước, khu vực tập thể là những người được coi là có việc làm. Hiện nay, sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nên nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, quan niệm việc làm đã được thay đổi. Theo điều 13 chương 3 Bộ luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1994 đã ban hành: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Tuy nhiên, quan niệm của người lao động về việc làm trong giai đoạn này cũng có thay đổi. Trước đây, nhiều người quan niệm rằng chỉ làm việc trong các xí nghiệp quốc doanh và nằm trong biên chế nhà nước thì mới được coi là có công việc ổn định, còn việc làm trong các thành phần kinh tế khác thì bị coi là không có công việc ổn định. Vì vậy, nhiều người cố gắng xin vào làm việc trong nhà nước. Hiện nay, đối với nhiều người quan niệm này không còn mang nặng. Với họ, chỉ cần tìm được công việc phù hợp, có thu nhập cao và được nhà nước khuyến khích thì họ sẵn sàng làm. Có thể nói yếu tố việc làm và yếu tố lao động có liên quan đến nhau, cùng phản ánh đến lợi ích của một con người. Tuy nhiên, hai phạm trù này không giống nhau, bởi có việc làm thì chắc chắn có lao động, nhưng ngược lại có lao động chưa chắc đã có việc làm, bởi nó còn phụ thuộc vào mức độ ổn định của công việc mà người lao động đang làm. Phân loại việc làm. Phân theo mức độ sử dụng thời gian lao động. Việc làm đầy đủ: là sự thỏa mãn nhu cầu việc làm của bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác việc làm đầy đủ là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được việc làm trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, việc xác định số người có việc làm theo khái niệm này vẫn chưa phản ánh được chính xác trình độ sử dụng lao động xã hội vì không đề cập đến chất lượng của công việc làm. Thực tế, nhiều người lao động đang có việc làm nhưng chỉ làm nửa ngày hoặc việc có năng suất, thu nhập thấp. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh : mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất lao động và thu nhập. Mọi việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động phải sử dụng đủ thời gian lao động theo luật định (8 tiếng/ngày), đồng thời, việc này phải mang lại thu nhập không thấp hơn mức lương tối thiểu của người lao động (hiện nay nước ta quy định mức lương tối thiểu chung là 650.000 đồng một người một tháng). Vậy những người làm việc đủ thời gian quy định và có thu nhập lớn hơn mức thu nhập tối thiểu hiện hành là những người có việc làm đầy đủ. Thiếu việc làm: là những việc làm không tạo điều kiện cho người lao động sử dụng hết thời gian lao động của mình, tạo thu nhập cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu. Theo quan niệm của tổ chức lao động thế giới ( viết tắt : ILO), thiếu việc làm được chia ra làm 2 dạng : Thiếu việc làm vô hình: là những người có đầy đủ việc làm, làm đủ thời gian, thậm chí còn quá thời gian qui định nhưng lại có thu nhập thấp do tay nghề kém, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém khiến năng suất thấp, thường có nhu cầu tìm công việc khác có mức thu nhập cao hơn. Thiếu việc làm hữu hình: là những người lao động làm việc với thời gian ít hơn quỹ thời gian qui định, không đủ việc làm và đang có mong muốn kiếm thêm việc và luôn sẵn sàng để làm việc. Thất nghiệp: là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động tại thời điểm điều tra ở trong tình trạng không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Nhu cầu này thể hiện thông qua các hoạt động tích cực tìm việc. Thất nghiệp được chia thành nhiều loại : Thất nghiệp tự nhiên: tỷ lệ thất nghiệp đương nhiên bởi luôn có một số người trong giải đoạn chuyển từ chỗ làm này qua chỗ làm khác. Thất nghiệp cơ cấu: là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sử giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Thất nghiệp chu kỳ: khi tổng cầu lao động thấp hơn tổng cung lao động ở giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh tế. Thất nghiệp kỹ thuật: Do việc thay thế công nhân bằng máy móc hoặc công nghệ tiên tiến hơn. Thất nghiệp thông thường: khi thu nhập thực tế xuống dưới mức chấp nhận được. Thất nghiệp theo học thuyết Mark: là mức cần thiết để thúc đẩy công nhân làm việc và giữ mức lương thấp. Thất nghiệp theo mùa: khi công việc phụ thuộc vào nhu cầu theo thời tiết. Phân theo vị trí lao động của người lao động. Việc làm chính: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời gian nhất và đòi hỏi yêu cầu của công việc cần trình độ chuyên môn kỹ thuật. Việc làm phụ: là công việc mà người lao động thực hiện dành nhiều thời gian sau công việc chính. Một số mô hình lý thuyết tạo việc làm. Mô hình Lewis Lewis đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng, còn gọi là “Mô hình hai khu vực cổ điển”. Mô hình nghiên cứu sự di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Sự phát triển của ngành công nghiệp quyết định tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào khả năng thu hút lao động dư thừa của ngành nông nghiệp. Lượng lao động ngày càng tăng khiến số lượng lao động dư thừa trong xã hội ngày càng lớn. Khi lao động dư thừa, tiền lương lao động trong nông nghiệp luôn ở mức tối thiểu, không đảm bảo được đời sống của người lao động. Chính vì khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ nên cần giảm dần quy mô và tỷ trọng đầu tư, thay vào đó, cần xây dựng và đầu tư vào các khu công nghiệp để thu hút người lao động. Mô hình được đề ra dựa trên các giả định: Tỷ lệ lao động thu hút sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích lũy ở khu vực này ( thâm dụng vốn, hoặc đầu tư nơi khác). Khu vực thành thị không có thất nghiệp. Nông thôn có thể giải quyết việc làm mà không cần phải chuyển ra thành phố. Tiền lương công nghiệp không tăng(thực tế vẫn tăng do nhu cầu về lao động tay nghề và công đoàn). Mô hình tân cổ điển Mô hình tân cổ điển coi công nghệ (T) là yếu tố trực tiếp quyết định tăng trưởng. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ giúp tối đa hóa lợi nhuận.Đối với khu vực nông nghiệp, nếu áp dụng các tiến bộ công nghệ, lao động có thể cải thiện, nâng cao chất lượng ruộng đất, giúp tăng về cả chất lượng và số lượng sản phẩm.Đối với khu vực công nghiệp, các sản phẩm do lao động làm ra ngày càng tăng. Vì vậy, các chủ lao động phải trả tiền công cho người lao động cao hơn. Điều này buộc các nhà sản xuất phải lựa chọn sản xuất công nghệ phù hợp (công nghệ sử dụng nhiều vốn hay công nghệ sử dụng nhiều lao động). Trong đó, quan điểm đầu tư: Tránh bất lợi công nghiệp nên đầu tư cả nông nghiệp ngay từ đầu. Đầu tư là tăng năng suất nông nghiệp khiên viện lao động dịch chuyển khỏi nông nghiệp không làm tăng giá nông sản. Mô hình Harry T. Oshima Oshima đã đưa ra các biện pháp hỗ trợ vạo việc làm cho người lao động, từ đó giúp kinh tế ngày càng tăng trưởng. Theo mô hình, cần tạo việc làm cho lao động nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, xen canh, tăng vụ trông thêm rau quả, cây lấy củ, mở rộng chăn nuôi, trồng cây lâm nghiệp. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần hỗ trợ để nâng cao năng suất: hệ thống tưới, vận tải nông thôn, giáo dục và điện khí hóa nông thôn; cải tiến các tổ chức: tổ chức dịch vụ, tổ chức tín dụng; tăng xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ (nhập khẩu máy móc cho công nghiệp nhiều lao động). Sau đó, cần hướng tới tạo việc làm đầy đủ cho lao động bằng cách đầu tư phát triển đồng thời nông nghiệp và công nghiệp (theo chiều rộng): đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp; Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa; Phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp ( nông cụ cải tiến); Phát triển ngành sản xuất phân bốn, gióng, các yếu tố đầu vào; Hoạt động đồng bộ từ sản xuất vận chuyển bán hàng, tín dụng; Phát triển nông nghiệp tạo nhu cầu tăng quy mô công nghiệp và dịch vụ. Các biện pháp này hướng tới tăng trưởng việc làm nhanh hơn tăng trưởng lao động, khiến thu nhập thực tế của người lao động tăng lên. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc làm. Điều kiện tự nhiên. Mỗi quốc gia có một ưu thế riêng về điều kiện tự nhiên như các yếu tố về đất đai, khí hậu, địa hình,… Đất đai màu mỡ hay khô cằn, khí hậu ôn đới hay nhiệt đới, địa hình đồng bằng, vùng núi hay vùng biển, các nguồn tài nguyên khoáng sản nhiều hay ít, … Từ các yếu tố trên, mỗi quốc gia có thể lựa chọn được các phương thức sản xuất, các ngành nghề kinh doanh khác nhau, sao cho có thể tạo ra năng suất cao nhất trong quá trình sản xuất. Từ đó, người lao động trên mỗi quốc gia có thể lựa chọn được việc làm phù hợp với trình độ và trạng thái sức khỏe của bản thân. Dân số. Dân số vừa là yếu tố sản xuất, vừa là yếu tố tiêu dùng. Quy mô dân số tăng thì cầu hàng hóa và dịch vụ tăng. Khi đó, nguồn cung sản xuất cũng tăng lên, đa dạng hóa các ngành nghề hoạt động do cung và cầu luôn có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Đồng thời, cơ cấu dân số cũng quyết định tiêu dùng. Tùy thuộc vào sở thích, giới tính, tâm lý, dân tộc, nhu cầu tiêu dùng của mỗi người là khác nhau. Để lượng hàng hóa sản xuất bán ra có người mua, các doanh nghiệp buộc phải quan tâm đến nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Nếu lượng hàng hóa bán ra nhiều, các nhà sản xuất phải tăng thêm coogn lao động, ngược lại, nếu không có người mua, các doanh nghiệp buộc phải sa thải một số lượng lao động để cân bằng chi phí sản xuất nhằm tránh tình trạng lỗ vốn.Quá trình di dân cũng làm cho dân số ở từng nơi thay đổi. Khi cơ cấu dân số thay đổi sẽ dẫn đến nhu cầu tiêu dùng sản xuất hàng hóa ở từng nơi thay đổi. Những vùng người dân di cư đến buộc phải tăng thêm lượng sản xuất để đáp ứng đủ nhu cầu của người dân, từ đó tăng thêm nhiều ngành nghề mới, góp phần tạo ra nhiều chỗ làm mới. Trong khi những vùng dân di cư đi lại phải giảm số lượng sản xuất xuống dẫn đến tình trạng lao động bị thất nghiệp. Ngoài ra, chất lượng lao động cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm cho người lao động. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các doanh nghiệp ngày càng phát triển, việc đòi hỏi lao động có sức khỏe, trình độ chuyên môn tay nghề cao để đáp ứng được yêu cầu của công việc đề ra là điều vô cùng cần thiết. Người lao động có trình độ mới có nhiều cơ hội tìm kiếm được việc làm theo đúng nguyện vọng, mới có thể có được thu nhập cao đáp ứng được nhu cầu cuộc sống. Người lao động cần tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình, tranh thủ tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, nâng cao tay nghề để có thêm kinh nghiệm, kiến thức và nhận thức. Điều đó mới có thể nâng cao vị thế bản thân mỗi người lao động. Cơ chế chính sách Cơ chế chính sách là một yếu tố quan trọng góp phần tạo việc làm cho người lao động. Nhà nước dùng các công cụ chính sách pháp luật để đảm bảo được quyền lợi của người dân, đồng thời buộc người dân phải tuân theo những chủ trương đúng đắn của đảng và nhà nước đề ra, nhằm hướng tới một xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của người dân được ấm no. Chính vì vậy, trong mỗi thời kỳ khác nhau, Nhà nước lại đề ra các chính sách cụ thể, các hành lang pháp lý phù hợp hướng tới phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Trong Bộ luật lao động của nước ta quy định: “Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm” (khoảng 1, điều 16) và điều 13 cũng ghi rõ: “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.” Ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực. Ảnh hưởng của tạo việc làm đến việc sử dụng nguồn nhân lực. Sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và vốn. Trong đó, việc sử dụng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đến sự phát triển đó, tạo việc làm nhằm nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực thông qua các hướng: Tạo việc làm và giải quyết việc làm nhằm phân bổ lao động một cách hợp lý, góp phần hoàn thiện hệ thống quản lý đưa đến một hệ thống lao động phù hợp với cơ cấu hệ thống ngành nghề có sự phối hợp hài hòa giữa các bộ phận tổ chức, bố trí lao động phù hợp với đặc điểm tính chất của công việc sẽ nâng cao năng suất lao động cá nhân, giúp họ phát triển khả năng và sự sáng tạo của mình cho quá trình sản xuất phát triển. Tạo ra nhiều chỗ làm việc mới sẽ thu hút được nhiều lao động tham gia vào quá trình sản xuất xã hội và sẽ giải quyết các vấn đề mang tính xã hội như : nâng cao, cải thiện đời sống, hạn chế các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Tạo việc làm là một trong những động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vì khi các công việc được tạo mới bao giờ cũng đòi hỏi một chuyên môn kỹ thuật cao ở người lao động mà theo quy luật của quá trình tuyển dụng thì người ứng cử viên cũng phải có một trình độ tương đương bởi thế cho nên con người luôn có xu hướng tích lũy kiến thức trình độ lành nghề cho mình để có thêm nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động kinh tế. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động. Tạo việc làm là quá trình tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất, công cụ và sức lao động. Tạo việc làm cho người lao động giúp phát huy tiềm lực sẵn có của từng đơn vị, địa phương, từng người lao động nhằm tạo ra những công việc hợp lý và đầy đủ, đồng thời đem lại được thu nhập đảm bảo thỏa mãn nhu cầu đời sống hàng ngày cho người lao động. Có thể nói tạo việc làm luôn là vấn đề quan trọng, mang tính xã hội, có ý nghĩa lớn lao đối với từng người lao động và toàn xã hội. Tạo việc làm giúp khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiềm năng kinh tế, nhằm tránh lãng phí nguồn lực xã hội. Về mặt xã hội, tạo việc làm giúp con người nâng cao vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế, giảm thiểu được tình trạng thất nghiệp trong xã hội. Đồng thời, người lao động có việc làm sẽ giúp giảm các tệ nạn xã hội như : trộm cắp, lừa đảo, nghiện hút, … và hạn chế được những phát sinh tiêu cực do thiếu việc làm gây ra. Về mặt kinh tế, việc làm giúp con người thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất và tinh thần, giúp ổn định và nâng cao đời sống của người lao động. Tạo việc làm đáp ứng nhu cầu tìm việc, nhu cầu lao động của con người vì lao động là phương tiện dể tồn tại chính của con người. Có thể nói, giải quyết và tạo việc làm cho người lao động giúp cho họ tham gia được vào quá trình sản xuất của xã hội, cũng là tiền đề giúp cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Do đó, mọi chủ trương chính sách đúng đắn là phải phát huy cao độ khả năng nguồn lực con người, nếu có sai p hạm thì nguồn lao động sẽ trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn thất lớn cho nền kinh tế cũng như xã hội. Vì vậy một quốc gia giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động là thành công lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chính trị của mình. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. 1.3.1. Đặc điểm của lao động bị thu hồi đất do quá trình CNH – HĐH. Đặc điểm của người lao động bị thu hồi đất là một yếu tố khiến cho việc giải quyết việc làm trở nên cần thiết. Với những người lao động bị thu hồi đất, đất đai chính là tư liệu sản xuất, đã nơi giúp họ tạo ra được thu nhập, là điều kiện cần để họ có thể sinh tồn . Người lao động khi bị thu hồi đất, không còn đất để tham gia vào hoạt động sản xuất cũng tựa như họ mất đi quyền lợi của chính mình. Ngoài ra, những lao động sau khi bị thu hồi đất họ rất khó chuyển đổi nghề nghiệp. Một phần vì với phần lớn người lao động bị thu hồi đất quen với nghề nông. Mất đất canh tác đồng nghĩa với việc họ mất nơi lao động hoạt động sản xuất. Những lao động này thường quen với việc thuần nông, không có tay nghề, không có trình độ. Để kiếm được việc làm, họ cần phải cạnh tranh với số lượng lao động được đào tạo bởi các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề khá nhiều. Biết được sự bất lợi của mình thế nhưng nhiều lao động lại không cố gắng khắc phục những yếu kém, mà trở nên buông xuôi, không muốn nỗ lực trong việc nâng cao trình độ kiến thức với mong muốn tìm được công việc mới tốt hơn. Ngoài ra, một phần lao động bị thu hồi đất đã quá tuổi để có thể dễ dàng làm quen với công việc mới (khoảng 35 tuổi). Cùng với tâm lý lo sợ rủi ro, thất bại, lối tư duy “ăn ._.chắc, mặc bền”, sản xuất nhỏ lẻ manh mún càng làm cho cơ hội tìm việc của họ trở nên khó khăn hơn. Phần lớn người lao động bị thu hồi đất là những người làm nghề nông. Một số người sau khi bị thu hồi đất tuy diện tích đất bị thu hẹp, nhưng đa số vẫn cố gắng tìm cách bám trụ với nghề nông như trồng lúa, chăm sóc hoa màu, chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà để kiếm sống. Tuy nhiên, họ chỉ biết lao động theo những phương thức đơn giản, chưa biết áp dụng những tiến bộ công nghệ mới, họ vẫn dựa nhiều vào những kinh nghiệm lâu năm của mình đã sản xuất. Vì vậy, thu nhập của những người lao động này sau khi bị thu hồi đất trở nên rất thấp, không đủ sống. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều người lao động sống ỷ lại vào những khoản tiền trợ cấp đền bù đất. Phần lớn số tiền đền bù được người dân sử dụng vào việc sửa sang, xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện đi lại, việc học tập của con cháu. Tuy nhiên, rất ít gia đình dành tiền đền bù đầu tư cho việc học nghề của con cháu, cũng như số gia đình đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh không nhiều.Nhiều người biết ăn tiêu chứ không biết cách tạo việc làm như thế nào. Một số người chỉ thích tìm những công việc nhàn hạ, ít bận rộn, không phải chịu nhiều áp lực.Vì vậy, cần có những chính sách tạo việc làm và hỗ trợ cho người lao động. Ngoài ra, việc thu hồi đất có một số ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân như ô nhiễm môi trường gây bất bình, lo lắng về sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng. Đồng thời, nó tác phần không nhỏ đến sự du nhập của các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc... Bởi với những người lao động bị thu hồi đất sau khi bị mất việc làm trở nên vô công rỗi nghề. Hàng ngày, họ chỉ biết tìm cách để hưởng thụ khoản tiền lớn đền bù đất mà Nhà nước đã giao cho. Chính vì vậy, họ là những người dễ bị lôi kéo vào các vấn đề của xã hội, là một trong các tác nhân gây nên những bất ổn của xã hội. Ngoài ra, phần lớn nông dân bị thu hồi đất cảm thấy chưa thật hài lòng với chính sách đền bù giải tỏa mặt bằng và hỗ trợ chuyển đổi việc làm, nguyên nhân là do việc thu hồi đất kéo dài nhiều đợt dẫn đến việc tiền đền bù nhận được lẻ tẻ gây khó khăn cho việc đầu tư, ổn định, phát triển sản xuất. Nhưng lý do cơ bản nhất là tồn tại tình trạng thiếu công bằng trong công tác đền bù. Hiện nay, đứng giữa các quy định chính sách cũ và mới, mức giá đền bù đã chênh nhau đáng kể. Nhiều người dân bị thu hồi đất trước trở nên thiệt thòi. 1.3.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như tài nguyên, vốn, lao động, công nghệ, trong đó việc sử dụng lao động là một nhân tố quan trọng, nhất là đối với một nước nông nghiệp đang phát triển như Việt Nam. Hiện nay, chúng ta đang có nhiều dự án phát triển, dẫn đến việc tồn tại một lượng lớn người lao động sau khi bị thu hồi đất không có việc làm. Việc để không một lực lượng lớn lao động không sử dụng đến gây lãng phí tổn thất lớn cho xã hội, nhất là đối với một đất nước đang trên đà phát triển như Việt Nam. Chính vì vậy, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất là hoạt động đóng vai trò quan trọng đối với xã hội, doanh nghiệp và bản thân chính người lao động. Đối với xã hội. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, quốc gia nào cũng muốn thoát ra khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu để chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, nhằm có được năng suất sản xuất tăng, đời sống của con người nâng cao, từ đó mới có thể đưa được nền kinh tế của xã hội phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế tác động không nhỏ đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Khi đất nước càng ngày càng áp dụng nhiều công nghệ khoa học kỹ thuật mới nhằm tạo ra các hoạt động sản xuất mới, máy móc thay thế cho lao động, khi đó tình trạng thất nghiệp sẽ xảy ra. Việc tạo việc làm là một yếu tố cần thiết nhằm giảm tình trạng thất nghiệp, giúp giảm gánh nặng cho xã hội trong việc ổn định cuộc sống cho người lao động. Đồng thời, tạo việc làm còn giúp cho chất lượng cuộc sống của người dân được nâng cao, hạn chế được những vấn đề tiêu cực do những người lao động dư thừa trong xã hội gây nên, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo và giúp giải quyết được các vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội. Tác động đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất còn giúp duy trì sự tồn tại và phát triển cho các doanh nghiệp. Lao động là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản xuất , càng nhiều lao động thì lượng sản phẩm được tạo ra càng tăng, từ đó giúp các doanh nghiệp có thể phát triển và lớn mạnh. Nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn ít, quá trình sản xuất chủ yếu sử dụng nhiều lao động hơn máy móc. Đồng thời, dù công nghệ có ngày càng tiến bộ, nhưng máy móc cũng không thể tự hoạt động, mà phải dựa trên sự điều khiển của con người. Vì vậy, trên thực tế, đối với các nước đang phát triển, các doanh nghiệp luôn luôn cần tuyển các lao động có tay nghề, trình độ cao. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng lao động tuy đông, nhưng không đáp ứng được đủ yêu cầu do các nhà tuyển dụng đề ra. Do đó, vẫn còn tồn tại việc các doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu người, nhưng lượng lao động dư thừa vẫn tiếp tục tăng. Đối với người lao động bị thu hồi đất. Tạo việc làm cho người lao động bị thu đất chính là biện pháp cải thiện giúp người lao động sớm ổn định được đời sống cũng như góp phần nâng cao thu nhập cho bản thân cũng như gia đình của lao động. Khi đó, ý thức của người lao động trong việc nâng cao trình độ, nhận thức tăng lên, biết đầu tư nhiều hơn vào đào tạo cho tầng lớp con em. Đồng thời, điều này cũng giúp giảm sự phân cách giàu nghèo giữa các tầng lớp trong xã hội. Hiện nay, đất nước đang ngày càng phát triển, rất cần đến sự đóng góp không nhỏ của lực lượng lao động. Vì vậy, việc tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất là rất cần thiết. Người lao động bị thu hồi đất chủ yếu là nông dân bị thu hồi đất canh tác. Đối với một nước vẫn thuần nông như nước ta, nếu người dân bị thu hồi đất canh tác, trở nên thất nghiệp, sự phát triển kinh tế có thể bị chững lại, mọi bước đi đều trở nên chông chênh. Nhà nước cần tạo ra các chính sách giáo dục đào tạo, đặc biệt hướng vào đối tượng thành niên, bởi đây chính là lực lượng nòng cốt,là xương sống để phát triển nền kinh tế hiện nay. Nếu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà không gắn liền với quyền lợi và việc làm của người lao động bị thu hồi đất thì sẽ tạo ra sự mất ổn định trong xã hội, làm chậm tiến trình công nghiệp hóa. Việc dựa lao động dư thừa sau khi bị thu hồi đất, sử dụng đúng chỗ, đúng sách giúp chúng ta có thể tăng năng suất sản xuất, tạo sự đi lên về kinh tế. Kinh nghiệm tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất ở một số địa phương. Thành phố Hồ Chí Minh. Kể từ cuối năm 1993, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thực hiện triển khai nhiều dự án xây dựng các khu công nghiệp, chế xuất để nhằm mục đích thu hút các nguồn đầu tư, di dời các cơ sở sản xuất ra khỏi khu dân cư đông đúc nhằm tránh tình trạng ô nhiễm, cải thiện lại hệ thống giao thông ,… Tính từ năm 1998, thành phố đã triển khai bồi thường và giải phóng mặt bằng 721 dự án, tổng diện tích thu hồi hơn 201,8 triệu m2. Quá trình thu hồi đất đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân bị thu hồi đất. Thành phố đã có nhiều chính sách đền bù và hỗ trợ cho người dân, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập như giá đền bù thấp, không thỏa đáng,, gây nhiều xáo trộn, bức xúc đến đại bộ phận người dân có đất bị thu hồi. Trước tình hình này, thành phố đã thực hiện một số giải pháp, trong đó tập trung vào công tác bồi thường, hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất. Bên cạnh công tác bồi thường đất đai, thành phố còn thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho người dân. Đối với các hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nhưng vẫn còn đất canh tác, thành phố hỗ trợ cho vay vốn để phát triển sản xuất với mức vay lãi theo chương trình 419 (hộ dân thường được hỗ trợ 4% lãi suất vay/năm; hộ diện xoá đói giảm nghèo được hỗ trợ 7% lãi suất/năm). Đối với hộ bị thu hồi dưới 30% diện tích, thành phố hỗ trợ kinh phí học nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn với mức 300.000 đồng/người/tháng và không quá 1,5 triệu đồng trong một khoá đào tạo. Những hộ dân không còn đất sản xuất phải chuyển sang ngành nghề khác thì được hỗ trợ cho vay tín dụng từ 1 triệu đến 20 triệu đồng/hộ, lãi vay 6%/năm. Hỗ trợ, khoanh nợ lãi vay ngân hàng cho những hộ bị thu hồi hết đất, không thể tiếp tục sản xuất để trả nợ ngân hàng. Thành phố cũng đang xây dựng đề án thành lập công ty với sự góp vốn bằng tiền bồi thường của nông dân bị thu hồi đất. Xây dựng đề án nhà ở xã hội trên địa bàn giai đoạn 2006 – 2010. Thành phố cũng lập ra quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho ngưòi dân có đất bị thu hồi (chương trình 156) với nguồn vốn ban đầu 50 tỉ đồng. Nguồn vốn gồm: nguồn ngân sách thành phố, đóng góp của chủ đầu tư sử dựng đất của người dân, đóng góp tự nguyện của các cá nhân, tổ chức, kể cả tổ chức phi chính phủ và các nguồn tín dụng khác được ngân sách thành phố cấp bù lãi suất. Người bị thu hồi đất sẽ được quỹ hỗ trợ để theo học văn hoá, học nghề, đầu tư sản xuất, kinh doanh, đi xuất khẩu lao động… Theo đó, học sinh học phổ thông và đại học sẽ được hỗ trợ học phí và tiền đóng góp xây dựng cơ sở vật chất trường học, thời gian hỗ trợ không quá 3 năm. Học sinh học nghề được hỗ trợ tối đa 3 triệu đồng/người đối với khoá đào tạo trung hạn và không quá 250 nghìn đồng/người/tháng đối với khoá ngắn hạn. Đối với vay vốn để sản xuất, kinh doanh, mỗi lao động được vay không quá 10 triệu đồng, mỗi hộ không quá 30 triệu đồng. Riêng đối với trường hợp đi xuất khẩu lao động thì được vay không quá 50 triệu đồng/hộ. Lãi suất cho vay ưu đãi là 2%/năm (0,17%/tháng). Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, tốc độ phát triển các khu công nghiệp, khu dân cư tại nông thôn sẽ càng ngày càng tăng. Vì vậy, để đảm bảo được quyền lợi của những người lao động bị thu hồi đất, mất việc làm cũng như phương án sản xuất, nhà nước cần đưa ra nhiều hình thức hỗ trợ phù hợp hơn cho người dân được lựa chọn. Thành phố Đà Nẵng. Trong thời đại công nghiệp hóa, Đà Nẵng đã tiến hành triển khai quy hoạch, giải phóng mặt bằng đối với một số nơi trong thành phố. Đây là thành phố có diện tích đất nông nghiệp giảm rất nhanh do quá trình đô thị hóa. Nhiều người dân mất đất sản xuất nhưng chưa tìm được việc làm, hoặc không thể chuyển đổi ngành nghề đã khiến lực lượng lao động trong thành phố trở nên dư thừa. Nhiều người dân phải vào tận Quảng Nam để thuê đất trồng trọt. Để giải quyết vấn đề này, UBND thành phố đã triển khai đề án: “Hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, ổn định đời sống đối với đối tượng bị thu hồi đất sản xuất, di dời giải toả trên địa bàn”. Về chính sách học nghề, thành phố hỗ trợ triền ăn trưa cho 124 học sinh thuộc diện này với mức 5000đ/học sinh/ngày thực học, mức hỗ trợ mỗi học sinh không quá 120.000 đ/tháng (hỗ trợ tối đa không quá 6 tháng); hỗ trợ kinh phí đào tạo cho doanh nghiệp tiếp nhận lao động di dời giải toả là 1 tỷ 500 triệu đồng; trích từ ngân sách hơn 1 tỷ 480 triệu đồng để dạy nghề ngăn hạn không thu học phí đối với 1.250 đối tượng chính sách xã hội, trong đó có đối tượng bị hộ thu hồi đất; Chương trình mục tiêu quốc gia về hỗ trợ dạy nghề cho nông dân của thành phố đã dành 700 triệu đồng chi dạy nghề cho hơn 800 nông dân bị thu hồi đất. Về chính sách hỗ trợ học phí, đến nay, thành phố đã thực hiện miễn giảm học phí cho gần 2.000 em học sinh thuộc diện này. Thành phố Đà Nẵng đã trình HĐND thành phố đề án: “Quỹ giải quyết việc làm từ ngân sách thành phố”, dự kiến 6 tỷ đồng/năm uỷ thác cho Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay ưu đãi để giải quyết v iệc làm cho các đối tượng bị mất đất do di dời giải toả.Riêng quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm , trong 5 tháng dầu năm 2006, đã cho 19 hộ trong diện di dời, giải toả vay gần 350 triệu, giải quyết việc làm mới cho 29 lao động bị mất đất. Ngoài ra, thành phố cũng tạo điều kiện và hỗ trợ cho nông dân bị mất đất, thật sự không có điều kiện chuyển đổi nghề để hình thành vùng chuyên canh rau an toàn, với quy mô mỗi vùng từ 30 - 50 ha tại huyện Hỏa Vang và các quận: Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu. Thành phố Hải Phòng. Hải Phòng là thành phố lớn thứ 3 trong cả nước, áp lực về nhu cầu việc làm của người dân độ tuổi lao động cũng không ngừng tăng. Tuy nhiên, mỗi năm, thành phố vẫn thực hiện chuyển đổi hàng nghìn hécta đất nông nghiệp cho công nghiệp và các mục đích khác. Đồng nghĩa với việc đó, hàng vạn người lao động bị mất việc làm. Ước tính trong vòng 10 năm trở lại đây, đã có hàng vạn ha đất nông nghiệp không thể trồng cấy vì phải nhường chỗ cho các dự án mới được đầu tư chẳng liên quan gì đến trồng lúa. Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, chỉ tính từ năm 2003 đến tháng 7/2008, địa phương đã thu hồi gần 5.000 ha đất nông nghiệp cho 625 dự án công nghiệp, đô thị, thương mại, với tổng số hộ dân phải di dời gần 49.000 hộ, bằng hơn 64.000 nhân khẩu. Các huyện An Dương, Kiến Thụy (cũ), Thủy Nguyên có nhiều diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng nhất. Được biết, đi cùng với thu hút đầu tư, Hải Phòng cũng đã có chiến lược về tạo việc làm cho người lao động. Theo đó khuyến khích, tạo cơ chế "thoáng" về đất đai cũng như vay vốn cho những doanh nghiệp nào thu hút được nhiều lao động.Tuy nhiên, đấy mới chỉ là một trong nhiều giải pháp quan trọng. Nghĩa là, ngoài đào tạo nghề, còn nhiều giải pháp khác cần phải được kết hợp thực hiện đồng bộ giữa chủ đầu tư với địa phương, thực hiện nghiêm túc quá trình tái định cư và giải quyết việc làm cho người lao động. Bài học rút ra cho Hà Nội. Mặc dù hiện tại, Hà Nội có nhiều dự án cần thực hiện. Tuy nhiên, đứng trước tình trạng người lao động sau khi bị thu hồi đất phần lớn không có việc làm, và đứng trước khó khăn trong việc chuyển đổi nghề nghiệp, Hà Nội cần phải cân nhắc kĩ trước khi tiến hành thu hồi đất của người lao động. Thành phố cần tránh tình trạng sau khi thu hồi đất, các dự án vẫn chưa được thực hiện do chờ vốn từ trên chuyển xuống, khiến tình trạng đất bỏ không lãng phí, trong khi người lao động sau khi bị thu hồi đất rơi vào tình trạng gặp khó khăn khi kiếm việc làm, hoặc di cư sang các tỉnh thành khác thuê đất để tiến hành sản xuất. Nhà nước cần đề ra các chính sách hỗ trợ phù hợp cho người lao động bị thu hồi đất. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần phải quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ ổn định cuộc sống và tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành sát sao công tác hỗ trợ cho người lao động sau khi bị thu hồi đất trong việc đào tạo, nâng cao trình độ cũng như tay nghề của người lao động, giúp họ có thể đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp đề ra.Mức tăng thêm, phải tính toán đến sự cân đối của ngân sách đồng thời phát triển nguồn thu từ các nguồn ngoài ngân sách tùy theo tình hình thực tế. Hỗ trợ cho người dân thông qua thẻ học nghề, để đảm bảo sử dụng đúng mục đích của các khoản tài chính hỗ trợ dạy nghề ở các khu vực nói trên, chủ dự án sẽ lập danh sách nhu cầu học nghề của các hộ bị thu hồi đất, sau đó gửi họ đến các cơ sở dạy nghề phù hợp. Khi đó cả người dạy và người học nghề đều được thụ hưởng đúng ưu đãi tài chính cho người lao động tại các vùng đô thị hoá nhanh ở ngoại thàn Đồng thời, tiếp tục đổi mới phương thức cho vay vốn nhằm đơn giản hơn thủ tục cho vay, song vẫn đảm bảo khả năng thu hồi vốn, đảm bảo đúng đối tượng và công bằng; nâng cao ý thức, trách nhiệm vay và hoàn trả nợ vay đối với người được vay; khuyến khích học viên hoàn trả các khoản vay đúng hạn; thủ tục thanh toán đơn giản, dễ thực hiện...tiến hành tận dụng những mặt lợi thế ngay tại địa phương, tránh tình trạng phải ly hương để kiếm sống. Ngoài ra, cần khuyến khích mô hình đào tạo nghề và tạo việc làm trực tiếp do doanh nghiệp : Doanh nghiệp tự tổ chức đào tạo nghề cho người lao động và sau đó tuyển dụng họ vào làm việc cho doanh nghiệp, hoặc cũng có thể đào tạo để sau đó người lao động tự đi tìm việc ở doanh nghiệp khác. Các cơ quan quản lý các cấp, doanh nghiệp giải quyết những vấn đề tâm lý nảy sinh từ phía người nông dân, tạo điều kiện cho họ thích ứng với điệu kiện sống mới. Đồng thời, trước khi triển khai kế hoạch thu hồi đất, chính quyền địa phương nên có những buổi tập huấn nâng cao nhận thức cho người dân về ảnh hưởng của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất như tư vấn định hướng nghề nghiệp và chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, hướng dẫn người dân những vùng sẽ bị thu hồi đất sử dụng tiền đền bù có hiệu quả… Đồng thời, người nông dân cần phải ý thức được việc tự trang bị cho mình một nghề nhất định để có thể đáp ứng kịp thời với sự thay đổi việc làm khi đất nông nghiệp bị thu hồi. Rút kinh nghiệm từ các địa phương khác sẽ giúp cho Hà Nội, thành phố có lượng lớn lao động bị thu hồi đất, sẽ tìm ra được những giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất giúp cho người lao động có được việc làm, tránh rơi vào tình trạng thất nghiệp, từ đó không chỉ cải thiện được thu nhập cho người lao động mà còn giúp cho nền kinh tế có thể ngày càng phát triển, đất nước ngày càng đi lên sánh ngang tầm với các quốc gia trong khu vực. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI Các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động trên địa bàn hà Nội. Vị trí địa lí kinh tế. Hà Nội nằm ở trung tâm vùng Đồng bằng sông Hồng. Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có vị trí địa lý – chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Hà Nội có diện tích 3.348,5 km2; dân số là 6,45 triệu người, mật độ trung bình là 1.926 người/km2. Từ Hà Nội đi các thành phố, thị xã của Bắc Bộ cũng như của cả nước rất dễ dàng bằng cả đường ô tô, sắt, thủy và hàng không. Hà Nội có 2 sân bay dân dụng, là đầu mối giao thông của 5 tuyến đường sắt, 7 tuyết đường quốc lộ đi qua trung tâm. Đó là những yếu tố gắn bó chặt chẽ hà Nội với các trung tâm trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi để Hà Nội phát triển mạnh giao lưu buôn bán với nước ngoài, tiếp nhận kịp thời các thông tin, thành tựu khoa học và kỹ thuật của thế giới; tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, khu vực và cùng hội nhập vào quá trình phát triển năng động của khu vực Đông Á – Thái Bình Dương. Trong vùng Thủ đô, Hà Nội được khẳng định là thành phố trung tâm của vùng với mô hình chùm đô thị có hệ thống đa trung tâm hiện đại, đầu mối giao thông chính, trung tâm nghiên cứu, dịch vụ tài chính, thương mại, văn hóa, du lịch và dịch vụ hạ tầng xã hội mang tầm khu vực Đông Nam Á. Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan hành chính cao nhất của Nhà Nước, là trung tâm hàng đầu về khoa học – công nghệ, đào tạo, y tế, văn hóa. Tại Hà Nội còn có các cơ quan ngoại giao, các văn phòng đại diện của các tổ chức quốc tế. Hà Nội đã và sẽ giữ vai trò trung tâm phát triển lớn nhất của Bắc Bộ, là thị trường lớn của vùng và cả nước. Đồng thời, Hà Nội nằm trong vùng nhiều quần thể di tích lịch sử và cảnh quan du lịch hấp dẫn: Hạ Long, Đồ Sơn, Tam Đảo,… có thể làm điểm đầu mối của nhiều tuyến du lịch hấp dẫn ở Miền Bắc. Có thể nói, Hà Nội là thành phố có khả năng tạo nhiều việc làm cho người lao động, thuận lợi cho việc làm ăn, buôn bán của người dân. Chính vì vậy, những người lao động không có việc làm ở nhiều nơi khác thường đổ về thành phố để mong có thêm nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm, tạo thu nhập giúp cải thiện đời sống cho bản thân và gia đình, cũng như tăng sự phát triển kinh tế,xã hội. Khí hậu. Thành phố Hà Nội nằm trong vùng khí hậu Đồng bằng Bắc Bộ mang đặc thù của miền khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa động lạnh, mùa hè nống ẩm mưa nhiều. Mùa động lạnh rõ rệt so với mùa hạ, chênh lệch giữa nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất và tháng nóng nhất lên tới 12oC, song nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất chỉ xuống đến 16 – 17oC, rất thuận lợi để phát triển cây vụ Đông giá trị kinh tế cao. Mùa hè: nóng ẩm, mưa nhiều, lượng mưa trung bình từ 1700 – 1800 mm. Lượng mưa tăng dần từ đầu mùa tới giữa mùa, đạt cực đại vào tháng 8, tháng 9 thuộc về mùa ít mưa. Riêng vùng núi Ba Vì: Khí hậu có sự khác biệt, ngoài sự chênh lệch nâng cao của nền nhiệt độ vùng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, ở Ba Vì còn có sự chênh lệch rõ nét về độ cao địa hình. Địa hình Thành phố Hà Nội có địa hình đa dạng, bao gồm vùng núi cao, vùng đồi thấp và vùng đồng bằng thấp trũng. Vùng núi cao có cao độ thay đổi từ 300m đến 1000m, trong đó có đỉnh núi Bà Vì cao 1.281m và một số núi đá vôi ở phía Nam tỉnh (Chương Mỹ, Mỹ Đức) với nhiều hang động đẹp, các núi rừng này thường có độ dốc lớn, hay bị xói mòn, rửa trôi khi mùa mưa đến. Phía Bắc Hà Nội có dãy Sóc Sơn với đỉnh cao nhất là Chân Chim có độ cao 462m.Vùng đồi thấp tập trung chủ yếu ở khu vực Hà Tây cũ với diện tích trên 53 nghìn ha, chủ yếu có cao độ từ 30m đến 300m. Địa hình vùng đồi thấp dốc thoải với độ dốc trung bình từ 8 – 20%, đây là vùng đất nâu vàng, đỏ. Địa hình đồng bằng chiếm phần lớn diện tích của thành phố, bao gồm khu vực phía Đông của tỉnh Hà Tây cũ, hầu hết diện tích của Hà Nội cũ (trừ khu vực vùng núi Sóc Sơn) và huyện Mê Linh. Hà Nội có địa hình tốt, có nhiều thuận lợi trong việc phát triển ngành nông nghiệp. Vì vậy, chính quyền địa phương có thể hướng người lao động sử dụng một số vùng đất trống trên cao, tiến hành áp dụng một số công nghệ cao vào việc trồng trọt, chăn nuôi, giúp tăng năng suất, tạo nguồn thu nhập cho người lao động. Tài nguyên đất. Đến năm 2009, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu sử đụng dất cua thành phố, khoảng 56,5%, trong đó đất trồng lúa là 118,1 nghìn ha, chiếm 35,3% diện tích tự nhiên thành phố. Đất lâm nghiệp chỉ có khoảng 24,05 nghìn ha, trong đó chủ yếu là đất rừng phồng hộ và rừng đặc dụng (14,43 nghìn ha). Diện tích đất chưa sử dụng là 10,51 nghìn ha, trong đó đất bằng chưa sử dụng còn khá nhiều (4,84 nghìn ha). Bảng 2.1. Thực trạng sử đụng dất thành phố Hà Nội. STT Chỉ tiêu Năm 2009 Năm 2010 Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) TỔNG DIỆN TÍCH ĐẤT TỰ NHIÊN 334.852,150 100,0 334.852,150 100,0 1 Đất nông nghiệp 189.092,480 56,470 172.837,470 51,616 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 153.513,010 45,845 133.680,250 39,922 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 138.907,380 41,483 116.139,560 34,684 1.1.1.1 Đất trồng lúa 118.126,550 35,277 96.428,500 28,797 1.1.1.2. Đất trồng cây hàng năm còn lại 20.138,990 6,014 19.711,060 5,886 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 14.605,630 4,362 17.540,690 5,238 1.2 Đất lâm nghiệp 24.051,920 7,183 23.342,790 6,971 1.2.1. Đất rừng sản xuất 9.618,440 2,872 8.511,780 2,542 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 3.753,630 1,121 5.308,710 1,585 1.2.3 Đất rừng đặc dụng 10.679,850 3,189 9.522,300 2,844 1.3 Đất nuôi trồng thủy sản 9.658,250 2,884 13.835,930 4,132 1.4 Đất nông nghiệp khác 1.869,300 0,558 1.978,500 0,591 2 Đất phi nông nghiệp 135.245,150 40,390 153.611,560 45,874 2.1 Đất ở 33.493,540 10,002 36.998,080 11,049 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 26.948,780 8,048 27.477,740 8,206 2.1.2 Đất ở tại đô thị 6.544,760 1,955 9.520,340 2,843 2.2 Đất chuyên dùng 70.002,820 20,906 94.622,240 28,258 2.2.1 Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp 2.265,540 0,677 2.386,250 0,713 2.2.2 Đất quốc phòng, an nình 9.773,530 2,919 9.840,790 2,939 2.2.3 Đất an ninh 0,000 2.2.4 Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 11.837,750 3,535 20.432,620 6,102 2.2.5 Đất có mục đích công cộng 46.126,000 13,775 51.962,580 15,518 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 788,480 0,235 792,810 0,237 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 2.966,840 0,886 3.216,060 0,960 2.5 Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 27.527,970 8,221 26.909,700 8,036 2.6 Đất phi nông nghiệp khác 465,500 0,139 1.072,670 0,320 3 Đất chưa sử dụng 10.514,520 3,140 8.403,120 2,510 3.1 Đất bằng chưa sử dụng 4.840,050 1,445 3.465,120 1,035 3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng 2.794,110 0,834 2.201,950 0,658 3.3 Núi đá không có rừng cây. 2.880,360 0,860 2.736,050 0,817 Nguồn: Sở Tài nguyên và Môi trường. Hiện nay, đất nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội vẫn chiếm một diện tích khá lớn. Phần lớn đất bị thu hồi trên địa bàn Hà Nội là đất nông nghiệp, điều này sẽ đẩy những người nông dân rơi vào tình trạng mất nơi sản xuất, lao động. Vì vậy, chính quyền, ủy ban nhân dân thành phố cần chú trọng thu hồi đất sử dụng hiệu quả, tránh tình trạng để người lao động bị thu hồi đất không có việc làm, còn đất thì để không chờ dự án gây lãng phí. Tài nguyên du lịch. Với bề dày hàng nghìn năm lịch sử, Hà Nội có nhiều danh thắng, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật, khảo cổ, kiến trúc cùng với các di tích di vật thể khác, các lễ hội, làng nghề và văn hóa dân gian; nơi tập trung những bảo tàng lớn và quan trọng của cả nước. Những đặc trưng văn hóa Việt là nguồn lực và lợi thế cho phát triển những ngành đem lại giá trị gia tăng cao và tạo xuất khẩu tại chỗ như du lịch và các dịch vụ văn hóa khác. Trên địa bàn Hà Nội có trên 5.100 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó có trên 700 di tích được xếp hạng cấp quốc gia và trên 1.400 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, mật độ di tích vào loại cao nhất nước.Hà Nội có nhiều danh làm thắng cảnh nổi tiếng như Cổ Loa, Văn Miếu, Hoàng thành Thăng Long, khu phố cổ, khu phố cũ, lăng chủ tịch Hồ Chí Mình,.. Bên cạnh đó, Hà Nội còn có nhiều đền chùa nổi tiếng như chùa Hương, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên, đền Và, phủ Tây Hồ,… Ngoài ra, Hà Nội là nơi tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng, trong đó có các nghề đặc sắc như : làm tranh dân gian (tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ); gốm sứ Bát Tràng; nghề làm giấy dó lụa, dệt tơ lụa ở Bưởi; nghề thêu ở Yên Thái; nghề đúc đồng Ngũ Xã; nghề chạm khảm trang trí đồ gỗ Vân Hà; nghề sản xuất đồ da ở Kiêu Kỵ; lụa Vạn Phúc; nón Chuông; quạt Vác; khảm trai Chuyên Mỹ; hàng mây tre Phú Vinh; đồ mộc Tràng Sơn, tượng gỗ Sơn Đồng … Hiện nay, chính quyền thành phố đã có nhiều chính sách phát triển các làng nghề truyền thống. Việc phát triển cũng cần một số lượng lực lượng lao động có tay nghề. Vì vậy có thể hướng những lao động sau khi bị thu hồi đất học và tham gia vào các làng nghề , tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Thực trạng lực lượng lao động trên địa bàn Hà Nội. Lực lượng lao động Dân số của Việt Nam hiện nay là hơn 82 triệu người, trong đó có khoảng 19 triệu thanh, thiếu niên từ 10 đến 19 tuổi, và mỗi năm bình quân tăng thêm hơn một triệu người. Với tốc độ tăng dân số như vậy, lao động (LĐ), việc làm luôn là vấn đề cấp bách, nhất là trong bối cảnh Việt Nam mở cửa hội nhập nền kinh tế hiện nay.Hiện thị trường lao động Việt Nam có 45 triệu lao động, trong đó có 70% lao động ở khu vực nông thôn. Theo báo cáo gần đây nhất (tính đến ngày 23.1) của 41/63 tỉnh thành, thì con số mất việc sẽ vào khoảng 80 nghìn người. Các tỉnh thành có lao động mất việc cao chính là những nơi có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như TPHCM (19.000 người); Hà Nội (gần 10.000 người); Bình Dương, Đồng Nai (mỗi tỉnh khoảng từ 8.000 đến 10.000 người); Bắc Ninh, Vĩnh Phúc (mỗi nơi từ 4.000 đến 5.000 người)…Dự báo, 6 tháng đầu năm 2009, dự báo sẽ có 300.000 lao động mất việc làm. 6 tháng cuối năm sẽ có thêm 100.000 người nữa rơi vào cảnh thất nghiệp. Hà Nội sau khi được mở rộng trên cơ sở hợp nhất Thủ đô Hà Nội cũ với tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc tỉnh Hòa Bình, quy mô dân số lớn thứ hai toàn quốc (sau HCM), dân số Hà Nội tăng từ 3.556 nghìn người lên 6.448 nghìn người. Hiện nay, tỷ lệ tăng dân số tăng từ 11,69% năm 2000 lên 11,75% năm 2005, đạt 12,46% năm 2008 và khoảng 12,67% năm 2009. Theo dự báo dân số thành phố năm 2010 khoảng 6.591 nghìn người, trong đó dân số đô thị khoảng 2.722 nghìn người, chiếm 41,3% tổng dân số. Điều này khiến dân số trong độ tuổi lao động tăng lên từ 3.571 nghìn người năm 2000 lên 4.079 nghìn người năm 2009, trong đó số lao động tham gia hoạt động kinh tế là 3.114 nghìn người. Số người bước vào tuổi lao động hàng năm khoảng 80 nghìn người, số lao động dôi dư mất việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp 30 nghìn người/năm; số người cần tìm việc hàng năm khoảng 120 nghìn người. 8 tháng đầu năm 2008 toàn thành phố giải quyết việc làm cho 86.483 người (đạt 70,8% kế hoạch năm), đào tạo nghề cho 57.500 người (đạt 49,1% kế hoạch) và đưa 7.118 hộ thoát nghèo (đạt 54,7% kế hoạch năm). Thu nhập bình quân một lao động/tháng trong khu vực kinh tế Nhà nước do Thành phố qtăng 21,2% so cùng kỳ (do Nhà nước thay đổi mức lương cơ bản từ 450 ngàn đồng lên 540 ngàn đồng). Dự kiến giai đoạn 2006 – 2010, toàn thành phố có 612.433 người được giải quyết việc làm. Trung bình mỗi năm có 122.488 người được giải quyết việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 6,06% năm 2006 xuống còn 5,35% năm 2008, dự kiến năm 2010 giảm còn 5,0%. Lao động Hà Nội tuy dồi dào song tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 45%, trong đó lao động qua đào tao nghề đạt 23%, chất lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các vùng đô thị, các quận nội thành. Cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng lao động trong khu vực nông lâm thủy sản đã giảm mạnh từ khoảng 46% năm 2000 xuống 36,5% năm 2005 và dự kiến còn khoảng 27,1% năm 2010. Tỷ trọng lao động khu vực công nghiệp – xây dựng tăng từ 23% năm 2000 lên 24,8% năm 2010. Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu về lao động. Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2005 Năm 2009 Năm 2010 Tốc độ tăng trưởng (%) 2001-2005 2006-2010 1.Dân sô trong độ tuổi lao động 1000 người 3.571 3.842 4.034 4.079 1,47 1,20 2.Dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. 1000 người 3.464 3.731 3.920 3.964 1,50 1,22 3.Số người đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. 1000 người 2.309 2.674 3.114 3.239 2,98 3,91 -Nông lâm thủy sản 1000 người 1.062 976 900 880._.i ngoại được mở rộng, vị thế của Thủ đô trong khu vực và quốc tế được nâng cao. Mục tiêu cụ thể. Giảm dần sự bất hợp lý và lãng phí trong sử dụng nguồn lực lao động, mất cân đối giữa cung – cầu lao động. Tăng cơ hội tuyển dụng được nhân lực chất lượng tốt cho các chủ lao động và tạo cơ hội việc làm tốt cho người lao động bị thu hồi đất. Từ đó, giảm tỷ lệ thất nghiệp đồng thời tăng thời gian sử dụng lao động bị thu hồi đất. Nâng cao chất lượng nguồn lao động như tăng mức đầu tư dạy nghề. Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa đào tạo. Từng bước nâng cấp, phát triển cơ sở dạy nghề. Chú trọng đào tạo nhân lực chuyên môn cao cho những ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển thông tin thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống giao dịch chính thức trên thị trường lao động: nâng cao chất lượng hoạt động của sàn giao dịch việc làm thành phố; thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động thống nhất từ thành phố đến quận, huyện, xã phường. Phấn đấu trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho 155.000 – 160.000 người. Số lượt người được đào tạo nghề trung bình mỗi năm 150.000 lượt người. Đến năm 2015 lao động bị thu hồi đất qua đào tạo đạt 60%, năm 2020 đạt 75%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 55%. Tiến hành chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có chính sách ưu đãi và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy năng lực, sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật. Tổ chức tốt công tác mạng lưới dịch vụ cung ứng lao động, giao dịch, tìm hiểu và giới thiệu việc làm. Ngoài ra đối với khu vực nông thôn cần cải thiện và làm tốt công tác dịch vụ kỹ thuật, cung ứng vật tư và khai thông thị trường cho các sản phẩm và dịch vụ. Thành phố xây dựng ngân hàng dữ liệu về cung và cầu sức lao động và cung cấp những thông tin cần thiết, kịp thời cho các quận, huyện, xã, phường và nhân dân về vấn đề này. Phối hợp với các ngành trung ương, các khu công nghiệp, từng bước hình thành và phát triển thị trường sức lao động, tổ chức, quản lý tốt và có hiệu quả thị trường đặc biệt này. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động đến các thị trường đòi hỏi lao động có tay nghề cao và thu nhập khá, ổn định. Các giải pháp tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. Mặc dù Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã có những chính sách hỗ trợ về đào tạo nghề và việc làm cho người lao động bị thu hồi đất, nhưng các chính sách đó vẫn còn một số mặt bất cập cần nghiên cứu và tháo gỡ. Do đó, chúng ta cần phải có các giải pháp phù hợp, để từ đó giúp người lao động bị thu hồi đất có thể tìm được việc làm một cách dễ dàng hơn, tránh rơi vào tình trạng thất nghiệp quá nhiều như hiện nay. Từ đó, ta mới có thể giúp cho nền kinh tế được phát triển đi lên sánh ngang tầm với các nước trong khu vực. Nghiên cứu và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ người lao động bị thu hồi đất. Hiện nay, Hà Nội đã có một số chính sách liên quan đến bồi thường thiệt hại, hỗ trợ cho người lao động bị thu đất, như chính sách quy định về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư và làm nhà ở nông thôn tại điểm dân cư nông thôn trên địa bàn thành phố Hà Nội được ban hành ngày 28/1/2010, nhằm hạn chế tình trạng nhiều dự án kinh tế “núp bóng” chính quyền thu hồi đất tràn lan sai quy định, hạn chế được tình trạng mất việc làm của lao động bị thu hồi đất. Các chính sách được ban ra tuy bảo đảm về mặt kinh tế, nhưng phần lớn chưa thực sự đảm bảo được các chế độ phúc lợi trong xã hội, chưa bảo đảm được sự ổn định về đời sống cho người lao động. Do vậy, ta cần phải nghiên cứu và tìm ra các phương án tối ưu nhất để cải thiện được các chính sách được đề ra. Ta có thể hoạch định chính sách theo các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Thiết kế chính sách Nhận diện các vấn đề của các hộ gia đình sau TĐC: kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường Xác định nhu cầu: họ có những nhu cầu gì về các vấn đề đó Xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể Đánh giá nguồn lực và cản trở Hoạch định các hoạt động Giai đoạn 2: Thực hiện Giai đoạn 3: Đánh giá. Địa điểm Nhận diện nhu cầu của người dân sau TĐC Xác định nhu cầu của họ Xác định mục tiêu tổng quát và cụ thể Xác định nguồn lực và trở ngại Hoạch định các hoạt động Thời gian Trách nhiệm Các bảo đảm hậu cần Kế hoạch hoạt động Giám sát Quản lý Đánh giá Phối hợp Quy định mới ban hành kèm Quyết định 136/2007/QĐ-UBND nêu rõ các trường hợp Nhà nước ra quyết định thu hồi đất để giao đất, cho thuê đất thực hiện các dự án đầu tư, các dự án khu dân cư, trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp, các khu kinh doanh tập thể có cùng chế độ sử dụng đất và cả các trường hợp Nhà nước sẽ không ban hành quyết định thu hồi đất. Các đối tượng chịu ảnh hưởng của quy định mới này gồm tất cả các tổ chức trong nước; hộ gia đình, cá nhân trong nước; cộng đồng dân cư; cơ sở tôn giáo; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao và cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất... Theo đó, Nhà nước sẽ ra quyết định thu hồi đất để giao đất, cho thuê đất thực hiện các dự án đầu tư như: xây dựng công trình quốc phòng, an ninh; xây dựng trụ sở cơ quan Nhà nước, công trình sự nghiệp của các tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất; xây dựng trụ sở các của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; xây dựng các công trình công cộng không nhằm mục đích kinh doanh; phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; các cơ sở tôn giáo; nghĩa trang, nghĩa địa tập trung. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng sẽ thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế, gồm: xây dựng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế; thực hiện các dự án kinh tế quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư được thể hiện trong Nghị quyết của Quốc hội, các dự án kinh tế quan trọng do Thủ tướng chấp thuận chủ trương đầu tư; thực hiện các dự án có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); dự án sử dụng 100% vốn đầu tư nước ngoài đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền duyệt hoặc cấp Giấy chứng nhận đầu tư mà dự án đó không thể đầu tư trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Các dự án sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật; sử dụng đất làm mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo yêu cầu bảo vệ môi trường hoặc theo quy hoạch mà không thể bố trí vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế; sử dụng đất để đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ công cộng gồm các công trình giao thông, điện lực, thủy lợi, cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, đường ống dẫn dầu, dẫn khí, giáo dục, đào tạo, văn hóa, khoa học kỹ thuật, y tế, thể thao, chợ... cũng sẽ do Nhà nước ra quyết định thu hồi đất. Ngoài ra, Nhà nước sẽ thu hồi đất để giao đất, cho thuê đất thực hiện các dự án đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất theo quy hoạch... Quyết định thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế trong khu đô thị hiện có gồm: xây nhà ở để bán hoặc cho thuê, nhà ở xã hội, nhà tái định cư, nhà ở công vụ; xây dựng trung tâm thương mại, trung tâm hội chợ triển lãm, khách sạn cao cấp 3 sao trở lên... sẽ được ban hành với điều kiện các dự án này phải được thể hiện trong quy hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và Chủ tịch UBND thành phố phê duyệt chủ trương đầu tư. Một số trường hợp khác, như: các dự án phát triển kinh tế trong khu vực mở rộng khu đô thị hiện có hoặc khu đô thị mới gồm toàn bộ các dự án kinh tế (không phân biệt qui mô, loại hình); các dự án phát triển kinh tế trong khu dân cư nông thôn hiện có, khu dân cư nông thôn mở rộng hoặc khu dân cư nông thôn xây dựng mới... khi cần cũng được quyết định thu hồi đất. Tương tự, việc thu hồi đất cũng được thực hiện nhằm xây các khu kinh doanh tập thể (nhiều chủ thể cùng kinh doanh) có cùng chế độ sử dụng đất như: khu thương mại - dịch vụ tổng hợp với nhiều loại hình mua bán, dịch vụ; khu du lịch có mối liên kết về kết cấu hạ tầng, về loại hình kinh doanh (không bao gồm du lịch sinh thái); khu vui chơi ngoài trời phục vụ rộng rãi các đối tượng thuộc mọi lứa tuổi; khu chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung... Tuy nhiên, các khu kinh doanh tập thể này không được phép bố trí xen lẫn với đất ở, nhà ở; phải thể hiện trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; đã có chủ trương đầu tư của Thủ tướng hoặc quyết định đầu tư của Chủ tịch UBND thành phố, hoặc đã thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô... Tạo sự phát triển toàn diện các mặt kinh tế, xã hội . Tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý Kinh tế là tiền đề để giúp cho một xã hội phát triển và ổn định. Kinh tế phát triển giúp người lao động có nhiều cơ hội việc làm, tăng nguồn thu nhập, cải thiện đời sống sinh hoạt. Vì vậy, ta cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh phát triển kinh tế với mức tăng trưởng cao và ổn định trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Ta cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ tích cực bằng cách tăng nhanh tỷ trọng trong các khu công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp, nhằm tạo cơ cấu một nền kinh tế có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới, nhất là cho một lực lượng lớn người lao động bị thu hồi đất đang không có việc làm trong nước nói chung và Hà nội nói riêng. Bên cạnh đó, các nhà quy hoạch cần chú trọng đến việc quy hoạch, sử dụng hiệu quả đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác ở từng vùng sao cho có hiệu quả. Thông qua việc công khai minh bạch quy hoạch sử dụng đất, quỹ đất; xây dựng hoặc hỗ trợ xây dựng khu, cụm công nghiệp cùng với hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào và ngoài hàng rào. Kiên quyết thu hồi các diện tích mặt đất, mặt nước để không hoặc sử dụng không hiệu quả đã giiao cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trước đây để cho các nhà đầu từ khác thuê để tham gia quá trình hoạt động sản xuất. Từ đó góp phần tăng việc làm cho người lao động bị thu hồi đất đang trong tình trạng thất nghiệp. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Chính quyền địa phương cần chú trọng đến việc mở rộng cơ cấu các ngành nghề, phát triển dịch vụ kinh doanh vừa và nhỏ, mô hình kinh tế hộ gia đinh. Việc khuyến khích người lao động bị thu hồi đất tham gia hoạt động kinh tế chủ yếu để người dân lao động tại chỗ, khai thác và huy động nguồn nhân lực một cách tối đa, tránh tình trạng người lao động sau khi bị thu hồi đất không có việc làm, phải di cư qua các vùng khác để sinh sống, gây mất cân bằng cung – cầu giữa khu vực nội thành và ngoại thành. Tuy nhiên, ngoài việc khuyến khích người lao động kinh doanh, sản xuất ngay tại địa phương, chính quyền cũng cần phải có sự kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt, nhằm tránh tình trạng vi phạm pháp luật, cạnh tranh không công bằng giữa các cơ sở sản xuất, dễ tạo sự rối loạn trong việc quản lý và sản xuất kinh tế. Nhất là đối với nhóm dân cư làm nghề thủ công truyền thống, cần giúp họ thấy được ý nghĩa của việc nâng cao kiến thức, tay nghề, khả năng sáng tạo trong công việc. Từ đó, họ có thể có mở rộng quy mô sản xuất, phát triển thị trường tiêu thụ ra nhiều nơi từ đó tăng thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Triển khai và phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao ở các làng nghề truyền thống như Gốm sứ Bát Tràng, may Cổ Nhuế, chế biến thực phẩm Xuân Đỉnh, sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ Vân Hà – Liên Hà, dệt ở Triểu Khúc, dệt lụa Vạn Phúc, lụa Cổ Đô (Ba Vì), nghề dệt xô màn ở Hòa Xá, nghề dệt kim La Phù (Hoài Đức), các làng nghề chế biến nông sản. Cần phát triển các làng nghề này theo hướng kết hợp với du lịch. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm. Sau khi bị thu hồi đất, người lao động thường gặp khó khăn trong công việc tìm kiếm việc làm. Do đặc thù của thành phố Hà Nội, sau khi bị thu hồi đất, các hộ gia đình thường được bố trí ở các khu chung cư cao tầng. Tuy nhiên, phần lớn hộ dân trước khi bị di dời thường ở mặt đường, bám mặt đường làm nơi kinh doanh làm ăn buôn bán. Vì vậy, khi bị di dời họ hầu như không có khả năng có công việc làm và thu nhập như cũ được, trừ một số ít hộ có điều kiện quay về nơi cũ thuê lại cửa hàng hoặc mặt bằng tầng trệt của những hộ gia đình mới chuyển ra mặt đường do quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng. Hơn nữa, độ tuổi của những lao động dưới hình thức này thường không còn trẻ nên việc đào tạo, bố trí công việc mới trở nên rất khó khăn. Do đó, chính quyền địa phương cần kết hợp với các chủ đầu tư và doanh nghiệp khuyến khích sử dụng lao động địa phương thông qua những hình thức ứu đãi về mặt bằng sản xuất, cơ chế quản lý,… Đề ra các giải pháp giúp sử dụng được chính nguồn lực lao động đông đảo có sẵn ở mỗi địa phương, tránh tình trạng lao động đổ dồn về một số nơi khiến xảy ra tình trạng mất công bằng cung – cầu. Đồng thời giải pháp giúp địa phương thu hút được nguồn lao động có tay nghề và trình độ tri thức cao, đáp ứng được yêu cầu của các chủ lao động. Với những người lao động trẻ bị thu hồi đất, họ có sức khỏe và trình độ khá, có thể hướng họ chuyển đổi nghề từ lao động nông nghiệp sang lao động trong các ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ. Để chuyển đổi nghề, họ cần được chính quyền các địa phương và các cơ sở dạy nghề giúp đỡ để đào tạo chuyên môn, nâng cao tay nghề, có thể đáp ứng tốt được yêu cầu của các chủ lao động. Ngoài ra, một số lao động trẻ vẫn muốn tiếp tục lao động kiếm sống bằng nghề nông, họ thường sang những địa phương khác chưa bị thu hồi đất để thuê và tiến hành hoạt động sản xuất. Địa phương có thể kết hợp với phối hợp với các lớp học khuyến nông để phổ biến các kiến thức về kỹ thuật nuôi trồng, sản xuất cho người lao động, giúp mở ra nhiều hướng sản xuất cho người lao động được lựa chọn. Bên cạnh các vụ chính, người lao động có thể tập trung vào trồng cây luân canh theo vụ, tránh để đất bỏ trống, nhưng cũng không để đất rơi vào tình trạng bạc màu, không có dinh dưỡng. Bên cạnh việc trồng trọt, các cơ quan cũng nên hướng người lao động tập trung vào phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Bởi đây là ngành sản xuất chính làm giàu cho người dân. Việc phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng kỹ thuật chăn nuôi tiên tiến, giữ vệ sinh môi trường, tạo khôi lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao phục vụ thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tập trung phát triển chăn nuôi bò sữa, bò thịt chất lượng cao, lượn nạc, gia cầm chất lượng cao, chăn nuôi lợn, gia cầm quy mô lớn ở vùng đồi gò, bán sơn địa. Tận dụng toàn bộ các loại mặt nước, cải tạo một phần diện dích đất mặt nước chưa sử dụng, chuyển đổi một phần đất lúa vùng úng trũng để chuyên nuôi trồng thủy sản theo hình thức bán thâm canh và thâm canh bằng thức ăn công nghiệp. Chuyển đổi đất lúa vùng úng trũng, sản xuất vụ mùa không ăn chắc sang canh tác lúa và cá. Từ đó giúp người lao động có việc làm, tăng thêm thu nhập và tiết kiệm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn những người lao động có tâm lý kén chọn nghề nghiệp hoặc ngại lao động nặng nhọc, hoặc không muốn làm những công việc có thu nhập thất, chính quyền địa phương cần giáo dục tư tưởng, vận động khả năng lao động tự tìm và tạo việc làm. Với những người lao động bị thu hồi đất nhưng đã lớn tuổi, họ thường không có trình độ và sức khỏe để đáp ứng được những yêu cầu các doanh nghiệp đề ra, vì vậy họ khó có cơ hội để chuyển đổi nghề nghiệp. Tuy vậy, họ cũng không có kiên nhẫn để tham gia vào quá trình đào tạo mà có tâm lý muốn kiếm được việc làm ngay, bởi phần lớn họ là trụ cột trong gia đình, cần có thu nhập để không chỉ nuôi sống bản thân mà còn cả gia đình con cái. Vì vậy, đây là nhóm đối tượng lao động bị thu hồi đất chính quyền cần dành nhiều sự quan tâm và tích cực áp dụng các biện pháp hỗ trợ. Thực tế, có một số người lao động có vốn, có cơ sở vật chất và khả năng lao động, nhưng họ lại không có kiến thức để biết bắt đầu một công việc như thế nào, phải thực hiện công việc đó ra sao, làm thế nào để thu được lợi nhuận từ công việc đó. Do tay nghề thấp, trình độ chuyên môn không có, họ không phát huy được thế mạnh đang có, thậm chí còn không thể tự tạo việc làm được cho bản thân. Vì vậy, thành phố cũng cần kết hợp với các trường, lớp, trung tâm đào tạo nghề để tổ chức các lớp học nghề ngắn hạn để hỗ trợ và đáp ứng được nhu cầu của người lao động. Chính quyền địa phương cần tổ chức các buổi giao lưu, sinh hoạt tập thể theo định kì giữa những người lao động để họ có thể trao đổi kinh nghiệm và học hỏi thêm những kinh nghiệm trong quá trình sản xuất,… Đề ra những chính sách đãi ngộ, khen thưởng, thể hiện sự coi trọng những lao động giỏi, có trình độ tay nghề cao, có ý thức phấn đấu cũng là một cách để thúc đẩy người lao động bị thu hồi đất học hỏi nhiều hơn, đồng thời cải thiện được suy nghĩ của người lao động về lợi ích của quá trình tham gia đào tạo và dạy nghề, từ đó giúp họ nhanh chóng có được việc làm và tăng được thu nhập cho bản thân cũng như cho gia đình và xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động Xuất khẩu lao động giúp lao động có nhiều cơ hội việc làm hơn, góp phần trực tiếp tạo thu nhập cao hơn so với lao động trong nước. Ngoài ra, những lao động bị thu hồi đất, sau khi làm việc tại nước ngoài trở về nước, tay nghề sẽ được nâng cao, có thể tạo thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm việc làm tốt trong nước hơn. Những lao động này sau khi về đã có tay nghề vững, có thể nhận vào làm trong các khu công nghiệp xây dựng dự án của nước ngoài theo đúng nghề nghiệp đã theo làm ở nước ngoài. Vì vậy, ta cần phải xây dựng, khuyến khích người lao động bị thu hồi đất tham gia vào quá trình xuất khẩu lao động. Thành phố cần khuyến khích thành lập các trung tâm đào tạo, các công ty tư nhân thiên về việc đào tạo và xuất khẩu lao động; coi trọng công tác quản lý, giám sát hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao đối với các thị trường lao động truyền thống của nước ta từ trước đến nay như Trung Quốc, Đài Loan, Malayxia,… Đồng thời, thành phố cũng cần thường xuyên theo dõi, phát hiện và xử lý nghiệm các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, gây ảnh hưởng đến quyền lợi đến quyền lợi người lao động. Bên cạnh đó, chính quyền thành phố cũng cần giúp cho những người lao động bị thu hồi đất có đủ năng lực, kiến thức, tay nghề và ngoại ngữ cần thiết cũng như hiểu biết về các phong tục, tập quán để giúp người lao động có thể hòa nhập được với môi trường làm việc, đồng thời có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình khi làm việc ở nước ngoài. Chú trọng đến đào tạo nghề cho người lao động. Một trong những nguyên nhân khiến người lao động bị thu hồi đất không có việc làm là do đa số lao động bị thu hồi đất đều là những người không có tay nghề, trình độ còn thấp. (87%). Nhiều lao động thất nghiệp khi thử đi tìm kiếm việc làm đều không được là do họ không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Chính vậy vậy, việc cải thiện và nâng cao trình độ và chất lượng tay nghề cho người lao động là một việc làm vô cùng bức thiết. Đây là một vấn đề có tính chiến lược lâu dài đối với Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Do đó, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nưới, cộng đồng và người lao động bị thu hồi đất nhằm nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực có chất lượng cao cho người lao động. Cải thiện và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo. Ta cần chú trọng giáo dục hướng nghiệp; tập trung phát triển đào tạo nghề, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật cao phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế Thủ đô và phục vụ xuất khẩu lao động. Triển khai các quy định của Ủy ban nhân dân Thanh phố về việc hỗ trợ đào tạo và giáo dục đối với người lao động bị thu hồi đất. Đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ tình hình hỗ trợ đào tạo của các chủ dự án sử dụng đất thu hồi, trong đó, số lao động được chủ dự án hỗ trợ tỷ lệ với phần trăm đất bị thu hồi. Xây dựng các trường đào tạo nghề mới ở nhiều nơi trong thành phố. Nâng cấp, mở rộng quy mô đào tạo của các cơ sở dạy nghề. Xây dựng và triển khai dự án phát triển từ 01 – 03 trường trung cấp chuyên nghiệp ngang tầm khu vực về quy mô, trang thiết bị và chất lượng đào tạo, mở rộng ngành nghề đào tạo; xây dựng một số trung tâm đào tạo nghề kỹ thuật cao. Xây dựng trung tâm ngoại ngữ, tin học đạt tiêu chuẩn quốc tế. Rà soát lại đội ngũ giáo viên nhằm tạo ra đội ngũ giáo viên có chất lượng tốt, có khả năng truyền đạt kiến thức sâu rộng đến cho người lao động. Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nghề. Việc cải thiện hệ thống trường lớp cơ sở vật chất thôi chưa đủ, các địa phương còn cần phải cải thiện được suy nghĩ của người lao động. Chính quyền địa phương cần tuyên truyền lợi ích sau khi được đào tạo và dạy nghề, người lao động sẽ có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm hoặc tự tạo việc làm với thu nhập cao hơn. Nhất là đối với nhóm dân cư làm nghề thủ công truyền thống, cần giúp họ thấy được ý nghĩa của việc nâng cao kiến thức, tay nghề, khả năng sáng tạo trong công việc. Từ đó, họ có thể có mở rộng quy mô sản xuất, phát triển thị trường tiêu thụ ra nhiều nơi từ đó tăng thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Khuyến khích người lao động bị thu hồi đất tham gia các khóa học đào tạo bằng cách hỗ trợ chi phí đào tạo nghề với mức tối đa là 3 triệu đồng/người/khóa học. Người học nghề sau khi học làm việc ổn định được Ngân sách Nhà nước hỗ trợ 100% lãi xuất vay tín dụng để tự tạo nghề mới cho bản thân. Giám sát chặt chẽ quá trình đào tạo và hỗ trợ việc làm cho lao động bị thu hồi đất của các doanh nghiệp. Trên địa bàn Hà Nội hiện nay có rất nhiều dự án công nghiệp xây dựng được tiến hành. Đây là nơi có tiềm lực giúp giải quyết số lượng lao động bị thu hồi đất không có việc làm.Tuy nhiên, lực lượng lao động này thường không đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư. Vì vậy, ta cần đề ra các chính sách , buộc các chủ dự án phải tiến hành đào tạo số lượng lao động này, đồng thời phải tiến hành tuyển dụng và ký hợp đồng dài hạn với họ. Các cơ quan chức năng ngoài việc hỗ trợ đào tạo nghề công nghiệp cho người lao động như điện, điện tử, cơ khí, động lực,..tại các trung tâm đào tạo nghề ở các quận, huyện, giới thiệu việc làm cho người lao động còn cần phải tiến hành kiểm tra sát sao, tránh tình trạng doanh nghiệp nhận lao động theo hình thức đối phó, chỉ nhận làm một thời gian rồi kiếm lý do để sa thải họ. Tạo mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, chủ đầu tư với các trường lớp đào tạo nghề và hướng tới đào tạo nghề theo nhu cầu của các doanh nghiệp. Từ đó, đẩy mạnh công tác xã hội hóa dạy nghề, quy hoạch và phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề, đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo đáp ứng được nhu cầu học nghề của người lao động cũng như nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Tạo điều kiện để những người lao động bị thu hồi đất trở thành cổ đông của doanh nghiệp lấy đất. Phần đất bị thu hồi là phần góp vốn của lao động bị thu hồi đất. Doanh nghiệp phải trả cổ tức theo tỷ lệ thỏa thuận với người lao động. Trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản hay ngừng hoạt động, đất đai sẽ được trả lại cho người lao động. Đồng thời, từng địa phương còn cần phải phối hợp với Sở lao động Hà Nội hoặc các ban ngành, tổ chức có thẩm quyền, cùng các trung tâm hỗ trợ, xúc tiến việc làm cho người lao động để thực hiện tuyên truyền, phổ biến ích lợi của việc có tri thức, có tay nghề đối với người lao động; nhất là những học sinh ngay từ khi con ngồi trên ghế nhà trường hoặc đối với tầng lớp thanh niên trong địa phương.Công tác hướng nghiệp giúp ta có thể phân phối lao động ở các ngành nghề một cách hợp lý, giúp cho những người lao động nếu bị thu hồi đất trong tương lai cũng không trở lên thất nghiệp. Những biện pháp trên không chỉ giúp người lao động có thể nâng cao được trình độ dân trí, tránh khỏi tình trạng thất nghiệp mà còn giúp xã hội ngày càng phát triển, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm, nền kinh tế ngày càng đi lên mạnh mẽ. Tăng cường hoạt động hệ thống thông tin thị trường lao động. Phần đông những người lao động bị thu hồi đất đa phần là những người có kiến thức thấp. Sau khi bị thu hồi đất, họ không những bị mất việc làm, mà khả năng tự tìm kiếm việc làm cũng rất kém. Những người lao động này phần đông mang tâm lý ỉ lại, tìm việc dựa vào các mối quan hệ thân quen như bạn bè, họ hàng giới thiệu, mà không biết tự tìm kiếm công việc mới phù hợp với bản thân cho mình. Các thông tin hỗ trợ giải quyết việc làm của các tổ chức tuy được đăng tải nhiều trên các phương tiện truyền thông như báo, đài, tivi, internet … nhưng chưa được người lao động quan tâm chú trọng đến. Chính quyền địa phương cần giúp người lao động thấy được lợi ích từ việc tìm hiểu các thông tin việc làm từ các phương tiện thông tin đại chúng để họ có thể mở rộng cơ hội tìm việc cho bản thân mình, cũng như giúp tăng thu nhập và sớm ổn định đời sống của cá nhân, gia đình, giúp tăng trưởng kinh tế phát triển. Phát triển các kênh giao dịch trên thị trường lao động chính thức chuyên nghiệp có tổ chức như: các trung tâm dịch vụ việc làm, giao dịch lao động thông qua tuyển dụng, các chợ lao động cố định và “ảo”, các cơ quan xuất - nhập khẩu lao động... là những hoạt động đồng bộ cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghề và tạo việc làm cho lao động trong diện bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. Có thể nói, việc thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao động là một trong các hoạt động cần thiết nhằm cải thiện thông tin hỗ trợ giải quyết việc làm và phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho lao động bị thu hồi đất. Từ đó, mở rộng phạm vi và tăng cường chất lượng của thông tin thị trường lao động hiện có, lập kế hoạch và xây dựng được các chính sách phổ biến giúp hỗ trợ việc làm cho người lao động bị thu hồi đất trên địa bàn Hà Nội. Hỗ trợ nguồn vốn cho người lao động bị thu hồi đất. Ngoài ra, để đẩy nhanh quá trình đô thị hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân công lao động ở nông thôn, nhà nước cần chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời huy động nguồn vốn đầu tư một cách tích cực. Trong đó, nguồn nội lực là chủ yếu, huy động tối đa nguồn vốn từ quỹ đất, từ tài sản công cuộc sở hữu Nhà nước để phát triển đô thị, kết cấu hạ tầng, chú trọng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tiến hành đẩy nhanh việc giải ngân nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ việc làm, không để vốn phải để nhàn rỗi trong quá trình chờ triển khai dự án hoặc dự án phải chờ vốn mới thực hiện được. Nhà nước cần quan tâm và ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn, tiến hành hỗ trợ đối với các dự án, các hộ gia đình người lao động muốn tham gia tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Lãnh đạo có chức năng, thẩm quyền các quận, huyện cần kết hợp với ngân hàng để tạo thuận lợi cho người lao động bị thu hồi đất có thể được thuận tiện trong việc vay vốn sản xuất như các thủ tục xin vay vốn được tiến hành thuận tiện, lãi suất vay thấp, … đồng thời tiến hành sát sao để cho các nguồn vốn tránh bị dồn đọng, các dự án của người lao động đề ra khó thực hiện dễ dẫn đến việc khó có khả năng chi trả các khoản vay. Theo dự kiến, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn ODA) sẽ đáp ứng được khoảng 16 -18% nhu cầu vốn đầu tư theo từng giai đoạn. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) dự kiến đáp ứng khoảng 14 – 16% nhu cầu vốn đầu tư. Tuy nhiên, nguồn vốn này vẫn chưa hỗ trợ được phần nào công tác tạo việc làm cho những người lao động bị thu hồi đất. Chính vì vậy, nhà nước vẫn cần tiếp tục tranh thủ các nguồn tài trợ ODA, NGO và tăng cường huy động vốn đầu tư từ các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT để đẩy nhanh phát triển kết cầu hạ tầng. Việc huy động tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ giúp tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo lợi thế trong việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Chú trọng công tác xúc tiến đầu tư để thu hút làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam, từ đó, giúp người lao động nói chung và người lao động bị thu hồi đất nói riêng có thêm nhiều cơ hội việc làm hơn nữa. KẾT LUẬN Từ xưa đến nay, con người luôn là một thứ tài sản vô giá. Nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng là một vấn đề lớn. Sự phát triển của đất nước cũng như sự thành công của mỗi doanh nghiệp không thể thiếu yếu tố con người. Chính vì vậy, quá trình tạo việc làm cho người lao động trở thành một nhiệm vụ quan trọng cần được đặt lên hàng đầu trong các chính sách kinh tế xã hội. Các chính sách được thể hiện trong quá trình hoạt định các chiến lược, đề ra các kế hoạch cụ thể, lấy lao động làm vị trí trung tâm, hướng chủ yếu vào lợi ích và quyền lợi của người lao động. Đặc biệt, Hà Nội là một thành phố lớn của cả nước, là thủ đô của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung tâm văn hóa, chính trị, xã hội giao lưu buôn bán của cả nước. quá trình mở rộng thủ đô nhằm đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, xã hội khiến cho một lực lượng lớn lao động bị thu hồi đất trở nên không có việc làm. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, đề ra các giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất là một vấn đề thiết yếu, cần được quan tâm, chú trọng; từ đó, góp phần ổn định đời sống và tăng thu nhập cho người lao động bị thu hồi đất. Đồng thời, góp phần đề ra các giải pháp giúp cho Hà Nội có thể chuyển dịch được cơ cấu ngành kinh tế, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng, dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế, sánh ngang tầm được với các nước trong khu vực. Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và tập thể các bác, các chú tại sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ trong quá trình thực tập để tôi có thể hoàn thành tốt được bản báo cáo chuyên đề. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PSG.TS. Ngô Thắng Lợi, Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển KT- XH , NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân Quy hoạch tổng thể thành phố Hà Nội đến năm 2030. Số liệu tổng cục thống kê năm 2008. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2006 – 2010. Tạp chí công nghiệp. Tạp chí kinh tế và phát triển. Các trang Web của Sở kế hoạch và đầu tư Hà Nội; Sở Lao động thương binh xã hội Hà Nội; ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25663.doc
Tài liệu liên quan