BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
PHẠM ĐỨC HUÂN
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI CHO CÁC DỰ ÁN LÂM NGHIỆP
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60.31.10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Văn Viện
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Ngân hàng Thế giới cho các dự án Lâm nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Phạm Đức Huân
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng dẫn PGS.TS. Đỗ Văn Viện đã định hướng, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn đối với tất cả các thầy, cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, Viện Đào tạo Sau đại học, Bộ môn Phân tích định lượng cùng tất cả các thầy cô giáo Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Văn phòng đại diện thường trú của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Vụ Kinh tế đối ngoại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý các dự án Lâm nghiệp, Ban quản lý các dự án Nông nghiệp, Ban quản lý trung ương dự án Thuỷ lợi, Cục Lâm nghiệp, Vụ Hợp tác Quốc tế thuộc BNN-PTNT đã cung cấp số liệu khách quan, tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Cuối cùng với lòng biết ơn sâu sắc nhất xin dành cho gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ rất nhiều về vật chất và tinh thần để bản thân hoàn thành chương trình học tập cũng như đề tài nghiên cứu.
Tác giả
Phạm Đức Huân
MỤc lỤc
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
2.1: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993- 2008 29
2.2: Kết quả huy động ODA do BNN-PTNT quản lý giai đoạn 1993- 2008 30
2.3: Một số nhà tài trợ chính đã hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 32
3.1: Mối quan hệ giữa các loại hình và các tiêu chí đánh giá 44
3.2: Các nhiệm vụ đánh giá chủ yếu trong chu trình đầu tư. 46
4.1 Kết quả giải ngân của Dự án Bảo vệ rừng và PTNT theo hợp phần tính đến khi dự án hoàn thành 63
4.2 Một số kết quả của Hợp phần Trồng và bảo vệ rừng tính đến khi dự án hoàn thành 67
4.3 Một số kết quả của Hợp phần Phát triển và chuyển giao công nghệ tính đến khi dự án hoàn thành 68
4.4 Một số kết quả của Hợp phần Hỗ trợ xã hội tính đến khi dự án hoàn thành 71
4.5 Một số kết quả của Hợp phần Thể chế và chính sách tính đến khi dự án hoàn thành 72
4.6 Một số kết quả của Hợp phần Tái định cư tính đến khi dự án hoàn thành 73
4.7 Một số kết quả của hợp phần Giám sát và đánh giá tính đến khi dự án hoàn thành 76
4.8 Kết quả giả ngân dự án tính đến khi dự án hoàn thành 78
4.9 Kết quả trồng rừng đến hết tháng 9/2009 83
4.10 Kết quả giao đất và cấp chứng nhận quyền sử dụng đất đến hết tháng 9/2009 84
4.11 Kết quả bảo tồn các khu rừng đặc dụng đến hết tháng 9/2009 84
4.12 Kết quả giải ngân đến hết tháng 9/2009 85
4.13 Kết quả giải ngân 9 tháng năm 2009 85
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Cơ cấu huy động vốn ODA cho phát triển Nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 1993- 2008 theo lĩnh vực 31
Hình 2.2: Cơ cấu huy động vốn ODA cho ngành Nông nghiệp và PTNT giai đoạn 1993- 2008 theo các nhà tài trợ. 33
Hình 2.3: Phân bổ vốn ODA cho nông nghiệp và PTNT giai đoạn 1993- 2008 theo vùng 34
Hình 3.1: Chu trình đầu tư 43
Hình: 4.1 Cơ cấu nguồn vốn ODA của WB cho nông nghiệp và PTNT giai đoạn 1993- 2008 theo lĩnh vực 53
Hình: 4.2 Cơ cấu nguồn vốn ODA của WB cho nông nghiệp và PTNT giai đoạn 1993- 2008 theo nhà tài trợ 54
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB
Ngân hàng Phát triển châu Á
AusAID
Cơ quan Phát triển quốc tế Úc
BNN-PTNT
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
CIDA
Cơ quan Phát triển quốc tế Canada
CIRAD
Trung tâm Hợp tác quốc tế về nghiên cứu NN và phát triển Pháp
CPRGS
Chiến lược giảm nghèo và tăng trưởng toàn diện
CPMU
Ban quản lý dự án Trung ương
CSP
Chiến lược và chương trình quốc gia
DANIDA
Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch
DARD
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
EU
Uỷ ban châu Âu
FAO
Tổ chức Nông lương Quốc tế
IFAD
Quỹ Quốc tế cho Phát triển nông nghiêp
ILO
Tổ chức Lao động quốc tế
ISO
Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế
ISG
Chương trình hỗ trợ quốc tế
JBIC
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
JICA
Cơ quan Phát triển quốc tế Nhật Bản
KfW
Ngân hàng tái thiết Đức
LoC
Nguồn tiền tín dụng
MBFP
Ban quản lý các dự án Lâm nghiệp
MOF
Bộ Tài chính
MPI
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
MST
Bộ Khoa học và Công nghệ
NDF
Quỹ phát triển Bắc Âu
NIB
Ngân hàng đầu tư Bắc Âu
NZAID
Cơ quan Phát triển quốc tế New Zealand
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
OPEC
Quỹ phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ
OECD-DAC
Uỷ ban hỗ trợ phát triển thuộc Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
PPC
Uỷ ban nhân dân tỉnh
PPMU
Ban quản lý dự án tỉnh
PTNT
Phát triển nông thôn
PPTA
Trợ giúp kỹ thuât chuẩn bị dự án
SBV
Ngân hàng Nhà nước
SEDP
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
SIDA
Cơ quan Phát triển quốc tế Thuỵ Điển
TA
Trợ giúp kỹ thuật
UNCDF
Quỹ đầu tư phát triển của Liên hiệp quốc
UNDP
Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc
UNESCO
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hiệp quốc
UNFPA
Quỹ dân số của Liên hiệp quốc
UNHCR
Cao uỷ liên hiệp quốc về người tỵ nạn
UNICEF
Quỹ nhi đồng của Liên Hiệp quốc
UNIDO
Chương trình phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc
USD
Đô la Mỹ
VBARD
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
VNĐ
Đồng Việt Nam
WB
Ngân hàng Thế giới
WHO
Tổ chức Y tế Thế giới
WFP
Tổ chức lương thực Liên hợp quốc
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới
1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa quan trọng. Phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ góp phần nâng cao đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, đổi mới nông thôn, đảm bảo công bằng xã hội, tăng trưởng bền vững, góp phần ổn định an ninh chính trị xã hội của đất nước. Thấy rõ vai trò quan trọng này, trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã tập trung, ưu tiên đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn cần số vốn đầu tư rất lớn. Do đó, cần huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance- ODA) bao gồm ODA không hoàn lại, ODA vay ưu đãi và ODA vay hỗn hợp, là một trong những nguồn lực từ bên ngoài có những ưu việt nổi trội, rất phù hợp để hỗ trợ các nước đang phát triển, đặc biệt là nước nông nghiệp nghèo như Việt Nam. ODA được đánh giá là một trong những nguồn vốn quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung và phát triển ngành Nông nghiệp và PTNT nói riêng.
Trong giai đoạn từ năm 1993- 2008, nguồn vốn ODA đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và PTNT nhiều nhất từ Ngân hàng phát triển Châu Á-ADB (chiếm 25,81%), kế đó là Ngân hàng Thế giới-WB (chiếm 25,29%). Trong giai đoạn này, giá trị ký kết của WB dành cho nông nghiệp và PTNT Việt Nam là 1.024.199.529 USD. Nguồn vốn ODA của WB đã góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, mở rộng diện tích che phủ của rừng, tái lập hệ sinh thái của rừng, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, v.v. Tuy nhiên, trong thời gian qua tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn này cho các dự án Lâm nghiệp vẫn còn một số hạn chế như: Chưa xây dựng được một chiến lược vận động và thu hút nguồn vốn ODA của WB cho lĩnh vực Lâm nghiệp, công tác chuẩn bị dự án chưa tốt, tiến độ thực hiện các dự án còn chậm, các dự án phải kéo dài thời gian thực hiện so với thiết kế ban đầu, …
Để góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc thu hút nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Ngân hàng Thế giới cho các dự án Lâm nghiệp”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của WB cho các dự án Lâm nghiệp, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá những cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp. Đồng thời phát hiện những nguyên nhân ảnh hưởng làm hạn chế thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB đối với các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT trong thời gian tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu đặt ra, nghiên cứu này nhằm trả lời những câu hỏi sau đây:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết trong tiếp cận và giải quyết đề tài?
- Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB trong các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT trong thời gian qua như thế nào?
- Những tồn tại, hạn chế nào trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB đối với các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT cần phải giải quyết và khắc phục?
- Những giải pháp nào cần đề xuất để tăng cường thu hút nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp trong thời gian tới?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT do WB tài trợ. Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
* Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT.
* Về không gian
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp ở BNN-PTNT.
* Về thời gian
Số liệu phục vụ nghiên cứu được thu thập từ năm 1993 đến nay.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số vấn đề cơ bản về ODA
2.1.1.1 Khái niệm ODA
Thuật ngữ hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) xuất hiện từ sau chiến tranh Thế giới II và gắn liền với yếu tố chính trị. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước bị tàn phá nặng nề về kinh tế, nhất là các nước châu Âu. Trong lúc đó, Mỹ không những không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh mà còn giàu lên nhờ bán vũ khí. Với sức mạnh vượt trội về mọi mặt, đặc biệt là về kinh tế, Mỹ đã đưa ra kế hoạch Marshall hỗ trợ cho các nước Tây Âu sau chiến tranh. Kế hoạch này vừa là để trợ giúp các nước Tây Âu khôi phục kinh tế nhưng cũng nhằm chi phối, kiểm soát các nước này. Vì vậy, bản chất của hỗ trợ phát triển chính thức là nguồn tài trợ của nước này dành cho nước khác nhằm hỗ trợ và thúc đẩy cho quốc gia đó phát triển về kinh tế xã hội. Còn nguồn gốc sâu xa của sự ra đời ODA chính là do yếu tố chính trị.
Đến nay, thuật ngữ ODA được sử dụng khá phổ biến. ODA được hiểu là nguồn tài chính do các chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho các nước chậm và đang phát triển, nhằm thúc đẩy kinh tế và phúc lợi ở các nước này.
Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ Việt Nam chỉ rõ: Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ là chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ [12].
Như vậy, có thể hiểu khái niệm về ODA như sau: hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn hỗ trợ (tiền tệ, vật chất, công nghệ) của các nước phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (gọi chung là các đối tác viện trợ nước ngoài) dành cho các nước đang và chậm phát triển (gọi là bên nhận viện trợ) nhằm giúp cho các nước ngày tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
2.1.1.2 Các hình thức cung cấp ODA
- ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ.
- ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
- ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại, nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc [12].
2.1.1.3 Các phương thức cơ bản cung cấp ODA
- Hỗ trợ dự án.
- Hỗ trợ ngành.
- Hỗ trợ chương trình.
- Hỗ trợ ngân sách [12].
2.1.1.4 Cơ chế tài chính trong nước đối với việc sử dụng ODA
- Cấp phát từ ngân sách nhà nước;
- Cho vay lại từ ngân sách nhà nước;
- Cấp phát một phần, cho vay lại một phần từ ngân sách nhà nước [12].
2.1.1.5 Đặc điểm của ODA
- ODA là nguồn vốn hợp tác phát triển: ODA là hình thức hợp tác phát triển, của các nước phát triển, các tổ chức quốc tế với các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển. Như vậy, ODA sẽ bao gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản vay với điều kiện ưu đãi của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế.
- ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi: với mục tiêu hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển hoặc chậm phát triển, ODA mang tính ưu đãi hơn bất kỳ hình thức tài trợ nào khác. Tính chất ưu đãi của nguồn vốn này được thể hiện qua những ưu điểm sau:
Thứ nhất, lãi suất thấp: các khoản vay ODA thường có mức lãi suất rất thấp, ví dụ như lãi suất các khoản vay ODA của Nhật Bản dao động từ 0,75 – 2,3%/ năm; mức lãi suất của WB là 0%/năm nhưng phải trả phí dịch vụ là 0,75%/năm; mức lãi suất của ADB thường từ 1-1,5%/năm [4].
Thứ hai, thời hạn vay dài: các khoản vay của Nhật Bản thường có thời hạn dài là 30 năm; Ngân hàng Thế giới là 40 năm; ADB là 32 năm.
Thông thường ODA bao gồm một phần là viện trợ không hoàn lại hay còn gọi là “thành tố hỗ trợ” đạt ít nhất 25% của khoản vay. “Thành tố hỗ trợ” được tính toán trên công thức dựa vào các yếu tố như lãi suất viện trợ, thời gian vay và thời gian ân hạn.
Thứ ba, thời gian ân hạn dài: đối với các khoản vay ODA thời gian từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên tương đối dài như đối với Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới là 10 năm, ADB là 8 năm.
- Nguồn vốn ODA thường đi kèm theo các điều kiện ràng buộc: nhìn chung, các chủ thể cung cấp ODA đều có chính sách riêng và những quy định ràng buộc khác nhau đối với các nước tiếp nhận. Họ muốn vừa đạt được ảnh hưởng về chính trị, vừa đem lại lợi nhuận cho hàng hoá và dịch vụ nước họ. Do vậy, ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp. Đi kèm theo với ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về chính trị, kinh tế hoặc khu vực địa lý.
- Nguồn vốn ODA có tính nhạy cảm: vì ODA là một phần GDP của nước tài trợ nên ODA rất nhạy cảm với dư luận xã hội ở nước tài trợ. Những nước tài trợ lớn trên Thế giới có luật về ODA, Quốc hội kiểm soát chặt chẽ Chính phủ trong việc cung cấp tài trợ ODA mang tính nhân đạo.
- Về điều kiện của giải ngân ODA: một đặc điểm nổi bật của nguồn vốn ODA đó là vấn đề giải ngân ODA. Nó được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng hỗ trợ phát triển chính thức, do vậy thường xuyên được Chính phủ các nước nhận tài trợ và các nhà tài trợ quan tâm. Đối với loại dự án Quốc gia điều hành (chủ yếu là ODA vay ưu đãi) thì điều kiện giải ngân thường là điều kiện khung và có nhiều hình thức giải ngân để bên tiếp nhận lựa chọn sao cho việc giải ngân thuận tiện và nhanh nhất. Loại ODA do nhà tài trợ trực tiếp quản lý thì điều kiện giải ngân do bên tài trợ qui định một cách chi tiết và hình thức giải ngân chủ yếu là thanh toán trực tiếp từ người (tổ chức) đại diện bên tài trợ cho đối tác liên quan đến dự án được tài trợ, cơ quan đại diện bên nhận tài trợ (cơ quan dự án) không được mở tài khoản để tiếp nhận tiền tài trợ, không trực tiếp thanh toán các khoản chi tiêu liên quan đến dự án.
2.1.1.6 Nguyên tắc cơ bản trong quản lý và sử dụng ODA
- ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên về phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA trên cơ sở tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp, gắn quyền hạn với trách nhiệm, đảm bảo sự phối hợp quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và phát huy tính chủ động của các cấp, các cơ quan quản lý ngành, địa phương và các đơn vị thực hiện.
- Thu hút ODA đi đôi với việc nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo đảm khả năng trả nợ nước ngoài, phù hợp với năng lực tiếp nhận và sử dụng ODA của các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị thực hiện.
- Bảo đảm tính đồng bộ và nhất quán của các quy định về quản lý và sử dụng ODA; bảo đảm sự tham gia rộng rãi của các bên có liên quan; hài hoà quy trình thủ tục giữa Chính phủ và nhà tài trợ.
- Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế về ODA mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp điều ước quốc tế về ODA mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với các quy định của pháp luật Việt Nam thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó [12].
2.1.1.7 Nhận thức chung về nguồn vốn ODA
ODA là hoạt động kinh tế, tài chính khá phổ biến hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ thực tế các nước trên thế giới và Việt Nam, có thể rút ra nhận thức về ODA như sau:
- Yếu tố kinh tế, chính trị của ODA
+ Nhận thức đúng đắn về ODA với hai yếu tố chính trị và kinh tế đan xen từ đó có quan niệm đúng đắn về nguồn lực này để tranh thủ được sự hỗ trợ quốc tế, thực hiện có hiệu quả chủ trương độc lập, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
+ ODA gắn với mục tiêu chính trị và lợi ích kinh tế của nhà tài trợ. Đây là bản chất của nguồn này, do vậy thành hay bại của ODA tuỳ thuộc chủ yếu vào vai trò làm chủ của nước tiếp nhận. Do vậy cần nghiên cứu kỹ các chiến lược, chương trình của các nhà tài trợ trong từng thời kỳ để có phương án lựa chọn vận động thích hợp nhằm bảo đảm lợi ích kinh tế, chính trị cao nhất cho đất nước.
- ODA là nguồn lực bổ sung và cần thiết cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
+ ODA là một nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp vốn cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, song không thể thay thế được nguồn lực trong nước ở cấp độ quốc gia cũng như trong phạm vi một lĩnh vực cụ thể. Do vậy, cần phải coi ODA là một nguồn lực bổ sung và cần thiết trong quá trình phát triển.
+ Nhận thức đúng đắn về vấn đề này giúp chúng ta có căn cứ để cân nhắc sử dụng ODA một cách hợp lý và có hiệu quả.
- ODA vay, kể cả ODA không hoàn lại không phải là ”thứ cho không”:
+ ODA là nguồn vốn quốc tế tài trợ cho Chính phủ. Nguồn vốn này phải được nhập vào ngân sách Nhà nước, Chính phủ được sử dụng ODA cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
+ Chịu ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ, nhiều người còn có tâm lý bao cấp, coi ODA là thứ cho không, Chính phủ vay, Chính phủ trả nợ do vậy, thiếu trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Thực chất ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm và không phải là cho không. Cả ODA không hoàn lại và ODA vốn vay đều đòi hỏi trách nhiệm rất cao của Chính phủ nước tiếp nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài trợ.
- Sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia rộng rãi của người dân trong quá trình thu hút và sử dụng ODA: ODA được Chính phủ sử dụng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Người được hưởng lợi từ các dự án đầu tư này là người dân, dưới sự giám sát của chính quyền các cấp. Một khi chính quyền cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia rộng rãi của người dân thì bất kỳ chương trình dự án ODA nào, dù lớn hay nhỏ đều được thực hiện đúng tiến độ, có chất lượng với hiệu quả cao và bền vững.
- Năng lực quản lý và sử dụng ODA của nước tiếp nhận quyết định hiệu quả của nguồn lực này đối với sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội: đối với quốc gia tiếp nhận ODA, quá trình vận động của vốn ODA là vốn ODA từ các nhà tài trợ quốc tế chuyển đến Chính phủ, Chính phue sử dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, sau đó Chính phủ hoàn trả vốn và lãi cho các nhà tài trợ. Vì vậy, năng lực quản lý và sử dụng ODA của Chính phủ nước tiếp nhận quyết định hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này.
2.1.2 Ưu điểm và hạn chế của nguồn vốn ODA đối với nước nhận tài trợ
2.1.2.1 Ưu điểm
- ODA là nguồn vốn bổ sung cho đầu tư phát triển, các khoản vay ODA có thời gian trả nợ dài, có mức lãi suất ưu đãi. Thành tố viện trợ không hoàn lại trong các khoản vay ODA tối thiểu là 25% theo quy định OEDC, trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế thì hiện nay và trong tương lai gần thì việc tranh thủ các nguồn vốn ODA đặc biệt là ODA vay để đầu tư cho các công trình hạ tầng là rất cần thiết, và khi nguồn vốn vay nợ viện trợ gắn với đầu tư buộc nước nhận viện trợ phải cắt giảm tiêu dùng và tăng tỷ trọng tiết kiệm, như vậy nguồn vốn ODA sẽ khuyến khích đầu tư.
- ODA bổ sung nguồn ngoại tệ cho đất nước và bù đắp cán cân thanh toán: hiện nay ở một số nước ASEAN có tỷ lệ tiết kiệm nội địa khá cao khoảng 30 - 40% GDP nhưng vẫn xảy ra hiện tượng thâm hụt cán cân vãng lai. ODA vào các nước này là nguồn bù đắp quan trọng cho cán cân vãng lai. Trong điều kiện ở một nước không có khả năng tự do chuyển đổi thì một dự án đầu tư bằng 100% vốn trong nước mà có nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị cho dự án, khi đó nguồn ngoại tệ không được đáp ứng thì chắc chắn dự án sẽ không khả thi, như vậy số tiền tiết kiệm nội địa không thể chuyển thành đầu tư. Hiện nay ở Việt Nam, vừa thiếu hụt cán cân tiết kiệm và đầu tư, vừa thiếu hụt cán cân vãng lai nên huy động được vốn ODA và Việt Nam lúc này cùng một lúc phát huy được hai tác dụng.
- ODA giúp phát triển nguồn nhân lực (nâng cao chất lượng quản lý), giảm tình trạng đói nghèo và cải thiện các chỉ tiêu xã hội. Khi đã thu hút được nhiều vốn đầu tư để phát triển kinh tế thì nền kinh tế sẽ tăng trưởng cao hơn. Viện trợ có tác động gián tiếp đến tăng trưởng, nếu nước nhận viện trợ có một cơ chế quản lý tốt thì viện trợ sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Khi đã tăng trưởng thì các chỉ tiêu xã hội được cải thiện, trong đó có chỉ tiêu phát triển tổng hợp về con người. Đây chính là lợi ích lâu dài, căn bản của quốc gia nhận viện trợ. Mặt khác, khi tiếp nhận nguồn vốn ODA thông qua các dự án, chương trình, nhiều cán bộ đã được tiếp cận và hiểu được quy trình công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các lĩnh vực: giao thông, điện, công nghệ gen v.v. Các cán bộ quản lý dự án, công chức của Chính phủ làm quen dần và hiểu rõ những quy trình, quy định, thông lệ quốc tế về công tác đấu thầu, giải ngân, quản trị dự án.
- ODA giúp cải thiện thể chế và chính sách kinh tế: cải thiện thể chế và chính sách ở các nước đang phát triển là chìa khoá để tạo bước nhảy vọt về lượng trong thúc đẩy tăng trưởng làm giảm đói nghèo. Việc làm này cũng không chỉ hướng tới sự phù hợp với xu hướng của thế giới nhằm thu hút đầu tư nước ngoài, mà còn có tác động tích cực đối với nền kinh tế, xã hội của đất nước. Khi nhận vốn ODA, thực chất đây là một khoản vay nợ thì sẽ thay đổi được thói quen được hưởng bao cấp các dịch vụ công cộng không phải trả tiền hoặc trả rất ít của dân cư sang hình thức thu phí mà không gặp phản đối từ phía người dân. Điều này tác động đến cả nếp nghĩ của người dân trực tiếp thụ hưởng viện trợ. Nếu biết kết hợp giữa thế chế và chính sách tốt với đồng tiền chắc chắn sẽ làm được nhiều việc hơn so với chỉ mình đồng tiền.
2.1.2.2 Hạn chế
- Vốn ODA trong một số trường hợp đi liền với yếu tố chính trị hơn là yếu tố hiệu quả kinh tế. Hầu hết các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và các khu vực tiếp nhận ODA. Mỹ dùng ODA làm công cụ để thực hiện ý đồ gây "ảnh hưởng chính trị trong thời gian ngắn", một mặt dùng viện trợ kinh tế để bày tỏ sự thân thiện, tiến đến gần gũi thân thiết về chính trị, mặt khác tiếp cận với quan chức cao cấp của các nước đang phát triển để mở đường cho hoạt động ngoại giao trong tương lai. Mỹ "lái" các nước nhận viện trợ chấp nhận một lập trường nào đó của Mỹ trong ngoại giao và tác động, can thiệp vào sự phát triển chính trị của các nước đang phát triển. Nhật Bản cũng sử dụng ODA như một công cụ ngoại giao lợi hại. Nhờ tăng cường viện trợ cho các nước đang phát triển, Nhật Bản đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước này để trở thành thành viên của hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. Nhật muốn quốc tế hoá đồng tiền của mình bằng cách hình thành số nợ tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có công ty Nhật tham gia [4].
- ODA vay làm tăng gánh nặng nợ quốc gia. Mới chỉ sau 15 năm tái lập việc tiếp nhận ODA (1993 – 2008), số nợ vay đã khá lớn. Hiện tại hầu hết các khoản nợ ODA đều chưa đến hạn trả gốc nhưng theo dự báo trong vòng hơn 10 năm tới chúng ta sẽ phải lần lượt trả các khoản nợ này, ước tính mỗi năm phải trả từ 10% - 14% kim ngạch xuất khẩu cho tất cả các khoản vay [4]. Khi đó trong một chừng mực nhất định, ta phải trả giá và tốc độ tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể bị chậm lại. Đây thực sự là gánh nợ lớn cho các thế hệ tương lai cùng với mục tiêu phát triển bền vững.
- ODA là khoản cung cấp có vay có trả, gắn với những ràng buộc của nước, tổ chức cung cấp viện trợ. Mỗi nước cung cấp ODA đều có chính sách riêng của mình và những quy định ràng buộc khác nhau đối với nước nhận, nhiều khi những ràng buộc này rất chặt chẽ. Ví dụ: Nhật Bản quy định vốn ODA của họ (hoàn lại và không hoàn lại) đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật. Trong tình trạng đồng Yên Nhật lên giá mạnh thì việc sử dụng ODA của Nhật cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng mới có thể đạt được hiệu quả. Hầu hết các nhà tài trợ đều gắn việc cung cấp ODA với việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ của họ. Bỉ, Đức, Đan Mạch thì yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của họ; Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung có trung bình khoảng 22% viện trợ ODA phải được sử dụng để mua hàng hoá của các quốc gia viện trợ. Các ràng buộc kinh tế của ODA do Mỹ cung cấp còn nhằm mục đích mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư, đem lại lợi nhuận cho chính quốc. Mỹ còn quy định nước nhận viện trợ phải dùng khoản tiền viện trợ đó mua hàng của Mỹ, hoặc trực tiếp lấy hàng dư thừa của Mỹ thay thế cho khoản viện trợ, hoặc đòi hỏi nước nhận viện trợ cung cấp vật tư chiến lược trọng yếu; dành cho Mỹ những điều kiện đầu tư thuận lợi [4].
- Thủ tục để sử dụng ODA thường phức tạp và mất nhiều thời gian để dự án được chấp nhận. Vì vậy, nước tiếp nhận ODA thường phải thay đổi nhiều lần về chuẩn bị dự án mới được nhà tài trợ chấp nhận thẩm định. Ngoài ra, các chi phí như chi phí quản lý dự án, thuê tư vấn quốc tế, giải phóng mặt bằng của dự án ODA cũng có yêu cầu cao hơn những dự án cùng loại sử dụng vốn trong nước do nhà tài trợ can thiệp trực tiếp vào các quy trình này.
2.1.3 Thu hút, vận động ODA
2.1.3.1 Nội dung thu hút, vận động ODA
Thu hút ODA là quá trình vận động các nhà tài trợ để có thể có được nguồn vốn tài trợ đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quá trình vận động này được tiến hành ở nhiều cấp khác nhau, thông qua các diễn đàn như Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG) cho Việt Nam, các hội nghị điều phối viện trợ ngành, các hoạt động đối ngoại của các Bộ, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và hoạt động của các cơ quan ngoại giao của Chính phủ Việt Nam tại nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ về việc chuẩn bị Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG) và các diễn đàn quốc tế về ODA cho Việt Nam. Cơ quan cấp Bộ, ngành chủ trì và phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị và tổ chức hội nghị điều phối ODA theo ngành. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì tổ chức hội nghị vận động ODA của địa phương mình theo sự hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hội nghị vận động ODA liên ngành, liên vùng, liên địa phương do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì hoặc do một cơ quan khác chủ trì theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ [12].
Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao tiến hành vận động ODA với nước, tổ chức quốc tế tiếp nhận Cơ quan đại diện đó, trên cơ sở quy định của tại Điều 5 Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn ODA ban hành kèm theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ [12].
Vận động ODA được thực hiện trên cơ sở: (i) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; (ii) Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của cả nước, ngành, vùng và các địa phương; (iii) Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói, giảm nghèo (CPRGS); (iv) Chiến lược quốc gia vay và trả nợ nước ngoài và Chương trình quản lý nợ trung hạn của quốc gia; (v) Định hướng thu hút và sử dụng ODA; (iv) Các chương trình đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu của các ngành, các địa phương; và (vii) Chiến lược, chương trình hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ [12].
Ngoài ra muốn thu hút, vận động ODA có hiệu quả cần phải dựa trên các chương trình, chiến lược của các nhà tài trợ trong mỗi thời kỳ nhất định.
2.1.3.2 Quy trình quản lý, sử dụng ODA
Quy trình quản lý, sử dụng ODA" là những hoạt động với các bước cụ thể sau:
Bước 1: xây dựng danh mục chương trình, dự án ODA (sau đây gọi tắt là “chương trình, dự án”) yêu cầu tài trợ đối với từng nhà tài trợ.
Bước 2: chuẩn bị chương trình, dự án, bao gồm cả ký kết chương trình, dự án.
Bước 3: thực hiện chương trình, dự án.
Bước 4: theo dõi và đánh giá chương trình, dự án (bao gồm cả đánh giá sau chương trình, dự án); nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả thực hiện chương trình, dự án [12].
2.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút và sử dụng ODA
2.1.4.1 Các nhân tố khách quan
- Tình hình kinh tế chính trị ở quốc gia tài trợ: các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát thất nghiệp hay những thay đổi chính trị có tác động đến các hoạt động hỗ trợ phát triển cho các quốc gia khác. Chẳng hạn, đối với các quốc gia cung cấp ODA do nền kinh tế gặp khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp tăng hay thay đổi về thể chế,v.v. có thể là._.m cho mức cam kết ODA hàng năm của quốc gia này giảm.
- Các chính sách, quy chế của nhà tài trợ: nhìn chung, mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và thủ tục riêng đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ phải tuân thủ khi thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA của họ. Các thủ tục này khác nhau cơ bản ở một số lĩnh vực như các thủ tục về đấu thầu, các thủ tục về giải ngân, đền bù tái định cư hay chế độ báo cáo định kỳ,v.v. Các thủ tục này khiến cho các quốc gia tiếp nhận viện trợ lúng túng trong quá trình thực hiện dự án. Tiến độ các chương trình dự án thường bị đình trệ, kéo dài hơn so với dự kiến, giảm hiệu quả đầu tư. Vì vậy, việc hiểu biết và thực hiện đúng các chủ trương hướng dẫn và quy định của từng nhà tài trợ là một điều vô cùng cần thiết đối với các quốc gia tiếp nhận viện trợ.
- Môi trường cạnh tranh: thời gian gần đây, có thể thấy tổng lượng ODA trên Thế giới đang có chiều hướng suy giảm trong khi đó nhu cầu ODA của các nước đang phát triển tăng liên tục, nhất là sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và các cuộc sung đột vũ trang khu vực. Hiện đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển để tranh thủ nguồn vốn ODA. Vì vậy, để thu hút được những nguồn vốn ODA trong thời gian tới đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ phải không ngừng nâng cao hơn nữa trình độ kinh nghiệm và năng lực của họ trong công tác quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn này.
2.1.4.2 Các nhân tố chủ quan
Thông thường các nhà tài trợ đầu tư nguồn vốn ODA vào các nước có mối quan hệ chính trị tốt và sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả. Vì vậy, các nhân tố kinh tế chính trị của nước nhận tài trợ có ảnh hưởng lớn đến thu hút nguồn vốn ODA. Do đó, các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn ODA phải kể đến là:
- Tình hình kinh tế, chính trị ở quốc gia tiếp nhận viện trợ: trong môi trường này, các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp, cơ chế quản lý kinh tế, sự ổn định chính trị,v.v. sẽ có những tác động trực tiếp đến quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA. Vì vậy, ổn định về mặt chính trị, tăng trưởng về kinh tế là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng để vận động và thu hút ODA cho đất nước.
- Qui trình và thủ tục của nước tiếp nhận viện trợ: đây là nhân tố quan trọng nhất tác động trực tiếp tới hoạt động thu hút và sử dụng vốn ODA. Ở những quốc gia có quy trình và thủ tục thông thoáng, thuận lợi cho công tác thực hiện các chương trình, dự án ODA thì ở nơi đó các chương trình, dự án ODA sẽ triển khai thuận lợi, đúng tiến độ và phát huy hiệu quả tốt, qua đó sẽ làm tăng khả năng thu hút thêm nguồn vốn này.
- Năng lực của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA: năng lực của các cán bộ thực hiện chương trình, dự án ODA cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới công tác thu hút và sử dụng vốn ODA. Các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA cần phải có năng lực về đàm phán, ký kết dự án, triển khai thực hiện quản lý vốn.v.v. đòi hỏi các cán bộ cần có kiến thức chuyên môn sâu về pháp luật, kinh tế, kỹ thuật, ngoại ngữ. Bởi vì trên thực tế, các hoạt động thực hiện dự án vừa phải tuân thủ các quy định, luật pháp của Chính phủ Việt Nam vừa phải tuân thủ các quy định, hướng dẫn của nhà tài trợ. Ngoài những năng lực kể trên về năng lực công tác chuyên môn đòi hỏi các cán bộ quản lý dự án nhất thiết phải có những phẩm chất đạo đức tốt.
- Năng lực tài chính của các nước tiếp nhận viện trợ ODA: đối với các chương trình dự án ODA để tiếp nhận 1 USD vốn ODA thì các quốc gia tiếp nhận phải có ít nhất 15% vốn đối ứng (khoảng 0,15 USD). Ngoài ra, cần một lượng vốn đầu tư từ ngân sách cho công tác chuẩn bị các chương trình dự án cũng không nhỏ. Vì vậy, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA các quốc gia tiếp nhận vốn phải biết tăng cường và phát huy năng lực tài chính của mình là chính.
2.1.5 Vai trò của ODA đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
Trong thời kỳ đổi mới, nông nghiệp, nông thôn nước ta đạt được nhiều thành tựu hết sức quan trọng. Nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, liên tục và toàn diện trên nhiều lĩnh vực, từng bước chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp, sang nền kinh tế hàng hóa, hướng mạnh ra xuất khẩu, đặc biệt là sản xuất lương thực, đưa nước ta từ chỗ thiếu ăn trở thành một trong những nước xuất khẩu lương thực hàng đầu trên thế giới. Thuỷ sản đã trở thành một ngành xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế. Ngành lâm nghiệp đã bắt đầu ngăn chặn được sự suy giảm của rừng. Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa quy mô lớn, tập trung gắn với công nghiệp chế biến được hình thành tạo thế và lực mới cho kinh tế nông nghiệp. Bộ mặt kinh tế, xã hội nông thôn được cải thiện rõ rệt. Kết cấu hạ tầng nông thôn từng bước được cải thiện, thu nhập của nông dân không ngừng được nâng cao. Những thành tựu trên đã tạo nền tảng cho sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế, tạo tiền đề để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyên nhân chính tạo nên những thắng lợi trên là do Đảng và Chính phủ đã có nhiều quyết sách quan trọng khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước đã dành một phần đáng kể từ nhiều nguồn vốn khác nhau để đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, trong đó vốn ODA là một nguồn vốn có vai trò và ý nghĩa quan trọng.
2.1.5.1 ODA góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
Quan điểm của Đảng ta: “Coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” [19]. Mục tiêu tổng quát và dài hạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp để tăng năng suất lao động và ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu nhập và đời sống cư dân nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Việt Nam cần số vốn đầu tư rất lớn. Trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước còn hạn chế thì ODA chính là nguồn vốn cần thiết giúp Việt Nam thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn như: đường giao thông nông thôn, kênh/đập thuỷ lợi, điện, nước sạch, trạm y tế, chợ, hệ thống thông tin, nhà tái định cư v.v là một trong những chính sách quan trọng, có tác động tích cực đến sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Chính sách này càng quan trọng đối với những nền kinh tế có tỷ lệ dân số khu vực nông nghiệp, nông thôn lớn như Việt Nam. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ là điều kiện đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp, các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn tăng trưởng nhanh và bền vững.
Tuy nước ta là một nước nông nghiệp nhưng kết cấu hạ tầng nông thôn còn lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, đặc biệt là vấn đề giao thông nông thôn, giao thông miền núi. Từ năm 1993 đến nay, nhờ có các dự án, chương trình ODA trong nông nghiệp, nhiều cơ sở hạ tầng nông thôn tại các vùng tham gia dự án đã và đang được nâng cấp, cải tạo, làm mới theo hướng hiện đại hoá và bền vững.
Trong các cơ sở hạ tầng nông thôn thiết yếu được chú trọng đầu tư đáng lưu ý nhất là đường giao thông nông thôn, đặc biệt ở cùng sâu vùng xa, nhiều con đường đã xuống cấp nghiêm trọng, bị lũ quét hoặc ngập lụt gây khó khăn cho người tham gia giao thông, nhưng nhờ có được các dự án ODA về phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như: dự án Bảo vệ rừng và PTNT (Khoản vay 2996-VN), Dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng đất ngập nước ven biền miền Nam Việt Nam (Khoản vay 3292-VN) và Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng (Khoản vay 3532- VN) vay vốn WB; Dự án ngành cơ sở hạ tầng nông thôn (Khoản vay 1564- VIE (SF)) vay vốn ADB v.v. những con đường giao thông nông thôn đã được nâng cấp, cải tạo. Qua đó, các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã phát triển nhanh chóng theo hướng cơ chế thị trường: sản xuất nông sản ngoài tiêu thụ tại chỗ còn được để bán ra vùng khác, sản phẩm nông sản được đa dạng hơn, mẫu mã được cải tiến liên tục; đời sống người dân được nâng cao rõ rệt, nhiều phương tiện giao thông hiện đại đã được trang bị, phương tiện nghe nhìn cũng được đổi mới.
Các công trình thuỷ lợi chủ yếu là vừa và nhỏ được đầu tư nâng cấp, cải tạo, xây mới đã góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo tốt công tác tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, nhiều công trình thuỷ lợi đã gắn liền với cung cấp nước sạch nông thôn đã giúp cuộc sống của người dân văn minh hơn, sức khoẻ cộng đồng được cải thiện theo chiều hướng tốt hơn. Có được những kết quả trên là nhờ sự đóng góp không nhỏ của các dự án ODA trong lĩnh vực thủy lợi như: Dự án khôi phục thủy lợi (Khoản vay 2711- VN) vay vốn WB; Dự án khôi phục thủy lợi và chống lũ (Khoản vay 1259- VIE (SF)), Dự án thủy lợi khu vực đồng bằng sông Hồng (Khoản vay 1344- VIE (SF)), Dự án thủy lợi Phước Hòa (Khoản vay 2025- VIE (SF)) vốn vay của ADB, v.v.
Ngoài ra, phát triển chợ nông thôn, đa dạng hoá và thâm canh sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng nông sản phục vụ cho người dân vùng hưởng lợi đã có các tác động đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước nhất là trong tình hình mới hiện nay. Nhiều mô hình sản xuất theo trang trại, tập trung với quy mô nhỏ và vừa (đặc biệt là cao su tiểu điền, cây ăn quả, chè), trung tâm dịch vụ sản xuất nông nghiệp đã xuất hiện ở vùng nông thôn góp phần tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá kinh tế nông thôn.
2.1.5.2 ODA tác động đổi mới tư duy và phương thức sản xuất, chế biến nông sản theo hướng thị trường
Công tác phát triển nguồn lực thông qua các chương trình đào tạo trong và ngoài nước của các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn lực của toàn ngành cũng như người dân vùng hưởng lợi. Từ đó, góp phần đẩy nhanh sự tiếp cận với sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của cộng đồng dân cư. Công tác đào tạo kèm theo các hỗ trợ tín dụng cần thiết đã giúp người dân dám nghĩ, dám đầu tư lớn vào sản xuất cũng như chế biến sản phẩm nông sản đáp ứng nhu cầu ngày một cao của nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó, các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp đã đầu tư mới trang thiết bị cho các Viện nghiên cứu thuộc BNN-PTNT đã góp phần cải tạo giống cây trồng, vật nuôi theo hướng tăng cả về số lượng, cũng như chất lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một cao của trong và ngoài nước.
Ngoài ra, nhờ nguồn vốn ODA của các chương trình, dự án trong nông nghiệp mà hệ thống thông tin về khuyến nông và thông tin thị trường được trang bị hiện đại đã góp phần cập nhật, áp dụng nhanh và kịp thời công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong nước cũng như trên thế giới cho ngành sản xuất nông nghiệp nói chung, các đối tượng cây trồng, vật nuôi trong phạm vi các chương trình, dự án ODA nói riêng.
2.1.5.3 ODA góp phần thúc đẩy đa dạng hóa nông nghiệp
Ngoài đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn thì việc phát triển cây con giống, góp phần vào quá trình đa dạng hóa nông nghiệp cũng được các nhà tài trợ quan tâm giúp đỡ phát triển. Ngoài việc nỗ lực hỗ trợ về vốn, các nhà tài trợ còn giúp Việt Nam kỹ thuật lai tạo giống mới và biện pháp phòng ngừa dịch bệnh.
Đa dạng hóa nông nghiệp nhằm phá thế độc canh cây lúa là một trong những mục tiêu phát triển mà ngành nông nghiệp hướng tới. Đây cũng là một lĩnh vực được các nhà tài trợ ưu tiên đầu tư vốn. Đã có rất nhiều dự án đã được thực hiện thành công trong giai đoạn 1993 - 2008, một trong số đó phải kể đến Dự án đa dạng hóa nông nghiệp. Dự án có tổng mức đầu là 86,88 triệu USD, vay vốn Ngân hàng thế giới và Cơ quan phát triển Pháp (AFD), được triển khai thực hiện tại 6 tỉnh miền Bắc, 8 tỉnh duyên hải miền Trung và 4 tỉnh Tây Nguyên trong vòng 8 năm (1998- 2006) đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy đa dạng hóa nông nghiệp trong thời gian qua. Dự án đã đo cấp đất 300.000 ha cho 75.000 hộ nông dân thâm canh đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, chăn nuôi (vỗ béo bò, lợn), tăng sản lượng thịt hơi lên 16%; trồng mới 30.100 ha cao su tiểu điền, phục hồi 17.00 ha cao su cũ của Chương trình 327; nghiên cứu kỹ thuật đa dạng hóa, thâm canh cao su, cây ăn quả phù hợp với tiểu nông; tăng cường mạng lưới khuyến nông để sau khi dự án kết thúc, nông dân có thể chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập.
Ngoài ra, một số dự án như dự án phát triển chè và cây ăn quả; dự án phát triển sản xuất mía đường, cà phê; dự án phát triển chăn nuôi bò, lợn và sản xuất sữa cũng đã góp phần quan trọng vào quá trình đa dạng hóa ngành nông nghiệp trong thời gian qua.
2.1.5.4 ODA góp phần thực hiện chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo của Chính phủ
Phát triển nhanh và bền vững, xóa đói giảm nghèo đồng thời mang lại chất lượng cuộc sống cao cho người dân là tầm nhìn phát triển của Chính phủ Việt Nam. Cộng đồng các nhà tài trợ đã và đang giúp Chính phủ Việt Nam triển khai Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRGS) và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Hỗ trợ phát triển chính thức tập trung vào tăng trưởng kinh tế và các chương trình giảm nghèo mục tiêu của Chính phủ. Trong những năm qua, hơn 130 tổ chức phi chính phủ quốc tế huy động khoảng 100 triệu USD hàng năm từ nguồn lực ODA để giảm nghèo tại Việt Nam [4].
Hỗ trợ phát triển chính thức của ADB trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì người nghèo được thiện thông qua những nỗ lực của ADB trong việc kết nối cơ sở hạ tầng nông thôn với mạng lưới cơ sở hạ tầng quốc gia và quốc tế để có thể tạo ra những tác động lớn về giảm nghèo. ADB cũng hỗ trợ mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam thông qua các chương trình ngành Y tế và Giáo dục tại nông thôn, và thông qua đồng tài trợ các chương trình giảm nghèo then chốt, chương trình Hỗ trợ tín dụng giảm nghèo (PRSC). Hỗ trợ phát triển chính thức của ADB về hợp tác kinh tế tiểu vùng đã tạo ra các cơ hội kinh tế tại một số vùng nghèo nhất.
Trong nông nghiệp, vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo. Đánh giá của Liên hợp quốc và các tổ chức tài chính quốc tế lớn đều thống nhất rằng Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trong nỗ lực xóa đói giảm nghèo. Đời sống của người dân nông thôn đã từng bước được cải thiện và tỷ lệ nghèo đói giảm đáng kể. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã hoàn thành vượt mức giảm một nửa số người nghèo và một nửa số người dân bị đói của mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới. Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xoá đói giảm nghèo, trong đó nguồn vốn ODA đã giúp nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay (tín dụng nông thôn) để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
2.1.5.5 ODA góp phần phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai
Việt Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Vị trí và địa hình làm cho Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu nhiều thiên tai nhất trên thế giới như: bão, lốc xoáy, lũ lụt, hạn hán, nhiễm mặn, sạt lở đất và cháy rừng. Trung bình hàng năm Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp 4-6 cơn bão. Bão kèm theo mưa lớn đã gây ra hiện tượng lũ quét, sạt lở đất, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các công trình cơ sở hạ tầng như: đường giao thông nông thôn, các công trình thủy lợi, các công trình bảo về đê điều, cầu, cống, v.v.
Những thiệt hại về người và tài sản do thiên tai gây ra đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người dân tại địa phương. Vì vậy, công tác phòng chống và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra là một công việc cấp bách hiện nay. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi số vốn lớn để đầu tư cho trang thiết bị dự báo bão tầm xa; cũng như cho việc khôi phục các công trình hạ tầng, nhà cửa bị phá hủy. Trong khi nguồn vốn trong nước cho công tác phòng chống và giảm thiểu hậu quả thiên tai còn hạn chế thì nguồn vốn ODA do các nhà tài trợ cung cấp có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng.
Các dự án trong lĩnh vực phòng chống thiên tai như: Dự án khắc phục khẩn cấp hậu quả thiên tai năm 2005 của ADB, Dự án phòng chống và giảm nhẹ thiên tai của WB, v.v. đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao cơ sở hạ tầng, cung cấp các trang thiết bị phục vụ phòng chống thiên tai đặc biệt là lụt bão, lũ quét, và sạt lở đất. Các mô hình quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng đã bắt đầu được vận hành thí điểm, nhận thức của nhân dân đối với việc tự bảo vệ người và tài sản đã được nâng cao. Các làng xã an toàn đang được xây dựng tại một số địa phương sẽ góp thêm một nội dung vào phong trào xây dựng nông thôn mới.
2.1.5.6 ODA góp phần nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn
Trong những năm gần đây, năng lực, trình độ, ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện dự án của Việt Nam đã có nhiều tiến bộ, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Vì vậy, công tác đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn cho cán bộ trực tiếp quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp rất được các nhà tài trợ quan tâm giúp đỡ.
Các dự án hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực cho ngành nông nghiệp đã góp phần nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện dự án của Việt Nam từ Trung ương tới địa phương. Thông qua các dự án hỗ trợ và tăng cường năng lực, những cán bộ quản lý và thực hiện dự án được tiếp cận phương pháp thực hiện dự án, tiếp thu kỹ thuật và công nghệ mới qua chuyên gia tư vấn Quốc tế. Phương pháp tiếp cận dự án đầu tư toàn diện, kỹ năng quản lý dự án đầu tư xây dựng từ các chuyên gia nước ngoài đã giúp cho các cán bộ quản lý và thực hiện dự án của Việt Nam có thể xử lý được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Từ đó, có thể giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình, dự án ODA. Cùng với việc tổ chức thực hiện thành công các chương trình, dự án ODA trong lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian qua, năng lực cán bộ của các Ban quản lý dự án cũng từng bước được nâng cao.
Trong xu thế hội nhập thế giới, hiệu quả đầu tư mang lại của các dự án ODA trong nông nghiệp đã có tác động tích cực, góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế khu vực nông thôn, làm cho bộ mặt nông thôn ngày một đổi thay, đời sống người dân ngày một nâng cao. Tại các vùng đầu tư, các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp đã nhận được sự ủng hộ của nhân dân.
Ngành nông nghiệp vừa là ngành sản xuất vật chất, vừa là một trong những ngành mang tính xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành nông nghiệp không những sản xuất các sản phẩm thiết yếu của đời sống xã hội mà còn là ngành phục hồi, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đó là đất, nước, rừng. Kết quả sản xuất nông nghiệp tác động mạnh vào đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp lại luôn phải đối mặt với sự tác động to lớn của thiên nhiên, khí hậu, thời tiết, chịu nhiều yếu tố rủi ro nên không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính vì vậy, nguồn vốn ODA lại càng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Một số kinh nghiệm quốc tế về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong nông nghiệp và PTNT
Thời gian tiếp nhận và sử dụng ODA ở Việt Nam mới được hơn 16 năm (1993 – 2009), trong khi các quốc gia trong khu vực tiếp nhận và sử dụng ODA khoảng 30 – 40 năm [4]. Do đó, Việt Nam còn thiếu quá nhiều kiến thức và kinh nghiệm. Vì vậy, học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới sẽ giúp Việt Nam sớm đi đến thành công.
2.2.1.1 Những kinh nghiệm thành công
- Các nước tiếp nhận ODA đều nhận thức rõ tầm quan trọng của ODA đối với phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là trọng tâm chiến lược phát triển của Chính phủ. Kinh nghiệm ở Đài Loan cho thấy, Chính phủ của nước này đã đề cập đến việc phát triển nông nghiệp và nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ tiền cất cánh, Đài Loan đã xác định đúng lĩnh vực ưu tiên đầu tư bằng nguồn vốn ODA là nông nghiệp, nên từ năm 1951 đến năm 1953, Đài Loan đã dành hơn 1/2 trong tổng số 267 triệu USD viện trợ chính thức cho phát triển nông nghiệp [19]. Trong nông nghiệp, Chính phủ Đài Loan tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, xây dựng hệ thống thuỷ lợi, phát triển lâm nghiệp, và cải tạo đất. Một phần không nhỏ của ODA được đầu tư cho các hộ nông dân mua máy móc, thiết bị nông nghiệp loại nhỏ nhằm tăng năng suất lương thực. Mục tiêu của Đài Loan trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá là hiện đại hoá nông nghiệp là tư bản hoá nông thôn, thực hiện phương châm "lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp". Do nhận thức rõ tầm quan trọng của ODA đối với phát triển nông nghiệp và việc đầu tư đúng hướng nên Đài Loan đã nhanh chóng trở thành nước công nghiệp mới (NIC) từ giữa những năm 60 và hiện nay Đài Loan được biết đến là một trong những "con rồng châu Á".
- Tạo ra một khung chính sách và hệ thống luật khuyến khích thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp làm cơ sở cho sự phát triển rộng khắp. Trong thời kỳ Hàn Quốc thực hiện "tái thiết nền kinh tế" (1951 - 1962), Chính phủ đã đưa ra những luật khuyến khích thu hút ODA và đã dành 40% tổng số ODA để khôi phục cơ sở hạ tầng và cơ sở công nghiệp bị tàn phá trong chiến tranh, 60% còn lại tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc trong giai đoạn này là tập trung cho nông nghiệp và PTNT [19]. Việc khuyến khích thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp nhằm nhanh chóng tự túc lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và hiện đại hoá nông nghiệp.
- Việc xác định các mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể của dự án phải xuất phát từ yêu cầu thực sự của nông dân. Từ kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy để bảo đảm khả thi, mang lại hiệu quả thiết thực cho nông dân là nhân tố có tính quyết định sự thành công của các dự án hay chương trình tiếp nhận nguồn vốn ODA. Muốn đạt được mục tiêu này phải nghiên cứu lựa chọn mục tiêu, đối tượng dự án một cách khách quan, có cơ sở khoa học.
- Thành lập một hệ thống quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp đủ mạnh từ Trung ương đến địa phương. Các cán bộ lãnh đạo chủ chốt được đào tạo, tập huấn nhằm có đủ năng lực, chuyên môn và hiểu biết chế độ hiện hành của Chính phủ và nhà tài trợ. Chính phủ Ấn Độ đã tuyển chọn rất kỹ lưỡng các quan chức và nhân viên đảm trách phân phối và sử dụng ODA theo nguyên tắc tài chính công khai, sử dụng hiệu quả và tinh thần liêm khiết để quản lý và điều phối các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp. Còn ở Thái Lan, các chương trình, dự án ODA nói chung và các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp nói riêng được tập trung ở một cơ quan là Tổng vụ hợp tác kinh tế và kỹ thuật, ở đây đã có một hệ thống quản lý chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương.
- Xây dựng những chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp hướng tới mục đích xoá đói giảm nghèo và chống thất nghiệp ở nông thôn. Các chương trình, dự án ODA góp phần vào sự phát triển nông nghiệp bền vững và tạo việc làm cho người nông dân. Chính phủ các nước đang phát triển đã xây dựng và thực thi các chương trình, dự án đến với các nhóm người nghèo thông qua việc: (i) xác định và lựa chọn các xóm hoặc thôn (hoặc huyện) người nghèo cần ưu tiên đặt trọng tâm chương trình, dự án; (ii) đảm bảo cho các chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo có hiệu quả về kinh tế và không làm suy yếu cơ chế tăng trưởng.
- Thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng lãnh thổ. Ví dụ, ở Inđônêxia hàng năm xuất bản "quyển sách xanh" để gửi cho các nhà tài trợ ODA. Quyển sách này bao gồm đầy đủ các nội dung để cung cấp thông tin cần thiết như các dự án trong nông nghiệp thuộc các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ, kế hoạch vận động thu hút ODA, trong đó có đề cập chi tiết đối với từng vùng lãnh thổ sao cho nó có sự cân bằng giữa nông thôn và thành thị. Đồng thời có kế hoạch sử dụng vốn ODA sao cho hợp lý. Inđônêxia cũng chuẩn bị sẵn sàng cung cấp các thông tin để đáp ứng các yêu cầu từ các nhà tài trợ.
2.2.1.2 Một số kinh nghiệm không thành công
- Chưa xác định đúng chiến lược sử dụng ODA trong nông nghiệp, sử dụng ODA tràn lan dẫn tới hiệu quả sử dụng thấp: xác định chiến lược sử dụng ODA trong nông nghiệp là một yêu cầu đầu tiên của công tác quản lý ODA. Việc xác định chiến lược sử dụng ODA trong nông nghiệp sẽ làm cho sử dụng ODA đúng mục đích và không dẫn đến gánh nặng nợ nần cho các nước nhận viện trợ. Tuy nhiên, có một số nước lại không quan tâm đến vấn đề này, khi nguồn viện trợ ngày càng tăng thì việc sử dụng lãng phí, đầu tư tràn lan cũng có xu hướng ngày càng cao, nhất là giai đoạn đầu khi nghĩa vụ trả nợ gốc còn ẩn giấu sau thời gian ân hạn. Một số quốc gia đã không cân nhắc đến nhu cầu thực tế, đến khả năng hấp thụ ODA, khả năng trả nợ của đất nước, xây dựng những chương trình, dự án thiếu căn cứ khoa học và luận chứng kỹ thuật chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng phiêu lưu trong sử dụng vốn. Ở châu Mỹ Latinh, điển hình là Braxin, bằng vốn vay nước ngoài, nước này tiến hành một chương trình xây dựng kinh tế cực kỳ to lớn bao gồm: xây dựng nhiều công trình thủy lợi với số vốn lớn tại vùng Đông Bắc, xây dựng tổ hợp nông – công nghiệp vùng Đông Bắc với số vốn khổng là 620 triệu USD [19]. Kết quả là Braxin đã trở thành một con nợ lớn nhất thế giới với 108 tỷ USD năm 1986 và là một trong hai nước đầu tiên tuyên bố vỡ nợ vào tháng 8 năm 1992.
- Không chú trọng đầu tư cho nông nghiệp: ở châu Phi, nguồn vốn ODA tập trung quá lớn vào xây dựng nhiều công xưởng, biệt thự lớn, đầu tư chủ yếu vào phát triển đô thị, không quan tâm đến phát triển nông nghiệp, đầu tư không cân đối dẫn đến sử dụng vốn kém hiệu quả, gây tổn thất to lớn cho nền kinh tế quốc dân. Kết quả là mặc dù nguồn vốn ODA đổ vào những nước châu Phi những năm 80 lên tới 30-40% tổng ODA thế giới với mức ưu đãi cao, tỷ lệ cho không lên tới 60-80% nhưng tốc độ tăng trưởng của các nước châu Phi trong những năm này liên tục giảm [19].
- Theo đuổi số lượng dự án sẽ dẫn tới sự đầu tư lãng phí. Chỉ chạy theo tốc độ giải ngân, không quan tâm đến người hưởng lợi trực tiếp thì dự án khó thành công
Trong quá trình thiết kế dự án, Chính phủ nhiều nước đang phát triển và nhà tài trợ quá chú trọng vào mục tiêu số lượng dự án và công nghệ hiện đại đã quên mất người hưởng lợi. Sự lãng quên này đã dẫn đến kết quả tồi tệ. Năm 1996, một hệ thống thủy lợi được tài trợ lớn ở Nêpan đã được các chuyên gia kỹ thuật thiết kế với vùng hưởng lợi chưa được tưới tiêu. Tình cờ dự án bị chậm trễ, người ta có thời gian để phát hiện ra rằng trên thực tế đã có 85 hệ thống thủy lợi do nông dân quản lý đang hoạt động tốt ở đó [19].
Trong nhiều trường hợp, do quá chú trọng tới tăng khối lượng viện trợ tài chính, các nhà tài trợ và Chính phủ nước nhận ODA chỉ tập trung vào quy mô và tốc độ giải ngân mà quên đi người hưởng lợi trực tiếp. Họ chỉ được huy động một cách miễn cưỡng, vì sự tham gia của họ thường làm kéo dài thời gian thực hiện của dự án. Tuy nhiên, những đánh giá về kinh nghiệm trong lĩnh vực thủy lợi của WB đã chỉ ra rằng, sự tham gia của người hưởng lợi vào dự án là rất quan trọng. Năm 1995, một công trình đánh giá 121 dự án nước nông thôn được tài trợ bởi các Chính phủ và các Tổ chức phi chính phủ (NGOs) ở 49 nước đã cho thấy tầm quan trọng của sự tham gia của những người hưởng lợi đối với sự thành công của dự án. Người ta thấy rằng, 68% các dự án có sự tham gia của người hưởng lợi ở mức độ cao rất thành công, trong khi chỉ có 12% các dự án ít có sự tham gia của các chủ thể này là có kết quả. Khi coi sự tham gia của người hưởng lợi là một mục tiêu thì 62% số dự án thành công, còn nếu không làm như vậy thì chỉ có 10% số dự án thành công [30, tr.46]
Các nước nhận ODA nên sử dụng đội ngũ cán bộ và người hưởng lợi tại địa phương trong các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp. Như vậy, sẽ tạo nên kết quả lớn với chi phí thấp. Các biện pháp này chắc chắn sẽ có ích với khu vực nông thôn, vì thứ nhất là tạo việc làm và thứ hai là tạo ra sự năng động cho các chương trình công cộng để đáp ứng nhu cầu của các cộng đồng dân cư địa phương. Các biện pháp này có thể áp dụng cho các dự án duy tu và mở rộng các tuyến đường, cải tạo các công trình cơ sở hạ tầng ở địa phương, nâng cấp hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch nông thôn và dự án phủ xanh đất trống đồi trọc, phát triển mạng lưới điện nông thôn miền núi.
2.2.1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ những kinh nghiệm của các nước để rút ra bài học cho Việt Nam. Trong quá trình thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp, chúng ta cần nhận thức rõ: ODA trong nông nghiệp là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng để Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xóa đói giảm nghèo chứ không có vai trò quyết định cho sự thành công của ngành nông nghiệp trên con đường phát triển. Từ đó, Việt Nam cần tạo ra một số cơ chế và chính sách ưu đãi và thông thoáng nhằm khuyến khích đầu tư ODA vào nông nghiệp. Các chương trình, dự án ODA trong nông nghiệp cần phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển ngành nông nghiệp, chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài, và chiến lược hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
4 bài học về thu hút và sử dụng ODA cho Việt Nam
Một là, cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh. ODA khôn._.iv) Nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế;
(v) Phát triển các công trình thuỷ lợi thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng chống giảm nhẹ thiên tai;
(vi) Quản lý tài nguyên rừng và các tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững;
(vii) Đào tạo nghề cho nông dân và tăng cường năng lực cán bộ quản lý các cấp, nhất là ở cấp huyện, xã và thôn bản.
4.3.2 Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp
Các nhà tài trợ đã cam kết mạnh mẽ tăng nguồn vốn ODA để hỗ trợ các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam để thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs). Tuy nhiên, nhu cầu về nguồn vốn này đang tăng lên rất lớn ở khắp các châu lục đặc biệt ở Châu Á và Châu Phi, trong khi nguồn vốn ODA có giới hạn. Trong bối cảnh đó, công tác thu hút và sử dụng ODA có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong thời gian qua, tình hình thu hút và sử dụng ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào thúc đẩy công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển lâm nghiệp, xóa đói giảm nghèo, .v.v. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy rằng vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA của WB mà chúng ta cần khắc phục. Sau đây là một số giải pháp tăng cường thu hút ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp trong thời gian tới:
4.3.2.1 Nhóm giải pháp về phía Chính phủ và các Bộ Ngành
(i) Hoàn thiện môi trường pháp lý về thu hút và sử dụng ODA
Hiện tại, môi trường pháp lý cho thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam nói chung và của ngành nông nghiệp nói riêng vẫn còn nhiều bất cập và chồng chéo, làm cản trở quá trình thực hiện các dự án ODA. Hành lang pháp lý chưa có tính ổn định cao, phân cấp chưa rõ ràng. Số lượng các văn bản pháp quy còn nhiều, chưa có sự thống nhất và đồng bộ với nhau. Nội dung của các văn bản này còn có nhiều mâu thuẫn với quy định của các nhà tài trợ về chính sách thuế, chính sách đền bù và giải phóng mặt bằng, .v.v.
Bên cạnh đó, Việt Nam có quá nhiều Nghị định, Quyết định, và Thông tư hướng dẫn trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến nguồn vốn ODA. Trong khi nguồn vốn ODA trở thành khoản nợ nước ngoài lớn nhất của Việt Nam hiện nay, nhưng văn bản có tính pháp lý cao nhất cũng mới chỉ dừng lại ở mức Nghị định, mà không phải là một văn bản có tính pháp lý cao hơn như Luật hay Pháp lệnh về ODA. Vì vậy, để tạo môi trường pháp lý thuận lợi hơn cho việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian tới, cần làm tốt những công việc sau:
Một là, xây dựng Luật về thu hút và sử dụng ODA trên cơ sở Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 để tạo cơ sở pháp lý cao hơn cho công tác thu hút và sử dụng ODA. Văn bản pháp lý này sẽ điều chỉnh tất cả các quan hệ liên quan đến nguồn vốn ODA như quá trình phê duyệt dự án, đấu thầu, quản lý dự án theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính, qui định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của từng Bộ, từng cấp tham gia.
Hai là, sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp quy hiện hành và ban hành các văn bản mới bảo đảm tính nhất quán và đồng bộ của các văn bản này cũng như hài hòa với thông lệ quốc tế làm cơ sở cho việc sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp quy về thu hút và sử dụng ODA.
Giải pháp này nhằm mục đích nhanh chóng tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng nhưng chặt chẽ, hài hoà với chính sách của các nhà tài trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hút và sử dụng vốn ODA của Việt Nam nói chung và của lĩnh vực Lâm nghiệp nói riêng trong thời gian tới.
(ii) Hoàn thiện chính sách tài chính trong nước đối với ODA
Hoàn thiện chính sách tài chính trong nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án thực hiện đúng tiến độ, nhưng vẫn đảm bảo vốn được sử dụng theo đúng chế độ quản lý tài chính. Để nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA, trong thời gian tới cần làm tốt những công việc sau:
Một là, việc ký kết, thu hút các khoản ODA vay phải được gắn kết chặt chẽ và trong khuôn khổ của Chiến lược quốc gia về vay và trả nợ nước ngoài. Căn cứ vào Chiến lược quốc gia về vay trả nợ nước ngoài, Bộ Tài chính công bố hạn mức vay vốn ODA thường niên làm căn cứ điều tiết việc ký các điều ước quốc tế vốn vay ODA, bảo đảm an toàn nợ quốc gia;
Hai là, ban hành chính sách tài chính đối với việc sử dụng nguồn vốn ODA đối với các dự án có nguồn thu theo hướng cho vay lại nguồn vốn này kể cả vốn ODA không hoàn lại dựa vào nguồn thu hoặc khả năng tạo nguồn thu của dự án và công bố cơ chế, điều kiện tài chính cho vay lại cụ thể đối với từng lĩnh vực để các đơn vị thụ hưởng ODA tính toán phương án trả nợ và luận chứng tính khả thi của dự án trong quá trình chuẩn bị đầu tư.
Ba là, hoàn thiện chính sách thuế đối với các dự án ODA để khắc phục những khó khăn về vốn đối ứng trong quá trình thực hiện các dự án ODA.
Bốn là, xem nguồn vốn ODA đã được ký kết như nguồn thu ngân sách của các Bộ, địa phương và cơ quan chủ quản và cân đối trong quá trình xây dựng ngân sách để tính đủ nguồn thu, bảo đảm các điều kiện (vốn đối ứng) cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA cũng như tính công khai, minh bạch và công bằng giữa các đơn vị thụ hưởng ngân sách Nhà nước.
(iii) Cải tiến hơn nữa Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ
Trong giai đoạn 1993- 2008, Việt Nam đã phối hợp với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công 15 Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG). Đây là diễn đàn được tổ chức thường niên, nhằm tăng cường trao đổi thông tin giữa Chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ về các vấn đề cùng quan tâm như: tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền tảng pháp luật và thể chế, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, hài hòa thủ tục và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA, v.v. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ hàng năm là cơ hội vận động đầu tư từ các nhà tài trợ vào Việt Nam. Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần phối hợp với cộng đồng các nhà tài trợ cải thiện hơn nữa Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ để Hội nghị này trở thành diễn đàn đi vào thực chất hơn theo hướng: (i) giảm bớt các báo cáo tại Hội nghị và tăng cường trao đổi ý kiến về những vấn đề các bên cùng quan tâm; (ii) hoàn thiện nội dung và tổ chức cho các phiên họp kỹ thuật; và (iii) phát hành Kỷ yếu của Hội nghị CG và phổ biến rộng rãi giữa các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ.
(iv) Tăng cường hoạt động hài hoà hoá quy trình và thủ tục giữa Chính phủ và WB
Hài hòa hóa quy trình và thủ tục chính là việc chúng ta đi tìm sự phù hợp, sự thống nhất cao của các bên khi tham gia vào quá trình thực hiện và triển khai các dự án, chương trình ODA, bao gồm: Chính phủ, nhà tài trợ và đơn vị thực hiện.
Hài hòa hóa quy trình và thủ tục làm thay đổi một số quy định pháp lý giữa Chính phủ và WB, do đó cần phải được tiến hành từng bước với phạm vi và nội dung phù hợp. Việc hài hòa hóa quy trình và thủ tục cần được tiến hành thí điểm với một số dự án, chương trình để kiểm nghiệm tính hiệu quả trước khi phổ biến rộng rãi. Hài hòa hóa quy trình và thủ tục nên lựa chọn những khâu công việc có tính khả thi cao, như hài hòa về các quy trình và thủ tục đấu thầu, hệ thống mẫu biểu báo cáo định kỳ về tiến độ thực hiện dự án.
Thủ tục của phía WB và Việt Nam đều khá phức tạp, qua nhiều bước khác nhau và có những đặc thù riêng. Không thể hài hòa hoàn toàn các thủ tục bởi vì WB áp dụng chung cùng một loại thủ tục cho tất cả các nước thành viên, còn Việt Nam cũng áp dụng thủ tục của mình đối với các nguồn tài trợ khác nhau từ bên ngoài. Vì vậy, hài hòa chỉ có thể thực hiện trên một số phương diện nhất định. Theo ý kiến của WB, để họ có thể điều chỉnh một số thủ tục gần với Việt Nam, trước hết Chính phủ cần áp dụng các thủ tục đáp ứng tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Hiện nay, quá trình hài hòa hóa thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ, trong đó có WB, đang được tiếp tục đẩy mạnh. Hài hòa hóa các quy trình và thủ tục ODA phải được dựa trên các quy định pháp lý của Chính phủ và WB để phát huy thế mạnh của mỗi bên. Để công tác hài hòa hóa quy trình và thủ tục diễn ra trên thực tế và có tính khả thi thì những nguyên tắc sau cần phải được thực hiện: (i) Chính phủ cần phải có “các khung” làm cơ sở để hài hòa các thủ tục trong các hoạt động thực tiễn; (ii) Chính phủ và WB đều có các quy định, quy trình rõ ràng và công khai về việc thực hiện các chương trình, dự án ODA; (iii) Các quan niệm về hài hòa thủ tục và công cụ thực hiện ODA cần được chia sẻ và đạt được nhận thức chung giữa Chính phủ và WB.
Hi vọng rằng trong tương lai, với những nỗ lực hài hòa hóa thủ tục từ cả hai phía, Chính phủ Việt Nam và WB sẽ đạt được sự nhất trí cao nhất về quy trình và thủ tục, giảm dần tiến tới xóa bỏ việc thẩm định và phê duyệt song hành 2 hệ thống: Chính phủ và nhà tài trợ như hiện nay.
(v) Đề ra các biện pháp chống tham nhũng có hiệu quả
Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực tốt trong đấu tranh chống nạn tham nhũng. Việt Nam đã ký kết Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003, gia nhập Sáng kiến chống tham nhũng tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với sự hỗ trợ của ADB và Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế tháng 7/2004 và đã ban hành Luật chống tham nhũng năm 2005.
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian tới, Chính phủ cần đề xuất và đưa vào giai đoạn đầu của quá trình chuẩn bị dự án, bao gồm các hình thức phạt và kỷ luật nghiêm khắc đối với các vụ việc tham nhũng. Sớm cụ thể hoá các điều luật chống tham nhũng áp dụng đối với quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng một cách thiết thực và có hiệu quả cao. Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí bằng sự kết hợp các giải pháp đồng bộ. Đưa chế độ công khai hóa tài chính vào công tác kiểm tra, thanh tra; đưa công tác kế toán, kiểm toán vào nề nếp, tạo điều kiện thực hiện quyền giám sát đối với cơ quan, công chức nhà nước. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm soát, tòa án trong việc phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm tham nhũng.
4.3.2.2 Nhóm giải pháp về phía BNN-PTNT
(1) Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch vận thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp
ODA là nguồn vốn quan trọng và có tác động đến phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam cả trước mắt cũng như lâu dài. Vì vậy, việc thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp cũng cần tuân theo chiến lược và quy hoạch cụ thể. Nắm bắt kịp thời xu hướng diễn biến quốc tế có ảnh hưởng đến việc thu hút và sử dụng ODA để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp.
Thời gian qua, nguồn vốn ODA đầu tư vào ngành nông nghiệp có quy mô tương đối lớn, duy trì đều đặn hàng năm. Để tiếp tục khai thác tối đa nguồn vốn ODA, đặc biệt từ nhà tài trợ WB, trong thời gian tới, đòi hỏi BNN-PTNT phối hợp với các Bộ, Ngành có liên quan cần tiếp tục hoàn thiện quy hoạch vận động thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung và ODA của WB nói riêng, trên cơ sở phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, chiến lược phát triển ngành nông nghiệp thời kỳ 2011- 2015 và chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, BNN-PTNT cần xây dựng thứ tự ưu tiên đầu tư ODA cho từng lĩnh vực, từng vùng cụ thể trong phát triển nông nghiệp, nông thôn đối với từng đối tác phù hợp, đáp ứng những ưu tiên cho từng ngành từng địa phương dựa trên những ưu tiên của Nhà nước.
Quy hoạch vận động thu hút và sử dụng ODA trong nông nghiệp thời kỳ 2006- 2010 cần tập trung vào các chương trình mục tiêu, các dự án cần vốn đầu tư lớn như các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, cải tạo hệ thống thủy lợi, cung cấp nước sạch nông thôn, quản lý nguồn nước, giảm nhẹ thiên tai và quản lý lũ, trồng mới rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng,v.v.
Ngoài ra, BNN-PTNT cần tiến hành quy hoạch vận động thu hút ODA vào những vùng còn đặc biệt khó khăn, có tỷ lệ nghèo đói cao như miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên.
(2) Tiếp tục thực hiện cả chiều rộng lẫn chiều sâu công cuộc “Đổi mới”
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng đã có những bước phát triển vững chắc và đạt được những kết quả đáng tự hào. Trong giai đoạn 2011- 2015, để tiếp tục vận động và thu hút vốn ODA của WB cho các dự án Lâm nghiệp, BNN-PTNT cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, tập trung cao độ vào một số chính sách mà WB thường nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm, coi như thông điệp để xem xét việc cam kết cung cấp viện trợ phát triển, đó là: (i) Phát triển kinh tế nhanh và bền vững đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường; (ii) Xoá đói, giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách về thu nhập và xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và đồng bằng, giữa các nhóm xã hội, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số; (iii) Quản lý tài chính công một cách minh bạch, có trách nhiệm giải trình và có thể dự báo trước; (iv) Chính sách và giải pháp để giảm nhẹ những thương tổn có thể có trước những tác động từ bên ngoài trong quá trình hội nhập, trong có việc Việt Nam gia nhập WTO; và (v) Đảm bảo tự do, dân chủ và quyền con người.
(3) Thay đổi phương thức tiếp cận, chuẩn bị vốn đối ứng để xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi.
(4) Thể chế hoá những hoạt động cần tiến hành trước để đẩy nhanh việc triển khai thực hiện dự án ngay khi có hiệu lực (bao gồm việc tuyển dụng tư vấn, chuẩn bị các thiết kế kỹ thuật, các hoạt động mua sắm đấu thầu hàng hoá dịch vụ,...).
(5) Thiết lập và tăng cường chất lượng hệ thống theo dõi và đánh giá việc quản lý và thực hiện dự án.
(6) Củng cố, điều chỉnh về cơ cấu, tổ chức và nhân sự của các Ban quản lý các dự án Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thuỷ lợi.
(7) Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về quản lý thực hiện dự án. Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý dự án ở cả Trung ương và địa phương.
4.3.2.3 Nhóm giải pháp về phía UBND tỉnh tham gia dự án
(1) Bố trí cán bộ có năng lực, làm việc toàn thời gian cho các dự án và có chính sách ưu đãi đối với họ. Hiểu và thực hiện tốt nội dung, quy định trong Hiệp định đã ký kết giữa Việt Nam với WB nhằm sử dụng đúng và hiệu quả nguồn vốn của dự án và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương mình.
(2) Tạo điều kiện thuận lợi để WB, Chính phủ, các Bộ Ngành, BNN-PTNT, Ban quản lý dự án Trung ương phối hợp chỉ đạo, theo dõi, đánh giá việc thực hiện dự án tại hiện trường và ở địa phương mình.
(3) Phối hợp chặt chẽ và huy động các bên tham gia dự án (bao gồm chính quyền các cấp từ tỉnh, huyện, xã và các thành phần kinh tế, cộng đồng những người hưởng lợi và nông dân) trong quá trình thực hiện, giám sát chất lượng các hạng mục đầu tư của dự án.
(4) Thiết lập và tăng cường chất lượng hệ thống theo dõi và đánh giá việc quản lý và thực hiện dự án tại địa phương.
(5) Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp về quản lý thực hiện dự án ở địa phương.
(6) Bố trí kịp thời và đầy đủ vốn đối ứng từ ngân sách tỉnh theo cam kết.
4.3.2.4 Nhóm giải pháp về phía WB
(1) Tiếp tục cung cấp ODA cho ngành Nông nghiệp và PTNT nói chung, lĩnh vực Lâm nghiệp nói riêng nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ của Việt Nam một cách bền vững hơn cũng như củng cố những kết quả đã đạt trong những năm qua về xoá đói giảm nghèo, quản lý, giảm nhẹ tác động bất lợi của thiên tai, dịch bệnh và những tác động của biến đổi khí hậu.
(2) Sớm ban hành chiến lược quốc gia về hợp tác phát triển nhằm giúp cho các đối tác Việt Nam, trong đó có BNN-PTNT chủ động hơn trong việc hình thành các chương trình, dự án kêu gọi tài trợ.
(3) Thống nhất với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan trong việc đẩy nhanh việc hài hoà hoá các thủ tục trong toàn bộ chu kỳ của dự án để giảm thời gian chuẩn bị dự án nhằm đẩy nhanh tiến độ và chất lượng giải ngân và giảm số lượng dự án phải gia hạn.
(4) Hợp tác chặt chẽ với BNN-PTNT để hình thành chương trình, dự án theo hướng phát triển chung của Nhà nước, của Ngành và địa phương.
(5) Phối hợp chặt chẽ với BNN-PTNT, hỗ trợ tăng cường năng lực thực thi dự án cho các cơ quan quản lý, thực hiện, nhất là các địa phương tham gia dự án nhằm đảm bảo việc thực hiện dự án nhanh và hiệu quả.
4.3.2.5 Nhóm giải pháp về phía Ban quản lý dự án dự án
Các Ban quản lý dự án là cơ quan được Cơ quan chủ quản giao quản lý và thực hiện dự án. Việc tăng cường khả năng của các Ban này về tổ chức và quản lý có ý nghĩa rất lớn trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn cũng như thúc đẩy thu hút nguồn vốn ODA của WB. Các giải pháp chính đối với Ban quản lý dự án là:
(1) Xây dựng qui chế tổ chức và hoạt động khoa học và phù hợp với mỗi Ban quản lý dự án
Ngay sau khi Ban quản lý dự án được thành lập cần tập trung xây dựng ngay qui chế tổ chức và hoạt động của Ban quản lý dự án. Qui chế này cần qui định rõ chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của ban, cũng như chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng chức danh cán bộ trong ban, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cán bộ trong ban, ... Đây là một trong những văn bản hết sức quan trọng để điều hành các hoạt động của ban quản lý dự án và đánh giá kết quả mức độ hoàn thành nhiệm vụ được phân công của các nhân viên trong Ban quản lý dự án.
(2) Thường xuyên theo dõi, đánh giá và kịp thời điều chỉnh dự án khi cần thiết
Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đối với các ban quản lý dự án, vì ban là cấp trực tiếp theo dõi, chỉ đạo, tổ chức thực hiện dự án, trong đó vai trò chủ yếu là giám đốc Ban quản lý dự án. Thường xuyên theo dõi, đánh giá và kịp thời đề xuất điều chỉnh dự án là khâu cuối cùng trong chu trình các hoạt động để thực hiện dự án có hiệu quả. Mục đích là kịp thời phát hiện những vướng mắc, khó khăn gây chậm chễ việc thực hiện dự án, phát hiện những sai sót do việc xây dựng dự án không chuẩn xác để kịp thời có biện pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện, đề xuất điều chỉnh làm cho dự án có hiệu quả. Theo dõi đánh giá dự án cần tập trung lưu ý các nội dung sau:
- Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đề ra cho dự án. Đây có thể coi là nhiệm vụ chính trị của dự án như diện tích trồng mới, diện tích chăm sóc bảo vệ, các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông nông thôn, cơ cấu vốn cho từng mục tiêu nhiệm vụ đã được nêu ra trong dự án;
- Giám sát đánh giá tiến độ giải ngân. Đây có thể coi là nhiệm vụ quan trọng để đáp ứng tiến độ thực hiện dự án;
- Giám sát chất lượng công trình. Đây là khâu quyết định đến hiệu quả dự án. Vì dự án không thể có hiệu quả khi chất lượng công trình xây dựng không đảm bảo;
- Giám sát việc thực hiện các qui định của nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm qui chế đấu thầu, các chế độ chi tiêu;
(3) Đẩy nhanh tiến độ giải ngân của dự án
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện dự án vì:
- Đảm bảo cho số vốn ký kết được thực hiện;
- Các hạng mục đầu tư nhanh chóng đi vào sử dụng sẽ phát huy tác dụng của dự án và không làm tăng chi phí đầu tư;
- Làm tăng lòng tin đối với các nhà tài trợ, để họ quan tâm hơn và tăng vốn tài trợ cam kết cho ngành nông nghiệp và PTNT nói chung, lĩnh vực Lâm nghiệp nói riêng;
- Để có thể đẩy nhanh tiến độ giải ngân các ban quản lý dự án cần phải làm tốt tất cả các khâu. Rút ngắn thời gian xử lý văn bản từ cấp Ban quản lý dự án đến Chủ đầu tư, Cơ quan chủ quản, việc này sẽ làm cho dự án được thực hiện nhanh hơn. Khẩn trương nghiệm thu, lập phiếu thanh toán để kiểm soát chi và giải ngân khối lượng công việc đã hoàn thành
(4) Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý dự án
- Các Ban quản lý dự án cần gấp rút đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ địa phương có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức, cũng như chủ động đào tạo một đội ngũ lao động lành nghề để đáp ứng nhu cầu hoạt động của các dự án trong lĩnh vực Lâm nghiệp.
- Cán bộ quản lý dự án ở Việt Nam nói chung và lĩnh vực Lâm nghiệp nói riêng còn chưa nhiều cán bộ tinh thông công việc. Chính tình trạng yếu kém đó là nguyên nhân gây ra những thua thiệt cho phía Việt Nam trong việc thực hiện các dự án, chương trình hỗ trợ phát triển vào lĩnh vực Lâm nghiệp;
- Để khắc phục được yếu kém trong đội ngũ cán bộ, trước mắt cần tăng cường mở nhiều khoá bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và các khoá đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý dự án nhất là đối với các cán bộ thuộc các Ban quản lý dự án tại các địa phương.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Thu hút nguồn vốn ODA đã và đang trở thành mục tiêu có tầm chiến lược cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt Nam còn là một nước nghèo đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy, việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài nói chung, ODA nói riêng là một tất yếu. Tuy nhiên, ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi cao, nên nó thường đi kèm với những điều kiện nhất định của các nhà tài trợ. Do vậy, vấn đề cân nhắc việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA sao cho có hiệu quả. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế cũng như độc lập chủ quyền của quốc gia, góp phần đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn 1993- 2008, cộng đồng quốc tế đã tài trợ khoảng 4,050 tỷ USD vốn ODA cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó lĩnh vực Lâm nghiệp khoảng 772,82 triệu USD. Nguồn vốn ODA đã song hành và đóng góp lớn vào công cuộc phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, Lâm nghiệp nói riêng như: trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng; xây dựng, nâng cấp các công trình lâm sinh và cơ sở hạ tầng nông thôn; xoá đói giảm nghèo; tăng cường hệ thống khoa học nông lâm nghiệp; giúp hoàn thiện thể chế và chính sách trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Bên cạnh những thành công, quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho lĩnh vực Lâm nghiệp còn một số hạn chế cơ bản như quy hoạch, định hướng tổng thể thu hút và sử dụng vốn ODA chưa hoàn chỉnh, hệ thống văn bản pháp qui chưa đồng bộ; trình độ và kinh nghiệm quản lý của các cán bộ dự án chưa cao; công tác quản lý, đánh giá, giám sát dự án còn nhiều yếu kém.
Nguồn vốn ODA nói chung, ODA của WB nói riêng vẫn là nguồn lực quan trọng cho phát triển Lâm nghiệp trong thời gian tới. Trong bối cảnh quốc tế nhiều biến động, cơ cấu và chính sách viện trợ cũng sẽ những thay đổi nhất định đòi hỏi lĩnh vực Lâm nghiệp phải nỗ lực nhiều trong việc nâng cao năng lực quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA đồng thời vạch ra định hướng chiến lược đảm bảo thuyết phục WB tiếp tục cung cấp nguồn ODA cho các dự án Lâm nghiệp.
5.2 Kiến nghị
Trong những năm tới tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động. Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ, trong đó có WB. Nhằm khắc phục tồn tại trong việc quản lý và thực hiện các chương trình dự án từ nguồn ODA của WB trong những năm qua, và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này cần phải có những giải pháp chủ yếu về rà soát và cải tiến công tác quy hoạch; thay đổi cơ chế quản lý đầu tư, quản lý nguồn vốn ODA để đảm bảo hài hoà thủ tục với các nhà tài trợ; hoàn thiện cơ chế tài chính liên quan đến quản lý các dự án ODA; đổi mới và tăng cường công tác quản lý của BNN-PTNT, UBND tỉnh tham gia dự án; nâng cao trách nhiệm của Ban quản lý dự án.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung làm tốt những công việc sau:
5.2.1 Đối với Chính phủ và các Bộ, Ngành
- Quán triệt thực hiện Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ, Thông tư số 03/2007/TT-BKH ngày 12/03/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các Ban quản lý chương trình, dự án ODA, Thông tư số 04/2007/TT-BKH ngày 30/7/2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và các văn bản pháp quy có liên quan nhằm đưa công tác thu hút và sử dụng ODA vào nề nếp, góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của WB trong các dự án Lâm nghiệp.
- Xây dựng kế hoạch hoạt động thực hiện Đề án định hướng thu hút và sử dụng ODA giai đoạn 2011- 2015.
- Tăng cường vai trò và đẩy mạnh hoạt động của Tổ công tác ODA của Chính phủ theo tinh thần Chỉ thị 17/2004/CT-TTg ngày 24/05/2004 của Thủ tường Chính phủ, xác định cơ chế phối hợp giữa Tổ công tác ODA của Chính phủ với các Bộ, ngành, địa phương và WB trong việc phát hiện và xử lý các vướng mắc trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án.
- Chính phủ và các Bộ, Ngành tiếp tục phối hợp chặt chẽ với WB đẩy nhanh quá trình hài hoà hoá quy trình thủ tục.
- MPI chủ trì phối hợp với các Bộ, Ngành và địa phương để phối hợp với Nhóm 6 ngân hàng (ADB, WB, JBIC, AFD, KFW, KEXIM) kiểm điểm sát sao tình hình thực hiện chương trình, dự án định kỳ và thống nhất Kế hoạch hành động để giải quyết kịp thời những khó khăn.
- Tiếp tục ưu tiên đầu tư vốn ODA cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và coi đó như một trong các trụ cột của thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ và phát triển kinh tế bền vững.
5.2.2 Đối với BNN-PTNT
- Trên cơ sở các kết quả đạt được tại Hội nghị CG 2009, BNN-PTNT và địa phương chủ động xây dựng chương trình, dự án trong lâm nghiệp yêu cầu tài trợ bằng nguồn vốn ODA của WB. Phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về ODA, đẩy mạnh công tác chuẩn bị chương trình, dự án, đàm phàm và ký kết các điều ước quốc tế về ODA trong lâm nghiệp.
- Sử dụng ngân sách nhà nước để xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi.
- Chỉ đạo sát sao, có kế hoạch cụ thể, đồng thời đôn đốc và giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA của WB trong lâm nghiệp, đảm bảo bố trí đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng, đơn giản hoá các thủ tục trình duyệt, đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, tái định cư và đấu thầu.
- Phối hợp với MPI và địa phương thành lập và vận hành hiệu quả hệ thống báo cáo, theo dõi và đánh giá ODA của WB trong lâm nghiệp ở các cấp.
- Tổ chức đào tạo, tăng cường năng lực về quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA ở các cấp, bao gồm cả đào tạo về quản lý và thực hiện dự án theo hướng ổn định và chuyên nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] BNN-PTNT và WB (2006), Báo cáo hoàn thành dự án Bảo vệ rừng.
[2] BNN-PTNT và WB (2007), Báo cáo hoàn thành dự án Bảo vệ và Phát triển những vùng đất ngập nước ven biển miền Nam Việt Nam.
[3] MBFP (2009), Báo cáo tình hình thực hiện dự án Dự án Phát triển Ngành Lâm nghiệp đến hết tháng 9/2009.
[4] MPI (2009), Báo cáo tổng hợp tình hình vận động, thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993-2008.
[5] MPI (2009), Báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA năm 2008.
[6] Bộ Công nghiệp (2009), Báo cáo Viện trợ phát triển chính thức (ODA) được và mất.
[7] WB (2008), Việt Nam đánh giá tình hình thực hiện dự án quốc gia 2007.
[8] ISG BNN-PTNT (2009), Báo cáo tại Hội nghị toàn thể ISG 2009 ODA cho phát triển nông nghiệp và nông thôn và kế hoạch 5 năm giai đoạn 2011 - 2015.
[9] ISG BNN-PTNT (2009), Các số liệu thống kê về các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA của Ngành nông nghiệp.
[10] BNN-PTNT (2001), Định hướng phát triển sử dụng vốn ODA đối với ngành Nông nghiệp và PTNT thời kỳ 2001 – 2010.
[11] Tổ công tác ODA của Chính phủ (2009), Hội nghị kiểm điểm chung tình hình tực hiện các dự án lần thứ 6 (JPPR VI).
[12] Chính phủ (2006), Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ Ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức.
[13] MPI (2007), Thông tư số 03/2007/TT-BKH ngày 12/3/2007 của MPI Hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ban quản lý chương trình, dự án ODA.
[14] MPI (2007), Thông tư số 04/2007/TT-BKH ngày 30/7/2007 của MPI Hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức.
[15] MPI (2007), Cẩm nang theo dõi và đánh giá.
[16] MPI (2007), Quyết định số 803/2007/QĐ-BKH ngày 30/7/2007 của Bộ trưởng MPI về việc ban hành chế độ báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA.
[17] Chính phủ (2007), Đề án định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006 – 2010.
[18] Thủ tường Chính phủ (2004), Chỉ thị 17/2004/CT-TTg ngày 24/5/2004 của Thủ tường Chính phủ về đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
[19] Hà Thị Ngọc Oanh (2006), Giáo trình Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội.
[20] Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[21] WB (2005), ODA trong Nông nghiệp và PTNT.
[22] WB (2008), Tăng cường nông nghiệp cho phát triển.
[23] WB (2006), Thúc đẩy công cuộc PTNT ở Việt Nam, Tăng trưởng, công bằng và đa dạng (Phần I, II, III, IV).
[24] Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 48/2008/QĐ-TTg ngày 3/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành hướng dẫn chung lập báo cáo nghên cứu khả thi dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức của nhóm 5 ngân hàng.
[25] BNN-PTNT (2004), Quyết định số 45/2004/QĐ-BNN ngày 30/9/2004 của Bộ trưởng BNN-PTNT về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ của nước ngoài trong ngành nông nghiệp và PTNT.
[26] BNN-PTNT (2009), Thông tư số 49/2009/TT-BNNPTNT ngày 04/8/2009 của BNN-PTNT Hướng dẫn Quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ của nước ngoài thuộc BNN-PTNT.
[27] Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia thuộc MPI (2007), Cần khoảng 20 tỷ USD vốn ODA từ nay đến 2010,
[28] Webside của các BNN-PTNT, MPI, MOF và các cơ quan quốc tế, trong nước liên quan đến nguồn vốn ODA.
Tiếng Anh
[29] WB (2009), Alain Barbu, WB Portfolio Management, Vietnam Porfolio Performance, implementation Issues and Recommendation.
[30] BNN-PTNT (2001), Completion Report for Red River Delta Water Resources Sector Project.
[31] WB (2003), Completion Report for Irrigation Rehabilitation Project.
[32] ADB (2008), Country Portfolio Review – 2008.
[33] KfW (2008), German Financial Cooperation with Vietnam.
[34] ADB and MPI (2009), Guidebook for ADB - Fundeed Project Processing and Implementing.
[35] WB (2008), Vietnam Country Portfolio. Performance Review 2007.
[36] WB (2008), Vietnam Rural Development Program Porfolio of World Bank Supported Projects.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHKT09025.doc