Tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn FDI của tỉnh Hải Dương đến năm 2015: ... Ebook Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn FDI của tỉnh Hải Dương đến năm 2015
78 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn FDI của tỉnh Hải Dương đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 2.1 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp giai đoạn 2006-2010 của tỉnh Hải Dương - 26 -
Bảng 2.2: Vốn FDI tại tỉnh Hải Dương được cấp giấy phép từ 2001 đến 2009. (chỉ tính các dự án có hiệu lực) - 28 -
Bảng 2.3 Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư tại Hải Dương - 31 -
Bảng 2.4 Tình hình thực hiện vốn FDI của Hải Dương giai đoạn 2001-2009 - 32 -
Bảng 2.5 Các khu công nghiệp được quy hoạch tại Hải Dương - 34 -
Bảng 2.6 Đóng góp của DN đầu tư nước ngoài vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh giai đoạn 2001-2009 - 42 -
Bảng 2.7 Vốn đầu tư ở Hải Dương giai đoạn 2001-2008 - 44 -
Bảng 2.8 Chỉ số phát triển tổng sản phẩm trong tỉnh giai đoạn 2001-2008 - 45 -
Hình 1.1 Đóng góp của khu vực FDI trong GDP và cơ cấu kinh tế theo khu vực ngành của Việt Nam - 10 -
Hình 2.1 Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài điển hình vào Hải Dương (tính đến hết 12/2009) - 29 -
Hình 2.2 Cơ cấu kinh tế Hải Dương năm 2000 - 40 -
Hình 2.3 Cơ cấu kinh tế Hải Dương năm 2005 - 40 -
Hình 2.4 Cơ cấu kinh tế Hải Dương năm 2009 - 41 -
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mạnh mẽ và rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả những nước và vùng lãnh thổ từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách đóng cửa biệt lập với thế giới là không thể tồn tại được. Nó chỉ làm kìm hãm quá trình phát triển của xã hội, của quốc gia đó. Một quốc gia khó có thể tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu của khoa học và kinh tế đã kéo con người xích lại gần nhau hơn và dưới tác động quốc tế buộc các nước phải mở cửa, giao lưu với các nước trên thế giới.
Mặt khác trong xu hướng mở cửa, các nước đặc biệt là các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) đều muốn thu hút được nhiều nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Investment): vì thế các nước đều muốn tạo ra những điều kiện hết sức ưu đãi để thu hút được nhiều nguồn vốn về nước mình. Hơn nữa, nước ta lại là nước có xuất phát điểm thấp, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, tích lũy nội bộ thấp… Trước tình hình đó, Việt Nam đã tạo nhiều giải pháp nhằm thu hút nhiều nguồn vốn khác nhau đặc biệt là nguồn FDI. Tháng 12 năm 1987, đã ban hành luật đầu tư nước ngoài và từ đó đến nay đã thu hút được trên 80 vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó có các tập đoàn lớn như: Sony, Honda, Ford…Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta như: giải quyết vấn đề về vốn, công nghệ, nâng cao trình độ quản lý…
Kinh tế Hải Dương càng ngày có những bước tiến triển trên con đường hội nhập nền kinh tế thế giới trong đó không thể không nhắc tới vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phần kinh tế này thường cao hơn so với thành phần kinh tế khác và nó góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế tỉnh. Nó đã góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, có tác động lan tỏa tích cực tới các ngành kinh tế khác…
Nhận thấy nguồn vốn đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng cũng như sự đóng góp to lớn của nó vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta nói chung và của tỉnh Hải Dương nói riêng trong các năm qua, do vậy em chọn đề tài: “ Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh Hải Dương đến năm 2015 ”. Bài viết mang cái nhìn tổng quan về thực trạng thu hút nguồn vốn FDI của tỉnh Hải Dương nhằm đưa ra những thành tựu đã đạt được và các vấn đề còn tồn tại trong việc sử dụng nguồn vốn này. Dựa vào cơ sở đó nhằm đưa ra các giải pháp để ngày càng thu hút được nguồn vốn FDI đầu tư vào tỉnh và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này, đồng thời tận dụng tối đa tác động tích cực của nó vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Bài viết gồm có 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận về FDI
Chương II: Đánh giá về thu hút FDI tại Hải Dương trong giai đoạn 2000-2009
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút FDI tại Hải Dương đến năm 2015
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các anh chị tại phòng Kinh tế đối ngoại, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Do khối lượng kiến thức có hạn nên bài viết còn nhiều khiếm khuyết, em mong được sự quan tâm và góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm và đặc điểm của FDI
1.1 Khái niệm
Trong lịch sử thế giới đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tồn tại từ rất lâu, ngay từ thời tiền tư bản. Chủ yếu là đầu tư vốn sang các nước đang phát triển để khai thác đồn điền nhằm cung cấp nguyên liệu cho những nước ở chính quốc. Từ sau chiến tranh thế giới hai FDI đã có sự thay đổi hướng đầu tư của các nước phát triển và hoạt động này diễn ra thường xuyên hơn giữa các quốc gia. Ngày nay, FDI trở thành một trong tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả đều có đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần khai thác để hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Ngay cả các quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật, dưới tác động của khoa học công nghệ hiện nay cũng không thể tự mình giải quyết được các vấn đề kinh tế, xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra. Chỉ có con đường hợp tác trong đó có FDI là loại hình đầu tư, hợp tác có hiệu quả.
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dưới đây là một số quan điểm về FDI :
Theo Diminik Salavatore trong cuốn Internationnal Economic 1995 : đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư thực vào các nhà máy, các hàng hóa, đầu tư đất đai, hàng tồn kho mà ở đó quyền quản lý và tư bản cùng tồn tại và nhà đầu tư giữ quyền quản lý sử dụng vốn đầu tư đó.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) : đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong quản lý DN đó.
Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO) : đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (chủ đầu tư) có được một tài sản ở nước khác (nước nhận đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con'' hay chi nhánh công ty.
Tóm lại, FDI là một trong các hình thức đầu tư quốc tế mà các nhà đầu tư (tư nhân, có thể có chính phủ tham gia đầu tư) ở nước ngoài bỏ vốn (tiền, công nghệ, chuyên gia..) của họ vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, để trực tiếp hoặc cùng vời nước sở tại (nước nhận đầu tư) điều hành đối tượng bỏ vốn đầu tư, hưởng lợi nhuận và cùng chia sẻ rủi ro.
1.2 Đặc điểm của FDI
FDI là một bộ phận của đầu tư nước ngoài, phạm vi hoạt động ra khỏi lãnh thổ của quốc gia đó. Do đó, trong quá trình hoạt động các nhà đầu tư phải tuân thủ các quy định pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và FDI mang các đặc điểm sau :
Thứ nhất, nhà đầu tư cần phải tuân theo các quy định, tôn trọng văn hóa, phong tục tập quán và pháp luật của chính nước sở tại. Tuy nhiên khác với nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) là FDI không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào về chính trị giữa hai quốc gia (giữa quốc gia đi đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư) với nhau. Thực chất nó chỉ đơn thuần là hoạt động bỏ vốn đầu tư và thu lợi nhuận của nhà đầu tư, chỉ chịu sự ràng buộc về mặt kinh tế, không chịu ràng buộc về chính trị.
Thứ hai, FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của Chính phủ, doanh nghiệp hoặc tư nhân nước ngoài. Nhà đầu tư sẽ trực tiếp quản lý, tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất tại nước tiếp nhận đầu tư. Ngoài ra thì nhà đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Lợi nhuận của nhà đầu tư thu được sẽ phụ thuộc vào khả năng sản xuất kinh doanh của lĩnh vực được đầu tư. Thông thường, lợi nhuận này sẽ không ổn định.
Thứ ba, quyền quản lý, lợi nhuận được hưởng và trách nhiệm của nhà đầu tư được tuân theo tỷ lệ góp vốn. Nghĩa là, nhà đầu tư nào có tỷ lệ vốn góp cao thì nhà đầu tư đó sẽ nắm quyền quản lý. Do vậy thông qua tỷ lệ này, nhiều lĩnh vực kinh doanh không muốn nhà đầu tư nắm quyền hạn chính thì phải quy định tỷ lệ đóng góp tối đa cho nhà đầu tư đó. Khi đó, nắm quyền chính trong quản lý là các nhà đầu tư trong nước chứ không phải là nhà đầu tư nước ngoài, đó là để thực hiện mục tiêu chính trị khác.
Thứ tư, mục tiêu chính luôn được các nhà đầu tư quan tâm đó là lợi nhuận. Do vậy, nguồn vốn FDI sẽ tập trung nhiều ở các ngành, lĩnh vực mang lại tỷ suất lợi nhuận cao. Các nhà đầu tư thường đầu tư vào các lĩnh vực mới tại nước sở tại (nhưng là lĩnh vực cũ của nước đầu tư ) để tìm kiếm thị trường mới hoặc dựa trên những lợi thế về chi phí rẻ của nước tiếp nhận đầu tư như : chi phí nhân công, chi phí tài nguyên…để thu được lợi nhuận cao nhất có thể.
Thứ năm, tồn tại hai chiều trong hoạt động đầu tư nước ngoài, nghĩa là một nước, quốc gia có thể tiếp nhận đầu tư từ nước khác nhưng đồng thời cũng có thể đầu tư sang nước khác. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nó khác với nguồn vốn viện trợ, nguồn vốn viện trợ thường từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, nhưng FDI thì có thể từ nước đang phát triển sang các nước phát triển và ngược lại. Tại sao lại có như vậy ? Bởi các nước có kinh tế phát triển cũng chưa thể giải quyết được hết các vấn đề kinh tế-xã hội. Còn có nhiều lĩnh vực mà các nhà đầu tư không muốn tham gia do tỷ suất lợi nhuận thấp (so với nước đó nhưng tỷ suất này vẫn cao hơn sơ với các nước đang phát triển). Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho dòng vốn FDI chảy vào các nước phát triển.
Các hình thức của FDI
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song có những hình thức chủ yếu sau đây :
Một là hợp đồng hợp tác kinh doanh : là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp nhân. Hình thức đầu tư này xuất hiện sớm ở Việt Nam và là hình thức đầu tư nước ngoài dễ thực hiện và có ưu thế lớn trong việc phối hợp sản phẩm. Các sản phẩm có kỹ thuật cao đòi hỏi phải có sự kết hợp thế mạnh của nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau. Đây cũng thể hiện xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh của sự phân công lao động chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Hai là doanh nghiệp liên doanh : là loại hình DN do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi và cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. DN liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua hợp tác liên doanh với các đối tác Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Việt Nam trên thị trường mà họ chưa quen biết trong quá trình kinh doanh của họ tại Việt Nam. Mặt khác, do môi trường đầu tư của Việt Nam còn có nhiều bất chắc nên các nhà đầu tư không muốn gánh chịu rủi ro mà muốn các đối tác Việt Nam cùng chia sẻ với họ nếu có. Liên doanh với đối tác bản địa, các nhà đầu tư yên tâm hơn trong kinh doanh hơn vì họ đã có một người bạn đồng hành, nếu có khó khăn lien quan tới pháp luật trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ cũng giải quyết dễ dàng hơn.
Ba là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài : là DN thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước sở tại,trên cơ chế hoạt động tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân. Hình thức này ở giai đoạn đầu chưa có nhiều, nhưng xu hướng hiện nay thì các dự án đầu tư theo hình thức này ngày càng mạnh mẽ.Và đang có hiện tượng chuyển đổi từ hợp đồng hợp tác kinh doanh sang doanh nghiệp 100% có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài những hình thức đầu tư nêu trên, còn một vài hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài khác như BOT (xây dựng- kinh doanh- chuyển giao), BTO (xây dựng – chuyển giao – kinh doanh), BT (xây dựng – chuyển giao)...
Các nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút nguồn vốn FDI
Trong quá trình sử dụng FDI có nhiều nhân tố khác nhau tác động lên nó. Có nhiều nhân tố giúp tăng hiệu quả sử dụng nhưng cũng có những nhân tố làm kìm hãm hiệu quả hoạt động của nguồn vốn này. Bao gồm :
3.1 Vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên của nước tiếp nhận đầu tư.
Vị trí địa lý bao gồm: các yếu tố về tự nhiên, địa hình, khí hậu, nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đai. Vị trí địa lý có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động và lĩnh vực đầu tư. Nó quyết định đến cơ cấu nguồn vốn đối với từng thành phần kinh tế và số lượng ngành nghề sản xuất, quyết định tới cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh của các nhà đầu tư . Vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho việc giao lưu, trao đổi hàng hoá giữa trong và ngoài nước diễn ra một cách tích cực hơn, giảm bớt được chi phí sản xuất cho nhà sản xuất và do đó làm tăng khoản lợi nhuận thu được của nhà đầu tư. Đi kèm cùng với yếu tố vị trí địa lý, nhà đầu tư nước ngoài cũng luôn quan tâm tới điều kiện tự nhiên của nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì điều kiện tự nhiên là tác động khách quan vào quá trình sản xuất, chúng ta chỉ có thể hạn chế tác động đó chứ không thể làm thay đổi tác động đó. Do đó cần hiểu rõ điều kiện tự nhiên để nắm bắt được tác động tích cực để tận dụng và tác động tiêu cực để phòng tránh, giảm thiểu tới mức tối đa độ rủi ro do điều kiện tự nhiên mang lại (nhất là các ngành phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên như : ngành trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản...).
3.2 Môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng… có thể nói rằng một môi trường ổn định và lành mạnh là một trong những nhân tố quan trọng nhất để các nhà đầu tư phân tích, đánh giá thị trường và ra các quyết định đầu tư. Đây là điều kiện chi phối mạnh mẽ ý định và hành vi của nhà đầu tư nước ngoài. Một nước có môi trường vĩ mô ổn định có tác động tích cực và lan tỏa trong phát triển kinh tế xã hội. Thông thường nguồn vốn đầu tư thường ổn định và có xu hướng gia tăng, hiệu quả sản xuất cao hơn mang lại lợi ích nhiều hơn không chỉ đối với nhà đầu tư mà còn đối với nền kinh tế nước sở tại. Tuy nhiên, nếu môi trường vĩ mô không ổn định, thường xuyên phải đối mặt với tình trạng lạm phát, khủng hoảng và thất nghiệp, sẽ tạo ra tâm lý không tốt cho các nhà đầu tư về quyết định đầu tư và kinh doanh của mình. Nhà đầu tư sẽ e ngại, thậm chí sẽ không dám đầu tư vào nước có môi trường kinh tế vĩ mô không tốt. Do đó, làm cho lượng vốn FDI giảm dần và hiệu quả hoạt động kinh doanh giảm sút.
3.3 Nguồn lực phục vụ cho các dự án dược đầu tư
Nguồn lực phục vụ cho việc triển khai các dự án đầu tư bao gồm: lực lượng lao động, tài chính, tài nguyên thiên nhiên…tác động trực tiếp đến quá trình sử dụng nguồn vốn FDI.
Quy mô, giá cả và chất lượng lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI. Bởi con người là chủ thể của các quan hệ xã hội, là “yếu tố động” tác động lên tư liệu sản xuất, cải tạo tư liệu lao động nâng cao sự phát triển của tư liệu lao động lên tầm cao mới, tiến bộ hơn. Vì lẽ đó, lao động ở nước sở tại được các nhà đầu tư hết sức quan tâm. Một quốc gia có đội ngũ lao động dồi dào, có trình độ cao thường thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Một đội ngũ lao động có trình độ thấp, kỷ luật lao động không tốt thì dù giá nhân công có rẻ các nhà đầu tư vẫn phải cân nhắc ra quyết định đầu tư, bởi lẽ hiệu quả và năng suất lao động của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Vì vậy, nước tiếp nhận đầu tư phải chủ động, tích cực nâng cao trình độ dân trí của người lao động thông qua các chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo nhằm để không chỉ đáp ứng nhu cầu lao động cho nhà ĐTNN mà còn tiến tới chủ động nắm bắt khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến để có thể tự mình đứng vững xây dựng và quản lý xã hội trong tương lai.
Đầu tư không chỉ hướng tới nguồn lao động mà còn hướng tới các nguồn lực khác trong nền kinh tế như cơ sở hạ tầng, nguồn tài nguyên, tài chính... Các hoạt động của nhà đầu tư sẽ diễn ra một cách dễ dàng hơn khi nước sở tại có một hệ thống cơ sở hạ tầng như: điện, nước, hệ thống giao thông, xử lý chất thải …phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Nếu một quốc gia vững mạnh về tài chính, giàu tài nguyên thiên nhiên là điều kiện tốt để các nhà đầu tư tham gia đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
3.4 Các điều kiện về chính trị - xã hội khác
Những điều kiện chính trị khác bao gồm các yếu tố về an ninh quốc phòng, môi trường pháp lý, phong tục tập quán, chính sách phát triển kinh tế-xã hội ... Ở Việt Nam sự tồn tại của một đảng duy nhất với quan diểm nhất quán tạo ra sự ổn định về tâm lý cho các nhà đầu tư, họ không phải chịu áp lực nhiều trong việc thay đổi cơ chế hoạt động của bộ máy chính quyền. Không vấp phải sự tranh đấu giữa các chính đảng gây bất ổn chính trị. Sự ổn định về pháp lý giúp cho các doanh nghiệp hoạt động một cách suôn sẻ. Sự ổn định trong chính sách pháp luật có tác động mạnh tới quá trình sản xuất, sự phát triển của doanh nghiệp, đến cơ cấu sản phẩm, khối lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Đồng thời phong tục tập quán có tác động mạnh tới sản phẩm tiêu dùng, cơ cấu của doanh nghiệp. Khi nhà đầu tư hiểu đúng được thói quen sinh sống, tập quán của người dân thì sẽ đưa ra các chính sách phát triển và đầu tư đúng hướng, đồng thời tạo được mối quan hệ tốt với người dân. Địa phương có phong tục ổn định, lành mạnh, không có những thủ tụ, luật lệ hà khắc, có sự thông thoáng trong quan niệm sống sẽ góp phần tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, những chính sách được sử dụng đối với FDI cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc thu hút nguồn vốn FDI. Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội quy định mức độ tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Kế hoạch hóa phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia xác định rõ các mục tiêu mà quốc gia đó cần đạt được, vươn tới trong một giai đoạn nhất định. Nó sẽ quyết định việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, nó quyết định vai trò của từng thành phần kinh tế từ đó quy định được mức độ tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tùy thuộc vào lĩnh vực ưu tiên của mỗi quốc gia và mỗi địa phương mà có chính sách ưu tiên đối với các nhà đầu tư để thu hút họ vào những lĩnh vực phát huy thế mạnh của địa phương, của quốc gia mình. Nếu các chính sách đó thuận lợi thì giúp cho hoạt động sản xuất của các nhà đầu tư đạt hiệu quả cao và các nhà đầu tư cũng dễ dàng hơn trong việc ra quyết định đầu tư.
II. Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế-xã hội
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của quốc gia, bao gồm cả nước tiếp nhận đầu tư và cả nước đi đầu tư. Đối với nước tiếp nhận đầu tư (trong đó có Việt Nam) FDI trong những năm qua đã có vai trò tích cực trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Nó góp phần vào làm tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách, giảm thâm hụt cán cân thương mại… Đồng thời thực hiện các mục tiêu xã hội như: giải quyết bài toán việc làm, nâng cao mức thu nhập của người dân từ đó dẫn đến sự tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe…Nhưng bên cạnh những tác động tích cực mà nguồn vốn FDI tác động tới nền kinh tế thì cũng có không ít tác động tiêu cực nếu chúng ta không có nhìn nhận đúng đắn về nguồn vốn này.
Với phát triển kinh tế
Trước tiên FDI góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn của các nước tiếp nhận đầu tư. Hầu hết các nước có thu nhập thấp đều rơi vào cái ‘vòng luẩn quẩn’. Thu nhập thấp thì tiết kiệm thấp dẫn đến đầu tư thấp, đầu tư thấp lại dẫn đến thu nhập thấp. Bên cạnh đó, trong điều kiện khoa học thế giới phát triển như giai đoạn hiện nay, việc đầu tư mua, đổi mới công nghệ sản xuất đang là vấn đề cấp thiết. Nhưng muốn ‘chạy đua’ công nghệ trong quá trình sản xuất như vậy thì cần có nguồn vốn lớn, mà thực tế nguồn vốn trong nước không đáp ứng đủ vì kinh tế phát triển yếu, tích lũy nội bộ không cao. Chính vì vậy mà nguồn vốn FDI thực sự là cần thiết để giải bài toán thiếu vốn của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Từ khi phát hành bộ luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam phần nào thoát khỏi tình trạng thiếu hụt vốn đầu tư dần nâng cấp các cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhờ nguồn vốn này các nước tiếp nhận có thể tiến hành các hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực mới, mở rộng hoạt động sản xuất mà trước đây chưa có điều kiện phát triển.
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh phát triển kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Thật vậy, mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư, nhờ đó các nhân tố khác như tổng số vốn lao động được sử dụng cũng tăng, nhưng mức tăng của lao động nhỏ hơn mức tăng của sản lượng, do đó năng suất lao động tăng. Năng suất lao động là yếu tố có vai trò quyết định để tăng tỷ trọng của ngành trong nền kinh tế. Tỷ trọng của ngành thay đổi tức là cơ cấu kinh tế đã được thay đổi. Và sự thay đổi này theo xu thế chung của các nước đang phát triển, đó là tăng tỷ trọng của ngành sử dụng nhiều vốn, giảm tỷ trọng của ngành sử dụng nhiều lao động. Trong những năm gần đây Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng kể trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Hình 1.1 Đóng góp của khu vực FDI trong GDP và cơ cấu kinh tế theo khu
vực ngành của Việt Nam
Nhìn vào hình 1.1 có thể nhận thấy, cùng với mức đóng góp của khu vực FDI trong kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của khu vực công nghiệp. Kết quả này thể hiện tăng hiệu quả và chất lượng phát triển kinh tế do năng suất lao động của khu vực công nghiệp cao góp phần tăng năng suất chung của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam.
Trong suốt hai thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2007, khu vực FDI đóng góp 13,26% trong GDP (giá so sánh 1994) so với tỷ lệ 3,76% năm 1991. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất. Tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. Mức đóng góp của khu vực FDI vào GDP của Việt Nam ngày càng cao đã tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu ngành, tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP có xu hướng giảm dần và tỷ trọng công nghiệp ( nhất là công nghiệp chế biến ) và dịch vụ có xu hướng tăng dần ( hình 1.1)
Ba là, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Có thể nói công nghệ là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng và sự phát triển của mọi quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò này càng được khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cường khả năng công nghệ luôn là một trong những mục tiêu ưu tiên phát triển hàng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn mà còn phải có một trình độ phát triển của khoa học -kỹ thuật. Đầu tư nước ngoài (đặc biệt là FDI) được coi là nguồn vốn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư. Vai trò này thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và sự phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đường FDI thường được thực hiện thông qua các công ty xuyên quốc gia (TNC), dưới hình thức chuyển giao trong nội bộ các chi nhánh của một TNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang nước tiếp nhận đầu tư (nhất là các nước đang phát triển được thông qua các doang nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh mà bên nhà nước nắm phần lớn cổ phần dưới các hạng mục chủ yếu như tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ marketing... Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nước ngoài (nhất là ở các doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nước học được cách thiết kế, chế tạo từ công nghệ gốc, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện của nước mình. Đây là một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với việc phát triển công nghệ ở các nước đang phát triển.
Bốn là, tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Năm là, góp phần cải thiện cán cân thương mại, huy động khối lượng ngoại tệ lớn cho phát triển kinh tế. FDI có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sản lượng xuất khẩu và nhờ đó cải thiện được cán cân thanh toán. Xuất khẩu là một biện pháp quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, đối với các nước đang phát triển thì cán cân xuất nhập khẩu luôn trong tình trạng thâm hụt, tức là giá trị hàng nhập khẩu lớn hơn giá trị hàng xuất khẩu. FDI đã góp phần hạn chế tình trạng thâm hụt.
Sáu là, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. FDI làm tăng nguồn thu cho ngân sách thông qua những khoản thu từ thuế. Ta thấy cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước bao gồm: thu từ kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các nguồn thu khác. Dòng vốn FDI hiện nay có xu hướng ngày càng gia tăng, kéo theo tỷ trọng kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng và do đó cơ cấu nguồn thu của ngân sách nhà nước cũng có những biến đổi nhất định. Nguồn thu từ các thành phần kinh tế Nhà nước có xu hướng giảm, kinh tế đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng. Nhưng tổng thu của ngân sách nhà nước tăng lên, giúp thực hiện các khoản chi của ngân sách nhằm bảo đảm cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ xã hội khác.
Với phát triển xã hội
Ngoài vai trò đóng góp vào phát triển kinh tế thì FDI cũng có vai trò quan trọng trong phát triển các lĩnh vực xã hội. Điều đó được thể hiện:
FDI góp phần giải quyết việc làm và cải thiện đời sống của người dân lao động. Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội và mức tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao độngvà các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng. FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra việc làm thông qua vệc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ hội việc làm trong các tổ chức khác khi nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hoạt động gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến. Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn góp phần quan trọng với phát triển giáo dục nước nhà trong các lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà đầu tư đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết bị giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước đầu tư, tổ chức các chương trình phổ nhiều lao động được đi đào tạo ở nước ngoài). Đồng thời FDI thông qua đó nâng cao năng lực quản lý của nước sở tại theo nhiều hình thức như các khoá học chính quy, không chính quy và học thông qua làm.
Tóm lại, FDI đem lại lợi ích về tạo công ăn việc làm. Đây là một tác động kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
Bên cạnh đó, FDI góp phần thực hiện các vấn đề môi trường, cải thiện môi trường nước nhận đầu tư. Khi thực hiện các hoạt động đầu tư tại nước sở tại thì các nhà đầu tư thường mang những công nghệ cao hơn công nghệ ở nước đó để thực hiện hoạt động đầu tư. Đây là yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Bởi công nghệ cao gần tương đồng với công nghệ ‘sạch’, công nghệ cao giúp giảm thiểu được lượng khí thải, chất thải, giảm ô nhiễm môi trường. Thông thường các DN có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả tốt hơn so với số đông các DN trong nước vì có khả năng tài chính và khả năng tiếp cận với các kỹ năng quản lý môi trường. ĐTNN đã tác động tích cực tới kết quả môi trường của bạn hàng cung cấp đầu vào và các công ty vệ tinh thông qua việc hỗ trợ, tư vấn về hệ thống quản lý môi trường hoặc các giải pháp xử lý môi trường. Thông qua các đối tác liên doanh, các đối tác Việt Nam có thể học hỏi, được hỗ trợ và tư vấn để cải thiện kết quả môi trường.
Tác động tiêu cực của FDI
FDI có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của nước nhận đầu tư nhưng FDI cũng có mặt trái của nó.
Thứ nhất, FDI làm tăng sự lệ thuộc của nước sở tại vào nước ngoài về._. vốn, công nghệ và mạng lưới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Những nước tiếp nhận đầu tư thường là các nước có trình độ công nghệ thấp, lạc hậu. Trong khi đó các nhà ĐTNN lại ở các nước đang phát triển và sử dụng công nghệ hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm lớn nên hầu hết công nghệ sản xuất đều là nhập khẩu và đôi khi còn phải nhập khẩu hoàn toàn nguyên liệu. Bởi vậy, việc những nước tiếp nhận đầu tư ngày càng phụ thuộc sâu vào đầu tư nước ngoài là điều không thể tránh khỏi. Do đó các quốc gia đang phát triển phải nhận thức được vấn đề này và giải quyết nó bằng cách nâng cao năng lực phát triển của chính mình theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước.
Thứ hai, nước tiếp nhận đầu tư có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghiệp của những nước phát triển. Một thực tế là, kỹ thuật mới, công nghệ hiện đại chuyển giao cho các công ty 100% vốn nước ngoài, trong khi công nghệ hạng hai, hạng ba thấp hơn lại được chuyển giao cho các nước tiếp nhận đầu tư thông qua hình thức liên doanh hoặc bán bản quyền. Hơn nữa, do trình độ yếu kém của nước sở tại nên công nghệ thường được đánh giá cao hơn mức bình thường. Mặc dù thiết bị, công nghệ đó có khi hiện đại hơn so với thiết bị công nghệ đang sử dụng của nước sở tại nhưng nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghiệp của các nước phát triển là điều có thể nhìn thấy được trong tương lai. Vấn đề đặt ra là phải làm sao để nắm được công nghệ “gốc’, thanh lọc và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ thẩm định dự án; đa dạng hóa nguồn ĐTNN ngay trong từng ngành công nghiệp và qua đó chọn lọc được kỹ thuật tối ưu, nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ của các nước chủ nhà.
Thứ ba, không phải nhà đầu tư nào cũng đầu tư để thu lợi nhuận, trong số họ không ít cá nhân, tổ chức dưới danh nghĩa tiến hành hợp tác kinh doanh nhưng thực tế lại thực hiện các mục tiêu chính trị. Họ lợi dụng FDI để can thiệp bất lợi vào nền chính trị của nước chủ nhà, hoạt động tình báo, gây rối an ninh chính trị. Trong thế giới đa cực và sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các hoạt động tình báo diễn ra ngày càng tinh vi hơn, đòi hỏi các quốc gia phải luôn tỉnh táo trong quan hệ đối ngoại.
Thứ tư, xuất hiện nguy cơ rửa tiền. Theo cảnh báo của WB thì Việt Nam (một trong các nước tiếp nhận lượng lớn nguồn vốn FDI) sẽ bị các tổ chức rửa tiền quốc tế chọn làm mục tiêu vì hệ thống thanh tra, giám sát, hệ thống kế toán và tìm hiểu khách hàng ở nước ta còn kém phát triển, mức độ sử dụng tiền mặt và các luồng chuyển tiền không chính thức còn cao. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trên con đường mở cửa kinh tế và được đánh giá là nền kinh tế có tính chất mở hàng đầu thế giới. Việc kiểm soát lỏng lẻo các dòng tiền vào ra đã tạo điều kiện thuận lợi để tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền. Nguồn vốn FDI có thể là một kênh thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động rửa tiền. Các tổ chức phi pháp có thể tiến hành đầu tư vào nước ta với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng thực chất không phải để hoạt động mà nhằm hợp pháp hóa các khoản tiền bất hợp pháp.
Ngoài một số tác động tiêu cực trên còn có một số những hạn chế do FDI mang lại: Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thu hút một số lượng lớn lao động có trình độ tay nghề cao, các cán bộ chuyên môn trẻ có năng lực, đồng thời với quy mô công ty lớn, nhiều vốn đã và đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặc khác, các doanh nghiệp nước ngoài lạm dụng quá đáng sức lao động của công nhân, tạo chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo sâu sắc, là nguyên nhân gây nên tệ nạn xã hội và xung đột xã hội.
III. Kinh nghiệm thu hút FDI của một số địa phương
Kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thì các địa phương đã thực sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Các đại phương đã dần khai thác các hoạt động đầu tư nước ngoài vào thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ở tại mỗi địa phương đã có những chính sách và biện pháp riêng để khai thác thế mạnh của thành phần kinh tế này, cũng như tận dụng và phát huy thế mạnh của địa phương đó trong phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Thu hút FDI của tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh, nằm liền kề Thủ đô Hà Nội có vị trí địa kinh tế thuận lợi chính là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu với các vùng kinh tế trọng điểm trong nước, khu vực và quốc tế. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 tỉnh Bắc Ninh cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp, Bắc Ninh chủ trương thu hút các nguồn vốn đầu tư trong đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong các nguồn vốn quan trọng. Với chủ trương như vậy, trong giai đoạn 2001-2009, tỉnh Bắc Ninh đã ban hành các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư nhằm thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư vào tìm hiểu cơ hội đầu tư tại tỉnh Bắc Ninh. Điển hình là một số chính sách sau :
Thứ nhất, tỉnh Bắc Ninh đã áp dụng, thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết các thủ tục hành chính. Theo ông Ngô Sĩ Bích, Phó Giám đốc Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Ninh, quy trình "một cửa" với những trợ giúp tối đa từ các cơ quan quản lý địa phương là nguyên nhân của thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Bắc Ninh. Cơ chế “một cửa” trong hoạt động cấp giấy phép đầu tư cho lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, giải quyết các thủ tục hành chính sau cấp phép đầu tư, tạo điều kiện cho nhà đầu tư với thời gian nhanh nhất có thể triển khai dự án, đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh; tạo môi trường đầu tư thông thoáng và thuận tiện.
Thứ hai, đẩy nhanh công tác xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạo cơ sở hạ tầng cho các nhà đầu tư khi tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tại tỉnh được thuận lợi.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp khác. Nâng cao chất lượng đào tạo, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án đã được phê duyệt; Tạo điều kiện thu hút các trường dạy nghề, cao đẳng, đại học đầu tư tại Bắc Ninh; Thực hiện hỗ trợ đào tạo nghề từ nguồn ngân sách tỉnh.
Với những chính sách sử dụng hiện nay như vậy thì Bắc Ninh đã có những bước đầu thu được những thành công nhất định. Tỉnh đã xây dựng được nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp trong đó điển hình có 2 khu công nghiệp lớn là Tiên Sơn và Quế Võ. Tỉnh cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào đầu tư tại tỉnh với các dự án đầu tư có quy mô lớn. Điển hình là dự án đầu tư của Canon tại Bắc Ninh với nguồn vốn đầu tư hơn 100 triệu USD, khi đi vào hoạt động sẽ có trị giá xuất khẩu hàng năm lên tới 1,6 tỷ USD. Đây là một bước đột phá mới của một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ trong công tác thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó nguồn vốn FDI còn đóng góp vào việc thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động và các vấn đề xã hội khác trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, một thực tế ở Bắc Ninh cũng như tồn tai ở nhiều địa phương khác đó là tình trạng thiếu đất canh tác trong nông nghiệp khi rất nhiều diện tích đất nông nghiệp được sử dụng để xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Phần lớn diện tích đất đưa vào trong công nghiệp là đất đai màu mỡ trong khi nhiều diện tích đất tại tỉnh chưa được sử dụng hợp lý, đất dành cho nông nghiệp kém màu mỡ. Ta có thể thấy, đó là do công tác quy hoạch đất của tỉnh còn nhiều hạn chế và chưa được hợp lý, ảnh hưởng đến cơ cấu thu của tỉnh vì tỉnh xuất phát từ ngành nông nghiệp. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động dễn ra còn chậm, ảnh hưởng lớn tới đời sống của người lao động.
Thu hút FDI tại tỉnh Hưng Yên
Hiện Hưng Yên có 176 dự án FDI đầu tư vào địa bàn trong đó có 78 dự án của các nhà đầu tư Hàn Quốc. Sở dĩ Hưng Yên là “điểm đến” hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài bởi đây không chỉ là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có thương cảng quốc tế sầm uất trong lịch sử mà Hưng Yên còn giầu tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, giao thông và nguồn nhân lực. Đặc biệt, tới đây một số công trình trọng điểm cấp quốc gia được đầu tư và đưa vào hoạt động như: đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, khu Đại học Phố Hiến… sẽ là động lực quan trọng đưa Hưng Yên lên một vị trí cạnh tranh cao hơn trong môi trường đầu tư. Tận dụng được lợi thế của mình, tỉnh đã kêu gọi các nhà đầu tư tham gia vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho phát triển kinh tế -xã hội, đồng thời giảm các áp lực trong trường hợp không có đủ vốn để đầu tư.
Mặt khác trong những năm qua, Hưng Yên đã rất nỗ lực trong việc cải cách thủ tục hành chính, “trải thảm đỏ” trong thu hút đầu tư, đặc biệt là những dự án có quy mô lớn, công nghệ sản xuất sạch và hiện đại. Tỉnh đã có những hỗ trợ cần thiết và kịp thời khi nhà đầu tư gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện liên quan tới các thủ tục hành chính. Giám sát và yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đúng pháp luật Việt Nam cũng như quy định của tỉnh, đặc biệt là việc đóng thuế và chấp hành các quy định về môi trường, bảo vệ môi trường.
Với các chính sách thực hiện trên thì trong thời gian qua kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Hưng Yên có những thành tựu đáng kể như:
Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký luôn được nâng cao, thời gian để các dự án đi vào hoạt động được rút ngắn. Giá trị gia tăng cao so với các thành phần kinh tế khác, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh; tăng nguồn thu cho ngân sách tỉnh; giải quyết việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp… Có nhiều dự án đầu tư có vốn lớn, công nghệ cao góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Thu nhập bình quân của người lao động được nâng cao, do đó đời sống nhân dân được cải thiện.
Thu hút FDI tại Vĩnh Phúc
Trước đây Vĩnh Phúc được coi là tỉnh thuần nông, cuộc sống chủ yếu dựa vào phát triển nông nghiệp là chính. Nhưng trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế cả nước, Vĩnh Phúc đã trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi rõ rệt. Có sự biến đổi một cách nhanh chóng như vậy là do Vĩnh Phúc đã biết lựa chọn công nghiệp làm ngành kinh tế đòn bảy trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Và khai thác ngoại lực, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển công nghiệp là quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt trong quá trình phát triển của ngành này.
Xác định được bước đi đúng, Vĩnh Phúc đã trải thảm đỏ cho các nhà đầu tư khi đến hoạt động tại tỉnh. Trong khi cả nước vẫn chưa thực hiện cải cách hành chính, chưa thực thi cơ chế "một dấu, một cửa", Vĩnh Phúc đã tiên phong làm được điều này, các nhà đầu tư khi đến với Vĩnh Phúc đã rút ngắn được 2/3 thời gian theo quy định của Trung ương khi làm thủ tục xin cấp phép đầu tư.
Bên cạnh sự thông thoáng, nhanh chóng về thủ tục đầu tư, Vĩnh Phúc còn coi "mọi thành công của tất cả các nhà đầu tư là thành công của tỉnh Vĩnh Phúc và mong muốn tất cả các nhà đầu tư vào Vĩnh Phúc đều gặt hái được thành quả ". Và chính từ sự trọng thị đó, các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Vĩnh Phúc ngày càng nhiều. Họ đến Vĩnh Phúc không chỉ đem theo vốn liếng, kinh nghiệm, mà điều quan trọng là họ đã đem đến một tư duy mới về quy hoạch tổng thể. Chúng ta có thể nhìn thấy kết quả của công tác quy hoạch trên 12 cụm công nghiệp ở Vĩnh Phúc hiện nay.
Đi lên từ ngoại lực là bài học thành công trong phát triển ngành công nghiệp của Vĩnh Phúc trong 12 năm qua kể từ khi tái lập tỉnh. Bài học này cho thấy nếu biết khai thác tốt những tiềm lực bên ngoài, sẽ biến ngoại lực thành nội lực, sẽ rút ngắn được quá trình tăng trưởng và có thể nói một cách hình ảnh là chúng ta sẽ vươn tay tới sự giàu có của các quốc gia ngay trong lòng đất nước Việt Nam.
Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Hải Dương để thu hút nguồn vốn FDI
Qua phân tích các chính sách để thu hút nguồn vốn FDI tại các tỉnh trên ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong việc thu hút nguồn vốn FDI tại Hải Dương như sau:
Thứ nhất, cần tạo môi trường đầu tư, kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, hoàn thiện luật pháp, cải cách hành chính đi cùng với phát triển kết cấu hạ tầng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cải cách hành chính là yếu tố cực kỳ quan trọng tác động đến việc thu hút đầu tư và làm tăng hiệu quả đầu tư. Việc triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính với mô hình “Một cửa”.“Một cửa liên thông” tại các sở, ngành, địa phương đã nâng cao trách nhiệm cho cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, sẽ đem lại những thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp khi xử lý, giải quyết các yêu cầu, đề nghị tại các cơ quan nhà nước. Nội dung này nếu được thực hiện quyết liệt hơn ở các cơ quan quản lý nhà nước thì hiệu quả thu hút đầu tư nói chung, thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng còn lớn hơn nhiều.
Thứ hai, việc xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung từ việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước của mọi thành phần kinh tế và trong dân cư có ý nghĩa hết sức quan trọng, khơi dậy mọi tiềm năng, phát huy nội lực, đóng góp tích cực vào việc thu hút đầu tư và phát triển KTXH tại địa bàn. Bên cạnh đó quan tâm giải quyết tốt vấn đề đời sống nhân dân vùng giao đất làm khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Thứ ba, cần có biện pháp hạn chế, giảm thiểu những rủi ro có thể phát sinh khi luồng vốn bên ngoài gia tăng, trong đó có vốn FDI. Cần có ứng xử khéo léo với các dòng vốn nước ngoài để vừa thu hút được nguồn lực cho phát triển, đồng thời hạn chế được những rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô không đáng có.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả của công tác quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Và việc lập kế hoạch phát triển phải dựa trên các cơ sở sát thực, thực trạng phát triển của tỉnh.
Như vậy, qua những phân tích trên chúng ta phần nào hiểu rõ về đặc điểm, vai trò của nguồn vốn FDI đối với phát triển kinh tế- xã hội của nước tiếp nhận đầu tư nói chung và tỉnh Hải Dương. Lý thuyết là vậy, nhưng thực tế khi sử dụng nguồn vốn này còn nhiều vấn đề nan giải. Để nhìn nhận rõ hơn, ta sẽ nghiên cứu thực trạng thu hút FDI của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2001-2009.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT FDI CỦA TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2001-2009
I. Tổng quan các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút nguồn vốn FDI
1. Môi trường tự nhiên, văn hóa- xã hội
1.1 Điều kiện tự nhiên
Hải Dương nằm trong địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,(kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm các tỉnh: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc) tiếp giáp với 6 tỉnh, thành phố: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình và Hưng Yên. Trên địa bàn tỉnh có các tuyến đường bộ, đường sắt quan trọng của quốc gia chạy qua như: đường 5A, 18, 37, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, Bắc Giang - Phả Lại,…; nằm gần cảng biển Hải Phòng và Cái Lân; hệ thống giao thông đường thuỷ tương đối thuận lợi. Trên địa bàn tỉnh có một trữ lượng khá lớn một số khoáng sản (đá vôi: 200 triệu tấn; bôxit: 20 vạn tấn; cao lanh: 40 vạn tấn; sét chịu lửa: 8 triệu tấn) phục vụ cho sản xuất công nghiệp. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có độ ẩm cao, cho phép phát triển đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi; đặc biệt thích hợp với các loại cây rau, màu thực phẩm; cây ăn quả như: vải, nhãn, cam, chuối,...
1.2 Yếu tố văn hóa- xã hội
Tỉnh có nguồn lao động trẻ, năm 2005 quy mô dân số tỉnh là 1,71 triệu người, số người trong độ tuổi lao động chiếm 62,2% tổng dân số; năm 2010 ước tính lực lượng lao động trong độ tuổi chiếm chiếm 65,03% tổng dân số (năm 2005: 62,2%) tương ứng với 1 triệu 112 ngàn người, tăng 48.200 người so với năm 2005. Người Hải Dương có truyền thống hiếu học, cần cù, sáng tạo. Hải Dương là vùng đất văn hiến, có nhiều di tích lịch sử, danh thắng nổi tiếng như: Côn Sơn, Kiếp Bạc, Yên Phụ, Kính Chủ.. và nhiều Lễ hội truyền thống, tiêu biểu cho nền văn hóa vùng châu thổ sông Hồng tạo ra nét độc đáo riêng trong phát triển du lịch.
Bên cạnh đó công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được chú trọng. Cấp phát và hỗ trợ kinh phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách được thực hiện kịp thời, đảm bảo đúng chế độ. Hỗ trợ kinh phí cho 129.789 người nghèo ăn tết với số tiền là 25,4 tỷ đồng; Tổng doanh số cho vay thực hiện qua ngân hàng chính sách xã hội đạt 638,7 tỷ đồng, tăng 33,3%. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm xuống còn 6,9%. Phát động phong trào, huy động trên 2 tỷ đồng xây dựng 184 nhà đại đoàn kết cho người nghèo.
Thực hiện tốt công tác cấp Bảo hiểm y tế khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng; Đã có 281.917 lượt người nghèo sử dụng thẻ BHYT để khám, chữa bệnh, với số kinh phí chi trả là 23,2 tỷ đồng.
Tổ chức đào tạo nghề cho 34 nghìn người, hỗ trợ đào tạo nghề ngắn hạn cho 9.151 nông dân và người lao động bàn giao đất để phát triển khu, cụm công nghiệp, khu đô thị; Giải quyết việc làm mới cho 1 vạn 985 ngàn lao động, trong đó: lao động xuất khẩu là 1.500 người (Nguồn: phòng quy hoạch-tổng hợp, sở Kế hoạch-Đầu tư Hải Dương).
2. Môi trường kinh tế
2.1 Cơ sở hạ tầng
Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển.
Thứ nhất về hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; Phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh .
Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn xe đi lại thuận tiện:
Quốc lộ 5 từ Hà Nội đi thành phố cảng Hải Phòng, chạy ngang qua tỉnh 44 km, đây là đường giao thông chiến lược; vận chuyển toàn bộ hàng hoá xuất nhập khẩu qua cảng Hải Phòng và nội địa.
Quốc lộ 18 từ Nội Bài qua Bắc Ninh đến tỉnh Quảng Ninh. Đoạn chạy qua huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương dài 20 km.
Quốc lộ 183, nối quốc lộ 5 với quốc lộ 18, qui mô cấp I đồng bằng
Quốc lộ 37 dài 12,4 km, đây là đường vành đai chiến lược quốc gia, phục vụ trực tiếp cho khu du lịch Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Quốc lộ 38 dài 14 km là đường cấp III đồng bằng.
Đường tỉnh: có 13 tuyến dài 258 là đường nhựa tiêu chuẩn cấp III đồng bằng
Đường huyện có 352,4 km và 1448 km đường xã đảm bảo cho xe ô tô đến tất cả các vùng trong mọi mùa.
Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh.
Tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân, cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh
Đường thuỷ: với 400 km đường sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn /năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách thuận lợi.
Hệ thống giao thông trên bảo đảm cho việc giao lưu kinh tế từ Hải Dương đi cả nước và nước ngoài rất thuận lợi.
Thứ hai về hệ thống điện: Trên địa bàn tỉnh có Nhà máy nhiệt điện Phả Lại công suất 1040 Mw; hệ thống lưới điện khá hoàn chỉnh, đảm bảo cung cấp điện an toàn và chất lượng ổn định; trên địa bàn tỉnh có 5 trạm biến áp 110/35 kV tổng dung lượng 197 MVA và 11 trạm 35/10 kV, các trạm phân bố đều trên địa bàn tỉnh. Lưới điện 110, 35 kV đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, phục vụ tốt nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt.
Thứ ba về bưu điện: Mạng lưới bưu chính viễn thông đã phủ sóng di động trên phạm vi toàn tỉnh, 100% thôn, xã đều có điện thoại liên lạc trực tiếp nhanh chóng với cả nước và thế giới.
Thứ tư về hệ thống tín dụng ngân hàng : Bao gồm các Chi nhánh Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Chính sách xã hội, có quan hệ thanh toán trong nước và quốc tế nhanh chóng, thuận lợi. Ngân hàng Cổ phần nông nghiệp và 79 Quỹ tín dụng nhân dân đáp ứng việc khai thác và cung ứng vốn cho hoạt động sản xuất của nhân dân trong tỉnh.
Thứ năm về hệ thống thương mại khách sạn: Trên địa bàn tỉnh có 18 doanh nghiệp nhà nước, 12 Hợp tác xã Thương mại, 54 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 20.298 cửa hàng kinh doanh thương mại. Có 1 Trung tâm thương mại tại thành phố Hải Dương, là đầu nối giao dịch và xúc tiến thương mại, thông tin, tiếp thị dự báo thị trường tư vấn môi giới đàm phán ký kết hợp đồng
Hệ thống khách sạn, nhà hàng bao gồm quốc doanh, tư nhân và các tổ chức khác, có đầy đủ tiện nghi sang trọng, lịch sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong nước và quốc tế.
Đây là những cơ sở hạ tầng hiện có và ngày một nâng cấp hoàn chỉnh để thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến Hải Dương.
2.2 Tình hình phát triển kinh tế trong tỉnh
Giai đoạn 2006 – 2010, kinh tế của tỉnh duy trì được mức tăng trưởng khá, đạt cao hơn mức tăng trưởng bình quân cả nước, nhưng thấp hơn mục tiêu Đại hội XIV đề ra và giai đoạn trước. Theo bảng số liệu 2.1 tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân 9,7%/năm (Mục tiêu Đại hội (MT) tăng 11,5%, cả nước tăng 6,9%/năm, giai đoạn 2001 – 2005 tăng 10,8%/năm). Giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng bình quân 2,6%/năm, công nghiệp – xây dựng tăng 11,5%/năm, dịch vụ tăng 11,6%/năm. Giai đoạn 2006 – 2010 tăng trưởng GDP của cả nước đạt 6,9% (KH: 7,5 – 8%), trong đó khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 3,24%, CN-XD tăng 7,82%, dịch vụ tăng 7,66% (nguồn số liệu: Dự thảo KH 5 năm 2011 – 2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư – tháng 11/2009).
Bảng 2.1 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp giai đoạn 2006-2010 của tỉnh Hải Dương
STT
Chỉ tiêu
Đ.v.t
Mục tiêu
2006 – 2010
Kết quả thực hiện
TH so với mục tiêu
Cả Nước
1
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm
%
11,5%
9,7%
Không đạt
6,9%
- Khu vực Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
%
2,6%
3,24
- Công nghiệp, xây dựng
%
11,5%
7,82
- Dịch vụ
%
11,6%
7,66
2
Tốc độ tăng GTSX Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản bình quân năm
%
4,5%
2,1%
Không đạt
3
Tốc độ tăng GTSX công nghiệp, xây dựng bình quân năm
%
20%
12,9%
Không đạt
4
Tốc độ tăng GTSX các ngành dịch vụ bình quân năm
%
13%
14,8%
Vượt
5
Cơ cấu kinh tế
%
100
100
Không đạt
100
- Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
%
19,0
24,0
19,9
- Công nghiệp, xây dựng
%
48,0
44,5
40,3
- Dịch vụ
%
33,0
31,5
39,8
6
GDP bình quân đầu người năm 2010
Tr.đ
17
17,1
Vượt
1.200 USD
7
Tốc độ tăng giá trị XK bình quân năm
%
25%
49%
Vượt
13,1%
8
Tốc độ tăng thu NS
%
10%
15%
Vượt
15,6%
9
Tổng vốn đầu tư xã hội
Ngàn tỷ.đ
40,55
70,73
Vượt
Nguồn: Sở Kế hoạch-Đầu tư Hải Dương
Quy mô kinh tế của tỉnh được nâng lên đáng kể, đến năm 2010 quy mô kinh tế tỉnh (GDP theo giá thực tế) ước đạt 29.240 tỷ đồng, gấp 2,19 lần so với năm 2005. GDP bình quân đầu người năm 2010 là 17,1 triệu đồng/người cao hơn mức trung bình chung của cả nước. Nhìn lại năm 2009, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tác động sâu sắc, toàn diện tới các mặt đời sống kinh tế, xã hội, nhưng kinh tế tỉnh ta vẫn giữ được mức tăng trưởng hợp lý, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước, đạt mức tăng trưởng cả năm cao hơn mức bình quân cả nước. Các cân đối lớn như: vốn đầu tư, xuất khẩu, thu ngân sách được giữ ổn định; lạm phát bước đầu được kiềm chế. Đây là điều đáng mừng của tỉnh vì môi trường kinh tế vĩ mô của tỉnh được duy trì ổn định, ít biến động. Phát triển kinh tế của Hải Dương luôn hướng theo mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Tạo được tâm lý an tâm hơn khi các nhà đầu tư đến với Hải Dương.
Gắn liền với tăng trưởng, cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục có bước chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản; tăng tỷ trọng dịch vụ, phù hợp với xu thế chung của cả nước và của quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
Như vậy, những đặc điểm về: điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực và tình hình phát triển kinh tế nêu trên đã tạo cho Hải Dương một số ưu thế trong quan hệ hợp tác và đầu tư phát triển, cùng với những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực trong giai đoạn 2001- 2009 là tiền đề quan trọng để tiếp tục kế thừa, phát huy trong giai đoạn phát triển mới.
Thực trạng về thu hút FDI trong giai đoạn 2001-2009 tại Hải Dương
2. Về quy mô vốn đầu tư
Từ sau cuộc khủng hoàng tài chính tiền tệ Châu Á, hoạt động ĐTNN trong cả nước và tại Hải Dương có xu hướng phục hồi chậm và bắt đầu từ năm 2004 đến nay dòng FDI lại bắt đầu tăng trở lại. Theo bảng số liệu 2.1 trong 3 năm 2001-2003 đã có 39 dự án ĐTNN được cấp phép tại địa bàn, với tổng số vốn đăng ký là 459,2 triệu USD. Vốn đăng ký năm 2005 là 112 triệu USD, bằng 139,5% năm 2004. Đến năm 2006, vốn FDI đã tăng ngoạn mục và đạt 663.6 triệu USD, tức tăng gần 6 lần so với năm 2005, bằng 144,5 % cả giai đoạn 2001-2003. Nguyên nhân của dòng vốn FDI tăng mạnh tại Hải Dương là do Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO với những điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI như: cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, giảm thuế suất thuế nhập khẩu, giảm bảo hộ và xoá bỏ phân biệt đối xử quốc gia. Năm 2008 mặc dù nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn và thách thức vì chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Mỹ nhưng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hải Dương vẫn có bước tăng trưởng rất khả quan. Hết năm 2008 ghi nhận mức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng kỉ lục với hơn 480 triệu USD vốn đăng kí và hơn 330 triệu USD vốn đã thực hiện (bảng 2.2). Đây là thành tích ấn tượng của Hải Dương trong năm 2008, tuy nhiên thực trạng và triển vọng của nguồn vốn FDI vẫn là một vấn đề đáng bàn.
Năm
Số dự án
Vốn đăng ký (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số vốn thực hiện (Triệu đô la Mỹ)
Tổng số
203
2.490
1.240,4
2001-2003
39
459,2
200,5
2004
11
80,3
40,3
2005
14
112
97,5
2006
51
663,6
143,4
2007
32
480,5
259,9
2008
47
481,6
330,3
2009
9
181
265
Nguồn: Sở Kế hoạch-đầu tư Hải Dương
Bảng 2.2: Vốn FDI tại tỉnh Hải Dương được cấp giấy phép từ 2001 đến 2009. (chỉ tính các dự án có hiệu lực)
Tuy lượng vốn đầu tư nước ngoài vào tỉnh trong thời gian qua là tương đối lớn nhưng một thực trạng không phải với riêng Hải Dương mà tất cả địa phương khác trên cả nước đó là tình trạng giải ngân chậm nguồn vốn FDI. Điều này dẫn tới tình trạng số lượng vốn thực hiện so với số lượng vốn đăng ký là chưa cao và tỷ lệ này thường dưới 50%. Đây là một trở ngại mà các địa phương cần phải nhanh chóng giải quyết để nâng cao hiệu quả của hoạt động của nguồn vốn này. Trong giai đoạn 2001-2003 tổng số dự án ĐTNN vào Hải Dương 39 dự án với tổng số vốn đăng ký là 459,2 triệu USD, lượng vốn thực hiện là 200,5 triệu USD chiếm 43,6 % lượng vốn đăng ký. Từ năm 2007 trở lại đây, tỷ lệ này đã tăng lên do Hải Dương đang chú trọng công tác xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững kinh tế- xã hội. Năm 2007, tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký là 54 %, năm 2008 là 68,58%. Năm 2009 là năm chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới do đó số lượng các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư tại tỉnh giảm mạnh. Tình hình thu hút vốn và cấp giấy chứng nhận đầu tư mới năm 2009 giảm rõ rệt so với năm 2008: số dự án cấp mới bằng 19%, vốn thu hút bằng 44,2%. Các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư quy mô khá nhỏ, nhưng tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký đạt rất cao 79,18%. Tuy nhiên phần lớn các dự án được thực hiện là các dự án đăng ký trước đó và thời gian triển khai để thực hiện dự án còn kéo dài. Đây là một trở ngại mà địa phương cần lưu ý trong việc kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Nó là một rào cản lớn để nhà đầu tư quyết định có nên đầu tư vào địa phương ta hay khong .
2. Cơ cấu đầu tư của FDI
2.1 Cơ cấu đầu tư theo đối tác
Hình 2.1 Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài điển hình vào Hải Dương (tính đến hết 12/2009)
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, đến nay 23 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Hải Dương với tổng vốn đăng ký gần 2,5 tỷ đô la Mỹ. Đứng đầu là Nhật Bản có lượng vốn FDI cao nhất chiếm 31.7% tổng số vốn đầu tư đăng ký; tiếp theo là đến Đài Loan với 27.2% số vốn, Samoa với 13.3%...(hình 2.1)
Các đối tác đầu tư vào Hải Dương chủ yếu đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Đài Loan, Trung Quốc , Hồng Kông.. với các dự án quy mô nhỏ và vừa. Điều này thực sự cần thiết vì các doanh nghiệp này thường năng động, thích ứng nhanh với những biến động của thị trường, hoạt động có hiệu quả, từ đó sẽ là cơ sở cho các tập đoàn, các Công ty lớn nhìn nhận đúng môi trường đầu tư, kích thích họ an tâm đầu tư nhiều hơn nữa vào Hải Dương. Tuy nhiên các nước châu Âu, châu Mỹ cũng đã tìm hiểu cơ hội đầu tư tại Hải Dương, nhưng chính thức đầu tư không đáng kể. Hiện tại tỉnh đã và đang thực hiện các chính sách kêu gọi đầu tư, định hướng đầu tư vào các ngành có công nghệ cao, đòi hỏi vốn lớn, quy mô rộng; có những chính sách ưu đãi đầu tư cho các đối tác nước ngoài, để ngày càng có nhiều nhà đầu tư biết đến Hải Dương hơn nữa, đặc biệt là các nước Châu Âu và Châu Mỹ.
2.2 Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư
Tại Hải Dương từ khi tiếp nhận đầu tư nước ngoài cho đến nay thì cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư có nhiều biến động.
Theo đánh giá ĐTNN trong 20 năm của Sở kế hoạch và đầu tư , trong những năm đầu hợp tác đầu tư với nước ngoài (1988-1992) thì hình thức liên doanh luôn đóng vai trò chủ đạo chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài ( chiếm trên 80% tổng số dự án ĐTNN, hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 7% ). Hình thức đầu tư này có nhiều ưu điểm nổi trội hơn so với các hình thức khác nên đã trở thành hình thức thu hút chủ yếu của Hải Dương trong giai đoạn đầu. Với ưu điểm vừa khai thác được lợi thế của Hải Dương như: vị trí địa lý thuận lợi, môi trường chính trị ổn định, nguồn lao động rẻ, nguồn nguyên liệu phong phú… vừa tranh thủ tận dụng và phát huy sức mạnh của các nhà đầu tư (vốn, công nghệ, trình độ quản lý..).
Do đó, trong 10 năm đầu hình thức liên doanh đã chiếm tới 60% số dự án, 70% tổng số vốn cam kết. Trong các liên doanh này, tỷ lệ vốn pháp định do phía Việt Nam đóng góp thường không quá 30%, ._.ung cấp ngay tại tỉnh. Chưa thực sự tạo được chuỗi giá trị liên hoàn.
Thứ năm, công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước( bằng các công cụ thuế đánh vào hàng nhập khẩu và hạn ngạch ), chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
Thứ sáu, tỉnh ta có xuất phát điểm thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong tỉnh, trong nước, nước ngoài vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
Thứ bảy, tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư-kinh doanh.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN FDI TẠI HẢI DƯƠNG ĐẾN NĂM 2015
Từ những phân tích trên, về vai trò và việc thu hút nguồn vốn FDI tại Hải Dương trong thời gian qua ta thấy được sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh đã thu được nhiều thành tựu đáng kể góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Mặc dù vậy hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn gặp nhiều hạn chế, chưa khai thác hết tiềm năng vốn có của tỉnh. Cần phải có sự nỗ lực của nhiều bên, không chỉ từ phía các doanh nghiệp mà còn từ phía cơ quan của tỉnh, các ban ngành liên quan. Trong thời gian tới, để nguồn vốn FDI tăng cả về số và chất lượng cần có những giải pháp cụ thể, mang tính chiến lược.
Cơ hội và thách thức của Hải Dương đối với việc thu hút nguồn vốn FDI
Cơ hội
Là tỉnh có vị trí thuận lợi cho phát triển kinh tế, Hải Dương nằm trong khu vực tam giác phát triển kinh tế phía Bắc ( Hà Nội- Hải Dương-Hải Phòng-Quảng Ninh), thuộc vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tạo nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế Hải Dương, nằm ven tuyến đường huyết mạch phát triển kinh tế phía Bắc đã tạo không ít những thuận lợi cho phát triển kinh tế Hải Dương như: giao thông thuận lợi, nối liền kinh tế Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Hải Dương và tỉnh cần nắm bắt cơ hội này cho phát triển kinh tế- xã hội.
Hải Dương có điều kiện tự nhiên thuận lợi, ít chịu hậu quả của các trận thiên tai gây ra. Đây là một điều kiện giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách ổn định không bị xáo trộn trước những biến động thời tiết. hàng năm các dự án đầu tư nước ngoài vào Hải Dương ngày càng nhiều do tỉnh nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch miền Bắc. Và đây là điều kiện giúp cho Hải Dương thu hút các dự án có vốn đầu tư lớn và sử dụng công nghệ kỹ thuật cao vào trong sản xuất kinh doanh.
Dự báo trong giai đoạn tới kinh tế tri thức phát triển mạnh, xu thế hội nhập và mở cửa tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động; hợp tác ASEAN với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. Các ngành, sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường sẽ được quan tâm hơn, đặt ra đòi hỏi thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế trong nước, trong tỉnh.
Bước sang năm 2010, kinh tế thế giới bước đầu đi vào giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, là yếu tố thuận lợi để tỉnh ta tiếp tục thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển.
Nhiều cam kết đa phương và song phương theo lộ trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO) có hiệu lực, tạo cơ hội để Việt Nam mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Đặc biệt, các cơ chế, chính sách của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi mới cho phát triển.
Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2006 – 2010 của cả nước cũng như của tỉnh là tiền đề quan trọng để tiếp tục phát huy trong giai đoạn 2011- 2015. Kết cấu hạ tầng của nhiều lĩnh vực như: các khu, cụm công nghiệp; các khu đô thị, trục giao thông lớn; điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đang dần được hoàn thiện; một số công trình hạ tầng quan trọng của quốc gia, có tính liên vùng như: đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường quốc lộ 38, dự án QL 18 mới…mở ra cơ hội trong thu hút đầu tư, nhất là vào các vùng còn khó khăn phía Nam tỉnh (Thanh Miện, Ninh Giang,….).
Cơ hội là như vậy, nhưng biến nó thành hiện thực không phải là điều đơn giản, bởi tỉnh ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội mở ra cho Hải Dương để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì cũng có khá nhiều thách thức hạn chế vào tỉnh. Đó là:
Thứ nhất, kinh tế thế giới biến đổi nhanh, phức tạp và khó lường. Nguy cơ xảy ra bất ổn chính trị, xung đột quân sự ở một số nước, và những vấn đề hậu khủng hoảng có thể ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của các nước, dặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Từ năm 2011 trở đi, các cam kết gia nhập WTO đến thời hạn thực thi trên nhiều lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực dịch vụ như: tài chính, bán lẻ,…tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt đối với các DN trong nước, ngoài nước, trong tỉnh.
Thứ hai, tỉnh đang tiếp tục phải đứng trước những nguy cơ mà Đảng đã cảnh báo, nhất là nguy cơ tụt hậu về kinh tế khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Thứ ba, hệ thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngoài ở nước ta còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mức cụ thể còn nhiều quy định chồng chéo, chưa có các hành lang pháp lí rõ ràng. Việc thực thi pháp luật, chính sách còn tùy tiện, không nhất quán…Đây là một thách thức to lớn trong quá trình thực thi các cam kết.
Thứ tư, suy thoái kinh tế sâu trong năm 2009 để lại hậu quả gây khó khăn, thách thức cho cả nước cũng như cho tỉnh. Khả năng phục hồi phụ thuộc rất lớn vào sự hồi phục của các nền kinh tế lớn trên thế giới: Mỹ, các nước EU, Nhật bản. Vẫn tồn tại nhiều yếu kém của kinh tế tỉnh. Quy mô nền kinh tế nhỏ; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội của tỉnh chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, nhất là ở khu vực nông thôn. Trình độ nguồn nhân lực thấp; lao động thiếu việc làm; một số vấn đề xã hội chưa được giải quyết triệt để ....đang là những trở ngại lớn đến quá trình phát triển KTXH của tỉnh ta.
Ngoài ra tình hình thiên tai, dịch bệnh có thể còn diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân, dẫn đến tâm lý e ngại đầu tư vào tỉnh.
Trước thực trạng thu hút nguồn vốn FDI, cũng như những cơ hội và thách thức mà Hải Dương đã và đang đối mặt đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài tại Hải Dương.
Mục tiêu và định hướng thu hút FDI trong giai đoạn 2010-2015 của tỉnh Hải Dương
Giai đoạn 2010-2015 là giai đoạn phục hồi nền kinh tế sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Do vậy tỉnh ủy kết hợp với các ban ngành sở tại cần đề ra những mục tiêu và định hướng cụ thể cho giai đoạn quan trọng này. Dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của cả nước: cần khai thác tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế dựa trên sự bứt phá mạnh về nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. Nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế; chuyển dịch nhanh cơ cấu nguồn vốn đầu tư theo hướng tăng nhanh tỷ trọng huy động từ khu vực ngoài nhà nước.
Mục tiêu thu hút FDI đến năm 2015 của tỉnh Hải Dương
1.1. Mục tiêu chung
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; lấy tăng trưởng hợp lý, bền vững là quan điểm xuyên suốt. Phát triển kinh tế phải gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước của quá trình phát triển; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với gìn giữ, bảo vệ và cải thiện môi trường; đảm bảo phát triển hợp lý giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Từng bước tái cơ cấu nền kinh tế, tạo bước chuyển biến về chất lượng tăng trưởng; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấuu lao động theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa.
Thực hiện đầu tư có trọng điểm cho các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, ưu tiên đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, nông thôn, các ngành công nghiệp và dịch vụ có khả năng tạo giá trị tăng thêm cao, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
1.2. Mục tiêu cụ thể
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10%/năm trở lên (kế hoạch 5 năm 2011-2015, GDP cả nước tăng 7,8%), trong đó:
+ Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 1,7% – 2%/năm.
+ Giá trị tăng thêm khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 11%/năm trở lên.
+ Giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ tăng 12%/năm.
- Cơ cấu kinh tế Nông, lâm nghiệp, thuỷ sản – công nghiệp, xây dựng - dịch vụ năm 2015 là: 21,3% - 45,2% - 33,5%.
- Giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng 15%/năm.
- Thu ngân sách nội địa tăng 16%/năm.
Phấn đấu giai đoạn 2011 – 2015 thu hút 145 – 150 ngàn tỷ đồng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó vốn nhà nước chiếm 24%, vốn dân doanh chiếm 48%, vốn nước ngoài chiếm 28%.
Định hướng thu hút FDI tại Hải Dương
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đến năm 2015 và định hướng trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Hải Dương cần ưu tiên thu hút ĐTNN vào các ngành có tác động lớn trên các phương diện như: thúc đẩy chuyển giao công nghệ nhất là công nghệ cao thân thiện với môi trường; tạo việc làm; gia tăng xuất khẩu; các dự án sản xuất các sản phẩm, dịch vụ có sức cạnh tranh; phát triển công nghiệp phụ trợ; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng; đầu tư vào vùng sâu, vùng xa. Một số định hướng cụ thể:
Thứ nhất là ngành công nghiệp-xây dựng: Với các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. vVowis công nghiệp phụ trợ: khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ.
Thứ hai là ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá...
Thứ ba là ngành nông-lâm-ngư nghiệp: các dự án đầu tư về công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao đưa vào sản xuất đáp ứng nhu cầutrong nước và xuất khẩu. Thu hút các dự án đầu tư về công nghệ chế biến thực phẩm, bảo quản sau thu hoạch để nâng giá trị sản phẩm, tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản ổn định, đặc biệt xuất khẩu. Khuyến khích FDI tham gia đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông, lâm nghiệp như các công trình thủy lợi.
Một số giải pháp để tăng cường thu hút nguồn vốn FDI ở Hải Dương đến năm 2015
Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2010- 2015 và một số năm về sau, đồng thời khắc phục các tồn tại trong việc thu hút và sử dụng FDI có một số giải pháp cơ bản sau:
Hoàn thiện môi trường luật pháp và các chính sách
Tính hấp dẫn của một quốc gia, một địa phương trước hết phải được thể hiện ở luật pháp và các chính sách thu hút đầu tư. Luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà nhà đầu tư đều quan tâm tại mọi quốc gia. Đối với nước ta, kể từ Luật đầu tư nước ngoài được công bố (tháng 12/1987), các cơ quan quản lý đã thường xuyên theo dõi tình hình thực tế, kịp thời kiến nghị sửa đổi bổ sung nên về cơ bản Luật đã phù hợp với tình hình mới, hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải để cập bổ sung sửa đổi kịp thời những hạn chế và đang cản trở hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn thu hút FDI khó khăn hiện nay. Do đó tỉnh cần kết hợp với các tỉnh khác trong cả nước cùng:
Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành.
Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ.
Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
2. Tiếp tục công cuộc cải cách bộ máy hành chính
Có nhiều giải pháp nhằm cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài ở Hải Dương, trong đó cải cách thủ tục hành chính là giải pháp mang tính đột phá. Tuy nhiên, thủ tục mới nhưng con người cũ, tư tưởng cũ sẽ là một vật cản lớn trong cải cách hành chính. Trên thực tế, có những vấn đề đã quy định cụ thể, thủ tục thông thoáng nhưng do nhận thức, thói quen nuối tiếc với cơ chế “xin - cho” của một bộ phận cán bộ, công chức hành chính nên sự việc tuy dễ hoá khó khăn. Thủ tục hành chính dù hay đến mấy nhưng chỉ nằm trên giấy tờ văn bản, muốn đi vào cuộc sống phải thông qua con người áp dụng. Do đó, sự công tâm của cán bộ, công chức hành chính cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công khai sẽ là những yếu tố quan trọng để Hải Dương cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài.
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Tăng cường cơ chế phối hợp đầu tư nước ngoài Trung ương, địa phương và các bộ ngành liên quan.
Tập trung thực hiện đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nhằm đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi trong thu hút đầu tư vào địa phương. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư .
3. Đẩy mạnh công tác về quy hoạch, xúc tiến đầu tư
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Các ban ngành và Uỷ ban nhân dân tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp. Hoàn thành quy hoạch chi tiết xây dựng KCN Phúc Điền mở rộng; điều chỉnh quy hoạch KCN Phúc Điền, Tân Trường. Phấn đấu năm 2010 hoàn thành toàn bộ hạ tầng các KCN: Đại An mở rộng, Phúc Điền (khu vực Cờ Đỏ), Tân Trường, Lai Cách, Phú Thái. Hoàn thành khối lượng hạ tầng chính các khu công nghiệp: Cẩm Điền – Lương Điền, Tân Trường mở rộng, Cộng Hoà.
Hoàn chỉnh Quy hoạch vùng tỉnh Hải Dương. Tập trung lập quy hoạch một số dự án trọng điểm như: khu vực phía Bắc sông Thái Bình, phía Nam sông Sặt, TP. Hải Dương, quy hoạch phát triển các khu vực tập trung cao về công nghiệp (khu vực Kinh Môn, Kim Thành, Cẩm Giàng,…)
Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại địa bàn tỉnh. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch tại các địa phương trọng điểm trong tỉnh, các tỉnh khác, các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga)
Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Hải Dương.
4. Cải thiện, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng
Cơ sơ hạ tầng là điều kiện tiên quyết đối với thu hút FDI. Sự yếu kém về cơ sở hạ tầng đã hạn chế nhiều thu hút nguồn vốn FDI vào Hải Dương. Vì vậy, trong thời gian trước mắt phải tập trung thích đáng cho công việc này. Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng.
Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ nối liền Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh..Tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, nhiệt năng từ mặt trời. Thúc đẩy tiến độ giải ngân của các dự án đang đầu tư xây dựng và hỗ trợ một số dự án lớn triển khai hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư mới như: Dự án nhiệt điện than công suất 12000MW (vốn đầu tư 1,6 tỷ USD); Dự án khai thác than Cổ Kênh (vốn đầu tư 70 triệu USD)...
Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển. Cần điều chỉnh chính sách để tạo hấp dẫn cao với đối với các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào kết cấu hạ tầng nông lâm ngư nghiệp, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn của tỉnh.
Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng.
Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải,) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu.
5. Nhóm giải pháp về lao động, đào tạo nguồn nhân lực
Các sở, ngành có các kế hoạch, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có đủ năng lực và trình độ; có chiến lược đào tạo thường xuyên, lâu dài. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Bảo đảm cung cấp đủ nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực : Quản trị doanh nghiệp, Tài chính doanh nghiệp, Cơ khí lắp ráp, điện. điện tử, công nghệ thông tin, Kỹ thuật may mặc, chế biến nông sản thực phẩm... Tăng cường cơ sở vật chất, mở rộng quy mô, ngành nghề đào tạo của các trường chuyên nghiệp và cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh. Hoàn thiện và kiện toàn mạng lưới các trung tâm giáo dục thường xuyên. Thành lập thêm các trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và dạy nghề tại 4 huyện (hiện nay đã có ở 8 huyện, TP). Nâng cấp 2 trường cao đẳng của TW thành trường đại học và trường cao đẳng Hải Dương thành trường đại học đa cấp, đa ngành. Phát triển thêm 3 trường đại học ngoài công lập. Phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh đạt 48,7%. Có chính sách thích hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tiếp tục thực hiện đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy theo hướng tiếp cận với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin. Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực đào tạo, nhất là đào tạo nghề. Có cơ chế, chính sách ưu đãi thoả đáng để thu hút cán bộ có trình độ cao về làm việc tại tỉnh. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm:
Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ.
Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời, trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải tỏa và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Đối với KCN còn vướng mắc trong việc giải phóng mặt bằng đề nghị các cấp chính quyền trong tỉnh cần sớm chỉ đạo để bàn giao mặt bằng cho một số nhà đầu tư hạ tầng tiếp tục triển khai dự án.
Đẩy mạnh liên kết kinh tế Hải Dương với các tỉnh trong vùng đồng bằng
sông Hồng
Hải Dương là một trong các tỉnh của vùng đồng bằng sông Hồng (gồm 10 tỉnh, thành Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình) là cửa ngõ thông thương đường biển và hàng không của các tỉnh miền Bắc. Là vùng đất có tài nguyên phong phú với địa hình núi non, đồng bằng, biển đảo… với bề dày văn hóa nổi bật đặc trưng của nền văn minh lúa nước. Tuy nhiên cần phải thừa nhận kết quả của những sự liên kết, hợp tác giữa Hải Dương và các tỉnh trong vùng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Nguyên nhân là do nhận thức xã hội; Tính liên kết trong phát triển giữa Hải Dương và các địa phương còn rất thấp, chưa có chiến lược quy hoạch tổng thể chung đối với phát triển của vùng; Năng lực quản lý còn hạn chế. Do v ậy, giải pháp liên kết vùng để cùng phát triển được xem là có hiệu quả nhất. Một địa phương riêng lẻ có thể không đủ tài nguyên hay điều kiện để xây dựng nên các tuyến giao th ông ph ục v ụ cho s ản xu ất kinh doanh nhưng nếu biết kết hợp tốt với nhau, hợp tác với nhau thì có thể tận dụng được cáclợi thế trong vùng, đẩy mạnh thu hút đầu tư. Tỉnh Hải Dương cần đề nghị việc phân cấp, tự chịu trách nhiệm cao hơn nhiều so với hiện nay để có thể chuẩn bị tốt hơn cho việc đón bắt các cơ hội sắp tới. Không thể thụ động, cần năng động, chủ động đề xuất, thuyết phục để có được mức độ tự chịu trách nhiệm cao hơn các tỉnh khác. Đồng thời, tỉnh cũng phải rất chủ động truyền bá hình ảnh và vai trò mới mẻ của mình, thuyết phục về những lợi ích to lớn mà Hải Dương có thể đem lại. Không nên suy nghĩ theo kiểu “hữu xạ tự nhiên hương” mà cần phải có một quá trình triển khai kiên trì, lâu dài, chịu thương chịu khó. Việc đánh thức và khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh của H ải D ư ơng và cả khu vực để phát triển không chỉ là trách nhiệm của chính quyền mà còn phải là trách nhiệm của cả cộng đồng DN trong vùng.
8. Một số giải pháp khác
Bên cạnh những nhóm giải pháp cơ bản trên, cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn tỉnh.
Tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước.
Kiên quyết từ chối tiếp nhận các dự án có kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, hiệu quả kinh tế-xã hội thấp, các dự án gây ô nhiễm tới môi trường. Ưu tiên thu hút các dự án có vốn ĐTNN từ những quốc gia có tiềm lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý.
Tăng cường kiểm tra, kiên quyết thu hồi đất đối với các chủ đầu tư đã được thuê đất nhưng không triển khai dự án theo tiến độ quy định. Tạo điều kiện thuận lợi để các dự án sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước.
Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo các sở, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Hải Dương, tạo hiệu ứng lan tỏa tới các nhà đầu tư mới.
KẾT LUẬN
Kinh tế thời kỳ hội nhập luôn là vấn đề không chỉ các nhà hoạch định chính sách quan tâm. Nó còn là sự quan tâm rất lớn từ phía các nhà đầu tư và các cá nhân khác trong xã hội và nó tác động trực tiếp tới cuộc sống của họ. Thông qua đó họ tìm những cơ hội đầu tư mới nhằm thu lợi nhuận. Còn đối với các nước tiếp nhận đầu tư, thông qua vốn đầu tư thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia mình. Đây có thể coi là nguồn vốn tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên tiếp nhận đầu tư và bên đầu tư nhằm thực hiện những mục tiêu riêng của mình.
Trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, Hải Dương luôn coi trọng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nhằm đạt được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hóa- hiện đại hóa cùng với cả nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển. Để đạt được mục tiêu đó không thể không nhắc tới nguồn vốn FDI. Trong bài viết đã đưa ra những vấn đề cơ bản về nguồn vốn FDI. Thấy được vai trò của nó đối với phát triển kinh tế xã hội của Hải Dương nói riêng cũng như của Việt Nam nói chung trên con đường hội nhập kinh tế. Tuy đạt được khá nhiều thành tựu trong việc sử dụng FDI ở tỉnh ta nhưng bên cạnh đó cũng còn tồn tại một số hạn chế chưa được giải quyết triệt để. Đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó và đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này trong thời gian tới tại Hải Dương. Trong thời gian tới tỉnh cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để thu hút các dự án đầu tư với nguồn vốn lớn, sử dụng các công nghệ-kỹ thuật hiện đại, thu hút các dự án tập trung vào việc tận dụng các thế mạnh của địa phương như chế biến nông sản. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực hết mình của các cấp từ Trung ương tới địa phương. Và có sự thống nhất giữa các cấp nhằm tạo nên một khối thống nhất, đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư vào Hải Dương.
Do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Hải Dương (1987-2007) của Sở kế hoạch -Đầu tư Hải Dương.
Các báo cáo hàng năm FDI của phòng Kinh tế đối ngoại- Sở Kế hoạch-đầu tư Hải Dương.
Hội nghị gặp mặt các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2009 tại Hải Dương.
Giáo trình kinh tế phát triển – NXB Lao động- xã hội năm 2005.
GS.TS Nguyễn Thị Cành và Th.s Trần Hùng Sơn “ Vai trò của đầu tư FDI đến tăng trưởng và phát triển kinh tế “. Tạp chí phát triển kinh tế - T7/ 2009.
Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2007.
Tạp chí kinh tế Việt Nam 2008.
Xây dựng kế hoạch KT-XH 5 năm 2011-2015 của Sở kế hoạch và đầu tư.
Thu hút FDI: gỡ rối nội tại – www.uni.bros.com.
Các trang web của:
ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương
ủy ban nhân dân tỉnh Hưng yên,UBNN Bắc Ninh, UBNN Vĩnh Phúc.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25668.doc