LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, vận hành theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự thay đổi của nền kinh tế là sự thay đổi về cách nhìn nhận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập mở cửa tham gia các tổ chức trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ, các thành phần kinh tế đã phát huy tính năng động và tiềm lực
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng doanh thu của Công ty TNHH phát hành báo chí Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẵn có tạo nên một bức tranh phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, góp phần thúc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
Đặc biệt, từ khi gia nhập và trở thành thành viên WTO, Việt Nam đẩy mạnh công cuộc cải cách kinh tế đất nước, tạo ra những cơ hội phát triển thương mại để tạo đà tăng trưởng kinh tế. Trước yêu cầu hội nhập, với nỗ lực của bản thân và sự hỗ trợ, hợp tác nhiệt tình của các thành viên WTO, Việt Nam nhất định sẽ là một thành viên tin cậy và có trách nhiệm của WTO, sẽ góp phần xứng đáng vào các nỗ lực chung nhằm xây dựng một hệ thống thương mại công bằng, bình đẳng và cùng có lợi. Mặt khác, tư cách thành viên WTO sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình đổi mới, tạo ra cơ hội mở rộng giao thương, đồng thời việc gia nhập WTO sẽ đặt ra những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, để vận dụng tối đa cơ hội giải quyết thành công các thách thức đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững, việc tạo lập và sử dụng vốn có hiệu quả là vấn đề vô cùng quan trọng hang đầu trong cơ cấu tài chính đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như từng doanh nghiệp nói riêng.
Điều đó đòi hỏi sự đổi mới về quản lý chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, chính sách thu hút vốn và quản lý vốn đối với các doanh nghiệp cũng được mở rộng hơn nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tăng nhanh doanh thu của mình. Doanh thu là yếu tố rất quan trọng, nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, vấn đề đặt ra cần chú trọng nghiên cứu các giải pháp tăng doanh thu của các doanh nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của một số giải pháp tăng doanh thu của doanh nghiệp; trên cơ sở tình hình thực tế kinh doanh của công ty TNHH phát hành báo chí Đông Đô, em xin chọn và nghiên cứu đề tài: “Giải pháp tăng doanh thu của Công ty TNHH phát hành báo chí Đông Đô”.
CHUYÊN ĐỀ GỒM 3 CHƯƠNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về doanh thu của doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng doanh thu của công ty phát hành báo chí Đông Đô
Chương 3: Giải pháp tăng doanh thu của công ty phát hành báo chí Đông Đô
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH THU CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.Tổng quan về doanh nghiệp
1.1.1.Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Các doanh nghiệp ở Vệt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên danh, doanh nghiệp tư nhân.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh sau đây:
Kinh doanh cá thể (sole proprietorship)
Kinh doanh góp vốn (parnership)
Công ty (corporation).
Kinh doanh cá thể
+ Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của nhà nước.
+ Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân.
+ Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp.
+ Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ của người chủ.
+ Khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ.
Kinh doanh góp vốn
+ Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập doanh nghiệp thấp. Đối với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường hợp cần có giấy phép kinh doanh.
+ Các thành viên chính thức (general partners) có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả.
+ Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay rút vốn.
+ Khả năng về vốn hạn chế.
+ Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
Công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: các cổ đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn:
+ Quyền sở hữu có thể đễ dàng chuyển cho cổ đông mới.
+ Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông.
+ Trách nhiện của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào công ty (trách nhiệm hữu hạn).
Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa cho người tiêu dùng qua thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu v.v. và sức lao động để tạo ra yếu tố đầu ra là hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa đó để thu lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường để có các yếu tố đầu vào đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn tiền tệ nhất định. Với từng loại hình pháp lý tổ chức, doanh nghiệp có phương thức thích hợp tạo lập số vốn tiền tệ ban đầu, từ số vốn tiền tệ đó doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu v.v. Sau khi sản suất xong, doanh nghiệp thực hiện bán hàng hóa và thu được tiền bán hàng. Với số tiền bán hàng, doanh nghiệp sử dụng để bù đắp các khoản chi phí vật chất đã tiêu hao, trả tiền công cho người lao động, các khoản chi phí khác, nộp thuế cho nhà nước và phần còn lại là lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp tiếp tục phân phối số lợi nhuận này. Như vậy, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, làm phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao gồm dòng tiền vào, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên hàng ngày của doanh nghiệp.
1.2. Doanh thu của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm doanh thu của doanh nghiệp
Doanh thu là tổng các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ hạch toán, phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Căn cứ vào nguồn hình thành, doanh thu của doanh nghiệp bao gồm:
- Doanh thu từ hoạt động kinh doanh.
- Doanh thu từ hoạt động tài chính.
- Doanh thu từ các hoạt động bất thường khác.
Doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt,doanh thu là nguồn tài chính tiềm năng quan trọng để trang trải các khoản chi phí hoạt động kinh doanh, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp có thể thực hiện được các nghĩa vụ với Nhà Nước như nộp các khoản thuế theo luật định, là nguồn để có thể tham gia góp vốn cổ phần, tham gia liên doanh, liên kết với các đơn vị khác. Khi doanh thu không đủ đảm bảo các khoản chi phí đã bỏ ra, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về tài chính. Nếu tình trạng này kéo dài, sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh.
Doanh thu bán hàng thường chiếm tỷ lớn trong doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là toàn bộ tiền về tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho khách hàng, sản phẩm được coi là kết thúc quá trình tiêu thụ khi đơn vị mua chấp nhận trả tiền.
1.2.2. Xác định doanh thu của doanh nghiệp
* Đối với các loại hình doanh nghiệp khác nhau, nội dung xác định doanh thu khác nhau:
- Đối với các cơ sở sản xuất, khai thác, chế biến; doanh thu là toàn bộ tiền bán sản phẩm, nửa thành phẩm, bao bì, nguyên vật liệu…
- Đối với ngành xây dựng, doanh thu là giá trị công trình hoàn thành bàn giao.
- Đối với ngành vận tải, doanh thu là tiền cước phí.
- Đối với ngành thương nghiệp, ăn uống, doanh thu là tiền bán hàng.
- Đối với hoạt động đại lý, ủy thác, doanh thu là tiền hoa hồng.
- Đối với ngành kinh doanh, dịch vụ; doanh thu là tiền dịch vụ.
- Đối với hoạt động kinh doanh tiền tệ, doanh thu là số chênh lệch giữa lãi cho vay với lãi huy động.
- Đối với hoạt động bảo hiểm, doanh thu là số tiền bảo hiểm khách hàng mua.
- Đối với hoạt động cho thuê, doanh thu là toàn bộ tiền thuê.
- Đối với hoạt động biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, doanh thu là tiền bán vé.
* Cách xác định doanh thu trong doanh nghiệp:
- Doanh thu bán hàng: Doanh thu bán sản phẩm hàng hóa, căn cứ vào số lượng sản phẩm bán hàng trong kỳ và giá bán đơn vị sản phẩm và doanh thu được xác định theo công thức sau:
S = ( Qti x Pi )
Trong đó:
S : là doanh thu bán hàng
Qti : là số lượng sản phẩm bán ra thứ i bán trong kỳ
Pi : là giá bán đơn vị sản phẩm thứ i
i : là loại sản phẩm bán trong kỳ
i =
Giá bán sản phẩm được tính theo giá hóa đơn hoặc được xác định căn cứ chính sách giá cả sản phẩm của doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp áp dụng kế toán hàng tồn kho theo phương pháp nhập trước, xuất trước thì số lượng sản phẩm tiêu thụ bán ra trong kỳ được xác định theo công thức như sau:
Qti = Qđi + Qxi - Qci
Trong đó:
Qđ : là số lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ
Qx : là số lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ
Qc : là số lượng sản phẩm i cuối kỳ
i : là loại sản phẩm
Đối với doanh nghiệp, không chỉ xác định doanh thu bán hàng mà còn xác định doanh thu thuần về bán hàng.
Doanh thu thuần về bán hàng được xác định bằng cách lấy doanh thu bán hàng trừ đi các khoản giảm trừ ( chiết khấu bán hàng) như chiết khấu thương mại, giảm giá bán hàng, hàng bán bị trả lại, và các loại thuế thu được tính gộp vào trong giá bán(nếu có), như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu.
- Doanh thu hoạt động tài chính: là tổng giá trị các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp thu được trong kỳ do các hoạt động tài chính mang lại bao gồm các khoản thu từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, lãi do bán ngoại tệ, lãi được chia từ việc đầu tư vốn ra ngoài Công ty ..v …v….
- Thu nhập khác của doanh nghiệp: là các khoản thu được trong kỳ do các hoạt động không thường xuyên ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu. Thu nhập khác của doanh nghiệp bao gồm một số khoản như sau:
+ Tiền thu do nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
+ Khoản thu từ tiền bảo hiểm được các tổ chức bồi thường khi doanh nghiệp có tham gia bảo hiểm.
+ Khoản thu về tiền phạt từ khách hàng do vi phạm hợp đồng kinh tế với doanh nghiệp … v… v…
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp
1.3.1. Nhân tố chủ quan
- Khối lượng sản phẩm bán ra trong kỳ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khối lượng sản xuất.
Sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng tăng doanh thu sẽ càng cao. Khối lượng sản xuất hoàn thành lại phụ thuộc vào tình hình thực hiện nhiệm vụ sản xuất, khả năng và trình độ quản lý của doanh nghiệp, nhu cầu trên thị trường đòi hỏi, tình hình ký kết hợp đồng tiêu thụ với khách hàng. Vì vậy, việc tổ chức ký kết hợp đồng với đơn vị mua hàng, tổ chức đóng gói vận chuyển nhanh đến nơi tiêu thụ, sử dụng các hình thức thanh toán thích hợp, đều có ý nghĩa quan trọng để nâng cao doanh thu bán hàng.
- Chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu bán hàng vì chất lượng có liên quan tới giá cả sản phẩm và dịch vụ. Thông thường trong số những sản phẩm sản xuất ra, thường được phân loại thành những phẩm cấp khác nhau như loại I, loại II, loại III… do vậy giá bán của mỗi loại cũng khác nhau.
Vì vậy doanh nghiệp cần chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nâng cao chất lượng sản phẩm còn tạo điều kiện tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng, nhanh chóng thu được tiền bán hàng. Ngược lại, những sản phẩm có chất lượng kém thì đơn vị mua hàng hoặc người tiêu dùng có thể từ chối thanh toán hoặc không mua hàng điều đó sẽ dẫn tới phải hạ giá bán sản phẩm làm giảm bớt doanh thu.
Ngày nay, trong các doanh nghiệp sản xuất, việc sản xuất luôn được gắn liền với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng hai lần tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Cụ thể: Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm do đó ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu (sản phẩm có phẩm cấp cao sẽ được bán với giá cao hơn); vì vậy, chất lượng là giá trị được tạo thêm. Mặt khác, chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh sắc bén, dễ dàng đè bẹp mọi đối thủ, nhờ đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên.
Chất lượng sản phẩm không phải hoàn toàn do người sản xuất quyết định mà còn do người tiêu dùng kiểm nghiệm. Đó là hệ thống đặc tính nội tại của sản phẩm đã được xác định bằng những thông số có thể đo hoặc so sánh phù hợp với điều kiện hiện tại và thỏa mãn nhu cầu xã hội. Chất lượng sản phẩm hàng hóa không nhất thiết được thực hiện bằng trang thiết bị máy móc nên khi xem xét vấn đề này ta cần phải lưu ý tới mối quan hệ với những đặc tính khác trong cùng một hệ thống sản xuất ra sản phẩm, nó được hình thành từ khi thiết kế, quá trình chế tạo, được khẳng định qua kiểm tra kỹ thuật và đem ra sử dụng.
Tóm lại, chất lượng sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tạo uy tín của doanh nghiệp với khách hàng; nó là sợi dây vô hình kết nối doanh nghiệp với khách hàng tạo điều kiện cho việc tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng, nhanh chóng và thuận lợi.
- Giá sản phẩm:
Giá bán sản phẩm cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, nếu các nhân tố khác không có gì thay đổi. Việc thay đổi giá bán một phần do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định một phần nằm trong chính sách giá của doanh nghiệp. Để đảm bảo được doanh thu, doanh nghiệp phải có quyết định về giá cả. Giá cả phải bù đắp chi phí đã tiêu hao và tạo nên lợi nhuận thỏa đáng để thực hiện tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cũng cần bám sát thị trường để xem xét, quyết định mở rộng hay thu hẹp nguồn hàng mà doanh nghiệp đang sản xuất, kinh doanh. Cùng một loại sản phẩm, nếu bán ở trên các thị trường khác nhau, ở vào những thời điểm khác nhau thì giá cả cũng có thể khác nhau.
- Kết cấu sản phẩm.
Kết cấu sản phẩm tiêu thụ là tỷ trọng theo doanh thu của từng mặt hàng so với tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp vì mỗi mặt hàng có một công dụng kinh tế nhất định hay việc thỏa mãn của nó cho một tiêu dùng là khác nhau. Để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp luôn tìm cách thay đổi các mặt hàng sản xuất với nhiều loại sản phẩm đa dạng và phong phú hơn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của đại bộ phận khách hàng một cách tốt nhất. Nhưng không phải mặt hàng nào đưa ra cũng có nhu cầu như nhau, có mặt hàng rất được người tiêu dùng ưa chuộng, nhưng cũng có mặt hàng lại không được người tiêu dùng lựa chọn hoặc ít có nhu cầu. Chính vì vậy, kết cấu sản phẩm có ảnh hưởng lớn đến quá trình tiêu thụ, nếu kết cấu sản phẩm đưa ra thị trường một cách hợp lý sẽ đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm, ngược lại sẽ không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng dẫn đến hàng hóa bị ứ đọng, thậm chí còn phải giảm giá bán gây tình trạng xấu cho doanh nghiệp. Để tránh được tình hình này yêu cầu doanh nghiệp luôn phải nghiên cứu để đưa ra những kết cấu sản phẩm mới ưu việt hơn kết cấu sản phẩm cũ, nhằm đáp ứng được nhu cầu thị trường tốt nhất.
- Công tác tổ chức bán hàng của doanh nghiệp.
Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu của doanh nghiệp, công tác tổ chức bán hàng bao gồm các nội dung sau:
+ Hình thức bán hàng: để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, các doanh nghiệp cần tổ chức mạng lưới phần phối sản phẩm phù hợp. Do đó, một doanh nghiệp nếu áp dụng tổng hợp các hình thức bán buôn, bán lẻ, bán hàng tại kho, tại cửa hàng, bán trả góp … tất nhiên sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn so với doanh nghiệp chỉ áp dụng đơn thuần một hình thức bán hàng nhất định nào đó. Các doanh nghiệp cũng nên linh hoạt trong các hình thức bán hàng nhằm tạo mọi thuần lợi cho người mua hàng để thúc đẩy quá trình tiêu thụ nhanh hơn.
+ Công tác tổ chức thanh toán: việc áp dụng nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán bằng chuyển khoản, thanh toán ngay, trả chậm, bán chịu … sẽ làm cho khách hàng cảm thấy thỏa mái, tự do, có cơ hội lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi nhất, do đó có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với doanh nghiệp làm cho quá trình tiêu thụ diễn ra nhanh, gọn.
Ngược lại, nếu chỉ áp dụng một hoặc một số hình thức thanh toán bắt buộc nào đó có thể thích hợp với khách hàng này nhưng lại không phù hợp với khách hàng khác, từ đó sẽ hạn chế số sản phẩm tiêu thụ, ảnh hưởng đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
+ Các dịch vụ kèm theo khi tiêu thụ: doanh nghiệp muốn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, tăng sức cạnh tranh trong công tác tiêu thụ sản phẩm, họ thường có tổ chức dịch vụ kèm theo như vận chuyển, bảo hành, hướng dẫn cách sử dụng, giới thiệu kèm theo … để tạo ra tâm lý thoải mái, yên tâm cho khách hàng khi mua sản phẩm, đồng thời cũng khuyến khích khách hàng tiêu thụ sản phẩm nhiều hơn.
- Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
Quảng cáo là công cụ Marketing và là phương tiện thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp.
Mục đích của quảng cáo là phải đưa ra những thông tin đối với người tiêu dùng về một mặt hàng nào đó, giải thích được lợi ích của loại mặt hàng này và so sánh ưu thế của nó với các mặt hàng tương tự.
Đối với những sản phẩm mới, quảng cáo giúp cho khách hàng làm quen với sản phẩm, thấy được tính ưu việt của nó, từ đó khơi dậy nhu cầu mới để khách hàng tìm đến doanh nghiệp. Do vậy, quảng cáo cũng góp phần không nhỏ trong quá trình thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang diễn ra sôi động như hiện nay vừa là điều kiện thuận lợi, vừa tạo ra bao khó khăn, thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tạo cho mình lợi thế kinh doanh, để tồn tại thì vấn đề tiêu thụ sản phẩm ngày càng thể hiện vai trò mang tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để có doanh thu tiêu thụ, doanh nghiệp phải trải qua một quá trình rất dài và rất nhiều nhân tố ảnh hưởng, mức độ tác động đó nhiều hay ít tùy thuộc vào những điều kiện khác trong tương lai. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải có một cách nhìn tổng thể đối với tất cả các nhân tố này và nắm rõ được sự biến động của từng nhân tố để từ đó có những kế hoạch, quyết định đúng đắn, chính xác trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu.
1.3.2. Nhân tố khách quan
- Thị trường và phương thức tiêu thụ, thanh toán tiền hàng. Thị trường tiêu thụ có ảnh hưởng lớn đến doanh thu bán hàng. Thị trường bao hàm cả phạm vi hoạt động (thị trường nội địa, thị trường quốc tế) và khả năng thanh toán, sức mua. Nếu sản phẩm có thị trường tiêu thụ rộng lớn, khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp cao, sức mua lớn thì doanh nghiệp sẽ có điều kiện tăng doanh thu nhanh. Vì vậy, việc tích cực khai thác mở rộng thị trường tiêu thụ là một nhân tố quan trọng để tăng doanh thu của doanh nghiệp.
Việc lựa chọn phương thức tiêu thụ và thanh toán tiền hàng cũng có ảnh hưởng tới doanh thu bán hàng. Thông thường thì bán sản phẩm sẽ thu được tiền về, song trong điều kiện cạnh tranh, các doanh nghiệp bán hàng thường dành sự ưu đãi nhất định đối với người mua, như cho thanh toán theo kỳ hạn hoặc bán với phương thức trả chậm, trả góp, thực hiện chiết khấu thương mại, thưởng cho những khách hàng mua lượng hàng lớn… những vấn đề nêu trên đều ảnh hưởng tới doanh thu của doanh nghiệp.
- Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cũng như thương hiệu sản phẩm là một tài sản quý giá làm cho khách hàng, người tiêu dùng tin tưởng và sẵn sàng ký hợp đồng hay tìm chọn mua trên thị trường. Không nên vì lợi ích trước mắt mà làm giảm uy tín của doanh nghiệp và đánh mất thương hiệu sản phẩm. Chính uy tín và thương hiệu đã giúp cho doanh nghiệp vượt qua những thử thách và thắng lợi trong cạnh tranh, từ đó cũng đảm bảo cho doanh thu tăng lên.
- Các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Tùy vào từng thời điểm khác nhau mà Nhà nước có những chính sách phát triển kinh tế khác nhau, điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Các chính sách của Nhà nước vừa có tác động tích cực thúc đẩy phát triển, nhưng mặt khác nó cũng có thể gây kìm hãm quá trình tiêu thụ như: các chính sách về thuế, chính sách tiền tệ, chính sách về giá cả… Do đó, doanh nghiệp cần bám sát các chính sách phát triển kinh tế xã hội của nhà nước, để từ đó có những hướng đi đúng, những đề xuất có hiệu quả giúp cho quá trình tiêu thụ phát triển lâu dài.
- Sự phát triển của khoa học công nghệ diễn ra trên thế giới đang là một thách thức lớn, đồng thời cũng là một cơ hội tốt để ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất vào sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm.. Tuy nhiên tính hai mặt của công nghệ sẽ phản tác dụng nếu doanh nghiệp không biết sử dụng một cách hợp lý gây ra tình trạng lãng phí .
- Môi trường cạnh tranh: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường vấn đề cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế với nguyên tắc: Ai hoàn thiện hơn, thỏa mãn nhu cầu tốt hơn và hiệu quả hơn, người đó sẽ thắng, sẽ tồn tại và phát triển. Do đó, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định được vị trí để tranh đua, khẳng định mình nhằm nâng cao vai trò của mình trên thương trường. Uy tín của doanh nghiệp càng cao thì khả năng tiêu thụ sản phẩm càng lớn. Ngược lại, doanh nghiệp nào không có khả năng cạnh tranh bằng sản phẩm của mình, không tạo được lợi thế trên thị trường thì khả năng tiêu thụ sản phẩm sẽ kém đi.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG DOANH THU CỦA CÔNG TY PHÁT HÀNH BÁO CHÍ ĐÔNG ĐÔ
2.1. Giới thiệu chung về công ty Phát Hành Báo Chí Đông Đô
2.1.1.Quá trình hình thành và phát triền của công ty phát hành báo chí Đông Đô:
Tên công ty: CÔNG TY TNHH PHÁT HÀNH BÁO CHÍ ĐÔNG ĐÔ
Tên giao dịch quốc tế: DONG DO PUBLICATION COMPANY LIMITED
Tên viết tắt: PHAHABA CO. LTD
Địa chỉ trụ sở chính: số 10C, tổ 16B, phường Thanh Lương, Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Nghành nghề kinh doanh:
- Kinh doanh các loại báo, tạp chí theo quy chế tổ chức hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của bộ của bộ văn hóa thông tin;
- Buôn bán, lắp đặt, sửa chữa thiết bị máy văn phòng;
- Sản xuất, cài đặt phần mềm tin học ứng dụng;
- Buôn bán văn phòng phẩm.
Tình hình tài chính: vốn điều lệ 500.000.000 (Năm trăm triệu Việt Nam đồng)
Đơn vị tiền tệ sử dụng trong ghi chép kế toán: VNĐ
Công ty phát hành báo chí Đông Đô là một doanh nghiệp tư nhân, được chính thức thành lập vào ngày 18/05/1999 và hoạt động dưới hình thức công ty TNHH, với tổng số vốn kinh doanh là 500 triệu đồng. Tuy mới thành lập được 10 năm nhưng công ty TNHH phát hành báo chí Đông Đô đã phát triển không ngừng tạo được bước tiến dài, rõ nét trong lĩnh vực kinh doanh mặt hành đặc biệt, góp phần đưa tiếng nói của nhân dân lao động đến với bạn đọc cả nước, tuyên truyền tư tưởng của Đảng đến tầng lớp nhân dân.
Trong thời gian đầu, công ty đã gặp rất nhiều khó khăn do nguồn vốn ít, trong điều kiện khó khăn đó ban lãnh đạo của công ty đã tìm ra các phương án kinh doanh mới, chủ động ký kết hợp đồng dựa trên nguyên tắc bình đẳng tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Công ty không ngừng mở rộng các hình thức bán hàng, liên doanh liên kết thông qua ký kết các đơn đặt hàng theo đúng quy định của nhà nước nhằm làm phong phú cả về số lượng, chất lượng hàng hóa, vật tư, dịch vụ đáp ứng nhu cầu bạn đọc, thúc đẩy quá trình lưu chuyển hàng hóa.
Trải qua quá trình xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, công ty phát hành báo chí Đông Đô không ngừng lớn lên về mọi mặt, sản phẩm của , được khách hàng tín nhiệm. Thị trường của công ty ngày càng được mở rộng, nhân viên có việc làm ổn định, đời sống được cải thiện, đồng thời công ty luôn hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước.
Trong những năm qua công ty phát hành báo chí Đông Đô luôn phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ, kế hoạch đặt ra, không ngừng đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Doanh thu không ngừng tăng lên qua các năm, đóng góp vào ngân sách ngày càng nhiều, thu nhập của nhân viên ngày càng tăng, đời sống của cán bộ nhân viên ngày càng được nâng cao.
2.1.2.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
Chúng ta đã biết công tác quản lý là khâu quan trọng để duy trì hoạt động kinh doanh của công ty nhằm đảm bảo giám sát chặt chẽ của công ty, nó giữ vai trò chủ chốt trong quản lý và điều hành công ty.
Sơ đồ tổ chức bộ máy công ty phát hành báo chí Đông Đô
Giám đốc
Phó giám đốc tài chính
Phó giám đốc kinh doanh
Phòng kinh doanh
Bộ phận quản lý đơn hàng
Phòng tài chính kế toán
Phòng hành chính quản trị
Cửa hàng đại lý BCVN
Cửa hàng đại lý Thanh Hằng
Cửa hàng đại lý VEN
Cửa hàng đại lý Hoàng Đức
Cửa hàng đại lý VNQT
Cửa hàng đại lý Đồng Xuân
Cửa hàng đại lý Minh Vân
Chú thích: Quan hệ chỉ đạo
Nhìn chung mô hình tổ chức của công ty đã được sắp xếp, bố trí phù hợp với khả năng của nhân viên, có thể đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh cũng như các mặt đối nội, đối ngoại của công ty mình.
Công ty TNHH phát hành báo chí Đông Đô là một đơn vị hạch toán độc lập, bộ máy quản lý kinh doanh được tổ chức một cách gọn nhẹ, linh hoạt vào theo hệ thống trực tuyến kết hợp cơ cấu chức năng bao gồm: giám đốc, hai phó giám đốc, các phòng ban chức năng và các cửa hàng đại lý phân phối.
Ban giám đốc và các phòng ban có chức năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh ở công ty. Mỗi phòng ban đảm nhiệm một phần hành hoạt động riêng biệt.
- Đứng đầu là Giám đốc Công ty: là người phụ trách chung về mọi mặt, là người đại diện có tư cách pháp nhân cao nhất vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Giám đốc chịu trách nhiệm về mọi hoạt động và kết quả kinh doanh của công ty, các khoản giao nộp Nhà nước bảo toàn và phát triển vốn cũng như đời sống của cán bộ công nhân viên toàn công ty, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ toàn công ty, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, cải thiện điều kiện lao động cho nhân viên.
- Hai phó giám đốc là người chịu trách nhiệm quản lý và chỉ đạo 6 phòng ban, gồm có:
+ Phó giám đốc phụ trách kinh doanh: là người trực tiếp phụ trách và chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về công tác quản lý, khai thác các phương án kinh doanh.
+ Phó giám đốc phụ trách công tác hành chính: là thủ trưởng khối văn phòng công ty, là người giúp việc giám đốc công ty, chịu trách nhiệm trước giám đốc về công tác hạch toán kế toán.
- Các bộ phận nghiệp vụ chuyên môn có trách nhiệm giúp giám đốc trong công tác điều hành công ty:
+ Phòng hành chính quản trị: tổ chức quản lý và thực hiện công tác hành chính quản trị trong công ty phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho các phòng ban, đơn vị, các tổ chức đoàn thể và CBCNV thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, bảo vệ pháp chế và làm công tác tổ chức lao động, tuyển dụng, bố trí, sắp xếp nơi làm việc, quản lý trang thiết bị, mua sắm văn phòng phẩm, thực hiện công việc văn thư lưu trữ, đào tạo cán bộ, quản lý nhân sự, chế độ chính sách, đào tạo bồi dưỡng huấn luyện cán bộ công nhân viên. Ngoài ra còn tổ chức đời sống, khám chữ bệnh cho công nhân viên.
+ Phòng tài chính – kế toán: đảm nhiệm chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính của công ty cho phù hợp với quy định của nhà nước, tổ chức công tác kế toán, thống kê phù hợp với đặc điểm của đơn vị, hướng dẫn, kiểm tra, và lập báo cáo tài chính định kỳ về hoạt động của công ty, đôn đốc việc thanh toán, quyết toán, thu hồi vốn, tính lương cho nhân viên.
+ Phòng kinh doanh: lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, tổ chức phối hợp với các phòng ban khác để hoàn thành nhiệm vụ, kế hoạch đặt ra:
(+) Ký kết, thực hiện các hợp đồng kinh tế đầu vào, đầu ra theo kế hoạch.
(+) Tổng hợp, thống kê báo cáo tình hình kinh doanh của từng cửa hàng.
+ Bộ phận quản lý đơn hàng: tiếp nhận và tổng hợp nhu cầu đặt hàng của các đơn hàng do các cửa hàng đại lý chuyển lên, từ đó lên danh sách và lập kế hoạch đặt hàng với các tòa soạn, đồng thời kiểm tra số lượng hàng xuất nhập ở từng cửa hàng đại lý.
Ngoài ra, công ty còn có mạng lưới bán hàng bao gồm 7 cửa hàng đại lý. Mỗi cửa hàng đại lý có trách nhiệm quản lý các đơn đặt hàng và báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh theo kế hoạch từng kỳ của công ty đồng thời có trách nhiệm trông nom bảo quản hàng hóa, ghi chép tình hình bán hàng và báo cáo tình hình hoạt động mua bán hàng hóa về quầy của mình, thường xuyên báo cáo tình hình công nợ của các đơn đặt hàng cho các phòng ban chức năng để đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch. Các cửa hàng đại lý chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc công ty và các phòng ban chức năng, có trách nhiệm tiếp nhận và hoàn thành kế hoạch do công ty giao.
2.1.3.Sản phẩm của công ty:
Sản phẩm của công ty chủ yếu là các loại ấn phẩm, báo tạp chí trong và ngoài nước như: Báo lao động, Thời báo kinh tế, Báo Nhân dân, Thanh niên, Tuổi trẻ, VN News, Saigon Times Daily, VN Discovery, Vietnamese Studies …
2.1.4.Quy trình phân phối các sản phẩm:
Hiện nay, công ty phát hành báo chí Đông Đô chủ yếu cung cấp báo chí cho các khách trên địa bàn thành phố Hà Nội. Khách hàng có thể gọi điện hoặc trực tiếp đến công ty để đặt ấn phẩm báo, tạp chí. Sau đó, công ty phát hành báo chí Đông Đô sẽ căn ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26463.doc