Tài liệu Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang: ... Ebook Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ nền kinh tế đang phát triển mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước đi lên một cách nhanh chóng thì đi đôi với việc ổn định chính trị, nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đòi hỏi nhất thiết phải đầu tư vào kinh tế để thực hiện vai trò này. Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghệp, với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau và kết quả lợi nhuận cũng khác nhau. Như vậy, tăng lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu lâu dài của mỗi doanh nghiệp, là cơ sở để xác định chỗ đứng của doanh nghiệp trên thị trường.
Trong tình hình mới, cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế và quá trình cắt giảm nguồn ngân sách cấp, mở rộng quyền tự chủ và chuyển giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng đã tạo ra một tình hình mới đầy phức tạp và biến động. Một số doanh nghiệp đã có những biện pháp, phương thức tăng lợi nhuận một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, đã có không ít những doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn, các doanh nghiệp này chẳng những không tăng thêm lợi nhuận mà còn trong tình trạng lỗ.
Là sinh viên lớp K37A khoa ngân hàng tài chính - Trường đại học kinh tế quốc dân Hà nội, hiện đang thực tập tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang. Sau một thời gian thực tập tôi đã có cơ hội để kết hợp những kiến thức chuyên ngành học được tại trường đại học với những thực tế tại cơ sở, từ đó tổng hợp vào báo cáo với kết cấu 3 phần chính:(Ngoài mở đầu và kết luận)
* Chương I: Tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang.
* Chương II: Thực trạng tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang.
* Chương III: Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang.
CHƯƠNG I
LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1.1 Khái quát về doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
Nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đang tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động mang lại hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận và phát triển.
Ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động. Có thể phân loại doanh nghiệp căn cứ vào ngành nghề, hình thức sở hữu. Dựa vào hình thức sở hữu, các doanh nghiệp được chia thành:
- Doanh nghiệp Nhà nước.
- Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
* Doanh nghiệp Nhà nước: Theo Điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao cho. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
* Công ty (Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần): là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần góp của mình.
* Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
* Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả năng nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao thu nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Để sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên nhiên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế.
1.1.1.2 Hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả năng nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao thu nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Để sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên nhiên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu giải quyết các vấn đề sau đây:
- Chiến lược đầu tư.
- Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh.
- Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính.
- Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định thu chi cho phù hợp.
Các hoạt động trên nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển.
1.1.2 Khái niệm và vai trò của lợi nhuận
1.1.2.1 Khái niệm lợi nhuận
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân, sự phát triển hay suy thoái của doanh nghiệp phản ánh sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế quốc dân. Chức năng của các doanh nghiệp là thực hiện tái sản xuất xã hội nhằm cung cấp hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu hàng hoá trong nước và quốc tế song kinh tế thị trường với các quy luật khắt khe của nó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải làm ăn có hiệu quả, tức là có lợi nhuận. Do đó lợi nhuận là mục tiêu kinh tế tối đa, quan trọng để cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu của xã hội. Vì vậy khi tiêu thụ hàng hoá doanh nghiệp phải đảm bảo thu nhập, bù đắp được chi phí bỏ ra và có lợi nhuận để không chỉ tái sản xuất giản đơn mà còn để tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ, củng cố tăng cường vị trí của mình trên thị trường. Nếu không tạo ra được lợi nhuận thì doanh nghiệp cũng không muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu xã hội, nhu cầu tiêu dùng của con người những hàng hoá, dịch vụ mong muốn.
Vậy lợi nhuận là:( Một cách khái quát và nhìn từ góc độ doanh nghiệp, ta có thể hiểu) Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp, đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó là khoản chênh lệch giữa các khoản chênh lệch và các khoản chi phí đã bỏ ra trong thời kỳ nhất định. Do đó để xác định được lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định người ta căn cứ vào 2 yếu tố sau:
- Thu nhập phát sinh trong một thời kỳ nhất định.
- Chi phí phát sinh nhằm đem lại thu nhập trong thời kỳ đó, hay nói cách khác đó là những chi phí phân bổ cho các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh đã thực hiện trong kỳ.
* Công thức chung xác định lợi nhuận như sau:
Lợi nhuận = Tổng thu nhập ( Doanh thu ) - Tổng chi phí
Như vậy, ta thấy lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả tài chính cuối cùng của các doanh nghiệp trong hoạt động. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Vai trò của lợi nhuận
Lợi nhuận có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, hơn thế nữa lợi nhuận còn có vai trò rất quan trọng bởi sự đóng góp rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân mà cụ thể là nhà nước nói chung và đối với mỗi người lao động nói riêng. Có thể nói trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại hay không điều đó phụ thuộc vào doanh nghiệp có tạo được lợi nhuận hay không. Vì vậy lợi nhuận có vai trò rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh, được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện trên 3 phạm vi chính: Mức nộp ngân sách nhà nước, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Như vậy, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Việc tham gia đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách Nhà nước được thể hiện qua số thuế lợi tức mà doanh nghiệp đã nộp. Trên cơ sở khoản thu này nhà nước sẽ có điều kiện tập trung thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, xây dựng các công trình phúc lợi nhằm nâng cao đời sống nhân dân, thành lập các hộ sản xuất kinh doanh từ đó giải quyết được vấn đề lao động, giảm số lượng người thất nghiệp trong xã hội.
Bên cạnh vai trò tích cực của lợi nhuận đối với nền kinh tế quốc dân nói chung lợi nhuận đó còn là mục tiêu, là động lực, là điều kiện tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa trong khuôn khổ của pháp luật. Xuất phát từ mục tiêu đó trong kinh doanh các doanh nghiệp luôn tìm cho mình một con đường riêng tối ưu để có thể thoả mãn cao nhất nhu cầu của thị trường và đạt đến lợi nhuận tối đa. Như vậy động lực lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động ngày càng được mở rộng, nhờ có vốn bổ sung thêm từ lợi nhuận doanh nghiệp mới chủ động trong việc đầu tư phát triển kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, có thể đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, tăng mức tài sản lưu động từ đó tăng năng suất lao động, tăng khối lượng sản suất, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm, phục vụ tối đa nhu cầu tiêu dùng nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường cho doanh nghiệp.
Mặt khác, muốn đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt của thị trường thì đòi hỏi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phải có hiệu quả, tức là phải có lợi nhuận mới có tiền đề vật chất để bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, mở rộng quy mô kinh doanh hay nói cách khác để tồn tại và phát triển. Đồng thời, lợi nhuận khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường. Doanh nghiệp có lợi nhuận chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả, sử dụng vốn trong kinh doanh hợp lý, bộ phận quản lý có tài năng lãnh đạo, lực lượng cán bộ công nhân viên có trình độ, nhờ đó uy tín và thế lực của doanh nghiệp ngày càng tăng, hàng hoá được tiêu thụ nhanh hơn.
Như vậy, ta thấy rằng vai trò của lợi nhuận đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là vô cùng to lớn và do đó nó cũng có vai trò đối với người lao động. Chính vì vậy, mục đích của nhà sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, còn mục tiêu của người cung cấp sức lao động là tiền lương.
* Tiền lương có hai chức năng:
- Đối với nhà kinh doanh nó là một yếu tố chi phí.
- Đối với người lao động nó là thu nhập, là lợi ích kinh tế của họ.
Do đó doanh nghiệp thuê sức lao động là thực hiện đầu tư vào kinh doanh nhằm tìm hiểu lợi nhuận, vì vậy tiền lương là chi phí được bù đắp ở kết quả lao động và năng suất lao động là một điều kiện để doanh nghiệp tăng lợi nhuận. Người lao động nhận được tiền công sẽ giúp đảm bảo cho nhu cầu vật chất cần thiết, bên cạnh đó thực hiện tái sản suất mở rộng sức lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì thu nhập của người lao động mới được đảm bảo. Ngoài ra khi thu nhập của người lao động tăng lên đồng nghĩa với việc có thể bổ sung các quỹ ( Trong đó có quỹ khen thưởng và phúc lợi ) làm cho lợi ích của người lao động được tăng thêm.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên mà họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình kinh doanh, đồng thời đó còn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp đó đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ta có hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn không có hiệu quả, trong đó có cả xí nghiệp nhà nước, tư nhân .... Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp:
- Tạo ra khả năng để tiếp tục kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao hơn.
- Đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
- Việc không ngừng nâng cao lợi nhuận là đảm bảo hiệu quả kinh doanh thể hiện năng lực, trình độ quản lý kinh doanh và sự năng động của đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường, một doanh nghiệp tạo được lợi nhuận chứng tỏ là đã thích nghi với cơ chế thị trường.
- Lợi nhuận càng cao thể hiện sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp càng vững chắc, tạo điều kiện mở rộng kinh doanh, thực hiện đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh ... từ đây tạo đà nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Kinh doanh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao sẽ có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động. Ngoài phần tiền công mà mỗi lao động nhận được theo nguyên tắc phân phối theo lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp còn góp phần nâng cao thu nhập của người lao động thông qua phân phối vào quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Chính yếu tố kinh tế đó sẽ tạo nên sự gắn bó của cán bộ công nhân với doanh nghiệp.
- Lợi nhuận là điều kiện tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với xã hội. Thông qua việc nộp ngân sách đầy đủ sẽ giúp cho Nhà nước thực hiện công tác phúc lợi đối với xã hội, đất nước .... tạo điều kiện cho đất nước phát triển, thực hiện tốt chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân nên bản thân doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế trong nước mới phát triển.
Khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt được lợi nhuận cao thì Nhà nước cũng có lợi:
- Tăng nhiều sản phẩm cho xã hội.
- Chất lượng tăng, giá bán hạ làm ổn định nền kinh tế.
- Tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tạo điều kiện cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân.
- Đảm bảo tăng trưởng kinh tế .....
Như vậy, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực của các doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và là mối quan tâm của nhiều phía: Doanh nghiệp, người lao động và Nhà nước.
1.2 Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp
1.2.1 Lợi nhuận tuyệt đối
Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm nhiều bộ phận khác nhau do hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là đa dạng và phong phú . Mỗi bộ phận lợi nhuận từ những hoạt động khác nhau có phương pháp xác định khác nhau
1.2.1.1 Phương pháp xác định lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
LN thu được từ HĐKD
=
Doanh thu thuần trong kỳ
-
Giá vốn hàng bán
-
Chi phí bán hàng
-
Chi phí QLDN
-
Thuế phải nộp
Trong đó :
- Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh là toàn giá trị của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cung ứng trên thị trường được thực hiện trong một thời kỳ nhất định sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu như: Giảm giá hàng bán, Hàng bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ ),Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất khẩu phải nộp ( nếu có ).
Đây là bộ phận doanh thu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh thu, nó quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp .
Thời điểm xác định doanh thu là khi người mua đã chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đã thu được tiền hay chưa. Tiền thu về trong kỳ là tổng số tiền mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động bán hàng trong kỳ bao gồm cả khoản tiền mà khách hàng còn nợ kỳ trước và kỳ này trả hoặc tiền ứng trước của khách để mua hàng. Tiền thu về trong kỳ có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn doanh thu trong kỳ của doanh nghiệp.
* Các khoản giảm trừ doanh thu :
+ Giảm giá hàng bán: Đó là số tiền mà doanh nghiệp chấp nhận giảm cho người mua vì những nguyên nhân thuộc về doanh nghiệp ( hàng sai quy cách, kém phẩm chất) hoặc số tiền thưởng cho người mua do mua một lần với số lượng lớn ( bớt giá ) hoặc số lượng hàng mua trong một khoảng thời gian là đáng kể ( hồi khấu ).
+ Hàng bán bị trả lại: Phản ánh doanh thu của số hàng hoá tiêu thụ bị khách hàng trả lại, do lỗi thuộc về doanh nghiệp như vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng, sai quy cách......
+ Thuế tiêu thụ: Bao gồm: Thuế tiêu thụ đặc biệt , thuế xuất khẩu......: Đó là nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước về hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp lao vụ, dịch vụ.......
* Tổng chi phí liên quan đến hàng hoá tiêu thụ trong kỳ, bao gồm :
+ Tổng trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ trong kỳ: Là khái niệm dùng chung cho tất cả các doanh nghiệp để chỉ giá mua thực tế của hàng đã tiêu thụ trong các doanh nghiệp thương mại. Chỉ tiêu này có thể là giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm đã tiêu thụ trong các doanh nghiệp sản xuất, giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao cho bên A (đối với các doanh nghiệp xây lắp ) hoặc là giá thành của dịch vụ đã hoàn thành ( đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ ).Thời điểm xác định giá vốn hàng bán là thời điểm xác định doanh thu của doanh nghiệp .
+ Chi phí bán hàng: Là toàn bộ các chi phí phục vụ trực tiếp cho việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ phân bổ cho sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ .
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là chi phí phục vụ cho việc điều hành và quản lý chung trong toàn doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm hàng hoá dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là hai khoản mục lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, nó phản ánh trình độ tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
+ Thuế nộp ở khâu tiêu thụ: Là những khoản thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng ( nếu tính theo phương pháp trực tiếp ), thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ( nếu doanh nghiệp có sản xuất những hàng hoá, dịch vụ thuộc diện tiêu thụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ).
1.2.1.2 Phương pháp xác định lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
=
Thu nhập từ hoạt động tài chính
-
Chi phí từ hoạt động tài chính
Trong đó :
- Thu nhập từ hoạt động tài chính có thể bao gồm :
+ Thu nhập do chia liên doanh.
+ Lợi tức cổ phiếu.
+ Lãi tiền gửi ngân hàng hoặc lãi cho vay các đối tượng khác.
+ Thu nhập từ hoạt động kinh doanh chứng khoán ( chênh lệch giá mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu ), thu nhập từ việc cho thuê tài sản.
+ Hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá chứng khoán đã trích năm trước nhưng không sử dụng hết.
+ Thu nhập tài chính khác.
- Chi phí hoạt động tài chính: Là các khoản chi phí đầu tư tài chính ra ngoài doanh nghiệp nhằm sử dụng hợp lý các nguồn vốn, tăng thêm thu nhập và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các khoản chi phí này bao gồm :
+ Chi phí thực hiện hoạt động liên doanh, liên kết ( không bao gồm phần vốn góp liên doanh ).
+ Chi phí cho thuê tài sản.
+ Chi phí mua bản các loại chứng khoán kể các tổn thất trong đầu tư ( nếu có).
+ Chi phí lập dự phòng giảm giá chứng khoán.
+ Chi phí tài chính khác.
1.2.1.3 Phương pháp xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận bất thường
=
Thu nhập bất thường
-
Chi phí bất thường
Trong đó :
- Thu nhập hoạt động bất thường: Là những khoản thu nhập phát sinh không thường xuyên từ những hoạt động riêng biệt:
+ Thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được duyệt.
+ Thu từ việc bán vật tư, phế liệu, tài sản thừa.
+ Thu từ nhượng bán, thanh lý TSCĐ ( không bao gồm giá trị còn lại của TSCĐ ).
+ Hoàn nhập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho và các khoản phải thu khó đòi đã trích năm trước nhưng không sử dụng hết .
+ Các khoản TNBT khác như: Tiền được phạt, tiền được bồi thường...
- Chi phí bất thường có thể bao gồm :
+ Chi phí nhượng bán, thanh lý TSCĐ.
+ Giá trị tổn thất thực tế sau khi đã giảm trừ tiền đền bù của người phạm lỗi, các tổ chức bảo hiểm và số bù đắp của các quỹ dự phòng.
+ Các khoản chi phí bất thường khác như: tiền nộp phạt, tiền bồi thường.......
Trên cơ sở xác định lợi nhuận từ các hoạt động khác nhau, tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định qua công thức sau :
Tổng lợi nhuận của DN
=
Lợi nhuận HĐ SXKD
+
Lợi nhuận HĐ tài chính
+
Lợi nhuận HĐ bất thường
Xác định chính xác lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó đảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ), là cơ sở cho việc đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp trên thương trường, đồng thời là cơ sở cho việc phân phối đúng đắn lợi nhuận tạo ra để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên , liên tục.
1.2.1.4 Lợi nhuận trong mối quan hệ với vốn, tài sản, doanh thu và giá thành
Ta thấy rằng, lợi nhuận có tầm quan trọng rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất được sử dụng để đánh giá, so sánh hiệu quả qua các kỳ kinh doanh của một doanh nghiệp cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau bởi lẽ nó có những mặt còn hạn chế, còn tồn tại như sau :
Do tính chất tổng hợp của chỉ tiêu lợi nhuận nên nó chỉ phản ánh kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp, trong khi đó lại có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, bao gồm : Yếu tố mang tính khách quan, yếu tố mang tính chủ quan và có một số nhân tố ảnh hưởng ngược chiều nhau (doanh thu bị ảnh hưởng bởi giá và lượng ), do vậy mà nó bù trừ cho nhau. Chỉ tiêu lợi nhuận không cho ta thấy được sự ảnh hưởng của những nhân tố này.
Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện giao thông vận tải, vận chuyển hàng hoá, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau thường làm cho lợi nhuận giữa các doanh nghiệp không giống nhau .
Lợi nhuận tuyệt đối phụ thuộc nhiều vào quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận có thể làm ta đồng nhất một doanh nghiệp có vốn kinh doanh lớn nhưng kinh doanh kém hiệu quả với một doanh nghiệp ít vốn nhưng kinh doanh lại có hiệu qủa hơn bởi nhiều khi lợi nhuận tuyệt đối của chúng bằng nhau .
Do vậy, để khắc phục những nhược điểm của chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, để đánh giá toàn diện và chính xác hiệu quả sản xuất kinh doanh, người ta phải sử dụng các chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận và các yếu tố khác như: Doanh thu, vốn, chi phí . . .Các chỉ tiêu này được gọi là tỷ suất lợi nhuận hay còn gọi là hệ số sinh lời ( hoặc doanh lợi ) .
1.2.2 Tỷ suất lợi nhuận
1.2.2.1 Tû suÊt lîi nhuËn doanh thu
Lợi nhuận thực hiện trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu = x 100
Doanh thu thực hiện trong kỳ
Tỷ suất này phản ánh khả năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của ban quản lý doanh nghiệp, thể hiện ở chỗ: Doanh thu không những bù đắp được giá vốn và chi phí kinh doanh mà còn tạo ra lợi nhuận. Tỷ suất này cho thấy, cứ 100 đồng doanh thu được thực hiện thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận được sử dụng để tính trong chỉ tiêu trên là lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận. Trong trường hợp lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động bất thường chiếm tỷ trọng lớn thì khi xác định tỷ suất này doanh nghiệp phải loại bỏ chúng ra để chỉ tiêu này phản ánh trung thực kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .
1.2.2.2 Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Tỷ suất này phản ánh khả năng sinh lời của vốn. Nó thể hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và số vốn kinh doanh sử dụng bình quân trong kỳ và chỉ tiêu này được tính như sau :
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
=
Lợi nhuận thực hiện trong kỳ
------------------------------------
Vốn kinh doanh bình quân
x
100
Trong đó, vốn kinh doanh bình quân được tính:
Vốn KD
bình quân
=
Vốn KD BQ đầu năm / 2
+
Vốn KD cuối quý I
+
Vốn KD cuối quý III
4
+
Vốn KD cuối quý II
+
VốnKD cuối quý IV / 2
Tỷ suất này cho biết, cứ 100 đồng vốn tham gia vào kinh doanh thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Với chỉ tiêu này doanh nghiệp cũng phải loại bỏ lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động bất thường khi chúng chiếm tỷ trọng lớn để chỉ tiêu này có thể phản ánh trung thực kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.3 Tỷ suất lợi nhuận chi phí
Tỷ suất này phản ánh trình độ kiểm soát chi phí của doanh nghiệp và được xác định như sau:
Lợi nhuận thực hiện trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận = x 100
chi phí Tổng chi phí phát sinh trong kỳ
Tỷ suất này phản ánh hiệu quả quản lý chi phí của doanh nghiệp, cụ thể: nếu doanh nghiệp bỏ ra 100 đồng chi phí thì sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua chỉ tiêu này, doanh nghiệp sẽ thấy được hiệu quả quản lý chi phí qua các thời kỳ, trên cơ sở đó tìm ra và khắc phục những tồn tại để không ngừng giảm thiểu chi phí, nâng cao lợi nhuận.
1.2.2.4 Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
Tỷ suất này đo lường khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được tính như sau :
Lợi nhuận thực hiện trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận = x 100
vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu bình quân
Tỷ suất này cho biết, khi chủ sở hữu doanh nghiệp đầu tư 100 đồng vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận .
1.2.2.5 Tỷ suất lợi nhuận của sản xuất sản phẩm
Tỷ suất này là tỷ lệ so sánh hiệu số giữa giá bán của sản phẩm hàng hoá so với giá thành của sản phẩm hàng hoá.
Giá bán SP - Giá thành SP
Tỷ suất lợi nhuận = X 100
sản phẩm sản xuất Giá thành sản phẩm
Chỉ tiêu này có thể nghiên cứu cho toàn bộ sản lượng hàng hoá trong kỳ hoặc tính riêng cho từng loại sản phẩm cụ thể. Việc phân tích qua chỉ tiêu này là rất quan trọng bởi nó giúp tính toán và xác định giá cả cho từng loại sản phẩm đặc biệt nhất là khi có biến động của chất lượng do cải tiến kỹ thuật.
Tóm lại , tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc vào đặc thù của từng nghành sản xuất, vào phương hướng sản xuất kinh doanh của từng nghành. Việc phấn đấu tăng lợi nhuận và hơn nữa làm tăng tỷ suất lợi nhuận là nhiệm vụ thường xuyên của doanh nghiệp .
1.3 Nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp, nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, đó có thể là nhân tố khách quan do môi trường kinh doanh đưa lại hay đó là bất kỳ một sự thay đổi nào trong nội bộ doanh nghiệp và nhân tố khách quan là do bất kỳ sự thay đổi nào ngoài doanh nghiệp cũng ảnh hưởng hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp đến lợi nhuận.
1.3.1 Nhân tố chủ quan
* Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu: Có thể thấy rằng có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu, song nổi lên có mấy nhân tố cơ bản sau:
- Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp: Nhân tố này có thể ảnh hởng không nhỏ đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp từ đó tác động tới doanh thu và lợi nhuận. Trong ngành công nghiệp việc sản xuất sản phẩm đa dạng với trình độ kỹ thuật cao ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và thời vụ nên vấn đề tiêu thụ sản phẩm là nhanh chóng, thường xuyên, liên tục do đó lợi nhuận thu về cao. Còn trong ngành thương mại việc tiêu thụ hàng hoá đòi hỏi phải có cầu nhiều hơn cung, cán bộ quản lý cũng như người lao động phải có trình độ về thương mại, makettinh, hàng hoá đa dạng và có chất lượng.
- Khối lượng hàng hoá tiêu thụ: Trong khi các yếu tố khác không đổi thì khối lượng hàng hoá tiêu thụ tăng lên sẽ làm cho doanh thu tăng lên kéo theo lợi nhuận cũng tăng. Tuy nhiên, nếu khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường càng nhiều thì khả năng doanh thu tăng càng lớn nhưng đó mới chỉ là khả năng, vấn đề ở đây đó là sự phù hợp với thị hiếu, sự hấp dẫn đối với người tiêu dùng nếu không sẽ có những ảnh hưởng ngược lại đối với việc thực hiện lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chất lượng của sản phẩm hàng hoá: Là một trong những nhân tố thúc đẩy hay kìm hãm quá trình tiêu thụ hàng hoá, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu. Doanh nghiệp phải tìm những nguồn hàng đã có chữ tín với khách hàng về chất lượng sản phẩm mua vào, khi tiêu thụ trên thị trường là hợp thị hiếu người tiêu dùng hơn, từ đó doanh nghiệp mới có uy thế cạnh tranh, chiềm lĩnh thị trường. Đây là vấn đề không chỉ liên quan đến lợi ích của bản thân doanh nghiệp, lợi ích của người tiêu dùng mà còn liên quan đến lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong kinh doanh, không có gì đảm bảo chắc chắn rằng một sản phẩm đã được giới thiệu trên thị trường và đã được tiếp nhận là sản phẩm đó sẽ tiếp tục thành công trừ khi chất lượng của nó phải luôn được cải tiến, nâng cao. Với chất lượng hàng hoá tốt doanh nghiệp không những dễ dàng tiêu thụ mà còn có thể nâng cao giá bán góp phần tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Ngược lại, chất lượng hàng hoá không tốt sẽ gây nhiều khó khăn trong công tác tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp, ngay cả khi giá rẻ thì chưa chắc người tiêu dùng đã chấp nhận. Như vậy, doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng có chất lượng cao sẽ làm tăng thêm giá trị sử dụng, kéo dài thời gian sử dụng của sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ hàng hoá, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn và nâng cao doanh lợi cho doan._.h nghiệp.
- Ảnh hưởng của giá cả sản phẩm: Về nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả soay quanh giá trị hàng hoá. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả hình thành tự phát trên cơ sở thoả thuận giữa người mua, người bán và doanh nghiệp có thể hoàn toàn sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đối với những thị trường mà sức mua có hạn thì giá cả có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, với một mức giá thấp hơn có thể thu hút đông đảo người mua và ngược lại, với một mức giá cao hơn có thể làm giảm sức mua đi rất nhiều. Điều này có thể thấy ở thị trường nông thôn miền núi nơi có mức thu nhập thấp và một minh chứng dõ nét là sự chiếm lĩnh của hàng trung quốc trên thị trường nước ta trong thời gian qua. Như vậy với chính sách giá cả doanh nghiệp có thể đẩy mạnh hay hạn chế tiêu thụ hàng hoá, quyết định doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Kết cấu hàng hoá tiêu thụ: Trên thị trường hiện nay để nâng cao hiệu quả kinh tế, tránh rủi do trong kinh doanh các doanh nghiệp thường phải kinh doanh nhiều ngành hàng, nhiều loại sản phẩm khác nhau, đáp ứng những thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Tuy nhiên khi đưa ra thị trường không phải mặt hàng nào cũng có mức tiêu thụ như nhau mà có mặt hàng tiêu thụ nhiều, có mặt hàng tiêu thụ ít và thay đổi theo từng thời kỳ dẫn đến kết cấu hàng hoá thay đổi ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Do vậy, nếu doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị trường, nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm để có thể đưa ra được kết cấu hàng hợp lý, sẽ tránh khỏi ứ đọng hàng hoá, đẩy mạnh mức tiêu thụ từ đó nâng cao lợi nhuận.
* Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh: Đây là các nhân tố ảnh hưởng đến trình độ quản lý và sử dụng chi phí của doanh nghiệp trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, cụ thể:
- Mức chi phí về tiền lương cho người lao động: Trong tổng thể giá thành của hàng hoá, tiền lương của người lao động chiếm tỷ trọng tương đối lớn và do đó ảnh hưởng tới chi phí bán hàng, tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Chi phí bán hàng: Đây cũng là một trong những chi phí đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu chi phí này tăng sẽ làm cho giá của hàng hoá tăng, từ đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy cần có phương pháp quản lý khoa học nhằm tiết kiệm chi phí quản lý cho doanh nghiệp.
- Chi phí lưu thông: Các loại chi phí này tuy không trực tiếp tạo thành thực thể sản phẩm nhưng giữ một vị trí quan trọng đảm bảo cho quá trình tiêu thụ. Nếu chi phí này giảm tức là giá của toàn bộ hàng hoá giảm, do đó sẽ nâng cao lợi nhuận.
- Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường: Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ Cung - Cầu hàng hoá dịch vụ, Sự biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng sử thích hợp để thu được lợi nhuận. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cung lớn, điều đó tạo khả năng lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm hàng hoá, nhưng đặc biệt quan trọng là tăng tổng số lợi nhuận, cung thấp hơn cầu sẽ có khả năng định giá bán hàng hoá và dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ thấp đều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hoá hay tổng số lợi nhuận thu được.
Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp, khuyến khích khách hàng có thể mua với khối lượng lớn để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất là cầu có khả năng thanh toán bằng cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, cải tiến phương thức bán hàng.
- Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh: Để cho hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp đạt tới lợi nhuận nhiều và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các điều kiện, các yếu tố chi phí thấp nhất, các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giảm.
- Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm: Đây là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư kỹ thuật.... để chế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Quá trình này tiến hành tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí sử dụng các yếu tố để sản suất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức sản xuất sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đa mà không ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm tiêu thụ.
- Nhân tố trình độ tổ chức, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ: Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo quyết định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo sẽ là phải tổ chức bán nhanh, bán hết, bán với giá cao những hàng hoá và dịch vụ đó để thu được tiền về cho quá trình tái sản xuất mở rộng tiếp theo.
Lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Do đó tổ chức tiêu thụ khối lượng hàng hoá và dịch vụ tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả năng lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng các mặt hàng hoạt động về tổ chức mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm, công tác quảng cáo marketting, các phương thức bán và dịch vụ sau bán hàng.
- Trình độ tổ chức và quản lý quá trình kinh doanh của doanh nghiệp: Tổ chức quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là một nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp bao gồm các khâu cơ bản như định hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, xây dựng các phương án kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu quản lý quá trình hoạt động kinh doanh tốt sẽ tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí quản lý. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp qua phân tích ở trên phải chính do doanh nghiệp khắc phục bằng chính ý chí chủ quan muốn đạt được lợi nhuận cao của mình. Ngoài ra còn có những nhân tố ảnh hưởng khách quan từ phía bên ngoài môi trường kinh doanh đó là nhân tố chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Tóm lại, Doanh nghiệp phải phấn đấu giảm chi phí một cách hợp lý có như vậy mới giữ được uy tín của mình, tạo điều kiện để có lợi nhuận ổn định và không ngừng phát triển.
1.3.2 Nhân tố khách quan
* Các chính sách quản lý kinh tế của nhà nước: Chính sách này có thể có những tác động tốt, có tác dụng thúc đẩy tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu như chúng phù hợp với tình hình kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp, các ngành nghề lĩnh vực kinh tế nói riêng. Ngược lại nếu các chính sách không thực tế, không phù hợp thì chúng sẽ làm cản trở, kìm hãm đối với sự phát triển sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, thậm chí làm cho một số doanh nghiệp đi đến bờ vực phá sản.
Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước: Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống Kinh tế quốc dân, hoạt động của nó ngoài việc bị chi phối bởi các quy luật của thị trường nó còn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Nhà nước ( chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái ... )
Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước cần nghiên cứu kỹ các nhân tố này. Vì như chính sách tài khoá thay đổi tức là mức thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, hoặc khi chính sách tiền tệ thay đổi có thể là mức lãi giảm đi hay tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của doanh nghiệp.
* Sự cạnh tranh của các đối thủ có cùng mặt hàng kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh với doanh nghiệp: Nguyên nhân này có ảnh hưởng mạnh mẽ đe dọa đến lợi nhuận của doanh nghiệp bởi ngày nay các doanh nghiệp phải tồn tại và hoạt động trong môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao, môi trường cạnh tranh sẽ là nơi đào thải những doanh nghiệp kinh doanh yếu kém nhưng đồng thời cũng là nơi cho các doanh nghiệp có dịp cọ sát, thúc đẩy lẫn nhau kinh doanh có hiệu quả hơn.
* Hiện nay sự phát triển kinh tế nói chung của thế giới đang được toàn cầu hoá mạnh mẽ, một số quốc gia sẽ không thể phát triển được nếu tách dời sự phát triển chung của khu vực và thế giới bởi nó có sự liên quan lợi ích lẫn nhau. Vì vậy, mỗi sự biến động về kinh tế cũng như chính trị quốc gia, khu vực đều ảnh hưởng đến quốc gia, khu vực khác do đó ảnh hưởng đền tình hình của các doanh nghiệp trong mỗi quốc gia đó.
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp, nếu biết vận dụng có hiệu quả sự ảnh hưởng của những nhân tố này sẽ góp phần tăng doanh thu mang lại lợi ích cao cho doanh nghiệp. Trong tình hình hiện nay lợi nhuận là vấn đề "sống còn" của doanh nghiệp, do đó việc tăng lợi nhuận càng trở nên cấp bách. Tuy nhiên để giải quyết bài toán này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có những biện pháp nhất định.Các nhân tố này được tiếp cận theo quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, chúng có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Việc nghiên cứu các nhân tố này cho phép xác định các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI TUYÊN QUANG
2.1 Khái quát công ty Cổ phần thương mại Tuyên Quang
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang được thành lập theo quyết định số 1185 /QĐ – UB ngày 25/8/2005 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, về việc danh sách các đơn vị thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 6 tháng cuối năm 2005 về việc chuyển Công ty dịch vụ miền núi và dân tộc thành Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang.
Trụ sở chính tại số:165 đường chiến thắng sông lô, Phường Tân Quang, Thị xã Tuyên Quang.
Tiền thân là Công ty dịch vụ miền núi và dân tộc - Công ty nhà nước trực thuộc UBND tỉnh Tuyên Quang được thành lập và hoạt động từ ngày 15/10/1995. Nhiệm vụ chính là cung ứng các mặt hàng chính sách xã hội đối với miền núi và dân tộc tỉnh Tuyên Quang. Mặt hàng chủ yếu là: Dầu hoả, muối iốt, giấy vở học sinh và hàng tiêu dùng khác.
Trong những năm gần đây chủ trương của chính phủ đẩy mạnh quá trình tổ chức, xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp để nâng cao tính tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp, giảm gánh nặng cho nhà nước. Đến ngày 11/8/2006 Công ty được chuyển đổi thành Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang, hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Vốn và tài sản của doanh nghiệp được hình thành chủ yếu từ các nguồn: Ngân sách Nhà nước ( Là phần vốn dự trữ hàng chính sách Nhà nước gồm có: Dầu hoả, muối iốt ) và nguồn vốn từ các cổ đông.
* Tổng vốn của Công ty hiện có: 4,65 tỷ đồng.
Trong đó: + Vốn Nhà nước giao : 1,65 tỷ đồng.
+ Vốn cổ đông : 3 tỷ đồng.
Công ty có 80 cán bộ công nhân viên trong đó: Nam 36 lao động, nữ 44 lao động.
Trong đó: + Đại học : 08 đ/c.
+ Cao đẳng : 02 đ/c.
+ Trung cấp : 33 đ/c.
Còn lại là trình độ sơ cấp và công nhân kỹ thuật.
Công ty đăng ký hoạt động thêm nhiều ngành nghề mới, ngành nghề kinh doanh chủ yếu của công ty là:
- Mua vào, bán ra hàng chính sách xã hội: Dầu hoả, muối iốt.
- Mua vào, bán ra xăng dầu và các sản phẩm của chúng..
- Mua vào, bán ra dụng cụ thiết bị điện, BHLĐ.....
- Vận tải hàng hoá bằng xe tải nội tỉnh, liên tỉnh.
Với doanh thu hàng năm tăng lên. Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với mức tăng trưởng nhanh doanh thu năm sau luôn đạt được cao hơn năm trước và đang dần lớn mạnh và khẳng định được vị thế của mình trong ngành thương mại.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Công ty
Tổ chức bộ máy của doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đề ra sẽ tạo lập được năng lực và chất lượng hoạt động mới thúc đẩy kinh doanh phát triển, tiết kiệm được chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế và ngược lại sẽ làm kinh tế của doanh nghiệp suy giảm. Với vai trò quan trọng nói trên, tổ chức bộ máy của Công ty được sắp xếp theo chức năng và nhiệm vụ của từng phòng ban, đảm bảo tính thống nhất, tự chủ và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu quản lý.
Từ khi Công ty được chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà Nước sang hình thức công ty cổ phần, mô hình tổ chức quản lý của Công ty được bổ sung thêm các bộ phận mới là đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát (Theo luật doanh nghiệp Nhà nước ).
Hệ thống bộ máy tổ chức quản lý tại Công ty
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Ban giám
đốc
Phòng tổ chức hàng chính
Ban kiểm soát
Phòng k ế
toán
Phòng k ế hoạch kinh doanh
C ửa hàng thương
mại
thị xã
C ửa hàng thương
mại
Yên Sơn
C ửa hàng thương
mại
Hàm Yên
C ửa hàng thương
mại
Na Hang
C ửa hàng thương
mại
Chiêm Hoá
C ửa hàng thương
mại
Sơn Dương
* Đại hội đồng cổ đông: Gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định các công việc của Công ty.
* Hội đồng quản trị: Bao gồm chủ tịch hội đồng quản trị và các uỷ viên. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý các hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Công ty theo quyền hạn và trách nhiệm Nhà nước cũng như tỉnh giao.
* Ban kiểm soát : Do đại hội cổ đông bầu ra để giúp hội đồng kiểm tra, giám sát việc điều hành của giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên trong hoạt động điều hành, tài chính, chấp hành điều lệ của Công ty, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị và luật pháp.
* Giám đốc công ty ( Chủ tịch hội đồng quản trị ): Là người do hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm khen thưởng, kỷ luật theo điều lệ của hội đồng quản trị. Giám đốc là đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị, trước Nhà nước và pháp luật về điều hành hoạt động của Công ty. Giám đốc trực tiếp chỉ đạo công tác kế hoạch nhân sự, kế hoạch thu chi tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, đại diện toàn quyền của Công ty trong giao dịch với các đối tác và ký kết, thanh lý các hợp đồng kinh tế. Giám đốc trực tiếp quản lý các phòng ban và có thể uỷ quyền cho phó giám đốc khi cần thiết. Giúp việc trực tiếp cho giám đốc là phó giám đốc và kế toán trưởng.
- Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của công ty theo sự phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ của mình.
- Kế toán trưởng đồng thời là trưởng phòng tài chính kế toán là người giúp giám đốc thực hiện việc kế toán, thống kê và điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và là người có quyền chủ động đề xuất cán bộ giúp việc và phân công, công tác xây dựng kế hoạch tài chính, tháng, quý, năm.
- Các phòng ban chuyên môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu, giúp việc cho giám đốc trong quản lý và điều hành công việc.
* Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu giúp việc giám đốc về công tác tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Công tác cán bộ.
- Tuyển lao động.
- Lao động tiền lương.
- Chế độ với người lao động.
- Thực hiện công tác thi đua khen thưởng.
- Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, công tác an ninh.
- Thực hiện chính sách hiện hành của Nhà nước đối với công nhân viên trong công ty, giúp giám đốc quy hoạch và đào tạo cán bộ bố trí sắp xếp lực lượng lao động cho phù hợp với kế hoạch kinh doanh từng thời kỳ, công tác văn thư, lưu trữ, tiếp khách …..
* Phòng tài chính kế toán : Tổ chức quản lý thực hiện công tác hạch toán kế toán tài chính, thồng kê theo quy định của Nhà nước, thực hiện kiểm tra kiểm soát mọi hoạt động tài chính của Công ty theo pháp luật, xây dựng thực hiện kế hoạch tài chính thống nhất, quản lý tập trung các nguồn vốn. Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ hỗ trợ các kế toán cửa hàng trực thuộc trong công tác quyết toán và thu hồi vốn.
* Phòng kế hoạch kinh doanh: Tham mưu giúp việc cho giám đốc về công tác nghiên cứu các hồ sơ, đề xuất các đơn giá hàng hoá hiện tại, lập biện pháp kinh doanh, xây dựng các định mức kinh tế.
* Các cửa hàng huyện, thị xã:
- Cửa hàng thương mại Thị xã.
- Cửa hàng thương mại Yên Sơn.
- Cửa hàng thương mại Sơn Dương.
- Cửa hàng thương mại Na Hang.
- Cửa hàng thương mại Chiêm Hoá.
- Cửa hàng thương mại Hàm Yên.
Tổ chức kinh doanh tốt các mặt hàng và khối lượng công việc được giao, tự chủ về công tác kế hoạch, nhân sự, hàng hoá, an toàn, hạch toán độc lập tại cửa hàng và chịu sự giám sát của Công ty trong các lĩnh vực đó. Sử dụng lao động theo đúng luật lao động, trang bị đầy đủ bảo hộ lao động.
2.1.3 Hoạt động kinh doanh của Công ty
Kể từ khi xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang nói riêng được quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh, chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn, tự tìm kiếm thị trường, có nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Nhờ sự năng động sáng tạo, thích ứng với cơ chế mới, tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Từ khi thành lập đến nay Công ty không ngừng lớn mạnh và đã tự khẳng định chỗ đứng của mình, không ngừng khắc phục những khó khăn thiếu thốn về nhiều mặt để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, mọi hoạt động kinh doanh của Công ty có hiệu quả, bộ máy tổ chức ngày càng được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ chuyên môn có nghiệp vụ ngày càng cao, cán bộ công nhân viên đều có việc làm, có thu nhập ổn định.
Bảng 2.1: Khối lượng tiêu thụ qua các năm của Công ty
Sản lượng
tiêu thụ
ĐVT
2006
2007
So sánh 07/06
+/-
%
1. Muối i ốt
Tấn
4.256
4.251
5
0,12
2. Dầu hoả
m3
476
355
121
25,42
3. Hàng khác
(Tiêu dùng)
Tr.đồng
42.683
44.443
1.760
4,12
( Nguồn: Kế toán - Tài chính CTCP thương mại Tuyên Quang )
Để đạt được kết quả như trên Công ty đã vượt qua mọi khó khăn vươn lên về mọi mặt và luôn tìm ra những giải pháp mới để công ty tồn tại và phát triển, lấy thu nhập bù đắp chi phí và đảm bảo có lãi, đem lại thu nhập ngày càng tăng cho cán bộ công nhân viên, tăng tích luỹ, bổ xung nguồn vốn, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.Việc duy trì những lợi thế sẵn có trong kinh doanh hàng chính sách xã hội cũng có hiệu quả hỗ trợ, năm 2007 với sản lượng 4.251 tấn muối , đã hỗ ttrợ cho chi phí, giảm lỗ từ 1000đ/kg xuống còn 200 đ/kg .
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
ĐVT: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
So sánh 07/06
+/-
%
1. Doanh thu thuần về bán hàng
53.128.958
48.771.791
(4.357.167)
(91,7)
2. Giá vốn hàng bán
50.879.555
46.038.565
(4.840.990)
(90,4)
3. Lợi nhuận gộp ( 3=1-2)
2.249.403
2.733.226
483.796
12,15
4. Doanh thu từ hoạt động tài chính
11.880
88.246
76.366
74,28
5. Chi phí tài chính
324.673
88.551
(236.122)
(27,27)
6. Chi phí bán hàng
1.803.337
2.156.310
352.973
11,95
7. Chi phí quản lý doanh nghiệp
290.202
290.783
581
10,02
8. Lợi nhuận thuần từ HĐ SXKD
( 8 = 3 + 4 - 5 - 6 - 7 )
(156.929)
285.828
442.757
18,21
9. Thu nhập khác
185.191
84.823
(100.368)
(45,8)
10. Chi phí khác
24.049
29.814
5.765
12,39
11. Lợi nhuận khác (11 = 9 - 10 )
161.142
55.009
(106.133)
(34,1)
12. Tổng lợi nhuận trước thuế
( 12=8+11)
4.213
340.837
336.624
13.Thuế TNDN
1.179
(1.179)
14.Lợi nhuận sau thuế
3.034
340.837
337.803
( Nguồn: Báo cáo tài chính của CTCP thương mại Tuyên Quang )
Qua bảng số liệu ta thấy: Tổng lợi nhuận của Công ty năm 2007 so với năm 2006 tăng với số tiền là 377.803 Tr. đ là do năm 2007 đơn vị được miễn không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Tổng lợi nhuận tăng là do Công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh có hiệu quả, các sản phẩm của Công ty đã có tính cạnh tranh trên thị trường cao so với sản phẩm của các Công ty khác.
Mặt khác, cho dù năm 2007 doanh thu thấp hơn năm 2006 nhưng lợi nhuận gộp của công ty năm 2007 lại cao hơn năm 2006, điều này chứng tỏ Công ty đã tiết kiệm chi phí một cách đáng kể. Doanh thu từ hoạt động tài chính tăng là do Công ty sau khi cổ phần vốn chủ tăng dẫn đến lãi tiền gửi, tiền cho vay tăng, Công ty mua được thêm phương tiện vận tải cho thuê và tăng thu từ cho thuê nhà, đất....
Điều đáng nói ở đây là sau khi cổ phần Công ty đã giảm được nhiều chi phí từ hoạt động tài chính, đây là khoản chi phí lớn nhất mà những năm còn là doanh nghiệp nhà nước Công ty phải gánh chịu rất nhiều bởi Công ty không có vốn phải đi vay ngân hàng với lãi suất cao. Nên năm 2006 chi phí tài chính của Công ty cao: 324.673( Tr. đ), sang đến năm 2007 Công ty đã giảm xuống còn 88.551( Tr. đ) tức giảm 27,27%. Việc giảm chi phí này liên quan rất nhiều đến lợi nhuận của đơn vị.
Bảng 2.3: Bảng cân đối kế toán của Công ty
Đơn vị tính: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tài sản
A- TS lưu động và ĐTNH
7,071.031
78.82
8,772.964
81,85
1,701.933
3,03
1. Tiền
1,686.211
18,80
2,667.447
24,89
0,981.236
13,87
2. Các khoản phải thu
1,030.570
11,49
0,836.360
7,80
(0,194.21)
(2,75)
3. Hàng tồn kho
4,144.793
46,20
4,199.250
39,19
0,054.457
0,77
4. TS lưu động khác
0,209.458
2,33
1,069.906
9,98
0,860.448
12,17
B- Tài sản cố định và ĐTDH
1,785.362
19,90
1,944.901
21,69
0,159.539
8,94
1. Tài sản cố định
1,762.772
19,65
1,825.543
17,03
0,006.277
3,56
- Nguyên giá
3,754060
41,85
4,148.241
38,70
0,394.181
10,5
- Giá trị hao mòn lũy kế
-1,991.288
(22,19)
-2,337.933
(21,81)
(0,346.645)
17,4
2. Các khoản ĐTTC
0,029.034
0,324
0,029.034
0,271
3.Tài sản dài hạn khác
0,085.389
0,952
0,090.324
0,843
0,004.935
5,78
Tổng cộng tài sản
8,970.816
100,00
10,717.866
100
1,74705
19,47
Nguồn vốn
A- Nợ phải trả
4,025.311
44,87
4,745.845
44,28
0,720.534
17,9
1. Nợ ngắn hạn
3,620.942
40,36
4,494.651
41,94
0,873.709
21,71
-Phải trả cho người bán
1,445.434
16,11
2,235.701
20,86
0,790.267
19,63
- Phải nộp NSNN
0,017.254
0,19
- Phải trả người lao động
0,058.787
0,655
0,235.248
2,19
0,176.461
4,38
- Các khoản phải trả khác
1,929.622
21,51
2,023.701
18,88
0,094.079
2,34
2. Nợ dài hạn
0,404.369
4,51
0,251.193
2,34
(0,153.176)
(3,81)
3. Nợ khác
B- Nguồn vốn Chủ SH
4,945.505
55,13
5,972.021
55,72
1,026.516
20,76
1. Nguồn vốn
4,943.673
55,11
5,808.331
54,19
0,864.658
17,49
2. Quỹ khen thưởng phúc lợi
0,001.832
0,02
0,034.084
0,32
0,032252
1,76
3. Nguồn kinh phí khác
0,129.606
1,21
Tổng cộng nguồn vốn
8,970.816
10,717.866
(Nguồn: Báo cáo tài chính - CTCP thương mại Tuyên Quang)
Qua số liệu trên ta thấy tổng tài sản của Công ty năm 2007 tăng so với năm 2006, từ đó có thể khẳng định Công ty đã có sự gia tăng quy mô tài sản. Cụ thể như sau :
Năm 2007 các khoản phải thu giảm so với năm 2006, điều này chứng tỏ năm 2007 doanh nghiệp đẩy mạnh công tác thu hồi công nợ, làm tăng vòng quay của vốn tăng, giảm lãi suất tiền vay, dẫn đế lợi nhuận tăng.
Vốn bằng tiền của công ty năm 2007 tăng so với năm 2006, việc vốn bằng tiền tăng chứng tỏ khả năng thanh toán của công ty cao. Tuy nhiên bên cạnh yếu tố tích cực nêu trên Công ty cũng cần lưu ý tránh để tồn đọng vốn.
Năm 2007 hàng tồn kho tăng so với năm 2006, tỷ lệ tăng không lớn Công ty cũng phải có biện pháp đẩy mạnh bán ra để giảm lượng hàng tồn kho.
Tuy nhiên, tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp điều quan trọng là phải giảm chi phí, để giảm chi phí vòng quay về vốn phải nhanh mới giảm được chi phí tiền vay. Như vậy, Công ty cần thu hồi nợ nhanh và tránh tồn kho hàng hoá với số lượng lớn. Sau đây sẽ xem xét cơ cấu nguồn vốn của Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang.
* Đối với nợ phải trả: năm 2007 tăng so với năm 2006 là 0,720.534 tỷ đồng tương ứng tỷ lệ tăng 17,9%. Tổng nguồn vốn tăng lên chủ yếu là do nợ phải trả tăng. Trong cơ cấu nợ phải trả thì nợ ngắn hạn chiếm 41,94%, tỷ trọng này khá lớn và có xu hướng ngày càng tăng, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 0,873.709 tỷ đồng tương ứng tỷ lệ tăng 21,71%. Công ty nợ của người lao động chưa thanh toán. Nợ dài hạn chiếm tỷ lệ nhỏ là 2,34%, năm 2007 giảm so với năm 2006 là 0,153.176 tỷ đồng tương ứng tỷ lệ giảm là 37,8%.
Với cơ cấu vốn như hiện tại và nợ phải trả không ngừng tăng lên cho ta thấy tình hình diễn biến nguồn vốn của Công ty diễn ra bình thường.
* Đối với nguồn vốn chủ sở hữu: Tính đến 31/12/2007 là 5,972.021 tỷ đồng chiếm 55,72%, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 1,026.516 tỷ đồng tương ứng tỷ lệ tăng là 20,76%. Trong đó quĩ khen thưởng phúc lợi có sự tăng thêm 0,032.252 tỷ đồng với tỷ lệ tăng tương ứng 1,76%, trong nguồn vốn quỹ thì nguồn vốn chiếm tới 54,19%. Như vậy, cơ cấu vốn nghiêng về nợ phải trả nhỏ hơn nguồn vốn, chứng tỏ tình hình tài chính của Công ty đảm bảo. Công ty không phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài và có thể độc lập về tài chính. Tuy nhiên, nếu Công ty làm ăn có hiệu quả thì rất có lợi. Do đó, trong thời gian tới Công ty cần có biện pháp để trả dần các khoản nợ phải trả để giảm hệ số nợ, mặt khác cũng cần nâng cao hệ số vốn chủ sở hữu từ đó đảm bảo cân bằng giữa an toàn và rủi ro.
2.2 Thực trạng lợi nhuận của Công ty
2.2.1 Thực trạng lợi nhuận từ hoạt động xản suất kinh doanh
Có thể nói, đây là khoản lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của Công ty, tạo ra nguồn thu nhập đáng kể, từ đó góp phần ổn định đời sống cho cán bộ công nhân viên trong Công ty .
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh hàng chính sách xã hội nói chung, hoạt động kinh doanh xăng dầu và hoạt động sản xuất kinh doanh hàng khác nói riêng.
Lợi nhuận thu được đó là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí bao gồm cả các khoản thuế theo luật định của các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác.
Để có cái nhìn toàn diện hơn về lợi nhuận đạt được ở hoạt động này, ta nghiên cứu biểu sau :
Bảng 2.4 : Kết quả hoạt động xản suất kinh doanh của công ty
ĐVT: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
So sánh 07/06
+/-
%
1. Doanh thu thuần về bán hàng
53.128.958
48.771.791
(4.357.167)
(91,7)
2. Giá vốn hàng bán
50.879.555
46.038.565
(4.840.990)
(90,4)
3. Lợi nhuận gộp ( 3=1-2)
2.249.403
2.733.226
483.796
12,15
6. Chi phí bán hàng
1.803.337
2.156.310
352.973
11,95
7. Chi phí quản lý doanh nghiệp
290.202
290.783
581
10,02
( Nguồn: Kế toán - Tài chính CTCP thương mại Tuyên Quang )
Doanh thu thuần về bán hàng của Công ty năm 2006 là cao hơn năm 2007. Vấn đề này là do thực hiện chỉ đạo của các cấp các ngành đơn vị thực hiện quyết toán năm 2006 có cả doanh thu của 1/2 tháng của năm 2007, nhưng qua đó phần nào cũng thể hiện được sự nỗ lực trong hoạt động kinh doanh và khả năng tiêu thụ hàng hoá của Công ty. Doanh thu năm 2007 giảm 91,7% so với năm 2006 nhưng Công ty không còn tồn đọng hàng hoá, và không phải giảm giá hàng bán... Điều này chứng tỏ Công ty đã có nhiều biện pháp trong kinh doanh nên chất lượng và chủng loại mặt hàng phục vụ ngày càng được nâng cao. Tuy doanh thu của Công ty không tăng, nhưng lợi nhuận gộp vẫn tăng. Năm 2007, lợi nhuận Công ty đạt 2.733.226 Tr. đ, tăng 483.796 Tr.đ so với năm 2006, tăng tương ứng 12,15% là do ảnh hưởng của giá vốn hàng bán, giá cả biến động, tỷ lệ trượt giá cao, giá vốn hàng bán thấp, dẫn đến lãi gộp tăng, năm 2006 là 2.249.403 đồng, lãi ít hơn năm 2007 là 483.796 đồng với tỷ lệ t ăng l ãi tương ứng là 12,15%.
Hoạt động sản xuất kinh doanh có triều hướng tốt chủ yếu là do hoạt động kinh doanh hàng chính sách xã hội, hàng xăng dầu và hàng khác của Công ty kinh doanh có hiệu quả, Công ty đã có sự mở rộng hoạt động kinh doanh sang lĩnh vực kinh doanh hàng khác và hơn nữa là nhằm tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Năm 2007, Công ty đã mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cho nên chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đều tăng hơn so với năm 2006. Điều này là bình thường bởi do biến động của thị trường giá cả tăng đột biến, bắt buộc các chi phí tăng lên như chi phí bốc xếp, vận chuyển hàng hoá, chi phí nhân công.... Kết quả này phần nào phản ánh được sự nỗ lực của Công ty, đã có những biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí. Tóm lại, với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty qua hai năm đều có lãi nhưng không cao đòi hỏi Công ty cần có nhiều nỗ lực cao hơn nữa, phải có các biện pháp hữu hiệu để quản lý tốt hơn các chỉ tiêu chi phí của mình nhằm nâng cao lợi nhuận cho Công ty.
2.2.2 Thực trạng lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Tại Công ty cổ phần thương mại Tuyên Quang, hoạt động tài chính chủ yếu là hoạt động cho thuê tài sản như cho thuê đất, thuê phương tiện vận tải.. đây là nguồn thu cơ bản trong hoạt động tài chính của Công ty.
Để có thể thấy rõ hơn sự biến động trong hoạt động tài chính của Công ty qua hai năm : 2006 - 2007, ta theo dõi biểu sau :
Bảng 2.5 : Kết quả hoạt động tài chính của Công ty Đơn vị: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
So sánh
+/-
Tỉ lệ %
* Thu HĐTC
11.880
88.246
76.366
74,3
- Cho thuê tài sản
6.240
17.560
11.320
28,1
- Lãi tiền gửi NH
5.640
70.686
65.045
125,3
* Chi phí HĐTC
324.673
88.551
(236.122)
(27.27)
- Khấu hao TSCĐ , kho tàng . .
85.564
73.321
(12.243)
( 85,7)
- Lãi tiền vay NH
239.109
15.230
(223.879)
( 6,4)
* LN HĐTC
(312.793)
7.560
320.353
24,2
( Nguồn: Kế toán - Tài chính CTCP thương mại Tuyên Quang )
Qua biểu trên ta thấy, lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính của Công ty là bình thường và nó là bộ phận góp phần làm cho kết quả ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7886.doc