MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tồn tại và phát triển thì nhất thiết các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp bỏ vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải đem lại lợi nhuận, thu nhập từ các họat động sản xuất kinh doanh phải lớn hơn tổng chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Có lợi nhuận doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng nguồn vốn chủ sở hữu, nâng cao thu nhập cho cán bộ côn
91 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng lợi nhuận tại Công ty Chế tạo thiết bị và Đóng tàu Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nhân viên và khuyến khích tăng năng suất lao động, đồng thời lợi nhuận lớn sẽ góp phần vào việc tăng Ngân sách Nhà nước thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Như vậy, lợi nhuận ngoài ý nghĩa là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp còn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Lợi nhuận được tạo ra là kết quả tổng hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là kết quả của việc kết hợp hài hòa các yếu tố sản xuất, là kết tinh của sự tìm tòi sáng tạo và mạo hiểm. Nó đòi hỏi mỗi nhà kinh doanh phải có sự phát triển toàn diện, khả năng tư duy nhạy bén, năng động. Vì vậy nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta đặc biệt là các nhà tài chính doanh nghiệp, các nhà quản trị ngân hàng có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về các hoạt động của doanh nghiệp, về quản trị kinh doanh...sao cho khi bỏ vốn ra đầu tư sẽ đem lại kết quả tốt nhất.
Ngày nay chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của công nghệ thông tin, thế kỷ của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế đó mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Đã đến lúc các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt trực tiếp với sự tác động mạnh mẽ của quy luật cạnh tranh điều đó cũng có nghĩa là nguy cơ phá sản doanh nghiệp luôn tiềm ẩn bất cứ lúc nào, khả năng thu được lợi nhuận cao đối với các doanh nghiệp của chúng ta trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận giờ đây là một bài toán lan giải đối với các nhà quản lý doanh nghiệp.
Công ty Chế tạo thiết bị và Đóng tàu Hải Phòng cũng không nằm ngoài xu thế đó. Kể từ ngày thành lập đến nay dưới sự lãnh đạo của Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Công ty từng bước khắc phục những khó khăn và đạt được những bước tiến nhất định, trở thành đơn vị hùng mạnh của Tổng công ty lắp máy Việt Nam tại khu vực phía Bắc. Bên cạnh những thành tích đạt được thì Công ty còn gặp rất nhiều khó khăn về mặt tài chính, mục tiêu của Công ty là nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận Công ty.
Xuất phát từ ý nghĩa và vai trò quan trọng của lợi nhuận, thông qua quá trình thực tập tại Công ty Chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng, em quyết định chọn đề tài : “Giải pháp tăng lợi nhuận tại công ty Chế tạo thiết bị và Đóng tàu Hải Phòng” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN DOANH NGHIỆP
1.1.Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lợi nhuận
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải quy định cho mình những mục tiêu hoạt động và lấy đó làm đích để hướng tới. Trong đó mục tiêu duy nhất, tổng quát nhất là mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu vì mục tiêu này đã xem xét đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dưới góc độ thời gian, rủi ro và nhiều yếu tố khác. Để thực hiện mục tiêu này doanh nghiệp phải đồng thời thực hiện nhiều mục tiêu cụ thể trong đó mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đóng vai trò cơ bản, quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Về lý luận cũng như thực tiễn các doanh nghiệp luôn quan tâm, nhân tố lợi nhuận và tìm mọi biện pháp để gia tăng lợi nhuận, coi đây là một nhân tố hàng đầu. Vậy lợi nhuận là gì ? Tại sao nó lại được các doanh nghiệp quan tâm đến vậy? Các quan điểm của các nhà kinh tế học dưới đây sẽ giúp chúng ta phần nào trả lời được câu hỏi này.
Trong học thuyết giá trị thặng dư, Mác là người đầu tiên đã phân tích một cách khoa học và sâu sắc có ý nghĩa cả về kinh tế và chính trị nguồn gốc của lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp, điạ tô của điền chủ, lợi tức của tiền vay đều là các dạng chuyển hóa của giá trị thặng dư.
Trước Mác đã có rất nhiều các quan điểm khác nhau cuả các nhà kinh tế học về lợi nhuận.
Phái trọng thương cho rằng: “Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông”.
Phái trọng nông lại quan niệm: “ Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần túy là tặng vật vật chất của thiên nhiên và nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần túy”.
Như vậy, cả phái trọng thương và phái trọng nông chưa chỉ ra được nguồn gốc của lợi nhuận mà chỉ thấy sự tồn tại của lợi nhuận trong từng lĩnh vực riêng lẻ.
Các nhà kinh tế học cổ điển mà cụ thể là A.Smith tuyên bố rằng “ Lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư và giá trị thặng dư” đồng thời ông cũng cho rằng “ Giá trị hàng hóa bao gồm: Tiền công, lợi nhuận, địa tô”.
A.Smith là người đầu tiên nêu ra nguồn gốc thật sự của giá trị thặng dư. Còn D.Ricardo cho rằng: “Gía trị do lao động của công nhân sáng tạo ra, là nguồn gốc sinh ra tiền lương cũng như lợi nhuận, điạ tô”. Như vậy cả A.Smith và D.Ricardo đều nhầm lẫn và không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và địa tô.
- Robert owen, người đại diện cho chủ nghĩa xã hội không tưởng, phê phán lợi nhuận, coi đó là một cái gì đó không đúng đắn, bất công, làm tăng giá cả và là nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng thừa.
Kế thừa những gì tinh túy nhất của những nhà kinh tế học cổ điển kết hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là nhờ có lý luận vô giá về giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra mang hình thái biến tướng là lợi nhuận.
Theo C.Mác thì “Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên trong toàn bộ giá trị của hàng hóa, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hóa thì gọi là lợi nhuận.”
Theo các nhà kinh tế học hiện đại như P.A Samuelson và W.DNordhaus lại quan niệm “Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi ra” hay cụ thể hơn “Lợi nhuận được định nghĩa là khoản chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của một doanh nghiệp”. Theo David Begg, Stanley Fisher và Busch thì “Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí”.
Tóm lại, xét về mặt lượng thì tất cả các quan điểm đều thống nhất: Lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra; lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
1.1.2. Nguồn gốc của lợi nhuận.
Theo kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa, muốn tạo ra một sản phẩm dịch vụ nào thì doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định. Giá trị của sản phẩm được cấu tạo từ:
GT = C + V +M
Trong đó:
- C: Chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để mua tư liệu sản xuất.
- V: Chi phí thuế nhân công tham gia vào quá trình sản xuất.
- M: Giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư, một phần của toàn bộ giá trị hàng hóa là lao động không được trả công của công nhân nhập vào, là biểu hiện của lợi nhuận.
Nếu hàng hóa bán ra theo giá trị của nó thì doanh nghiệp thu được phần lợi nhuận bằng phần thừa so với chí phí bỏ ra sản xuất ra loại hàng hóa đó. Tuy nhiên nhà sản xuất vẫn thu được lợi nhuận khi bán hàng hóa dưới giá trị với điều kiện giá bán đó cao hơn tổng chi phí bỏ ra để sản xuất hàng hóa dịch vụ đó.
Dựa vào lý luận về lợi nhuận của C.Mác, kinh tế học hiện đại đã phân tích sâu sắc về lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp được hiểu là tổng lợi nhuận từ các hoạt động mà doanh nghiệp thực hiện.
Đồng thời để có được lợi nhuận doanh nghiệp phải luôn tìm tòi, sáng tạo, đổi mới, phải tìm thấy những cơ hội mà người khác bỏ qua, phát hiện ra sản phẩm mới và tìm ra phương pháp sản xuất tốt hơn để có chi phí thấp. Nói một cách khác doanh nghiệp cần phải mạo hiểm đầu tư vào những lĩnh vực đôi khi là hoàn toàn mới mẻ, rủi ro cao.
Cũng có thể lợi nhuận của doanh nghiệp thu được là do những lợi thế đặc biệt mà những doanh nghiệp khác không có lợi nhuận này được gọi là lợi nhuận độc quyền.
Như vậy có thể khẳng định rằng lợi nhuận của doanh nghiệp được hình thành từ 3 nguồn chính:
Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Phần thưởng từ sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro
Lợi nhuận do độc quyền.
1.1.3. Vai trò của lợi nhuận
Trong nền kinh tế thị trường sôi động hiện nay, lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu và là động lực của mọi doanh nghiệp. Lợi nhuận ngoài ý nghĩa là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó còn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Có thể khái quát vai trò của lợi nhuận trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và là cơ sở để xác định hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận là số chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra. Lợi nhuận bao gồm doanh thu từ tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh chính, phụ, liên doanh liên kết và các hoạt động khác của doanh nghiệp đem lại mức độ nhiều hay ít của mỗi bộ phận có ảnh hưởng tới tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Lợi nhuận đo được từ tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, từ khâu chuẩn bị sản xuất tới khâu tiêu thụ sản phẩm, chất lượng của mỗi khâu sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả cuối cùng. Qua xem xét chỉ tiêu lợi nhuận người ta có thể đánh giá được phần lớn chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng để thực hiện tái sản xuất mở rộng, bù đắp thiệt hại trong rủi ro kinh doanh, thực hiện khuyến khích vật chất cũng như cải thiện đời sống người lao động.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thu được một khoản lợi nhuận nhất định, một phần của lợi nhuận sẽ dùng để trả lương cho cán bộ công nhân viên và trích lập các quỹ để bảo hộ đời sống của người lao động. Người lao động nhận được tiền công vừa đảm bảo cho nhu cầu vật chất cần thiết cho cuộc sống vừa thực hiện tái sản xuất sức lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì thu nhập của người lao động được đảm bảo. Bên cạnh đó, tác dụng của lợi nhuận còn giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Nhờ có vốn bổ sung thêm từ lợi nhuận mà doanh nghiệp mới chủ động trong việc đầu tư phát triển kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị mới, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh, tăng mức vốn lưu động từ đó tăng năng suất lao động, tăng khối lượng sản xuất, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, phục vụ tối đa nhu cầu của người tiêu dùng và chiếm lĩnh thị phần trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp thương mại nhờ có thêm vốn doanh nghiệp sẽ mở rộng thêm mạng lưới tiêu thụ, tăng khối lượng luân chuyển, đa dạng chủng loại hàng hóa kinh doanh nhờ vậy mà quy mô kinh doanh tăng lên. Doanh nghiệp có lợi nhuận cao càng khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Thứ ba, đối với toàn bộ nền kinh tế, lợi nhuận của doanh nghiệp còn là nguồn thu quan trọng của Ngân sách nhà nước và là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân.
Ở đây, ta lại thấy vai trò của lợi nhuận không chỉ quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn xã hội. Bởi lẽ mỗi doanh nghiệp không chỉ hoạt động riêng lẻ, tách rời mà nó còn là một mắt xích trong chuỗi liên hệ giữa các doanh nghiệp với nhau. Mặt khác lợi nhuận còn góp phần tăng thu cho Ngân sách Nhà nước thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhà nước thu thuế sau đó điều hòa lợi ích giữa các doanh nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng thêm các cơ sở sản xuất mới đảm bảo thực hiện tái sản xuất mở rộng trên quy mô toàn xã hội, giải quyết vấn đề lao động cho nhân dân, bảo hộ cho những ngành sản xuất chủ chốt.
1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận trong doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp được hiểu là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Vì vậy muốn xác định lợi nhuận của doanh nghiệp ta phải xác định doanh thu và chi phí của doanh nghiệp.
1.2.1. Doanh thu của doanh nghiệp
Doanh thu của doanh nghiệp có thể phân theo các tiêu thức khác nhau dựa trên các tiêu thức khác nhau nhưng thông thường người ta thường phân loại dựa trên nguồn hình thành doanh thu. Theo Nghị Định 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 thì : Doanh thu của công ty bao gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh và thu nhập khác.
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh bao gồm: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh thông thường và doanh thu từ hoạt động tài chính.
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh thông thường là toàn bộ số tiền phải thu phát sinh trong kỳ từ việc bán sản phẩm hàng hóa, cung cấp dịch vụ của Công ty. Đối với việc thực hiện cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh thu bao gồm cả các khoản trợ cấp của Nhà nước cho Công ty khi Công ty thực hiện cung cấp sản phẩm dịch vụ theo nhiệm vụ Nhà nước giao mà thu không đủ bù đắp chi.
Doanh thu từ hoạt động tài chính bao gồm: các khoản thu phát sinh từ tiền bản quyền, cho các bên khác sử dụng tài sản của Công ty, tiền lãi từ việc cho vay vốn, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm, trả góp lãi cho thuê tài chính; chênh lệch lãi do bán ngoại tệ, chênh lệch tỷ giá ngoại tệ, chênh lệch lãi chuyển nhượng vốn và lợi nhuận được chia từ việc đầu tư ra ngoài Công ty( bao gồm cả phần lợi nhuận sau thuế sau khi để lại trích các Quỹ của Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên; lợi nhuận sau thuế được chia theo vốn Nhà nước và lợi nhuận sau thuế trích lập Quỹ đầu tư phát triển của Công ty thành viên hạch toán độc lập).
1.2.1.2 Thu nhập khác.
Thu nhập khác gồm :
- Các khoản thu từ việc thanh lý, nhượng bán tài sản cố định.
Thu tiền được phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng.
Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xóa sổ.
Các khoản thuế được ngân sách nhà nước hoàn trả.
Thu các khoản nợ phải trả không xác định được chủ.
Các khoản tiền thưởng của khách hàng liên quan tới tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tính trong doanh thu (nếu có).
Thu nhập quà biếu, quà tặng bằng tiền của các tổ chức, cá nhân tặng cho doanh nghiệp.
Các khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bỏ sót hay kế toán quên không ghi sổ năm nay mới phát hiện ra.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đặc thù như Ngân hàng, Bảo hiểm thì việc xác định doanh thu áp dụng theo quy định của pháp luật điều chỉnh đối với lĩnh vực này.
Trong tổng số doanh thu của doanh nghiệp thì phần lớn doanh thu được tạo ra khi doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Thời điểm xác nhận doanh thu đối với hàng hóa là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hoặc xuất hóa đơn bán hàng còn đối với dịch vụ đó là thời điểm dịch vụ hoàn thành hoặc xuất hóa đơn bán hàng.
1.2.2. Chi phí của doanh nghiệp
Tùy theo loại hình kinh doanh của doanh nghiệp mà tỷ trọng các bộ phận chi phí có thể không giống nhau và tùy theo các cách tiếp cận khác nhau người ta có thể xem xét các loại chi phí dưới các giác độ khác nhau.
Thông thường người ta xem xét chi phí dưới giác độ là : chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí hoạt động kinh doanh, chi phí họat động tài chính và chi phí hoạt động khác.
Chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm
a.Chi phí sản xuất của doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho người lao động… Do vậy, có thể hiểu chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa trên các tiêu thức khác nhau. Mục đích của sự phân chia này để nhằm quản lý và kiểm tra việc thực hiện các định mức chi phí đồng thời biết được cơ cấu chi phí nhằm xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố để có biện pháp quản lý tốt và tiết kiệm được chi phí đồng thời kiểm tra giá thành sản phẩm để có biện pháp giảm giá thành sản phẩm.
* Nếu phân loại chi phí sản xuất theo yêú tố, tức là sắp xếp các chi phí có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí thì chi phí sản xuất bao gồm:
Chi phí vật tư.
Lương nhân công trực tiếp.
Chi phí sản xuất chung.
* Nếu phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Thì người ta dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó phân tích tác động của từng khoản mục chi phí tới giá thành.
Ngoài ra có thể phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến đổi để có phương thức quản lý phù hợp đối với từng loại chi phí.
Do việc tính toán chi phí sản xuất được thực hiện trong một thời gian xác định không phân biệt sản phẩm đó đã hoàn thành hay chưa nên nếu chỉ dựa vào chi phí sản xuất thì chưa thể tính được chi phí cho một đơn vị sản phẩm. Tuy nhiên trong hoạt động kinh doanh việc tính toán chi phí cho một đơn vị sản phẩm là rất cần thiết để lựa chọn các phương án kinh doanh. Vì vậy doanh nghiệp cần phải xác định giá thành sản xuất.
Giá thành sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất ra một loại sản phẩm nhất định.
Giá thành sản xuất = Chi phi sản xuất + Chênh lệch sản phẩm dở dang
Chênh lệch sản phẩm dở dang = Sản phẩm dở dang đầu kỳ - Sản phẩm dở dang cuối kỳ.
Chi phí sản xuất là một bộ phận hợp thành giá thành sản xuất nhưng không phải toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều được tính vào giá thành sản xuất. Giá thành sản xuất phản ánh lượng chi phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm nhất định còn chi phí sản xuất phản ánh các chi phí bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định không phân biệt sản phẩm đó đã hoàn thành hay chưa.
Nếu dựa vào giá thành sản xuất ta có thể tính ra được chi phí bỏ ra để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm nhưng chưa tính được chi phí cho số sản phẩm bán được. Muốn tính chi phí cho số sản phẩm bán được doanh nghiệp phải tính được giá vốn hàng bán.
Giá vốn hàng bán = Giá thành sản xuất + Chênh lệch thành phẩm tồn kho.
Chênh lệch thành phẩm tồn kho = Thành phẩm tồn kho đầu kỳ - Thành phẩm tồn kho cuối kỳ.
Đối với doanh nghiệp thương mại thì giá vốn hàng bán được tính như sau:
Giá vốn hàng bán = Giá vốn mua + Chênh lệch hàng hóa tồn kho.
Chênh lệch hàng hóa tồn kho = Hàng hóa tồn kho đầu kỳ - Hàng hóa tồn kho cuối kỳ.
b. Chi phí tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó là khâu kết thúc quá trình sản xuất đồng thời nó quyết định việc doanh nghiệp có tạo ra lợi nhuận hay không. Để tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp cũng phải bỏ ra một lượng chi phí như: chi phí chọn lọc, đóng gói, vận chuyển, chi phí thuê kho tàng, bến bãi và các loại chi phí marketing bao gồm chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí tiếp thị, chi phí quảng cáo, bảo hành…Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay thì chi phí marketing ngày càng tăng.
Để bán được sản phẩm nhằm thu hồi vốn và có lợi nhuận, doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm. Do đó doanh nghiệp phải xác định được giá thành sản phẩm để biết được toàn bộ chi phí bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, từ đó có các quyết định đúng đắn hơn trong việc lựa chọn cơ cấu sản phẩm sản xuất, phương án kinh doanh hợp lý.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
1.2.2.1 Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động kinh doanh cũng có thể chia thành nhiều loại khác nhau.
* Nếu dựa theo tính chất các yếu tố chi phí thì chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành:
Chi phí vật tư : Gồm các chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực. Chi phí nguyên vật liệu là toàn bộ giá trị nguyên vật liệu mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh còn chi phí nhiên liệu, động lực là giá trị của toàn bộ nhiên liệu, động lực mà doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Chi phí vật tư phụ thuộc vào mức tiêu hao vật tư và giá vật tư thực tế xuất kho.
Chi phí khấu hao tài sản cố định: Là số khấu hao tài sản cố định được trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Chi phí khấu hao tài sản cố định được xác định dựa vào nguyên giá tài sản cố định cần tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản cố định.
Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương: là toàn bộ tiền lương, tiền công, chi phí có tính chất tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động.
Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn: Doanh nghiệp phải trích nộp theo quy định của nhà nước.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí trả cho các tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ mà họ thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp như vận chuyển, điện nước, điện thoại, kiểm toán, tư vấn, ủy thác xuất nhập khẩu,.. và các dịch vụ khác.
Thuế và các chi phí khác. Chi phí khác bao gồm chi phí tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, đối ngoại; chi bảo hộ lao động, phí hiệp hội ngành nghề mà doanh nghiệp là thành viên tham gia và các chi phí khác.
* Nếu dựa vào nội dung các yếu tố chi phí thì chi phí hoạt động kinh doanh được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
Chi phí sản xuất trực tiếp bao gồm chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Chi phí vật tư trục tiếp bao gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu mà doanh nghiệp sử dụng trực tiếp để tạo ra sản phẩm dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp bao gồm tiền công, tiền lương, các khoản trích lập bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ theo quy định của Nhà nước.
Chi phí sản xuất chung bao gồm các chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất, chế biến của bộ phận trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ như: chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định thuộc phân xưởng; tiền lương và các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của nhân viên phân xưởng theo quy định; chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác phát sinh ở phân xưởng.
Chi phí gián tiếp bao gồm chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, thuế và các chi phí chung khác.
Chi phí bán hàng bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ như tiền lương và các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, tiếp thị; khấu hao tài sản cố định; chi phí bảo quản, đóng gói; chi phí vật liệu, bao bì; chi phí dịch vụ mua ngoài; chi phí bảo hành, quảng cáo.
Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm các chi phí chi cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp và các chi phí chung khác có liên quan đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và các nhân viên quản lý ở các phòng ban; chi phí vật liệu dùng cho văn phòng; chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao tài sản cố định dùng chung cho toàn bộ doanh nghiệp; các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác phát sinh ở doanh nghiệp như phí kiểm toán, tiếp tân, giao dịch, công tác phí…
Khi xác định được doanh thu và chi phí doanh nghiệp có thể xác định được lợi nhuận, đó chính là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó.
1.2.2.3 Chi phí hoạt động tài chính và chi phí hoạt động khác.
Chi phí hoạt động tài chính là các khoản chi phí và các khoản lỗ có liên quan tới hoạt động đầu tư tài chính, bao gồm:
Chi phí hoạt động liên doanh, liên kết.
Chi phí thiệt hại do kinh doanh thu lỗ.
Chi phí mua bán chứng khoán.
Chi phí của quá trình đầu tư kinh doanh bất động sản, thuê tài sản.
Lãi phải trả về vay vốn đầu tư tài chính.
Trích thêm số chênh lệch về dự phòng giảm giá đầu tư tài chính.
Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi phí phát sinh khách quan khi xây dựng kế hoạch tài chính doanh nghiệp chưa tính đến, chẳng hạn như:
Giá trị còn lại của tài sản cố định khi thanh lý, nhượng bán.
Chi phí về thanh lý, nhượng bán tài sản cố định.
Bị phạt do vi phạm hợp đồng.
Bị phạt truy nộp thuế.
Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ xót khi vào sổ.
Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi không đủ hoặc khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn khi chưa lập dự phòng.
Khi xác định được doanh thu và chi phí doanh nghiệp có thể xác định được lợi nhuận, đó chính là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để có được doanh thu đó.
Lợi nhuận của doanh nghiệp lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận khác.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là chênh lệch giữa tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh doanh.
LNHĐKD = DTTHĐK – GVHB – CPBH – CPQLDN
Trong đó:
- LNTHĐKD: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
- DTTHĐKD: Doanh thu từ hoạt động kinh doanh
- GVHB: Giá vốn hàng bán
- CPBH: Chi phí bán hàng
- CPQLDN: Chi phí quản lý doanh nghiệp.
Lợi nhuận tù hoạt động tài chính là chênh lệch giữa doanh thu từ hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
LNTHĐTC = DTTHĐTC – CPHĐTC
Trong đó:
LNTHĐTC: Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
DTTHĐTC: Doanh thu từ hoạt động tài chính
CPHĐTC : Chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận khác là chênh lệch giữa thu nhập khác và chi phí khác của doanh nghiệp.
Lợi nhuận khác = Thu nhập khác – Chi phí khác
Lợi nhuận của doanh nghiệp là tổng lợi nhuận từ các hoạt động trên
LNCDN = LNTHĐKD + LNTHĐTC + LNK
Ngoài các khoản chi phí trên doanh nghiệp còn phải trích một khoản để nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước. Thuế thu nhập doanh nghiệp được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp nhân với lợi nhuận trước thuế. Thuế suất thuế thu nhập do Bộ tài chính quy định.
Thuế TNDN = Lợi nhuận trước thuế TNND * Thuế suất thuế TNDN
Lợi nhuận sau khi trừ đi thuế TNDN phải nộp cho nhà nước là phần doanh nghiệp được hưởng thực sự.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận
Lợi nhuận có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp nhưng lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Với điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp là khác nhau đồng thời nếu các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau, ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn lớn hơn những doanh nghiệp quy mô sản xuất nhỏ nhưng công tác quản lý tốt. Để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp người phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu khác về tỷ suất lợi nhuận như: tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản…
1.2.3.1 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu được xác định bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế chia cho doanh thu thuần.
Lơi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu =
Doanh thu thuần
Sự biến động của tỷ suất này phản ánh sự biến động về hiệu quả hay ảnh hưởng của các chiến lược tiêu thụ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Có thể sử dụng tỷ số này để so sánh với tỷ số của các năm trước hoặc so sánh với các doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước tức là lợi nhuận của doanh nghiệp tăng với tốc độ lớn hơn doanh thu, điều đó chứng tỏ các chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm… do doanh nghiệp thực hiện đã đạt kết quả tốt và ngược lại nếu tỷ suất lợi nhuận của năm sau thấp hơn năm trước thì doanh nghiệp cần phải xem xét các chiến lược của mình để nâng cao tỷ suất này.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) được xác định bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế chia cho vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu này cho biết cứ một trăm đồng vốn mà doanh nghiệp bỏ ra thì họ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, tức là nó phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu.
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Các nhà đầu tư rất quan tâm đến chỉ tiêu này vì đây là khả năng thu nhập mà họ có thể đạt được nếu họ quyết định đầu tư vốn của mình vào doanh nghiệp. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp cao và tăng liên tục qua các năm thì doanh nghiệp có kỳ vọng thu hút được nhiều nhà đầu tư trên thị trường đầu tư vào doanh nghiệp mình vì họ thấy rằng vốn của họ bỏ ra sẽ được sử dụng co hiệu quả, lợi nhuận kỳ vọng cao do đó họ có thể được chia nhiều cổ tức hơn và giá trị cổ phần của họ trong doanh nghiệp sẽ tăng lên, đặc biệt đối với những doanh nghiệp tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán thì giá cổ phiếu của doanh nghiêp sẽ tăng cao, thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Ngược lại, nếu ROE của doanh nghiệp thấp và lại giảm qua các năm thì doanh nghiệp khó có thể thu hút được vốn đầu tư.
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA).
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản được xác định bằng cách chia lợi nhuân sau thuế cho tổng tài sản hoặc bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho tổng tài sản.
Lợi nhuận sau thuế
ROA =
Tổng tài sản
Hay
Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
ROA =
Tổng tài sản
Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận sau thuế hay lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho tổng tài sản. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản cho biết nếu doanh nghiệp đầu tư một trăm đồng vào tài sản cố định và tài sản lưu động thì doanh nghiệp sẽ thu lại được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vì vậy đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư.
Khi quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp hay khi đánh giá hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp, người ta không chỉ dựa vào một trong số các chỉ tiêu trên mà thường phải sử dụng tổng hợp tất cả các chỉ tiêu trên để có thể đưa ra kết luận đúng đắn nhất.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành.
Tỷ suất lợi nhuận giá thành được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế chia cho giá thành của toàn bộ hàng hoá tiêu thụ.
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ suất lợi nhuận giá thành =
Giá thành của hàng hoá tiêu thụ
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của ch._.i phí bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh tiêu thụ trong kỳ. Nó cho biết cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ đó các nhà quản lý doanh nghiệp sẽ tính toán được với chi phí bỏ ra như vậy thì sẽ thu được lợi nhuận tương ứng. Mặt khác ta có thể xét xem việc quản lý chi phí trong doanh nghiệp đã tốt hay chưa để từ đó đưa ra các biện pháp quản lý chi phí một cách tốt nhất.
1.3.Phân phối lợi nhuận
Phân phối lợi nhuận không chỉ là sự phân chia số tiền lãi một cách đơn thuần mà là việc giải quyết tổng hợp các mối quan hệ kinh tế diễn ra với doanh nghiệp. Thực chất nó là sự phân chia quyền lợi giữa các chủ sở hữu, nhà quản lý và người lao động trên phần thực hiện.
Theo Nghị định 199/2004/NĐ- CP: Lợi nhuận thực hiện của công ty sau khi bù đắp lỗ năm trước theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được phân phối như sau:
Chia lãi cho các thành viên góp vốn theo quy định của hợp đồng (nếu có).
Bù đắp các khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn không được trừ vào lợi nhuận trước thuế.
Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; khi số dư quỹ bằng 25% vốn điều lệ thì không trích nữa
Trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế theo tỷ lệ đã được Nhà nước quy định đối với công ty đặc thù mà pháp luật quy định phải trích lập
Số còn lại sau khi trích lập các quỹ trên được phân phối theo tỷ lệ giữa vốn Nhà nước đầu tư tại công ty và vốn công ty tự huy động bình quân trong năm.
Vốn do công ty tự huy động là số tiền là số tiền do công ty huy động do phát hành trái phiếu, tín phiếu, vay của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước trên cơ sở công ty tự chịu trách nhiệm trên cơ sở hoàn gốc và lãi cho người vay theo cam kết, trừ các khoản vay có bảo lãnh của Chính Phủ, Bộ Tài chính, các khoản vay được hỗ trợ lãi suất.
Phần lợi nhuận được chia theo vốn nhà nước đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại công ty nhà nước. Trường hợp không cần bổ sung thêm vốn nhà nước tại công ty nhà nước, đại diện chủ sở hữu quyết định điều động về quỹ tập trung để đầu tư vào các công ty khác. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập quỹ này.
Lợi nhuận được chia theo vốn tự huy động được phân phối như sau:
Trích tối thiểu 30% vào quỹ đầu tư phát triển của công ty.
Trích tối đa 5% lập quỹ thưởng ban quản lý điều hành công ty. Mức trích một năm không vượt quá 500 triệu đồng(đối với công ty có Hội đồng quản trị), 200 triệu đồng (đối với công ty không có Hội đồng quản trị) với điều kiện tỷ suất lợi nhuận thực hiện trước thuế trên vốn nhà nước tại công ty phải lớn hơn tỷ suất lợi nhuận kế hoạch.
Số còn lại được phân phối vào quỹ khen thưởng, phúc lợi của công ty mức trích vào mỗi quỹ do hội đồng quản trị hoặc Giám đốc công ty không có Hội đồng quản trị quyết định sau khi tham khảo ý kiến của ban chấp hành Công đoàn công ty.
Các quỹ doanh nghiệp.
+ Quỹ đầu tư phát triển : Quỹ này được sử dụng vào các mục đích sau:
Đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh
Đổi mới thay thế máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đổi mới trang thiết bị và điều kiện làm việc trong doanh nghiệp.
Nghiên cứu khoa học, đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên trong doanh nghiệp.
Bổ sung vốn lưu động.
Tham gia liên doanh, mua cổ phiếu
Trích nộp cấp trên nếu có.
+ Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ tổn thất, thiệt hại về tài sản do thiên tai, dịch họa, hỏa hoạn, những rủi ro trong kinh doanh không được tính trong giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm.
Trích nộp để hình thành quỹ dự phòng tài chính của Tổng công ty (nếu là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ các tổn thất, thiệt hại trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành viên theo cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty.
+ Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người lao động có thời gian làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc đào tạo lại chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang làm việc mới, đặc biệt là đào tạo dự phòng cho lao động nữ của doanh nghiệp
Trợ cấp cho người lao động mất việc làm do các nguyên nhân khách quan như: Lao động dôi ra vì thay đổi công nghệ, do liên doanh , do thay đổi tổ chức khi chưa bố trí công việc khác, hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc.
Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm do Giám đốc và Chủ tịch Công đoàn xét cụ thể theo pháp luật hiện hành.
Doanh nghiệp phải trích nộp để hình thành quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm của Tổng công ty nếu là thành viên của Tổng công ty theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định.
+ Quỹ phúc lợi: Dùng để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa, bổ sung vốn các công trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp, góp vốn đầu tư xây dựng các công trình chung trong ngành, hoặc với các đơn vị khác theo hợp đồng thỏa thuận; chi cho các hoạt động phúc lợi xã hội, thể thao, văn hóa,phúc lợi công cộng của tập thể công nhân viên doanh nghiệp: đóng góp cho quỹ phúc lợi xã hội( các hoạt động từ thiện,phúc lợi xã hội công cộng); trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất cho cán bộ công nhân viên doanh nghiệp.
Ngoài ra doanh nghiệp có thể sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của doanh nghiệp mình đã về hưu, mất sức hay lâm vào hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa và chi cho công tác từ thiện xã hội, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc nêu doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định sử dụng sau khi có ý kiến của Công đoàn công ty.
Doanh nghiệp phải trích lập để hình thành quỹ phúc lợi tập trung của Tổng công ty nếu là thành viên của Tổng công ty theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định và được sử dụng cho các mục tiêu theo quy chế tài chính của Tổng công ty.
+ Quỹ khen thưởng dùng để:
Thưởng cuối năm hoặc định kỳ thưởng cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, mức thưởng do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc doanh nghiệp(nếu doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết định sau khi có ý kiến tham gia của Công đoàn công ty trên cơ sở năng suất lao động, thành tích công tác và mức lương cơ bản của mỗi cán bộ công nhân viên trong công ty.
Thưởng đột xuất cho những cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có thành sáng kiến cải tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh, mức thưởng do Hội đồng quản trị doanh nghiệp hoặc Giám đốc (nếu doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị) quyết dịnh
Thưởng cho cá nhân và đơn vị ngoài doanh nghiệp có quan hệ hợp đồng kinh tế đã hoàn thành tốt những điều kiện của hợp đồng, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. Mức thưởng do Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc doanh nghiệp quyết định.
Trích nộp để hình thành quỹ khen thưởng tập trung của Tổng công ty(nếu doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty) theo tỷ lệ do Hội đồng quản trị Tổng công ty quyết định và sử dụng để khen thưởng cho các đối tượng theo quy chế tài chính của Tổng công ty.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp
1.4.1.Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu
1.4.1.1. Quy mô của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có nguồn vốn lớn. Với nguồn vốn lớn doanh nghiệp có thể nâng cao lợi nhuận do doanh nghiệp có thể:
Đầu tư vào máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại.
Việc đổi mới và cải tiến máy móc công nghệ hiện đại cần phải có nguồn vốn lớn vì máy móc công nghệ hiện đại mới đưa vào thị trường bao giờ cũng cũng có gia cả đắt, đặc biệt đối với máy móc công nghệ mới, còn đang trong giai đoạn giới thiệu hoặc tăng trưởng của chu kỳ sống. Những công nghệ này thường chỉ được bán ở một số ít các doanh nghiệp với giá cả cao. Tuy nhiên việc đầu tư này là cần thiết vì trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì doanh nghiệp chỉ có thể tồn tài và phát triển nếu sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra có chất lượng cao và ưu việt hơn hẳn những sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác. Muốn được như vậy thì yếu tố máy móc công nghệ là quan trọng và cần thiết hơn cả. Có được như vậy thì doanh nghiệp cần có nguồn vốn lớn và dồi dào. Việc đầu tư vào máy móc công nghệ hiện đại, mới có trên thị trường tuy chi phí bỏ ra là lớn nhưng sản phẩm sản xuất ra sẽ chưa có hoặc gặp ít các đối thủ cạnh tranh trên thị trường do đó doanh nghiệp sẽ nhanh chóng tiêu thụ hàng hóa đồng thời có thể đặt giá cao, vì vậy doanh nghiệp sẽ nhanh chóng thu hồi vốn và thu được lợi nhuận cao.
Mặt khác,trong thời đại khoa học phát triển nhanh như hiện nay, máy móc công nghệ thường bị lạc hậu nhanh thì việc đổi mới công nghệ là điều cần thiết để sản phẩm làm ra có thể cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp có quy mô lớn thường có ưu thế hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ trong việc đổi mới máy móc công nghệ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra do các doanh ng hiệp lớn có thể thu hồi vốn nhanh hơn các doanh nghiệp nhỏ nên vòng đời máy móc công nghệ được thu hẹp, họ có thể đầu tư vào các loại máy móc công nghệ có tính năng ưu việt hơn còn máy móc công nghệ cũ thì họ có thể chuyển giao cho các doanh nghiệp nhỏ chưa có cơ hội đổi mới và do vậy một lần nữa sản phẩm của họ sản xuất ra lại chiếm lĩnh thị trường.
Linh hoạt trong kinh doanh, nắm bắt các cơ hội kịp thời
Môi trường kinh doanh ngày nay chứa đựng rất nhiều rủi ro đồng thời nó cũng đem đến nhiều cơ hội kinh doanh tốt. Khi có những sự cố bất ngờ xảy ra, doanh nghiệp có thể ứng phó kịp thời hay không phụ thuộc rất lớn vào quy mô vốn của doanh nghiệp. Với nguồn vốn lớn, doanh nghiệpcó thể ứng phó được những sự cố bất ngờ gây bất lợi cho doanh nghiệp, giảm thiểu những thiệt hại có thể xảy ra. Đồng thời khi có những cơ hội kinh doanh tốt doanh nghiệp cũng có thể chủ động nguồn vốn để đầu tư kịp thời. Thông thường với những dự án lớn, có lợi nhuận kỳ vọng cao thì lợi nhuận kỳ vọng cao thì vốn đầu tư ban đầu cũng lớn, do vậy các doanh nghiệp có quy mô nhỏ khó có thể huy động kịp thời vốn để đầu tư. Mặt khác thì những dự án đó cũng không phù hợp với doanh nghiệp nhỏ.
Huy động vốn dễ dàng với chi phí thấp.
Những doanh nghiệp có quy mô lớn thường là những khách hàng lớn và có uy tín đối với các tổ chức tín dụng. Do đó,các doanh nghiệp này có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi và có thể không cần có đảm bảo vì doanh nghiệp là khách hàng truyền thống của ngân hàng. Đồng thời doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn tín dụng thương mại hơn. Như vậy các doanh nghiệp có thể giảm bớt được một số chi phí trong quá trình huy động vốn.
Thu hút được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý có trình độ cao, đội ngũ lao động lành nghề vào làm việc. Vì tâm lý cũng như qua tìm hiểu thì mức lương trong các doanh nghiệp lớn thường cao và có nhiều chính sách ưu đãi đối với những sáng kiến cải tiến sản phẩm hay sự sáng tạo trong lao động.
Trình độ của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Vì nếu cán bộ và nhân viên có trình độ và hiểu biết thì họ sẽ có phương án sản xuất sao cho tiết kiệm tối đa chi phí, tránh những lãng phí không cần thiết nếu như thiếu hiểu biết gây ra.
Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ thường không có những thuận lợi như các doanh nghiệp lớn vì họ không khó có thể thu hút nguồn lực giỏi như các doanh nghiệp lớn.
1.4.1.2. Chiều hướng phát triển ngành nghề của doanh nghiệp
Doanh thu của doanh nghiệp chịu tác động đáng kể từ chiều hướng phát triển ngành nghề của doanh nghiệp trong tương lai.
Nếu ngành nghề của doanh nghiệp của doanh nghiệp có xu hướng phát triển tốt, doanh nghiệp có thể đạt được doanh thu cao và lợi nhuận kỳ vọng cao.
Chiều hướng phát triển ngành nghề kinh doanh trong tương lai sẽ ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, một thành phần quan trọng để tính doanh thu của doanh nghiệp. Nếu khối lượng sản phẩm tiêu thụ tăng thì doanh thu của doanh nghiệp cũng tăng theo. Khi ngành nghề của doanh nghiệp có xu hướng phát triển tốt trong tương lai tức là sản phẩm của doanh nghiệp phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế nói chung và được ưa chuộng, tiêu dùng nhiều, do vậy doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm.
Ngành nghề kinh doanh có xu hướng phát triển tốt giúp cho doanh nghiệp có thể thu hút được nhiều nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng dễ dàng hơn vì chiều hướng phát triển ngành nghề kinh doanh là một trong những điều kiện mà ngân hàng xem xét trước khi cho vay.
Tuy nhiên nếu ngành nghề đó có thể phát triển tốt trong tương lai thì doanh nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh hơn vì ngành nghề nào có xu hướng phát triển tốt thì thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó hơn. Số lượng đối thủ cạnh tranh giă tăng đòi hỏi doanh nghiệp ngay từ bây giờ phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tạo dựng uy tín tốt với khách hàng để có thể tồn tại và phát triển chiến thắng các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tương lai.
Nếu ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp có xu hướng suy giảm trong tương lai thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ không được ưa chuộng, sẽ có ít người mua do đó lượng sản phẩm tiêu thụ cũng ít đi làm giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp cũng giảm đi. Với việc ngành nghề không phát triển thì doanh nghiệp khó có thể thu hút được các nhà đầu tư mới và các nhà đầu tư cũ cũng rút vốn khỏi doanh nghiệp, doanh nghiệp vì thế sẽ gặp khó khăn trong việc đổi mới và chuyển sang ngành nghề kinh doanh mới. Lúc này sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ, doanh nghiệp cần áp dụng các chiến lược về sản phẩm và giá cả phù hợp.
1.4.1.3. Quy mô cơ cấu, thu nhập của dân cư và tập quán tiêu dùng.
Quy mô dân cư ảnh hưởng tới lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể tiêu thụ được, do đó nó ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Nếu có hai thị trường tương đồng nhau về cơ cấu dân cư, tập quán tiêu dùng, thu nhập của người dân và mức độ ưa thích sản phẩm của doanh nghiệp thì tại thị trường có đông dân cư hay có quy mô dân cư lớn hơn doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, đem lại doanh thu lớn hơn doanh nghiệp còn lại.
Cơ cấu dân cư và tập quán tiêu dùng có ảnh hưởng tới cơ cấu và khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng hoặc với thành phần dân cư chiếm đa số tại một thị trường nào đó, doanh thu của doanh nghiệp tại thị trường đó sẽ tăng và ngược lại. Cơ cấu của dân cư còn quyết định cơ cấu của loại sản phẩm tiêu thụ và do mỗi sản phẩm có giá bán khác nhau nên nó cũng ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp.
Thu nhập của khách hàng là một yếu tố quan trọng quyết định khả năng mua của khách hàng. Nếu khách hàng rất ưa thích một hay nhiều sản phẩm của doanh nghiệp nhưng vì thu nhập của họ quá thấp không đủ để mua sản phẩm của doanh nghiệp thì doanh nghiệp cũng không thể tiêu thụ được sản phẩm. Vì vậy, doanh nghiệp cần chú trọng đến thu nhập của dân cư ở mỗi thị trường để đưa ra chính sách giá và cơ cấu sản phẩm phù hợp với khách hàng ở đó.
1.4.1.4.Trình độ của cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật.
Nhân tố con người có vai trò rất quan trọng trong bất cứ một hoạt động nào. Đối với hoạt động của doanh nghiệp cũng vậy, trình độ của cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu những người quản lý của doanh nghiệpcó trình độ cao họ sẽ vạch ra được những chiến lược đúng đắn cho doanh nghiệp, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đồng thời họ cũng sẽ đưa ra các quyết định đúng đắn và kịp thời trước các cơ hội kinh doanh có thể làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, họ thường có những sáng kiến trong việc đổi mới và cải tiến máy móc công nghệ. Ngoài ra,họ sẽ khai thác hết công suất của máy móc thiết bị làm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
1.4.2. Nhân tố ảnh hưởng tới chi phí.
1.4.2.1.Thị trường các yếu tố đầu vào.
Các yếu tố đầu vào là thành phần cơ bản để tính chi phí của doanh nghiệp, do đó nó ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nếu thị trường các yếu tố đầu vào có sự tham gia của nhiều nhà cung cấp, doanh nghiệp có thể chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào, không bị phụ thuộc vào một nhà cung cấp nào. Đồng thời tại một thị trường có sự cạnh tranh thì mức giá bán mà các nhà cung cấp đưa ra sẽ là mức giá của thị trường. Nếu thị trường các yếu tố đầu vào chỉ có một số nhà cung cấp nhất định hoặc chỉ có một nhà cung cấp thì doanh nghiệp sẽ không chủ động được nguồn hàng, phải phụ thuộc vào nhà cung cấp, do đó nhà cung cấp có thể sẽ tự ý đẩy giá lên cao làm tăng chi phí của doanh nghiệp đồng thời do độc quyền về sản phẩm, nhà cung cấp có thể cung cấp hàng không đúng thời gian, làm gián đoạn quá trình sản xuất sản phẩm, từ đó phát sinh thêm nhiều chi phí khác dẫn tới lợi nhuận của doanh nghiệp giảm.
1.4.2.2 Năng lực quản lý của doanh nghiệp.
Năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh
Tổ chức sản xuất kinh doanh gồm có tổ chức quá trình cung ứng, sản xuất tiêu thụ.
Cung ứng là chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Doanh nghiệp tổ chức hoạt động cung ứng tốt tức là xác định được lượng dự trữ phù hợp của từng loại nguyên vật liệu, số lượng lao động, máy móc thiết bị để quá trình sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Lượng dự trữ phải đảm bảo quá trình sản xuất được liên tục, không bị giá đoạn không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh mà chỉ phải chịu mức lưu kho hợp lý, tránh tình trạng dự trữ quá nhiều dẫn đến ứ đọng vốn, tăng hao mòn và chi phí bảo quản.
Khâu sản xuất phải đảm bảo máy móc thiết bị cũng như lao động vận hành đạt kết quả tốt nhất, khai thác tối đa máy móc thiết bị công nghệ.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận cao hay không phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn này.
Nếu doanh nghiệp tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh sẽ giảm được các chi phí dẫn đến lợi nhuận doanh nghiệp tăng cao. Với việc tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ có chiến lược dự trữ hợp lý, quá trình sản xuất diễn ra liên tục, máy móc thiết bị làm việc với công suất tối đa, sản phẩm làm ra được tiêu thụ nhanh chóng, từ đó làm giảm chi phí cho doanh nghiệp và tạo được doanh thu nhanh chóng. Do vậy lợi nhuận của doanh nghiệp tăng nhanh chóng.
Năng lực quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Tổ chức quản lý tài chính tốt tức là doanh nghiệp giải quyết tốt ba vấn đề quan trọng đó là đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn, huy động vốn từ nguồn nào và quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào
Nếu có quyết định đúng đắn về chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp thì tương lai của doanh nghiệp sẽ phát triển tốt,kinh doanh thuận lợi và có cơ sở đúng đắn để dự toán vốn đầu tư, tránh được tình trạng thiếu hoặc thừa vốn. Trường hợp dự toán thiếu vốn doanh nghiệp sẽ bị động trong việc tìm nguồn vốn bổ sung và còn có thể trả chi phí lớn nếu doanh nghiệp huy động thừa vốn vì doanh nghiệp phải trả lãi vay.
Quyết định đúng đắn về phương thức huy động vốn đầu tư sẽ giúp cho doanh nghiệp huy động vốn với chi phí thấp và phù hợp với thời gian thực hiện dự án.
Quản lý họat động tài chính hàng ngày gắn liền với việc quản lý các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nếu quản lý tốt doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định tối ưu về việc nên lắm bao nhiêu tiền dự trữ, có nên bán chịu hay không và bán chịu với thời hạn nào, doanh nghiệp sẽ tài trợ ngắn hạn bằng cách nào? Mua chịu hay vay ngắn hạn và trả tiền ngay, nếu vay ngắn hạn thì vay ở đâu và vay với phương thức như thế nào.
Tất cả những điều trên đều góp phần mở rộng thị trường cho doanh nghiệp, mở rộng mối quan hệ với các bạn hàng, tăng doanh thu, giảm bớt các chi phí bất hợp lý phát sinh và giảm rủi ro cho doanh nghiệp, do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp
Tổ chức lao động và chiến lược sử dụng lao động.
Với việc tổ chức lao động khoa học và có chiến lược sử dụng lao động hợp lý, doanh nghiệp sẽ phát huy hết khả năng của người lao động, do đó người lao động có thể làm việc với năng suất cao, phát huy tính sáng tạo và lao động có hiệu quả nhất. Người lao động được hưởng chính sách đãi ngộ thích hợp sẽ luôn cống hiến hết minh cho doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp có thể tăng năng suất từ đó có thể tăng lợi nhuận.
Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Với bất kỳ một doanh nghiệp, tổ chức nào hoạt động trên thị trường đều chịu những tác động của chính sách kinh tế của Nhà nước. Đó là các chính sách về thuế, lãi suất, quy chế quản lý tài chính hay những ưu đãi, bảo hộ của Nhà nước cho ngành nghề kinh doanh nào đó có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chính sách về Thuế và Lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nó có thể làm tăng hoặc giảm ngay lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện thông qua việc nếu Chính phủ tăng thuế suất thuế thu nhập thì lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp sẽ giảm, hay khi Chính phủ tăng lãi suất cơ bản dẫn đến lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng tăng lên làm tăng chi phí trả lãi dẫn đến lợi nhuận giảm.
Nếu quy chế tài chính do chính phủ ban hành tạo thuận lợi với các doanh nghiệp cũng góp phần làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp và ngược lại, nếu quy chế quản lý tài chính có nhiều bất cập, không phù hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp, sẽ làm cho quá trình quản lý kém hiệu quả, phát sinh nhiều chi phí bất hợp lý dẫn đến giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đồng thời nếu ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp được Nhà nước khuyến khích phát triển, doanh nghiệp sẽ có được môi trường kinh doanh thuận lợi, nhận được những ưu đãi bảo hộ của Chính phủ như giảm lãi suất vay vốn, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, cung cấp thông tin về thi trường… điều đó giảm được rất nhiều chi phí cho doanh nghiệp.
Như vậy nếu chính sách kinh tế của Nhà nước đúng đắn phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp,làm giảm các chi phí bất hợp lý và làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển sẽ tạo ra được nhiều máy móc thiết bị hiện đại với công suất cao, tốn ít nhiên liệu, từ đó sẽ tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao với giá thành thấp. Điều này đặc biệt quan trọng trọng môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và nhu cầu của con người ngày một nâng cao như hiện nay. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì máy móc thiết bị lại nhanh chóng bị lạc hậu, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải áp dụng phương pháp khấu hao hợp lý, nhanh chóng đổi mới máy móc công nghệ để sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh trên thị trường. Nếu như trước đây hầu hết các doanhnghiệp đều tính khấu hao theo phương pháp đường thẳng thì giờ đây với tốc độ phát triển nhanh chóng của khao học kỹ thuật các doanh nghiệp đã chuyển sang tính khấu hao theo nhiều phương pháp như phương pháp khấu hao nhanh điều chỉnh, khấu hao theo số dư giảm dần…vì nếu không khấu hao nhanh thì máy móc thiết bị của doanh nghiệp sẽ bị lạc hậu nhanh chóng mà không có nguồn để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ. Do khấu hao được tính vào chi phí nên nó cũng sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.4.3. Các nhân tố khác.
Các nhân tố trên ảnh hưởng tới doanh thu và chi phí của doanh nghiệp, từ đó tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ngoài các nhân tố cơ bản trên còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp như các khoản thuế gián thu, sự biến động của giá trị đồng tiền trong nước cũng như trên thị trường thế giới, các yếu tố thuộc về kinh tế chính trị…
Như ta đã biết thuế là nhân tố khách quan có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận của doanh nghiệp, thuế ảnh hưởng tới lợi nhuận thông qua thuế suất. Ngoài thuế doanh thu, thuế suất khẩu thì thuế nhập khẩu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới giá vốn hàng bán. Thuế nhập khẩu tăng làm giá vốn hàng bán tăng trong khi giá bán không tăng sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp Thuế giá trị gia tăng không chỉ làm tăng giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mà đôi khi việc khấu trừ thuế,hoàn thuế chậm cũng ảnh hưởng không tốt tới việc quay vòng vốn phục vụ quá trình sản xuất của công ty.
Sự biến động giá trị của đồng tiền có ảnh hưởng đến lợi nhuận thực tế của doanh nghiệp vì lợi nhuận thực tế là hiệu của lợi nhuận danh nghĩa và mức thay đổi giá trị đồng tiền hay tỷ lệ lạm phát. Đặc biệt với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, sự biến động giá trị của đồng tiền dẫn đến sự biến động vể tỷ giá hối đoái càng tác động mạnh tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì với các doanh nghiệp khi xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hoá đều phải thanh toán bằng ngoại tệ. Nếu đồng ngoại tệ tăng, doanh nghiệp sẽ thu được nhiều hơn khi xuất khẩu đồng thời cũng sẽ phải trả nhiều hơn khi nhập khẩu và ngược lại.
Khi đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp chúng ta không thể không nhắc đến nhân tố thuộc về chính trị và của nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp sẽ không thể phát triển tốt nếu như có sự bất ổn về chính trị trong nước cũng như sự biến động chính trị trong khu vực hay trên thế giới. Chính trị có ảnh hưởng không chỉ đến sự phát triển của các doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Có ổn định chính trị thì mới có thể phát triển kinh tế và có sự phát triển của nền kinh tế thì các doanh nghiệp mới có cơ hội phát triển, cạnh tranh cũng như vươn mình ra khu vực và thế giới.
Tất cả các nhân tố trên đều ảnh hưởng tới doanh thu, chi phí cũng có thể nảh hưởng tới cả doanh thu và chi phí từ đó hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngoài ra một số nhân tố chủ quan khác thuộc về tự nhiên, xã hội, văn hoá… cũng tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp muốn tăng lợi nhuận doanh nghiệp thì phải dựa vào các nhân tố rên để đưa ra chiến lược phù hợp với doanh nghiệp mình.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LỢI NHUẬN TẠI CÔNG TY CHẾ TẠO THIẾT BỊ VÀ ĐÓNG TÀU HẢI PHÒNG
2.1 Đặc điểm của công ty.
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
Công ty Chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định số: 49- QĐ-TCCQ ngày 11-01-1993 của UBND Thành Phố Hải Phòng. Tiền thân của công ty là nhà máy đóng tàu Hải Phòng, nằm trên đường Hà Nội - Hải Phòng, cách Hải Phòng 6Km, với diện tích hơn 10 ha. Qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, từ một công trường làm cột điện cao thế vượt sông Cấm, sông Hồng do chuyên gia Liên Xô thiết kế và kiểm tra hướng dẫn thi công, Nhà máy đã chuyển sang làm xà lan và tàu kéo trong những năm từ 1963 đến 1965. Từ đó phát triển công nghệ đóng tàu hàng loạt phục vụ cho thời kỳ chiến tranh chống Đế quốc Mỹ, đến khi đất nước thống nhất thì tiếp tục phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thực hiện chủ trương lại các doanhnghiệp quốc doanh của Chính phủ và do yêu cầu phát triển kinh tê, UBND Thành phố Hải Phòng đã xem xét và thống nhất chuyển giao Nhà máy đóng tàu Hải Phòng từ Sở công nghiệp Hải Phòng về Tổng công ty lắp máy Việt Nam thuộc Bộ Xây dựng quản lý.
Tháng 9 năm 1996 việc chuyển giao được thực hiện và Nhà máy đóng tàu Hải Phòng đổi tên thành Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng theo quyết định số: 220- QĐ-UB ngày 17-09-1996 của UBND Thành phố Hải Phòng và quyết định số768/BXD- TCLĐ ngày 20-09-1996 của Bộ Xây dựng. Công ty có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, hoạt động trong Tổng công ty, có quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ về tài chính, chịu sự giàng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ với Tổng công ty theo quy định và điều lệ của Tổng công ty lắp máy Việt Nam.
Tên quốc tế của công ty: Hai Phong equipment manufacture & Shipbuilding company.
Trụ sở của công ty: Km6 - Quốc lộ 5- Quận Hồng Bàng- Thành phố Hải Phòng.
Số đăng ký kinh doanh:108103 ngày 16- 02-1994
Điện thoại:( 84-31) 850119.
Fax: (84-31) 850120
Email: Lisemco@hn.vnn.vn
2.1.2. Ngành nghề kinh doanh.
Đóng mới, sửa chữa các loại tàu, thuyền, xà lan.
Sản xuất các loại kết cấu thép.
Chế tạo lắp đặt: Thiết bị công nghệ,kết cấu thép, bình bể, đường ống chịu áp lực cao, hệ thống điện lạnh, điện thông tin.
Chế tạo lắp dựng: Các máy nâng chuyển, bảo dưỡng các dây chuyền công nghệ, thiết bị cơ khí , cơ giới và tàu vận tải.
Nhận thầu xây lắp các công trình: Công nghiệp, dân dụng, giao thông, đường dây, trạm biến áp.
Sản xuất , kinh doanh các loại vật tư. Vận tải đường sông, đường biển.
Xuất khẩu vật tư, máy móc thiết bị.
Khảo sát, thiết kế, tư vấn xây dựng các công trình xây dựng công nghiệp và dân dụng.
Tư vấn thiết kế và chế tạo thiết bị nâng, kết cấu thép. Bình bồn bể chịu áp lực, tư vấn thiết kế đóng mới tàu và các công trình nổi.
2.1.3.Tổ chức bộ máy quản lý công ty.
Mỗi một doanh nghiệp đều phải tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với quy mô, đặc điểm và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn một cách hiệu quả nhất. Công ty Chế tạo thiết bị và Đóng tàu Hải Phòng là một doanh nghiệp lớn, tổ chức bộ máy quản lý của công ty gồm: Ban Giám đốc, các Phòng ban chức năng, các Xí nghiệp phụ thuộc, các đơn vị sản xuất.
Ban giám đốc gồm 4 đồng chí:
Giám đốc công ty là người đứng đầu công ty chịu trách nhiệm về tình hình sử dụng vốn, tài sản của công ty, chỉ đạo và điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công. Giám đốc công ty do Hội đồng quản trị Tổng công ty bổ nhiệm.
Phó giám đốc phụ trách về kỹ thuật thi công và an toàn lao động.
Phó giám đốc phụ trách vè kỹ thuật đóng mới, sửa chữa tàu và đầu tư xây dựng.
Phó giám đốc phụ trách về công tác nội chính.
Phòng ban chức năng gồm có 6 phòng và 2 ban:
Phòng Kinh tế - Kỹ thuật: Có nhiệm vụ để ra các quy trình kỹ thuật cho các phân xưởng, lập ra các định mức vật tư cho phân xưởng, ký kết các hợp đồng kinh tế và tiêu thụ sản phẩm, theo dõi tính toán về mặt kinh tế các công trình, các hợp đồng mà công ty nhận thầu
Phòng Tài chính - Kế toán: Thự._.ng thời có chế độ kỷ luật khen thưởng kịp thời đối với những hành vi sai trái hay thực hiện tốt công việc được giao.
3.2.1.2 Đẩy cao tiến độ thi công công trình.
Một trong những đặc thù cuả công ty là thời gian hòan thành sản phẩm keo dài, vốn bị ứ đọng lâu, quy trình sản xuất bao gồm nhiều giai đoạn phức tạp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy việc rút ngắn được thời gian thi công công trình và đóng mới tàu và rất khó khăn. Tuy nhiên đây là biện pháp có ý nghĩa nhằm đẩy mạnh quá trình tái sản xuất, quay vòng vốn nhanh, rút ngắn thời gian hoàn vốn, giảm chi phí sử dụng vốn nhờ dó có khả năng tìm kiếm, lựa chọn cơ hội đầu tư tốt hơn. Rút ngắn thời gian thi công công trình và chế tạo sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm. Để biện pháp này nâng cao tính khả thi Công ty cần quán triệt các biện pháp sau:
Tổ chức nghiênn cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại vào sản xuất. Quản lý việc sử dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị
Xây dựng và kiểm tra chặt chẽ quy trình sản xuất. Trên cơ sở kiểm tra cụ thể phát hiện kịp thời những vướng mắc nhằm đưa ra biện pháp hữu hiệu tăng nhanh tiến độ thi công công trình.
Bố trí hợp lý lực lượng lao động tránh xảy ra tình trạng lãng phí nguồn nhân lực. Thực hiện chế độ bố trí đúng người đúng việc.
Đội ngũ cán bộ công nhân đặc biệt là cán bộ quản lý công trường và kỹ thuật viên phải có trình độ tay nghề đáp ứng hoàn thành tốt công việc được giao.
Có chế độ khuyến khích khen thưởng thích đáng với những cá nhân hoàn thành tốt công việc được giao đồng thời xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nhiệm vụ đề ra.
Biện pháp về cơ cấu sản xuất kinh doanh.
Cơ cấu sản xuất kinh doanh hợp lý là nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lợi nhuận chung của toàn doanh nghiệp, có vai trò vô cùng quan trọng đối với kết quả hoạt động cuối cùng của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh. Đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra, tăng doanh thu đồng thời tiết kiệm được chi phí nhờ sản xuất nhiều loại sản phẩm, hàng hóa dịch vụ.
Hiện nay Công ty đang thực hiện đa dạng hóa các hình thức kinh doanh, ngoài hoạt động chế tạo sản xuất thiết bị, công ty còn nhận đóng mới nhiều con tàu có trọng tải lớn để xuất khẩu và đảm bảo tiến độ thi công các công trình mà công ty đã và sẽ nhận thầu.
Mở rộng hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu của công ty còn yếu và chưa được mở rộng khai thác. Trong những năm tới để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu phát triển tốt hơn, công ty cần phải:
- Tăng cường sản xuất trong nước: Công ty cố gắng để sản xuất một số linh phụ kiện có chất lượng để xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là cung ứng cho nhũng nhà cung ứng truyền thống của công ty. Đây là điều có thể làm được vì trình độ tay nghề của cán bộ công nhân viên trong công ty là tương đối cao, chi phí thuê lao động lại rẻ nếu vậy thì giá thành các linh phụ kiện của công ty sẽ thấp hơn của các nước bạn.
- Tiến hành nghiên cứu thị trường nước ngoài bằng cách mở văn phòng đại diện tại nước đó. Công ty phải quan tâm hơn đến chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đây là điều mà Công ty chưa thực hiện được.Chúng ta đã biết một trong nhứng nguyên nhân khiến hàng hóa của Việt Nam kém sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế đó là chất lượng sản phẩm của chúng ta chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng sản phẩm. Vì vậy trong việc sản xuất cũng như trước khi xuất khẩu công ty cần kiểm tra kỹ chất lượng sản phẩm đã đáp ứng được yêu cầu cuả nhà nhập khẩu hay chưa. Công ty cũng phải có hệ thống kho hàng tốt, có biện pháp bảo quản tốt để đảm bảo chất lượng hàng hóa không bị hư hỏng, có thể lưu trữ trong thời gian dài khi chưa tiêu thụ kịp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tổ chức khai thác vốn từ các nguồn khác nhau.
Vốn là một vấn đề mang tính cấp bách của nhiều công ty hiện nay. Trên cơ sở công ty được cấp vốn từ ngân sách Nhà nước qua từng năm, công ty sẽ tự cấp vốn bằng hoạt động kinh doanh hàng ngày càng có hiệu quả hơn, quản lý chặt chẽ về vốn sẽ giúp công ty hoạt động có hiệu quả và không gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí không rõ nguyên nhân qua các năm. Công ty có thể biết được vốn của mình tăng hay giảm để có biện pháp thích hợp trong kỳ hoạt động tới.
Công ty có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bằng cách ưu tiên cấp vốn cho những mặt hàng kinh doanh đem lại lợi nhuận cao. Tăng vòng quay vốn lưu động cũng là một giải pháp cần được chú trọng. Với số vốn lưu động hạn chế, công ty càng đẩy mạnh vòng quay vốn lưu động càng nhiều thì càng có khả năng thu được lợi nhuận cao. Muốn vậy, phải tổ chức tốt quá trình kinh doanh từ khai thác nguồn hàng, nắm bắt nhu cầu tiêu thụ hàng hóa nhanh chóng thu hồi vốn ngay… Chuẩn bị cho những kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Bên cạnh đó để mở rộng sản xuất kinh doanh,nhu cầu kinh doanh, rõ ràng công ty cần một lượng vốn rất lớn nhất là những công trình lớn, những con tàu có trọng tải lớn đòi hỏi thời gian hoàn thành, bàn giao sản phẩm là tương đối lâu. Nếu chỉ chờ vào các khoản vốn bổ sung của Nhà nước và các khoản vay ngân hàng thì công ty sẽ phải chịu sức ép lớn về lãi suất tiền vay và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Qua nghiên cứu thực tế, một số doanh nghiệp nhà nước đã áp dụng các biện pháp khai thác vốn rất hiệu quả, công ty có thể tham khảo để áp dụng vào điều kiện thực tế của mình. Cụ thể là :
- Khai thác nguồn vốn từ liên doanh, liên kết. Với một số thương vụ lớn Công ty có thể kêu gọi các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức khác cùng góp vốn tham gia kinh doanh. Đây là biện pháp tăng vốn rất nhanh, Công ty có thể liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài nước, các đơn vị tư nhân hay các tổ chức doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài ra công ty cũng có thể liên kết với tổ chức xuất nhập khẩu thuộc cùng một lĩnh vực để tạo thành một tổ chức mang tính hiệp hội vừa bảo vệ lợi ích của mình, vừa tạo điều kiện cho Công ty tiếp cận thị trường nước ngoài.
Huy động vốn từ đội ngũ công nhân viên trong công ty, công ty nên tổ chức vay vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty với lãi suất cao hơn mức lãi suất tiền gửi và thấp hơn lãi suất tiền vay của ngân hàng. Đây là hình thức vay vốn hết sức sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả, hai bên cùng có lợi. Nhờ nguồn vốn này mà công ty có thể tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, giảm lãi suất tiền vay; đồng thời vì nguồn vốn huy động là từ chính những cán bộ công nhân viên trong công ty nên họ sẽ làm việc với năng suất cao và có trách nhiệm hơn với công việc của mình. Tuy nhiên để có thể có được nguồn vốn này thì công ty phải chứng minh được tính hiệu quả và khả thi của dự án sản xuất kinh doanh mà công ty sử dụng nguồn vốn này để thực thi.
3.2.1.6 Nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tiền.
Thực hiện mục tiêu này công ty có thể tiết kiệm được các chi phí, tăng lợi nhuận. Nhưng trước hết công ty phải thiết lập một mức tồn quỹ tiền tối ưu lấy đó làm cơ sở tách ra lượng tiền nhàn rỗi, có thể đêm đầu tư ngắn hạn để thu lợi nhuận.
Ngoài ra công ty có thể cung cấp các khoản tín dụng thương mại cho khách hàng để đẩy mạnh tiêu thụ, tăng doanh thu. Điều này là vô cùng cần thiết trong khi công ty đang mở rộng hoạt động sản xuất nguyên vật liệu. Chính sách này phải đưa ra mức giá bán đáp ứng bao hàm lợi nhuận tài chính trong việc cho phép khách hàng trả chậm và mức chiết khấu hợp lý, khuyến khích khách hàng mua hàng nhiều hơn, cũng như thanh toán tiền ngay cho công ty.
Lợi nhuận tài chính trong giá bán trả chậm của công ty phải bù đắp được các chi phí sau:
Chi phí cho việc tìm kiếm nguồn hàng tài trợ để thanh toán trong trường hợp tiền mặt của công ty rơi vào tình trạng thiếu hụt; có thể dùng lãi suất vay trên thị trường..
Chi phí cho việc duy trì bộ máy quản lý chính sách tín dụng thương mại gồm các chi phí về nhân sự, lưu trữ thông tin…
Chi phí cho việc định mức tín nhiệm các khách hàng để đánh giá rủi ro không được khách hàng thanh toán trong giao dịch này của công ty.
Chi phí trong trường hợp tỷ lệ chiết khấu của công ty đưa ra không đạt hiệu quả về tăng doanh thu hay thu tiền nhanh hơn.
Chi phí sản xuất, bán hàng, quản lý tăng thêm khi có lượng hàng hóa tiêu thụ.
Chi phí cho việc thu nợ.
Chi phí dự phòng cho những khoản nợ không thu được trong tiền hàng của khách hàng.
Chi phí cho việc điều chỉnh những sai lêch trên hóa đơn, sổ sách của các bên có thể xảy ra trong quá trình thanh toán.
Tính toán được các chi phí này dựa vào giá bán trả chậm của công ty thì việc cung cấp các khoản tín dụng thương mại của công ty mới trở thành một hình thức sử dụng tiền có hiệu quả.
3.2.2. Nhóm biện pháp giảm chi phí.
Các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường luôn phải quan tâm đến việc giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Hạ giá thành sản phẩm là điều kiện cơ bản để doanh nghiệp thực hiện tốt việc tiêu thụ sản phẩm.
Giảm chi phí luôn là mục tiêu hàng đầu của Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng. Thứ nhất trong hồ sơ tham gia đấu thầu sản phẩm lắp đặt phải thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh thì mới có khả năng thắng thầu. Thứ hai, giảm chi phí sản xuất là điều kiện cơ bản giúp công ty tăng lợi nhuận.
Hơn nữa cần chú trọng giảm chi phí quản lý doanh nghiệp vì khoản chi phí này giảm phần lớn là do lãi suất vay ngân hàng giảm( Vốn vay ngắn hạn tăng song do chính sách hạ lãi suất của ngân hàng trung ương nên lãi phải trả rất thấp).
3.2.2.1.Biện pháp giảm chi phí nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định chất lượng sản phẩm xây lắp, chế tạo vật tư, xây dựng các công trình giao thông ,dân dụng…. Tuy nhiên chi phí nguyên vật liệu luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí. Do đó giảm chi phí nguyên vật liệu sẽ tác động đến việc giảm chi phí nói chung. Điều đó không có nghĩa là càng giảm nhiều càng tốt vì công ty luôn coi trọng chất lượng sản phẩm do mình sản xuất ra. Để thực hiện khả thi giải pháp này công ty cần chú trọng.
Tìm kiếm các nguyên vật liệu rẻ, đảm bảo chất lượng phù hợp với công trình, thời gian cung cấp kịp thời. Điều này đòi hỏi tổ vật tư phải có bộ phận chuyên trách chuyên nghiên cứu thị trường, hiểu rõ thị trường nguyên vật liệu, tạo được mối quan hệ tốt với nhà cung cấp.
Bảo quản tốt nguyên vật liệu bằng cách giao trách nhiệm cụ thể đối với lực lượng lao động trong việc bảo quản nhằm tăng hiệu quả công tác này. Ngoài ra do giá cả nguyên vật liệu trong xây dựng nhìn chung có nhiều biến động không đáng kể nên dùng đến đâu mua đến đó tránh tình trạng hư hỏng, hao mòn, nhập nguyên vật liệu theo tiến độ thi công công trình. Tất nhiên trước đó phải có kế hoạch trong việc chọn lựa nhà đầu tư cũng như ký kết hợp đồng cung cấp nguyên vật liệu tránh tình trạng phải chờ đợi vật tư, nguyên liệu làm chậm tiến độ thi công công trình.
Xây dựng kiểm tra chặt chẽ hệ thống định mức nhằm phát hiện kịp thời những nguyên nhân gây tổn thất nguyên vật liệu làm tăng chi phí vật liệu để có biện pháp giải quyết kịp thời. Việc xây dựng kế hoạch nguyên vật liệu sát với thực tế là hết sức quan trọng vì nó phản ánh đến việc làm kế hoạch dự trữ, ảnh hưởng đến công tác quản lý nguyên vật liệu. Một định mức quá sai lệch nhiều với thực tế sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý, nếu định mức quá thấp so với mức cần thiết sẽ không đảm bảo chất lượng công trình. Ngược lại nếu định mức cao sẽ gây lãng phí, tổn thất về nguyên vật liệu. Tại Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng, việc xây dựng định mức được bộ phận kỹ thuật của công ty tính toán và xây dựng. Để có thể xây dựng được dúng định mức nguyên vật liệu, phong kỹ thuật cần tiến hành rà soát lại các định mức tiêu hao cũ, so sánh với 2 năm trở lại đây và kết hợp tham khảo ý kiến những cán bộ giám sát công trình và công nhân có tay nghề cao, có nhiều kinh nghiệm để từ đó xây dựng một định mức tiêu hao phù hợp với tình hình sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi phí trong Công ty.
3.2.2.2 Biện pháp làm giảm chi phí nhân công.
Chi phí nhân công trong Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng bao gồm hai bộ phận: chi phí lao động trong danh sách và đội ngũ thuê ngoài.
Với cán bộ công nhân viên trong danh sách, công ty trả lương đúng theo quy định của Nhà nước phù hợp với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và cấp bậc. So với mặt bằng chung thì lương và phụ cấp trả cho cán bộ công nhân viên trong công ty không cao do vậy việc giảm chi phí này là rất khó khăn, sẽ ảnh hưởng tới tâm lý của người lao động. Để tiết kiệm chi phí này công ty cần:
Bố trí lao động phù hợp, đúng người đúng việc.
Xây dựng chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, trình độ tay nghề cao.
Có chính sách khen thưởng kỷ luật rõ ràng nhằm động viên tinh thần lao động tăng năng suất lao động.
Đối với lực lượng lao động thuê ngoài, để giảm thiểu được chi phí này công ty cần áp dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
3.2.2.3 Biện pháp giảm chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung chiếm tỷ lệ không nhỏ trong tổng chi phí nhưng trong thực tế cho thấy trị giá vốn hàng bán tăng chủ yếu là do chi phí sản xuất chung tăng, trong khi các chi phí khác không có biến động mạnh. Đặc biệt chi phí sử dụng máy tăng nhanh không tương ứng với tốc độ giảm chi phí nhân công và chi phí nguyên vật liệu. Điều này do chính sách khấu hao nhanh tài sản cố định, nhưng điều quan trọng hơn là công suất sử dụng máy móc thiết bị ở công ty chưa cao đòi hỏi cần có biện pháp giảm chi phí sử dụng máy tăng công suất lao động.
Xây dựng hoàn thiện và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế tổ chức quản lý máy móc, thiết bị.
Duy trì thường xuyên công tác kiểm tra, bảo dưỡng và sửa chữa máy móc, thiết bị không đạt trình độ hiện đại. Thực hiện thanh lý nhượng bán các thiết bị không quá cũ không thể sử dụng được hoặc rất ít sử dụng.
Cho thuê một số máy móc thiết bị ít sử dụng nhằm tăng công suất hoạt động tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty.
3.2.2.4. Giảm chi phí nhập khẩu nguyên vật liệu.
Hàng năm Công ty phải nhập khẩu rất nhiều nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất. Chi phí cho nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí. Nguồn nguyên liệu này khi nhập khẩu về còn phải nộp thuế nhập khẩu làm tăng giá của nguyên vật liệu nhập về. Để giảm chi phí này công ty nên áp dụng một số biện pháp:
Tổ chức tìm kiếm nguồn hàng xuất nhập khẩu không qua trung gian để tiết kiệm các khoản chi phí trung gian.
Triệt để tiết kiệm các chi phí khác nhau như chi phí lưu kho, vận chuyển, bốc dỡ, hạn chế tối đa các khoản bị phạt hợp đồng, giảm chi phí lãi tiền vay…
Tổ chức lao động hợp lý, giảm các lao động gián tiếp, tăng cường lao động trực tiếp làm nhiệm vụ kinh doanh.
Tăng cường công tác quản lý tài chính để có biện pháp điều chỉnh kịp thời.
3.2.3. Một số biện pháp khác.
Xác định một chiến lược kinh doanh đúng đắn.
Việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đúng đắn là rất cần thiết nhằm mục tiêu: Nâng cao lợi nhuận, tăng thế và lực trên thị trường cũng như sự an toàn của công ty trong kinh doanh.
Chiến lược kinh doanh của công ty cần đảm bảo các yêu cầu sau
Phải đảm bảo mục tiêu tăng thế và lực của công ty và giành lợi thế cạnh tranh. Nghĩa là chiến lược phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của Công ty, tập trung các biện pháp để tận dụng thế mạnh và khắc phục điểm yếu mang tính sống còn.
Phải đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh của Công ty.
Xác định phạm vi kinh doanh, mục tiêu và điều kiện cơ bản để thực hiện mục tiêu.
Dự đoán môi trường kinh doanh trong tương lai có chiến lược dự phòng.
Chiến lược kinh doanh của công ty thực chất là một chương trình hành động tổng quát hướng tới việc thực hiện các mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp.
Trong thời gian tới,Công ty cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp hoàn cảnh cụ thể trên các mặt sau:
+ Xác định cho mình thị trường trọng điểm và các mặt hàng chủ yếu mà công ty sẽ đầu tư chế tạo.
Là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực ngành xây lắp, lắp đặt, chế tạo và khảo sát thiết kế ,tư vấn các công trình công nghiệp dân dụng…để tồn tại và phát triển công ty cần xác định cho mình những nhà cung cấp hàng có chất lượng tốt và giá cả hợp lý.
+ Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh.
Công ty có thể tham gia liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước. Đàm phán ký kết hợp đồng để trở thành bạn hàng cung ứng nguyên liệu ngoại nhập và là đơn vị tiêu thụ sản phẩm lâu dài của cả các tổ chức, doanh nghiệp trong nước.
+ Đa dạng hóa các mặt hàng kinh doanh.
Bên cạnh việc xác định cho mình một số mặt hàng trọng điểm. Công ty nên thực hiện công việc kinh doanh theo hướng đa dạng hóa các loại mặt hàng. Đa dạng hóa các mặt hàng kinh doanh có thể nói là một phương châm chung trong kinh doanh. Với viêc đa dạng hóa mặt hàng, công ty có thể xâm nhập vào thị trường, hạn chế rủi ro trong kinh doanh và lợi nhuận trong một chừng mực nào đó sẽ lớn hơn.
Tuy nhiên nếu chú trọng quá nhiều vào việc đa dạng hóa các mặt hàng và ngành nghề kinh doanh, lượng vốn của công ty sẽ trải ra trên nhiều lĩnh vực và như vậy công ty sẽ không thể tập trung vốn vào hoạt động kinh doanh lớn và là thế mạnh của công ty.
Mặt khác, công ty cũng không có những hiểu biết sâu sắc về thị trường sản phẩm mà mình kinh doanh do đó nếu gặp phải sự cạnh tranh của các đối thủ khác thì Công ty khó có thể giữ vững vị thế của mình. Vì vậy, để cho hoạt động kinh doanh của mình đạt hiệu quả cao hơn công ty nên kết hợp một cách linh hoạt giữa việc đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh và mặt hàng trọng điểm đồng thời thu hẹp hoặc loại bỏ những mặt hàng kinh doanh không có hiệu quả hay hiệu quả không cao.
Củng cố và giữ vững mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng cũ đồng thời tìm hiểu và mở rộng mối quan hệ với những bạn hàng mới trên cơ sở giữ chữ tín và có sách lược mua bán tạo điều kiện thuận lợi cho người mua và người bán.
Trong cơ chế thi trường cạnh tranh thì việc có được bạn hàng là rất khó, giữ được mối quan hệ với bạn hàng thì càng khó hơn. Muốn vậy thì trong các mối quan hệ thương lượng và giao tiếp với bạn hàng công ty phải thể hiện phong cách làm việc, ứng xử để bạn hàng có thể tin cậy. Đây là điều hết sức quan trọng trong việc nâng cao uy tín của công ty trên thương trường. Ngoài lợi ích của mình trong làm ăn kinh doanh công ty cần phả đảm bảo lợi ích của bạn hàng, không vì những lợi ích trước mắt mà bỏ đi những mối quan hệ lâu dài mà phải mất nhiều công sức và thời gian mới gây dựng được.Tuy nhiên công ty cũng cần đánh giá khả năng và triển vọng của bạn hàng trong tương lai từ đó tập trung vào các bạn hàng có trọng điểm nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.
Trong sự đa dạng của các hoạt động kinh doanh đòi hỏi Công ty phải luôn tìm hiểu và mở rộng mối quan hệ với bạn hàng và khách hàng mới.Việc mở rộng và phát triển mối quan hệ với bạn hàng mới phải dựa trên cơ sở củng cố nh ững mối quan hệ với bạn hàng và khách hàng cũ. Mối quan hệ với bạn hàng có thể dựa trên cơ sở của mặt hàng kinh doanh, thị trường kinh doanh hoặc qua việc liên kết cùng kinh doanh. Giữ được chữ tín là điều quan trọng để công ty có được mối quan hệ với bạn hàng. Ở đây chữ tín được thể hiện ở một số đỉêm chính sau: Chất lượng của sản phẩm phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu của bạn hàng, khách hàng; khâu thanh toán phải nhanh gọn, đúng hạn, tuân thủ hợp đồng ký kết; giao hàng đúng thời hạn… và đặc biệt phải có thái độ trung thực, chân thành, sẵn sàng giúp đỡ bạn hàng nếu họ gặp khó khăn.
Ngoài ra một số sách lược thu mua và bán hàng tạo điều kiện thuận lợi cho người bán và người mua cũng là một biện pháp củng cố lòng tin của Công ty với bạn hàng, khách hàng cũ, mở rộng mối quan hệ với bạn hàng mới.
Trong quá trình tìm kiếm bạn hàng mới, Công ty phải hết sức thận trọng, ít nhất cũng phải nắm bắt một cách chính xác, đầy đủ những thông tin sau về bạn hàng:
Loại hình kinh doanh của bạn hàng, thời gian đã tham gia kinh doanh, ai là người chịu trách nhiệm chính trong quan hệ kinh doanh.
Uy tín của bạn hàng trên thương trường.
Thực trạng kinh doanh cuả họ hiện nay: Vốn, cơ sở vật chất,trang thiết bị công nghệ…
3.2.3.2 Các giải pháp về phát triển con người.
Lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Nó đóng một vai trò quan trọng, nếu không có lao động thì hoạt động sản xuất sẽ bị ngưng trệ. việc phân công bố trí lao động hợp lý sẽ tạo điều kiện tăng năng suất lao động giảm các chi phí nhân công trực tiếp, tạo điều kiện tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy việc cần thường xuyên chăm lo đò tạo, sử dụng, bồi dưỡng, khuyến khích vật chất đối vói đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty. Tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức trong nhiều lĩnh vực cho cán bộ quản lý. Đặc biệt là số cán bộ có khả năng sử dụng thành thạo máy vi tính nhưng còn hạn chế. Trong thời đại ngày nay việc sử dụng máy vi tính vào quản lý là một nhu cầu cấp thiết và là xu hướng chung của toàn cầu vì những ưu việt của nó trong việc tăng tính năng quản lý và giảm được rất nhiều chi phí quản lý. Do vậy cần thiết phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý hiện đại, có khả năng thích ứng với xu thế đi lên của thời đại, tận dụng những ưu thế hiện có vào sản xuất kinh doanh.
3.2.3.3.Hoàn thiện bộ máy quản lý Công ty.
Đối với công ty, tổ chức bộ máy của Công ty đóng vai trò quyết định đối với sự thành công trong kinh doanh của công ty. Đây chính là bộ phận đề ra, chỉ đạo và theo dõi việc thực hiện kế hoạch, chiến lược kinh doanh của công ty. Do vậy, việc hoàn thiện bộ máy quản lý của công ty sẽ là cơ sở cho sự phát triển lâu dài của công ty. Nhìn chung sự phân bố các phòng ban trong công ty như hiện nay là khá hợp lý, các phòng đều có sự độc lập tương đối trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh.
Để đẩy mạnh công tác nghiên cứu,tìm kiếm thị trường, Công ty cần thành lập phòng thị trường hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo, quản lý của Ban giám đốc và chịu trách nhiệm về hoạt động thâm nhập thị trường, tìm kiếm các hợp đồng, quảng bá về thương hiệu và khám phá thị trường mới cho sản phẩm của công ty.
3.2.3.4. Mở rộng hình thức liên doanh liên kết.
Thông qua phương thức này không những tăng cường vốn cho kinh doanh mà còn tạo điều kiện thị trường hoạt động, tăng cường các mối quan hệ có lợi cho sự tồn tại phát triển và thịnh vượng của Công ty. Thêm vào đó công ty còn có cơ hội khai thác triệt để nguồn nhân lực, máy móc thiết bị, nâng cao thu nhập cho người lao động và lợi nhuận cho toàn công ty.
Sử dụng phương pháp này còn giúp công ty tìm hiểu và tiếp thu trình độ khoa học, công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại cũng như kỹ năng sản xuất của các đối tác kinh doanh.
Hiện nay hình thức liên doanh liên kết của công ty còn nhiều hạn chế. Vì vậy công ty nên mở rộng hình thức này.
3.2.4. Một số kiến nghị.
3.3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước
Kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được 20 năm, nhiều vấn đề mà nhà nước phải giải quyết để tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp. Đây là nội dung hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế.
Đối với doanh nghiệp, môi trường kinh doanh trực tiếp chính là thị trường mà hàng ngày, hàng giờ họ phải đối mặt để giải quyết các phương án sản xuất kinh doanh. Nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: Kinh tế, chính trị , pháp luật, văn hóa, khoa học công nghệ, tâm lý xã hội…Vì vậy, Nhà nước bằng các công cụ và các phương pháp của mình có thể vừa tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi vừa có thể hạn chế và khắc phục những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường như đầu cơ lừa đảo, buôn lậu, hàng giả, độc quyền, hối lộ… để mọi doanh nghiệp đều tránh xa vùng cấm, bao gồm các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh.
Như vậy, quản lý vĩ mô của nhà nước với doanh nghiệp nhằm nâng cao sức cạnh tranh phải đảm bảo điều kiện hỗ trợ và bổ sung cho cơ chế cạnh tranh lành mạnh cơ chế vận động của thị trường mà bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều phải thích ứng.
Trước sức ép của môi trường cạnh tranh, quá trình đổi mới nhằm nâng cao dần sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, đòi hỏi nhà nước cùng một lúc phải giải quyết các vấn đề về vốn, công nghệ, thị trường lao động, trình độ kinh doanh và quản lý… thích ứng với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Giải quyết các vấn đề đó, tất nhiên chỉ riêng các doanh nghiệp thì không thể đảm đương nổi mà cần có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua c chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích, chính sách xã hội ( tiền lương, bảo hiểm…), chính sách thuế và hơn hết là một môi trường pháp lý đầy đủ nghiêm túc cũng như một cơ chế quản lý của nhà nước với doanh nghiệp thích ứng với giai đoạn quá độ chuyển hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Xây dựng và tổ chức thực thi một hệ thống pháp luật nhằm tạo một khuôn khổ pháp lý, một sân chơi bình đẳng, có hiệu quả cho các doanh nghiệp.
Việc xây dựng, kiến tạo một khuôn khổ pháp luật cho các doanh nghiệp được hoạt động bình đẳng là hết sức quan trọng trong đó đặc biệt là các luật về thương mại, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật doanh nghiệp, các văn bản dưới luật về quản lý kinh doanh và quản lý tài chính…là rất quan trọng. Vì vậy, Nhà nước cần sớm xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh các luật mới cũng như các luật đã ban hành nhằm tạo ra một hành lang pháp lý thích ứng với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường và hội nhập hiện nay.Việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ được thể hiện trước đó là việc cải cách hành chính, tránh sự phiền hà, nhũng nhiễu, cửa quyền, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó Nhà nước và các Bộ Ngành cần hoàn thiện chính sách thuế nhằm khuyến khích, định hướng doanh nghiệp phát triển kinh doanh và áp dụng các công nghệ mới. Chính sách thuế phải đảm bảo điều tiết thu nhập vừa đảm bảo điều chỉnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và vừa khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Khắc phục được nạn thất thu và lạm thu thuế không công bằng giữa các doanh nghiệp trong chính sách thuế khóa bình đẳng. Có thể thực hiện miễn giảm thuế cho các tổ chức thương nghiệp quốc doanh hoạt động kinh doanh ở vùng sâu vùng xa vv…giảm thuế nhập khẩu thiết bị máy móc mà trong nước không sản xuất được.
Phát triển hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán để đa dạng hóa các kênh huy động vốn, thúc đẩy hình thành thị trường vốn, đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp ngắn hạn cũng như trung dài hạn.Nhà nước cần điều chỉnh và điều tiết chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái ổn định và hợp lý.
Mặt khác Nhà nước cần xác định chiến lược phát triển ngành công nghiệp, xây dựng trong mối quan hệ tổng hòa với phát triển kinh tế đất nước để các doanh nghiệp xác định phương hướng, chiến lược lâu dài cho mình một cách tốt nhất tránh tình trạng chạy theo lợi nhuận trước mắt.
Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp thích ứng với điều kiện cạnh tranh thị trường. Đây là một vấn đề cơ bản, đóng vai trò là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển có hiệu quả của doanh nghiệp. Để làm được điều đó đỏi hỏi Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện và ban hành mới các nghị định, quy chế quản lý tài chính mà cụ thể là quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Tạo nền tảng cho các doanh nghiệp có thể quản lý tốt hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận, nâng cao khả năng tự chủ về tài chính, độc lập trong kinh doanh.
3.3.3.2 Kiến nghị với Tổng công ty lắp máy Việt Nam.
Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng là thành viên của Tổng công ty lắp máy Việt Nam. Do vậy, Công ty chịu sự quản lý và phải tuân thủ những quy định và điều lệ của Tổng công ty.
Đề nghị với Tổng công ty lắp máy Việt Nam làm việc với Chính phủ, Bộ Xây dựng sớm bổ sung quy chế đấu thầu thống nhất và trọn gói từng công trình không nên phân nhiều gói thầu trong một công trình để cho các doanh nghiệp Nhà nước có thể phấn đấu và phát triển. Tổng công ty cũng làm việc với Bộ xây dựng và Bộ tài chính nghiên cứu bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả hàng năm và tăng trưởng.
KẾT LUẬN
Lợi nhuận có vai trò rất quan trọng với sự tồn tại và phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào và nó là lý do mà các doanh nghiệp đều muốn cố gắng tối đa hóa lợi nhuận của mình để từ đó tối đa hóa giá trị của chủ sở hữu. Chính vì điều đó mà em đã quyết định chọn đề tài này, tập trung nghiên cứu các vấn đề về lợi nhuận trong doanh nghiệp và áp dụng các kiến thức đó để phân tích thực trạng lợi nhuận của Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng.
Chuyên đề thực hiện được chia thành 3 chương, với nội dung khái quát được những vấn để cơ bản nhất về lợi nhuận trong các doanh nghiêp như sự hình thành lợi nhuận, các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận, các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận…sau đó đánh giá chung về tình hình hoạt động của Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng và đi sâu vào phân tích về thực trạng lợi nhuận tại Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng. Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng lợi nhuận, nghiên cứu tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận, nguyên nhân và hạn chế… nhằm đưa ra một số giải pháp làm tăng lợi nhuận của Công ty.
Em rất cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo của các cô chú trong Phòng Tài chính - Kế toán của Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng và Thầy giào PGS.TS. Vũ Duy Hào đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Chuyên đề đã giúp em củng cố được những kiến thức đã học đặc biệt là có thêm được kiến thức về thực tế tạo nền tảng tốt hơn khi em ra trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương, NXB Thống kê 2003.
Quản trị Tài chính doanh nghiệp – TS Vũ Duy Hào, NXB Tài chính 1998.
Quản trị tài chính doanh nghiệp – Nguyễn Hải Sản, NXB Thống kê 2001.
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia 2002.
Nghị định 27/ 1999/ NĐ- CP ngày 20/04/1999 và Nghị định 199/2004/ NĐ- CP Ngày 03/12/2004.
Các tài liệu của Công ty chế tạo thiết bị và đóng tàu Hải Phòng
Một số luận văn của các khoá trước.
Các sách báo, tạp chí khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36452.doc