Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010

Tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010: ... Ebook Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài HĐHTKD: Hợp đồng hợp tác kinh doanh KCN – KCX: Khu công nghiệp – Khu chế xuất TNHH: Trách nhiệm hữu hạn ĐTNN: Đầu tư nước ngoài UNCTAD: United Nations conference on Trade and Developement (Hội nghị liên hợp quốc về thương mại) DANH MỤC BẢNG Bảng 1: So sánh chi phí kinh doanh giữa Việt Nam, Trung Quôc, Thái Lan và Philippin 11 Bảng 2: Tóm tắt dự án HĐHTKD dịch vụ quảng cáo giữa công ty TNHH M& T và Leo Bumett Worldwide Inc 34 Bảng 3: Tóm tắt dự án công ty liên doanh TNHH Saatchi& Saatchi (Việt Nam) 36 Bảng 4: Tóm tắt dự án công ty TNHH Hakuhodo & quảng cáo Sài Gòn 38 Bảng 5: Tóm tắt dự án công ty TNHH Mccaan - Ericson Việt Nam 39 LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài Hoạt động quảng cáo đã xuất hiện từ lâu trong đời sống kinh tế - xã hội của nhiều nước trên thế giới và phát triển theo nhịp độ của sự phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, quảng cáo đã trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, quảng cáo hình thành và phát triển đồng thời với công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kể từ khi pháp lệnh quảng cáo ra đời (30/11/2001) hoạt động quảng cáo của Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt và đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được ngành quảng cáo của Việt Nam vẫn kém phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng và còn thua kém nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nguyên nhân chính là do chúng ta thiếu vốn, công nghệ và một đội ngũ lao động chuyên nghiệp và có kinh nghiệm. Trong thời gian thực tập tại Phòng Dịch Vụ, Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, qua tham khảo và nghiên cứu tài liệu về lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam thời gian qua, em nhận thấy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này đã góp phần không nhỏ vào sự tiến bộ và phát triển của ngành quảng cáo nước nhà. Tuy nhiên, quảng cáo là ngành được Nhà nước bảo hộ vì đây là một ngành dịch vụ non trẻ ở nước ta, nên trong thời gian qua việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này còn hạn chế. Thời gian tới, khi Việt Nam gia nhập WTO chúng ta sẽ dần phải dỡ bỏ sự bảo hộ này. Xuất phát từ thực tiễn đó, em quyết định viết đề tài: “Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010”. Để hoàn thành được đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong khoa Kế hoạch và phát triển, cũng như các cô chú ở Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch – Đầu tư). Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận và chuyên viên Nguyễn Huy Hoàng - phòng dịch vụ (Cục Đầu tư nước ngoài) đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Quảng cáo là một ngành non trẻ tại Việt Nam, đồng thời với sự hiểu biết có hạn của mình, vì vậy đề tài được thực hiện với mục đích: Một là: Nêu những khái niệm, đặc điểm chung nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài và quảng cáo Hai là: Đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam thời gian qua. Ba là: Nêu ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010, góp phần phát triển vững mạnh ngành quảng cáo của Việt Nam trong tương lai. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam trong ngành quảng cáo, cụ thể là 10 dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam tính đến hết năm 2004. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực trạng những dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua rut ra kết luận về những thành tựu cũng như những tồn tại của ngành, từ đó đưa ra các giải pháp. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phân tích thống kê, đối chiếu, so sánh trong việc thu thập thông tin, dữ liệu, phân tích và tổng hợp để rút ra những kết luận và đề xuất các giải pháp. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết thúc, đề tài gồm 3 phần: Chương I: Sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo ở nước ta. Chương II: Thực trạng thu hút FDI vào lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2010. CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO Ở NƯỚC TA I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) Trong suốt hai mươi năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng có vai trò quan trong trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Hiện nay FDI đã được công nhận một cách rộng rãi rằng nó có thể đem lại những lợi thế quan trọng cho các nền kinh tế tiếp nhận nó. Vì vậy, có rất nhiều cách định nghĩa về FDI, tuỳ theo góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế. Theo hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển (United Nations conference on Trade and Development - UNCTAD): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự đầu tư với một quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một chủ thể thường trú trong một nền kinh tế khác không phải là nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp chi nhánh hoặc cơ sở chi nhánh ở nước ngoài)” (Nguồn: UNCTAD(2001):Báo cáo đầu tư thế giới, Newyork và Geneva 2001, trang 291). Định nghĩa đã hàm ý nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có ảnh hưởng đáng kể tới việc quản lý và điều hành doanh nghiệp ở nền kinh tế khác. Sự đầu tư như vậy bao gồm cả những giao dịch ban đầu giữa hai chủ thể cũng như tất cả những giao dịch về sau giữa hai bên và giữa các cơ sở chi nhánh ở nước ngoài, cả chi nhánh có gắn kết và chi nhánh không gắn kết. FDI có thể do các cá thể cũng như các chủ thể thực hiện. Theo khái niệm của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình đầu tư quốc tế trong đó một tổ chức cư trú tại một nền kinh tế thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Lợi ích lâu dài ở đây hàm ý sự tồn tại trong thời gian dài của một mối quan hệ giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp này” Theo điều 2, luật đầu tư nước ngoài năm 1996: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này”. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài, nhằm xác định được tư bản được chuyển dịch trong FDI nhất thiết phải vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Quá trình thu hút và quản lý vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thực tế diễn ra rất đa dạng, phức tạp và không ngừng biến đổi. Nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư, cũng như tạo điều kiện cho các nhà quản lý trong nước thực hiện tốt chức năng của mình, luật đầu tư nước ngoài đã quy định những hình thức dưới đây các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư vào Việt Nam: 2.1. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài 2.1.1. Khái niệm Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: “Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam”. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với những dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, những dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Nhà đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và có thể thành lập Hội đồng quản trị phù hợp với điều lệ của doanh nghiệp. Người đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp này là tổng giám đốc, trừ trường hợp điều lệ doanh nghiệp quy định khác. 2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn khi thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài khi thành lập có những thuận lợi, đó là: Doanh nghiệp sẽ độc lập về tổ chức, quản lý điều hành công ty và không phải chia sẻ lợi nhuận với đối tác của nước sở tại. Đồng thời doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng được phép chuyển nhượng vốn sau khi đăng ký việc chuyển nhượng với cơ quan cấp giấy phép đầu tư. Khi chủ đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài sẽ gặp những khó khăn sau: Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào một số lĩnh vực như khai thác, chế biến dầu khí, khoáng sản, du lịch lữ hành, văn hoá, trồng rừng, đường sắt, đường biển, vận tải hành khách công cộng… Các doanh nghiệp này không có sự hỗ trơ của bên Việt Nam trong việc thành lập, hoạt động cũng như tìm đối tác trong nước. Đồng thời doanh nghiệp thành lập dưới hình thức này sẽ hoàn toàn chịu mọi rủi ro nếu hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. 2.2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh 2.2.1. Khái niệm "Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không thành lập pháp nhân’’ (Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.) Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên trong đó có ít nhất một bên là đối tác Việt Nam và một bên là đối tác nước ngoài. Các dự án đầu tư theo hình thức này được chấp thuận trên cơ sở đồng ý của Bộ Kế hoạch và đầu tư hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh. Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh và chịu trách nhiệm về hoạt động của văn phòng điều hành. Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu, được mở tài khoản, được tuyển dụng lao động, được ký kết hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại giấy phép đầu tư và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh, nếu xét thấy cần thiết các bên hợp doanh có thể thoả thuận thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thoả thuận. Bên hợp doanh nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo luật đầu tư nước ngoài. Bên hợp doanh Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước. Thuế thu nhập và các nghĩa vụ tài chính khác của các bên hợp doanh có thể được tính gộp vào phần sản phẩm được chia cho bên hợp doanh Việt Nam và bên hợp doanh Việt Nam có trách nhiệm nộp cho nhà nước. Theo nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000, quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, những ngành nghề chỉ được phép thực hiện đầu tư nước ngoài theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là: xây dựng, kinh doanh mạng viễn thông quốc tế, viễn thông nội hạt. 2.2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành hợp đồng hợp tác kinh doanh Những thuận lợi khi tiến hành hợp đồng hợp tác kinh doanh: Khi các hợp đồng hợp tác kinh doanh ký kết, không cần thành lập pháp nhân vì vậy thủ tục đăng ký không phức tạp như các hình thức khác. Các bên có thể linh hoạt trong quá trình thoả thuận, từ xác định thời hạn hợp đồng đến việc quản lý hoạt động kinh doanh. Ban điều phối được thành lập tạo điều kiện giám sát và quản lý việc hợp tác đầu tư một cách công khai và có hiệu quả, giảm bớt các tranh chấp có thể có trong quá trình phân chia kết quả kinh doanh. Đồng thời bên hợp doanh nước ngoài không bị khống chế tỷ lệ góp vốn pháp định tối thiểu là 30% như bên nước ngoài trong hình thức liên doanh. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, khi tiến hành các hợp đồng hợp tác kinh doanh, các bên hợp doanh cũng đã gặp phải một số khó khăn, đó là: Khi thành lập các hợp đồng hợp tác kinh doanh, không tồn tại một thực thể pháp lý riêng biệt ở nước sở tại và không mang tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn, điều này gây nên sự khó khăn trong việc tuyển dụng lao động và ký kết các hợp đồng với các đối tác thực hiện dự án đầu tư. Khi tiến hành hợp đồng hợp tác kinh doanh không được tự do lựa chọn các lĩnh vực đầu tư và không có nhiều ưu đãi thuế như các hình thức đầu tư khác. 2.3. Doanh nghiệp liên doanh 2.3.1. Khái niệm “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh” (Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996). Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, mang tư cách pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cam kết góp vốn vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư, đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không quá 20% vốn đầu tư được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài do các tham gia liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Trong một vài trường hợp cụ thể, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn pháp định. Doanh nghiệp liên doanh thành lập hội đồng quản trị để lãnh đạo công ty với nhiệm kỳ không quá 5 năm. Các bên cử người của mình tham gia hội đồng quản trị ứng vời phần vốn góp trong vốn pháp định. Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, trừ trường hợp điều lệ doanh nghiệp có quy định khác. Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất do bên liên doanh Việt Nam đề cử và phải là công dân Việt Nam thường trú trên lãnh thổ Việt Nam. Lợi nhuận và rủi ro của doanh nghiệp được phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong phần vốn pháp định. Doanh nghiệp liên doanh không được giảm vốn trong quá trình liên doanh, nếu tăng vốn phải làm bản giải trình lên Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xem xét giải quyết. 2.3.2. Những thuận lợi và khó khăn khi thành lập doanh nghiệp liên doanh · Các doanh nghiệp liên doanh khi thành lập sẽ có những thuận lợi, đó là: Các doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về lĩnh vực đầu tư, và được phép chuyển nhượng vốn sau khi đăng ký việc chuyển nhượng với cơ quan cấp giấy phép đầu tư. Các doanh nghiệp liên doanh thường dễ tìm địa điểm để xây dựng nhà xưởng do bên đối tác Việt Nam thường góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Đồng thời bên Việt Nam hỗ trợ doanh nghiệp liên doanh trong việc tuyển dụng lao động, tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trong nước để cung cấp cho doanh nghiệp cũng như tìm thị trường tiêu thụ trong nước, còn bên nước ngoài có thể chủ động hơn trong quá trình điều hành hoạt động kinh doanh, áp dụng và phát huy các công nghệ mới, các kinh nghiệm quản lý của mình tại Việt Nam. Và một ưu điểm của hình thức đầu tư này được các chủ đầu tư nước ngoài quan tâm đó là, rủi ro được chia sẻ giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài. · Khi thành lập các doanh nghiệp liên doanh cũng gặp một số vấn đề khó khăn, tồn tại, đó là: Khả năng góp vốn bằng tiền mặt và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại của bên Việt Nam rất hạn chế, điều này dẫn đến một số thiệt thòi cho bên Việt Nam trong việc đưa ra các quyết định quản lý điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trong việc hưởng lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp liên doanh rủi ro cao, thu hồi vốn chậm. Trong thực tế nhiều doanh nghiệp liên doanh kinh doanh thua lỗ trong một thời gian dài, dẫn đến bên Việt Nam không chịu đựng được đành rút lui khỏi liên doanh, gây ra nhiều vấn đề bất cập sau đó. 3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức vô cùng quan trọng góp phần phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia trong đó quan trọng nhất là các yếu tố dưới đây: 3.1. Khả năng thâm nhập thị trường Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá thâm nhập thị trường như một trong những nhân tố quan trọng nhất để mở rộng ra nước ngoài và quyết định địa bàn đầu tư. Dân số, chất lượng hạ tầng giao thông và cơ sở hạ tầng, chính sách bảo hộ của một quốc gia, cũng như chính sách về xuất nhập khẩu là những yếu tố quan trọng để nhà đầu tư nước ngoài quyết định thâm nhập đầu tư ra nước ngoài. Tóm lại, tính cạnh tranh về khía cạnh thâm nhập thị trường vào một quốc gia được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá thông qua quy mô thị trường và chi phí thâm nhập thị trường. Theo kết quả điều tra, về khía cạnh “thâm nhập thị trường” Việt Nam được đánh giá kém hấp dẫn hơn ASEAN4 và Trung Quốc vì Việt Nam có quy mô thị trường trong nước hẹp và chi phí thâm nhập thị trường khu vực cao. 3.2. Chi phí kinh doanh Chi phí kinh doanh là một trong các yếu tố quan trọng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Chi phí kinh doanh bao gồm: chi phí viễn thông; chi phí vận tải; chi phí về lao động; chi phí điện, nước; chi phí thuê đất, văn phòng… Nếu một nước có chi phí kinh doanh thấp là địa điểm hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và ngược lại. Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đều chỉ ra rằng chi phí kinh doanh cao là điểm bất lợi chính của Việt Nam. Phân tích các chi phí tại Việt Nam được thực hiện trước đây cho thấy chi phí đầu tư và chi phí kinh doanh tại Việt Nam là tương đối cao so với ASEAN4 và Trung Quốc. Theo kết quả điều tra các nhà đầu tư nước ngoài, mặc dầu hệ thống hai giá không ảnh hưởng nhiều đến chi phí kinh doanh nhưng nó tạo ra ấn tượng đối xử không nhất quán (sự phân biệt) đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Ngoài ra, việc thiếu nguyên vật liệu, công nghiệp hỗ trợ và hệ thống thuế nhập khẩu không hấp dẫn cũng được nhìn nhận là các điểm yếu khác của Việt Nam, đồng thời tạo ra chi phí kinh doanh cao. Bảng 1: So sánh chi phí kinh doanh giữa Việt Nam, Trung Quôc, Thái Lan và Philippin (1 = kém cạnh tranh nhất; 4 = cạnh tranh cao nhất) Chi phí và các nhân tố liên quan đến kinh doanh Việt Nam Trung Quốc Thái Lan Philippin Chi phí/ chất lượng cung cấp điện 1 2 3 3 Chi phí/chất lượng cung cấp nước 1 2 3 3 Chi phí viễn thông 1 3 3 4 Chi phí vận tải biển 1 4 2 2 Chất lượng lao động (không có kỹ thuật) 1 2 3 3 Chất lượng lao động có kỹ thuật 1 2 3 3 Chi phí lao động (công nhân) 4 1 1 3 Chi phí lao động (Người quản lý) 1 4 1 1 Chi phí/chất lượng thuê (văn phòng) 2 1 3 4 Chi phí/chất lượng thuê (tiền thuê đất trong KCN và KCX) 2 2 4 1 Chi phí không chính thức (chi phí hành chính, tham nhũng) 1 1 4 3 Thuế thu nhập cá nhân 1 2 2 4 Thuế suất thực tế 1 2 2 4 Nguồn: Ngân hàng thế giới 3.3. Môi trường chính trị và xã hội Ổn định chính trị và xã hội là lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Yếu tố này được thể hiện thông qua các khía cạnh như: chiến tranh, mâu thuẫn sắc tộc, an ninh trật tự xã hội… Đây là yếu tố giúp nhà đầu tư nước ngoài thấy yên tâm khi chọn địa điểm đầu tư. Sau sự kiện 11/9 Việt Nam đã được tổ chức rủi ro kinh tế và chính trị (PERC) tại Hồng Kông xếp ở vị trí thứ nhất về khía cạnh ổn định chính trị và xã hội. So với các nước ASEAN4 và Trung Quốc, Việt Nam có ít vấn đề liên quan đến tôn giáo và mâu thuẫn sắc tộc hơn. Sau khi đưa ra các chính sách “đổi mới”, Việt Nam đã và đang được mức tăng trưởng GDP ổn định. Sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô đang được duy trì và Việt Nam được đánh giá là nơi an toàn để đầu tư. 3.4. Luật pháp Trước khi ra quyết định chọn địa điểm đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài luôn tìm hiểu trước các yếu tố luật pháp ở quốc gia sở tại, vì nó là yếu tố liên quan đến các dự án đầu tư trong khi làm thủ tục kinh doanh cũng như trong suốt quá trình kinh doanh. Do vậy, đây cũng là yếu tố thể hiện tính cạnh tranh của môi trường đầu tư ở một quốc gia. Theo kết quả khảo sát, Việt Nam là nước mà các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt với khá nhiều vấn đề trong kinh doanh hơn các nước khác trong khu vực. Hầu hết các vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt là kết quả của việc thiếu tính đồng bộ, không chắc chắn, thống nhất trong hệ thống thuế và pháp luật. Mặc dù Việt Nam đã rất nỗ lực trong quá trình cải thiện khung pháp lý của mình nhưng vẫn tồn tại nhiều khiếm khuyết. Việc trình bày không rõ ràng và không nhất quán về luật pháp dẫn đến các bất cập trong việc thực hiện và thi hành. Việc thay đổi không thể lường trước và có hiệu lực hồi tố của luật và các quy định thuế là một vấn đề lớn khác tại Việt Nam. 3.5. Cơ sở hạ tầng và các tiện ích Những cơ sở hạ tầng và các tiện ích được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đó là: hạ tầng giao thông vận tải (đường bộ, đường thủy…), mạng lưới viễn thông, điện, nước… Chất lượng và độ tin cậy của cơ sở hạ tầng và các tiện ích là yếu tố thu hút sự đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Ở Việt Nam, chất lượng và độ tin cậy của cơ sở hạ tầng và các tiện ích thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù cải thiện mạnh mẽ trong hơn 10 năm qua nhưng khả năng sẵn có và chất lượng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam vẫn dưới mức trung bình trong khu vực và ASEAN4. Theo kết quả điều tra do viện nghiên cứu phát triển Đức hơn hai phần ba các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải dung đường bộ để vận tải hàng hoá của mình. Hầu hết các nhà đầu tư được phỏng vấn đều chỉ trích điều kiện hệ thống đường bộ nghèo nàn là một trở ngại trong kinh doanh. Hầu hết các dự án hạ tầng sử dụng nhiều vốn. Cho đến nay, đầu tư vào cơ sở hạ tầng chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, bao gồm viện trợ ODA và các khoản vay ưu đãi. Sự tham gia của khối tư nhân vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn còn hạn chế và chủ yểu theo hình thức xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (trong lĩnh vực cung cấp điện năng và nước) và hợp đồng hợp tác kinh doanh (trong ngành viễn thông). Quản lý và kinh doanh cơ sở hạ tầng tập trung vào một số ít các tổng công ty nhà nước. Điều này dẫn đến thiếu tính cạnh tranh, hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Vì vậy trong tương lai, chúng ta cần khuyến khích sự tham gia của khối tư nhân trong cung cấp dịch vụ tiện ích và cơ sở hạ tầng, như vậy sẽ làm tăng chất lượng và giảm chi phí mà chúng là các nhân tố chủ chốt thu hút FDI vào Việt Nam. 3.6. Thị trường lao động Tính cạnh tranh của thị trường lao động một quốc gia được thể hiện ở chi phí lao động và chất lượng lao động, bao gồm cả lao động phổ thông và lao động chất lượng cao. Một quốc gia có thị trường lao động mang tính cạnh tranh là một quốc gia có đội ngũ lao động dồi dào, với chi phí nhân công thấp hơn các quốc gia khác, đồng thời cũng cần có một đội ngũ lao động chất lượng cao để đáp ứng mọi nhu cầu của các nhà đầu tư. Việt Nam là một quốc gia có một lực lượng lao động hơn 40 triệu người, hàng năm tăng thêm từ 1,1 đến 1,2 triệu người. Chi phí lao động tương đối thấp so với các nước khác trong khu vực. Đây là điểm lợi thế của Việt Nam. Tuy nhiên, lực lượng nhân công qua đào tạo của Việt Nam lại tương đối thấp. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao đông, Thương binh và Xã hội công bố, chỉ gần 12% lực lượng nhân công Việt Nam được qua đào tạo. Lực lượng nhân công không có chuyên môn kỹ thuật thì dư thừa trong khi đó lại thiếu lao động có chuyên môn kỹ thuật. Theo kết quả phỏng vấn nhiều nhà đầu tư nước ngoài, thiếu nhận thức kinh doanh, quản lý và kỹ thuật là những hạn chế chính của người Việt Nam. Thị trường lao động Việt Nam vẫn nằm trong giai đoạn hình thành và chưa phát triển. Sự chuyển dịch lao động giữa các ngành kinh tế khác nhau tương đối thấp so với các nước khác, cụ thể là giữa khối nhà nước và khối tư nhân. Việc yêu cầu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuyển dụng lao động trong nước thông qua các cơ quan tuyển dụng được phép đã hạn chế tính linh hoạt của thị trường lao động. Tóm lại, mặc dầu Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về đội ngũ nhân công rẻ và trẻ nhưng chất lượng nhân công lao động vẫn thấp. Tình trạng này làm giảm tính cạnh tranh của Việt Nam trong các ngành công nghệ cao. 3.7. Khả năng sẵn có của các nhà cung cấp ở các nước nhận đầu tư về linh kiện và nguyên vật liệu Khi ra quyết định chọn địa điểm cũng như ngành nghề đầu tư, một yếu tổ mà các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý đó là khả năng cung cấp linh kiện và nguyên vật liệu ở nước nhận đầu tư. Nếu quốc gia nào có các nhà cung cấp linh kiện cũng như các nguyên vật liệu dồi dào với chi phí thấp, thì sẽ có tính cạnh tranh cao trong việc thu hút FDI và ngược lại. Do ngành công nghiệp ở Việt Nam chưa phát triển, việc sử dụng linh kiện và nguyên vật liệu trong nước còn hạn chế. Kết quả là hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh trong ngành sản xuất như điện tử, ô tô, và xe máy phải nhập linh kiện và hang bàn thành phẩm. Do chi phí nguyên vật liệu trong ngành sản xuất là nhân tố lớn nhất trong cấu thành chi phí, tình trạng không sẵn có các linh kiện và nguyên vật liệu trong nước dẫn đến chi phí sản xuất cao và giảm lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam có hệ thống thuế nhập khẩu bất hợp lý cũng góp phần làm cho chi phí linh kiện và nguyên vật liệu cao. Thuế nhập khẩu trung bình đánh vào linh kiện và nguyên vật liệu dao động từ 30% đến 60%. Theo kết quả điều tra với cơ quan thẩm quyền và các công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp, việc thiếu công nghiệp hỗ trợ và nhà cung cấp trong nước là một trong những nguyên nhân chính làm số lượng lớn các nhà đầu tư tiềm năng không chọn đặt các cơ sở của họ ở Việt Nam. Thiếu các nhà cung cấp linh kiện và nguyên vật liệu trong nước làm giảm lợi thế cạnh tranh của Việt Nam so với các nước ASEAN4 và Trung Quốc. Tình trạng này trở nên nghiêm trọng hơn đối với Việt Nam khi Việt Nam cam kết đầy đủ theo AFTA vào năm 2005, như vậy Việt Nam phải giảm thuế suất nhập khẩu xuống dưới 20% đối với 80% hang hoá. Thành phẩm từ các nước ASEAN khác bán tại Việt Nam sẽ chịu thuế suất nhập khẩu thấp hơn. Do đó, không có lợi về mặt kinh tế cho các nhà đầu tư nước ngoài thành lập các cơ sở sản xuất ở Việt Nam. Tóm lại, tất cả các yếu tố trên đều góp phần quan trọng vào việc thu hút FDI của một quốc gia, do vậy nhằm tăng tính cạnh tranh trong việc thu hut FDI các nước cần phải có những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy tính cạnh tranh cho các yếu tố trên. 4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đang phát triển Khủng hoảng nợ những năm 80 của thế kỉ XX khiến cho các nước đang phát triển rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, để thoát khỏi tình trạng đó các nước này đã thực hiện một loạt các biện pháp như: cải cách kinh tế theo hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường, áp dụng chiến lược công nghiệp hoá vào xuất khẩu… Nhưng do khủng hoảng nợ chồng chất, các nước đang phát triển không thể tiếp tục vay thêm từ các tổ chức quốc tế, vì vậy họ phải nhìn vào nguồn vốn FDI. Thực tế đã chứng minh đây là nhân tố quan trọng để các nước đang phát triển thoát khỏi nợ nần và từng bước công nghiệp hoá đất nước. Vì vậy, trong thời gian qua mục tiêu hàng đầu của các quốc gia đang phát triển là thu hút FDI, và thực tế cũng cho thấy dòng vốn FDI đã phát huy tác dụng của mình ở các nước này thời gian qua. 4.1. FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu qủa các nguồn lực trong nước Hầu hết các nước đang phát triển đều thiếu vốn để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước và nguồn vốn FDI đã góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình này. Nguồn vốn FDI đã được khai thác hiệu quả và ưu thế hơn hẳn các nguồn vốn khác. Đây là đồng vốn do nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý, sử dụng và tự chịu trách nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, vì vậy thông qua việc sử dụng nguồn vốn FDI, nhiều nguồn lực trong nước (lao động, đất đai, tài nguyên…) được khai thác và đưa vào sử dụng tương đối hiệu quả. Một nước phát triển cao như Mỹ với tổng vốn đầu tư là 1029 tỷ USD (1995) nhưng vẫn cần đến nguồn vốn FDI vào khoảng 90 tỷ USD (1995). Mặc dù FDI vào Mỹ chỉ chiếm khoảng hơn 8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội nhưng nó có tầm quan trọng lớn đối với Mỹ, thể hiện ở việc dòng vốn FDI vào Mỹ đã làm tăng nguồn sinh khí mới cho thị trường đầu tư Mỹ. Ở Việt Nam, tính từ năm 1988 đến nay, đã có 5800 dự án với tổng vốn đăng ký đạt gần 50 tỷ USD. Vốn thực hiện đạt 34,7 tỷ USD, chiếm trên 20% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1996-2000 và khoảng 17-18% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2001-2005. Sau thời kỳ suy giảm do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra vào năm 1997, dòng vốn FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây đã từng bước được phục hồi. Năm 2002 vốn đăng ký mới đạt 2,8 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, năm 2004 đạt 4,4 tỷ USD và năm 2005 ước đạt 5 tỷ USD. 4.2. Góp phần chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển Khi các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút vào các nước đang phát triển, nhiều công nghệ mới, hiện đại đã du nhập vào các nước này trong tất cả các lĩnh vực: viễn thông, hoá chất, điện tử, tin học…đã góp phần nâng cao năng lực công nghệ của nền kinh tế, giải quyết những khó khăn mà các nước đang phát triển mắc phải như không đủ khả năng tài chính mua sắm trang thiết bị hiện đại, không đủ trình độ quản lý các thiết bị đó… Nhìn chung, trang thiết bị của khu vực FDI là trang thiết bị đồng bộ, có trình độ cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Vấn đề bảo vệ môi trường cũng được các doanh nghiệp FDI quan tâm. Chính điều này đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. 4.3. Góp phần tạo việc làm mới và phát triển nguồn nhân lực cho nước sở tại Thu hút vốn FDI nhằm tạo ra nguồn lực để phát triển kinh tế và tạo việc làm cho người lao động là xu hướng quan trọng của tất cả các nước đang phát triển. Tuy nhiên, mỗi qu._.ốc gia có những chính sách cụ thể và biện pháp khác nhau. Kinh nghiệm chung của các nước là thu hút FDI phải dựa trên cơ sở phát triển sản xuất, tạo việc làm cho người lao động mới tạo ra được sự phát triển bền vững. FDI đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội đối với các nước đang phát triển. FDI có khả năng tạo việc làm và cơ hội về việc làm cho người lao động, hơn thế FDI không chỉ tạo việc làm trực tiếp mà còn tạo việc làm gián tiếp. Theo điều tra của Ngân hàng Thế giới thì mỗi việc làm do FDI trực tiếp tạo ra sẽ tạo thêm cho từ một tới hai việc làm gián tiếp khác. Theo Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, các dự án FDI sử dụng nhiều lao động được khuyến khích, nhất là trong lĩnh vực gia công, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giày dép, đầu tư vào KCN, KCX... Số lao động trực tiếp trong khu vực FDI đã tăng lên nhanh chóng theo từng năm: từ trên 22 vạn người vào năm 1996 lên 38 vạn người vào năm 2000 (tăng 72% so với năm trước) và từ 45 vạn người vào năm 2001 lên 59 vạn người vào năm 2002 (tăng 31% so với năm trước). Đến nay, khu vực FDI đã thu hút trên 66 vạn lao động trực tiếp (tăng 12% so với năm trước), vượt 10% so với dự kiến ban đầu. Đồng thời, khi các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ các quốc gia đang phát triển ,họ sẽ đưa các chuyên gia giỏi, cũng như phương thức quản lý doanh nghiệp hiện đại và chuyên nghiệp. Như vậy, những người lao động cũng như các doanh nghiệp nước đó sẽ có điều kiện và cơ hội để học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp. 4.4. Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của các công ty trong nước Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều nguồn lực ở các quôc gia đang phát triển như lao động, đất đai, lợi thế địa lý kinh tế, tài nguyên…được phân bổ một cách hợp lý hơn. Qua đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp ở các nước này có thể học tập mô hình quản lý hiện đại, mở rộng mối liên kết kinh doanh với doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp phụ trợ, phụ liệu. Đồng thời, khu vực đầu tư nước ngoài cũng tạo sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp nước sở tại cạnh tranh vươn lên, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp này làm quen với phương thức làm ăn theo tiêu chuẩn quốc tế. 4.5. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cho các nước đang phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thông qua nguồn vốn FDI các nước đang phát triển có thể tiếp tục nhận kỹ thuật công nghệ mới, tiên tiến trên thế giới để từ đó nâng cao trình độ khoa học công nghệ từng bước công nghiệp hoá. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, trong đó FDI chiểm tỷ lệ lớn trong giá trị sản lượng công nghiệp và đầu tư xây dựng hạ tầng, từ đó từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở Việt Nam, về cơ cấu ngành, khu vực kinh tế có vốn FDI chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp quan trọng khác như công nghiệp dầu khí, công nghệ thông tin, hoá chất, lắp ráp, điện tử và điện tử gia dụng… Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã kích thích ngành dịch vụ Việt Nam phát triển nhanh hơn, nhất là trong các ngành viễn thông, du lịch, kinh doanh bất động sản, tài chính, ngân hàng… Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tâp trung chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển kinh tế chung và các vùng phụ cận. Điều này đã làm thay đổi bộ mặt và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một loạt địa phương, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới 86% giá trị sản xuất công nghiệp của Bà Rịa- Vũng Tàu, 81% của Vĩnh Phúc… 4.6. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài làm tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua hoạt động mở rộng thị trường của mình FDI có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường các nước đang phát triển. Các doanh nghiệp có vốn FDI sẽ cung cấp hàng hoá, dịch vụ mà sản xuất trong nước chưa đủ đáp ứng cả về số lượng và chất lượng, từ đó mở rộng thị trường trong nước, đồng thời cũng góp phần to lớn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu tại các nước này. Với trên 2160 dự án đã sản xuất kinh doanh, kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI (chưa kể dầu khí) của Việt Nam tăng nhanh chóng qua các thời kỳ. Nếu thời kỳ 1991-1995, xuất khẩu mới đạt trên 1 tỷ USD, thì 1996-2000 đạt trên 10,6 tỉ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong mấy năm gần đây, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI trong kim ngạch xuất khẩu cả nước đã tăng dần: từ 25% vào năm 2000 lên 30% vào năm 2003, nếu tính cả dầu thô thì tỷ trọng đạt 51% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đây là tỷ lệ cao hơn so với mục tiêu đề ra của năm 2005 là 25%. Tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu tăng nhanh: thời kỳ 1991-1995 đạt 30%, thời kỳ 1996-2000 đạt 43%. Khu vực FDI đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận thị trường quốc tế. 4.7. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước Thông qua việc đánh thuế các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tiền thuê đất đai, mặt nước, mặt biển…các nước đang phát triển đã thu được một lượng vốn đáng kể vào ngân sách nhà nước. Mức đóng góp này có xu hướng ngày càng tăng lên, tạo điều kiện cho các quốc gia đang phát triển tái đầu tư sản xuất. Việt Nam cùng với quá trình phát triển, mức đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách ngày càng tăng lên, góp phần nâng cao khả năng chủ động của Chính phủ trong việc cân đối ngân sách. Nộp ngân sách của khu vực FDI (không kể dầu khí) cũng không ngừng tăng lên, đạt gần 1,45 tỷ USD thời kỳ 1996-2000, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong ba năm gần đây, số thu ngân sách của khu vực FDI năm sau cao hơn năm trước khoảng 24%. Năm 2002 số thu ngân sách của khu vực FDI chiếm 13,4% tổng thu ngân sách cả nước, 6 tháng đầu năm 2003 đạt 14,2% tổng thu ngân sách cả nước, vượt chỉ tiêu đề ra của năm 2005 (10%). II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO 1. Khái niệm và các phương tiện quảng cáo 1.1. Khái niệm quảng cáo Hoạt động quảng cáo đã xuất hiện từ lâu trong đời sống kinh tế - xã hội của nhiều nước trên thế giới và phát triển theo nhịp độ của sự phát triển kinh tế thị trường. Ngày nay, quảng cáo đã trở thành một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, quảng cáo hình thành và phát triển đồng thời với công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để quảng cáo Việt Nam phát triển vững chắc đúng định hướng và tạo hành lang pháp lý cho hoạt động quảng cáo, Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng luật quảng cáo. Năm 2001, đáp ứng sự phát triển của quảng cáo, tăng cường quản lý nhà nước về lĩnh vực hoạt động này, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X đã thông qua Pháp lệnh quảng cáo, sau đó là các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ và Bộ Văn hoá - Thông tin. Theo điều 4 - chương I, pháp lệnh quảng cáo: “Quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu dung về hoạt động kinh doanh hàng hoá và dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời”. Trong đó, dịch vụ có mục đích sinh lời là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ, còn dịch vụ không có mục đích sinh lời là dịch vụ không nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ. Theo khoản 8, điều 2, Nghị định 24/2003/ NĐ-CP về quảng cáo: “Quá trình hoạt động quảng cáo là việc thực hiện chiến lược tiếp thị, xúc tiến quảng cáo, tư vấn quảng cáo, thực hiện ý tưởng quảng cáo, giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến người tiêu dùng”. Như vậy, có thể hiểu hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo được bắt đầu từ khi thực hiện chương trình tiếp thị cho đến khi giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng. Điều này cũng có nghĩa là các dự án nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm là những công đoạn trước của quá trình hoạt động quảng cáo và do vậy sẽ không thuộc các dự án quảng cáo. Chúng ta cần quan tâm đến sự phân biệt này vì nó liên quan đến thẩm quyền cấp phép đầu tư cũng như các hình thức đầu tư nếu nhà đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này ở Việt Nam. Nếu là hoạt động cung cấp dịch vụ quảng cáo thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thẩm quyền cấp giấy phép, và nhà đầu tư nước ngoài sẽ được đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Còn nếu đó là các dự án nghiên cứu thị trường, lấp kế hoạch tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm thì uỷ ban nhân dân các tỉnh có dự án đầu tư có thẩm quyền cấp giấy phép và ngoài hai hình thức đầu tư như trên thì nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. 1.2. Các phương tiện quảng cáo Ngay từ những năm cuối thập niên 80, hoạt động quảng cáo tại Việt Nam đã manh nha hình thành và trải qua một quá trình sơ khai từ khi có nhiều công ty nước ngoài lần lượt vào Việt Nam đầu tư kinh doanh. Sau ngày Mỹ huỷ bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam vào đầu tháng 2/1994, những đặc trưng về một nền công nghiệp quảng cáo đã hình thành với những thị phần ngày càng phát triển theo tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của quảng cáo trong giai đoạn này đáp ứng được sự đòi hỏi của sản xuất hang hoá, tính hấp dẫn của nền kinh tế mở, sự thúc bách của quá trình hội nhập. Những chiến dịch quảng cáo có quy mô bắt đầu nở rộ trên các phương tiện thông tin đại chúng. Người tiêu dùng thu nhận đầy đủ các loại thông tin về chất lượng hàng hoá, sản phẩm và được sống với một thế giới công khai chọn lựa để không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Và như một tất yếu, các phương tiện quảng cáo như báo chí, truyền hình, đài phát thanh, quảng cáo trên panô, áp phích…đã phát triển mạnh mẽ tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt trong nền kinh tế thị trường. Theo điều 9, chương II của Pháp lện quảng cáo của Việt Nam, các phương tiện quảng cáo bao gồm: 1. Báo chí gồm báo in, bao hình, báo nói và báo điện tử 2. Mạng thông tin máy tính 3. Xuất bản phẩm gồm cả phim, ảnh, băng hình, đĩa hình, băng âm thanh và đĩa âm thanh 4. Chương trình hoạt động văn hoá, thể thao 5. Hội chợ, triển lãm 6. Bảng, biển, pa - nô, băng - rôn, màn hình đặt nơi công cộng 7. Vật phát quang, vật thể trên không, dưới nước 8. Phương tiện giao thông, vật thể di động được 9. Hàng hoá 10. Các phương tiện quảng cáo khác theo quy định của pháp luật Quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện truyền thông sẽ đến được đại đa số quần chúng. Hoạt động này đã trở nên rất quen thuộc trong cuộc sống chúng ta, nó trở nên thông lệ trong việc tiếp nhận thông tin dù muốn dù không. Hình thức này thưòng lặp đi lặp lại khiến cho người xem nhớ được nội dung giới thiệu. Vì lượng thời gian ít nên nội dung quảng cáo phải cô đọng súc tích, hình ảnh đẹp gây ấn tượng cho người xem. Quảng cáo trên mạng máy tính và xuất bản phẩm trong thời gian qua đang có chiều hướng phát triển theo sự phát triển nhanh chóng của mạng lưới internet. Đây là những phương tiện quảng cáo có nhiều ưu điểm đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do hiệu quả cao, chi phí quảng cáo trên các phương tiện này lại thấp hơn truyền hình, báo in và một số phương tiện khác, do đó đã thu hút được rất nhiều quảng cáo. Tuy vậy, loại hình hoạt động quảng cáo đang phát triển này đã đặt ra cho công tác quản lý nhiệm vụ phải bắt nhập kịp thời tình hình để có biện pháp quản lý hiệu quả. Tài trợ các cuộc thi, các chương trình truyền hình…cũng là những hình thức được các nhà sản xuất quan tâm đề cập tới. Ngoài việc xây dựng, thiết kế chương trình sao cho thu hút sự quan tâm của khán giả thì việc lồng ghép khéo léo những hình thức quảng cáo như: tặng thưởng, tờ rơi tờ gấp, băng rôn biểu ngữ quảng cáo…đòi hỏi những người thiết kế có sự quan tâm đặc biệt. Có những phương pháp thiết kế rất hay nhưng hiệu quả công việc quảng cáo lại không cao bởi nếu chỉ thoả mãn nhu cầu làm đẹp, thì thiết kế đó chỉ đạt được chức năng thẩm mỹ thị giác. Để đạt được hiệu quả cao trong quảng cáo thì thiết kế phải cùng lúc thoả mãn nhiều chức năng khác. Điều đó giúp các nhà thiết kế định hướng một cách khách quan cho hình thức sản phẩm sao cho phù hợp nhất. Cùng quảng cáo sản phẩm trong một không gian rộng lớn là điều các nhà sản xuất quan tâm trong xã hội hiện đại. Hội trợ triển lãm là cơ hội để các doanh nghiệp tự giới thiệu mình trước công chúng. Đây thực sự là một cuộc trình diễn hoành tráng về sắc màu của quảng cáo đồ hoạ. Sự có mặt của rất nhiều các sản phẩm từ mọi miền hội tụ đã đem đến cho triển lãm một khuôn mặt của lễ hội, của màu sắc. Làm thế nào để thu hút khách hàng tới gian hàng của mình, làm thế nào để nổi bật, thật ấn tượng? Màu sắc trong quảng cáo hội trợ sẽ góp phần thành công trong triển lãm. Bước chân vào trung tâm triển lãm, ngoài những âm thanh sôi động như thúc giục đôi chân rảo bước thì màu sắc xung quanh khiến không khí trở nên đông vui, sôi động hơn. Đó là những màu đỏ, vàng, cam, lam, tím…của băng rôn khẩu ngữ, của hàng cờ như reo vui, như vẫy chào. Trên cao hơn là những chùm bóng rực rỡ đầy màu sắc cùng dải băng xanh, đỏ nổi bật trên nền trời sáng. Hoà vào màu sắc tưng bừng của lễ hội là những dòng người với đủ màu sắc của trang phục. Công chúng đến để vui chơi, giải trí, mua sắm hàng hoá. Các doanh nghiệp đến tìm cơ hội giới thiệu sản phẩm, tìm đối tác kinh doanh. Một bên cung cấp thông tin và một bên là nơi tiếp nhận thông tin. Hội trợ triển lãm là nơi các doanh nghiệp tự khẳng định mình trực tiếp trước quần chúng. Các nhà sản xuất thường mang đến đây những sản phẩm độc đáo nhất của mình. Sự đồng bộ từ trang phục đến cách bày trí sẽ gây được ấn tượng, tạo uy tín, thanh thế cho công ty. Màu sắc sống động, mới mẻ toát lên sự hài hoà bắt mắt gây sự tập trung của thị giác. Ta có thể bắt gặp muôn màu muôn sắc của cuộc sống trong triển lãm. Đó là những màu sang trọng, quý phái với các gam màu trầm như: nâu đỏ, trắng, ghi, xanh, xanh đen…của những sản phẩm thời trang. Một tông màu vàng rực rỡ đầy hương vị của sản phẩm thực phẩm. Những sắc màu xanh lạnh, ghi tạo sự tin cậy của đồ điện tử gia dụng… Tất cả như cạnh tranh nhau, tôn nhau, hoà vào nhau làm nên một bản đồn ca lớn về màu sắc trong quảng cáo. Vào hội trợ để làm đẹp hết mình, khoe hết mình, thể hiện hết mình. Những kết quả thu được là vô cùng lớn. Những công ty lớn tiếp tục khẳng định mình, những công ty mới thành lập thì giới thiệu về mình, khách hàng có cơ hội tìm kiếm sản phẩm phù hợp với mình… Nhu cầu và mục tiêu gặp nhau ở một điểm chung đó là cái đẹp. Mọi người tìm cái đẹp thông qua màu sắc, các nhà sản xuất đáp ứng thị hiếu đẹp thông qua màu sắc. Màu sắc chính là cầu nối giữa cái đẹp với con người, làm cho cuộc sống của con người ngày càng đẹp hơn. Hình thức quảng cáo trên các bảng, biển, panô, băng rôn, màn hình đặt nơi công cộng và các phương tiện quảng cáo ở ngoài trời khác, ngày càng được phát triển đặc biệt là ở các đô thị lớn. Đây là hình thức quảng cáo tốn ít kinh phí, nhưng đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên các nước cần có sự quy hoạch cụ thể trong hình thức quảng cáo này để nó phát triển một cách quy củ, góp phần làm đẹp cảnh quan đô thị. 2. Vai trò của ngành quảng cáo với sự phát triển kinh tế -xã hội của đất nước Từ khi nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế - xã hội nước ta đã có những chuyển biến rất mạnh mẽ. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được nâng cao. Các hoạt động kinh tế - văn hoá - xã hội ngày một phong phú và đa dạng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ vật chất và các giá trị văn hoá, tinh thần của người lao động. Công cuộc đổi mới đã tạo ra cơ hội to lớn cho ngành quảng cáo hình thành và phát triển. Cái gì cũng vậy, bắt đầu là sự lạ lẫm, lâu dần thành quen thuộc. Nhớ buổi đầu trên các báo, đài của ta chỉ mới dám rụt rè mở một mục nhỏ có tên rất khiêm tốn là “thông tin kinh tế - xã hội”. Vậy mà bây giờ hai chữ “quảng cáo” đã chiếm một vị trí thích đáng với một tư thế hiên ngang trên các báo, đài phát thanh và truyền hình. Cùng với nhiều nước trên thế giới, quảng cáo ở nước ta thực sự trở thành một nghề kinh doanh hái ra tiền với một công nghệ ngày càng trở nên chuyên nghiệp và hiện đại. Sau 20 năm đổi mới (từ 1986 đến nay), ngành quảng cáo đã có một vị trí đáng kể trong nền kinh tế và góp phần không nhỏ vào tuyên truyền, quảng bá cho những chương trình, hoạt động xã hội mang tính công ích của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân. Thông qua quảng cáo, người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm hàng hoá, dịch vụ phù hợp, góp phần kích thích sự phát triển của sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, đẩy mạnh canh tranh, đổi mới sản phẩm hàng hoá, hạ giá thành…tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Quảng cáo đã đem lại việc làm cho hàng nghìn người, bao gồm những người làm quảng cáo chuyên nghiệp trong các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh dịch vụ quảng cáo và những người làm các công việc phụ trợ cho quảng cáo như hoạ sỹ, nhà quay phim, nhiếp ảnh, nhà văn, nhà thơ, thợ in, kỹ thuật viên, báo chí, xuất bản, tiếp thị… Nguồn thu từ quảng cáo đã hỗ trợ rất lớn trong việc đổi mới nâng cao chất lượng các chương trình, đồng thời góp phần không nhỏ vào sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng. Dưới hình thức tài trợ cho các chương trình văn nghệ, thể thao, vui chơi giải trí, các doanh nghiệp đã đầu tư rất lớn về kinh phí để đưa thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá của mình đến với người tiêu dùng. Cũng nhờ sự tài trợ đó, các chương trình nói trên được tổ chức thường xuyên hơn và chất lượng cũng được nâng cao nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức của công chúng. Ngoài ra quảng cáo góp phần quan trọng vào hoạt động xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, thông qua hoạt động quảng cáo, các doanh nghiệp thúc đẩy bán hàng, giới thiệu hình ảnh thương hiệu, sản phẩm, hoạt động của doanh nghiệp ra quốc tế và hoạt động hợp tác đầu tư. Một đóng góp thiết thực nữa của quảng cáo đối với xã hội là sự tham gia vào chương trình phục vụ lợi ích xã hội. Trong thời gian vừa qua, quảng cáo đã góp phần tích cực nâng cao ý thức của người dân về lợi ích của chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường, an toàn giao thông, phòng chống HIV, AIDS, cứu trợ nhân đạo… Sự có mặt của quảng cáo với hình ảnh đẹp, lời lẽ văn minh, kỹ thuật hiện đại đã góp phần làm cho bộ mặt các đô thị của chúng ta trở nên đẹp và hấp dẫn hơn. 3. Sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo ở nước ta Nền kinh tế thị trường nước ta đã sinh ra một ngành sản xuất vật chất mới, đó là ngành dịch vụ quảng cáo.Do vậy, sự phát triển của ngành dịch vụ này gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế sinh ra nó. Nhu cầu quảng cáo của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội, của các địa phương, khu vực là rất lớn và thường xuyên tăng lên. Hiện nay nhu cầu quảng cáo trên thị trường Việt Nam là 7000 tỷ đồng và tới năm 2020 có thể đạt 24000 tỷ đồng. Với tổng mức nhu cầu như vậy đã làm cho thị trường này rất sôi động, cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi dịch vụ quảng cáo đa dạng, phong phú với chất lượng cao. Từ đó đòi hỏi các doanh nghiệp quảng cáo phải thường xuyên đổi mới công nghệ, đẩy mạnh hoạt động sáng tạo ý tưởng, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ lao động… Mặc dù số lượng các công ty quảng cáo của Việt Nam tăng lên một cách chóng mặt, cộng thêm sự đa dạng của chúng làm người ta lầm tưởng về một sự trưởng thành của các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam. Trong khi đó, thực chất các doanh nghiệp quảng cáo của chúng ta vẫn chỉ đa phần là thực thi những công đoạn hết sức cụ thể hoặc thuần tuý kỹ thuật như quảng cáo tấm lớn, quảng cáo ngoài trời, thiết kế đồ hoạ, hay có những doanh nghiệp chỉ chuyên trách dịch vụ quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện, hoặc môi giới tài trợ và bản quyền truyền hình… Nguyên nhân nào đã dẫn đến sự kém phát triển đó của các công ty quảng cáo Việt Nam? Đáp án cho câu hỏi này đó là những nguyên nhân do các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm về lĩnh vực này. Các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ luôn thiếu vốn để đầu tư mở rộng doanh nghiệp cũng như để mua các trang thiết bị, công nghệ tiên tiến để phục vụ cho ngành nghề của mình. Công nghệ cũng là một vấn đề mà các công ty nội địa gặp khó khăn. Có lẽ đã hàng chục năm nay, phương tiện quảng cáo ngoài trời ngoài trời thống trị của chúng ta là biển quảng cáo tấm lớn, là hộp đèn. Các nhà quản lý đang đau đầu với quy hoạch ngoài trời và công nghệ phù hợp. Trong khi đó, thế giới không ngừng đưa ra các công nghệ quảng cáo mới, phù hợp hơn với những môi trường đô thị. Ngoài ra, kinh nghiệm, uy tín và năng lực sáng tạo của các công ty quảng cáo trong nước cũng là điều đáng phải bàn. Thiếu người quen việc, giỏi nghề, thiếu tài liệu giáo trình, sách báo chuyên ngành, thiếu trường, thiếu lớp, thiếu thầy và thiếu không gian học tập thực tế cho lớp trẻ…chính là những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hệ quả là các nhà quảng cáo Việt Nam chỉ có được một thị phần và vị trí khiêm tốn. Theo kết qủa điều tra của báo Người lao động (số ra ngày 28/1/2005) ở Việt Nam hiện có gần 2000 công ty quảng cáo nội địa, tuy nhiên chỉ có khoảng 10 công ty trong số này thật sự chuyên nghiệp và chỉ có 5 công ty mang tầm quốc tế. Nếu tình bình quân (phần nhiều) mỗi công ty có 10 nhân viên thì nhân lực làm việc trong ngành này tại Việt Nam ước khoảng 20000 người, nhưng theo ý kiến của các nhà chuyên môn, nhìn từ góc độ thị trường và hệ thống đào tạo quảng cáo của ta hiện nay thì đội ngũ làm quảng cáo chuyên nghiệp của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong con số trên. Hệ quả của những thiếu hụt và yếu kém trên tất yếu dẫn đến các doanh nghiệp quảng cáo của Việt Nam chưa biết khai thác hết thị trường trong nước, các hợp đồng quảng cáo lớn không được dành cho họ và gần như tất cả các công ty này chưa biết khai thác thị trường béo bở này ở nước ngoài. Trong khi đó, các công ty quảng cáo nước ngoài họ luôn có đầy đủ các nguồn lực mà chúng ta thiếu. Họ có một nguồn vốn dồi dào, với một công nghệ hiện đại và chuyên nghiệp, một trình độ chuyên môn sâu rộng với một bề dày kinh nghiệm lâu năm. Do vậy, để ngành quảng cáo trong nước thực sự phát triển trong tương lai, một chìa khoá hiệu quả nhất tháo gỡ những khó khăn của chúng ta là chúng ta phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này thúc đẩy ngành phát triển, cũng như để các công ty quảng cáo trong nước có điều kiện tìm hiểu, học hỏi xem những “gã khổng lồ” đó được sinh ra như thế nào và được nuôi nấng ra sao để các doanh nghiệp trong nước có thể chuẩn bị để ngày một lớn mạnh. Ngoài những lý do trên, một lý do khách quan đươc đặt ra đòi hỏi chúng ta phải thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đó là xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Và ngành quảng cáo cũng như các ngành khác, không thể đứng ngoài xu hướng chung này. Mặt khác, những cam kết của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong lĩnh vực quảng cáo đã buộc Việt Nam phải chấp nhận tiến hành mở cửa với những quy định thay đổi về vốn đầu tư, hình thức đầu tư, phạm vi đầu tư...cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam theo quy định quốc tế. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA I. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO 1. Những quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo Xuất phát từ thực tiễn năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực quảng cáo còn hạn chế, Chính phủ đã xếp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này vào nhóm các lĩnh vực đầu tư có điều kiện để có các biện pháp bảo hộ và hỗ trợ cho sự phát triển của ngành công nghiệp dịch vụ non trẻ này. Trong những năm đầu khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực, Việt Nam chưa cho phép nhà đầu tư tham gia vào thị trường quảng cáo. Cho đến khi nghị định 194/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam và Thông tư 37/VHTT-TT ngày 1 tháng 7 năm 1995 hướng dẫn Nghị định 194/NĐ-CP được ban hành, thì nhà đầu tư nước ngoài mới được đầu tư dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh trong thời gian tối đa là 5 năm với doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam. Cùng với sự phát triển của thị trường, tại Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2000 Chính phủ đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ quảng cáo theo hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, và thẩm quyền cấp giấy phép cho các dự án này thuộc Thủ tướng Chính phủ. Tiến thêm một bước nữa, tại Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định 24/2000/NĐ-CP Chính phủ đã phân các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo thành hai nhóm: (i) dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo gắn với phát hành và (ii) dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo không gắn với phát hành, theo đó: - Về hình thức đầu tư: Các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo phải thực hiện theo hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Về thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư: Các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo có gắn với phát hành quảng cáo, thuộc nhóm A do Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Đối với các dự án chỉ đơn thuần cung cấp dịch vụ quảng cáo mà không có phương tiện phát hành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến của các cơ quan liên quan, đặc biệt là cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực văn hoá - thông tin. Các dự án này chưa được phân cấp cho địa phương. Bên cạnh đó, về phạm vi hoạt động, các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo chỉ được phép thực hiện các công đoạn cho đến khi đăng ký lịch quảng cáo với các phương tiện thông tin đại chúng, mà chưa được phép trực tiếp ký hợp đồng với đơn vị này. Trong thực tiễn thực hiện, ranh giới giữa dự án quảng cáo với các dự án khác như nghiên cứu thị trường, marketing…còn khó xác định. Vì vậy, tại Nghị định 24/2003/NĐ-CP ngày 13 tháng 3 năm 2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Quảng cáo Chính phủ đã định nghĩa: ”Quá trình hoạt động quảng cáo là việc thực hiện chiến lược tiếp thị, xúc tiến quảng cáo, tư vấn quảng cáo, thực hiện ý tưởng quảng cáo, phát hành quảng cáo, giới thiệu sản phẩm quảng cáo đến người tiêu dùng”, nghĩa là dự án được xác định là cung cấp dịch vụ quảng cáo khi bắt đầu thực hiện chương trình tiếp thị cho đến khi giới thiệu quảng cáo đến công chúng. Điều này cũng có nghĩa là các dự án nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm là những công đoạn trước của quá trình quảng cáo và do vậy không thuộc nhóm các dự án quảng cáo. 2. Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực quảng cáo thời gian qua Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc mở cửa thị trường là một yêu cầu bức thiết khách quan. Tuy nhiên, xét điều kiện và năng lực thực tế của doanh nghiệp quảng cáo trong nước, Chính phủ đã xây dựng một lộ trình mở cửa nhằm từng bước cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường, trong khi củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Điều này được thể hiện rõ trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản. 2.1. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) Theo bảng lộ trình cam kết thương mại dịch vụ cụ thể (Phụ lục G, BTA), quy định hình thức cung cấp với các dịch vụ quảng cáo (trừ các dịch vụ quảng cáo đối với mặt hàng rượu và thuốc lá) như sau: Việt Nam đã cam kết cho phép các nhà đầu tư Hoa Kỳ tham gia vào thị trường quảng cáo ở Việt Nam theo hinh thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc hình thức liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ này. Phần góp vốn của nhà đầu tư Hoa Kỳ không được phép vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực, giới hạn tỷ lệ góp vốn phía Hoa Kỳ là 51% vốn pháp định và sau 7 năm giới hạn này sẽ bị loại bỏ. 2.2. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản Theo mục 5 phụ lục II (Những lĩnh vực hoặc vấn đề ngoại trừ tại điều 2 và điều 4 của Hiệp định) của Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, thoả thuận về các dịch vụ quảng cáo như sau: kế thừa cam kết tại BTA và phù hợp với các quy định hiện hành, tại Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam đã cam kết cho phép nhà đầu tư Nhật Bản được phép tham gia vào thị trường quảng cáo thông qua hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ quảng cáo ( không có cam kết về giới hạn tỷ lệ góp vốn pháp định của bên nước ngoài). II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC QUẢNG CÁO CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 1. Tình hình chung Tính đến hết năm 2004, có 10 dự án đầu tư nước ngoài cung cấp dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký là 12,098 triệu USD, trong đó: - Có 4 dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh cung cấp quảng cáo trên truyền hình, đó là: dự án HĐHTKD lắp đặt bảng quảng cáo điện tử và dịch vụ quảng cáo; dự án HĐHTKD giữa công ty TNHH M&T và Leo Burnett Limited; dự án HĐHTKD dịch vụ quảng cáo công ty Vision; và dự án HĐHTKD màn hình điện tử LED (Vinavision). - Có 6 dự án doanh nghiệp liên doanh cung cấp dịch vụ quảng cáo không gắn với phát hành quảng cáo, đó là: Hợp doanh sản xuất lịch trình bay quốc tế và quảng cáo; Công ty liên doanh TNHH Saatchi & Saatchi Việt Nam, dịch vụ quảng cáo; Công ty liên doanh TNHH in phun quảng ._. gian qua việc thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta vào lĩnh vực này vẫn chưa tốt, thể hiện qua số dự án đầu tư vào nước ta tính đến hết năm 2004 chỉ là 10 dự án. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo, trong giai đoạn 2006 - 2010 chúng ta cần có các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực này. 1. Hoàn thiện khung pháp lý về quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài 1.1. Sự cần thiết của giải pháp Trong những năm vừa qua, nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo đã được ban hành, bao gồm Pháp lệnh Quảng cáo; Nghị định 194/NĐ- CP ngày 31/12/1994 của chính phủ về hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam và Thông tư 37/VHTT- TT ngày 1/7/1995 hướng dẫn Nghị định này; Nghị định 24/2000/ NĐ - CP ngày 31/7/2000…Tuy vậy, cơ sở pháp lý về hoạt động quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được quy định một cách đầy đủ, và rõ ràng. Điều này được minh chứng trong một vài bất cập sau. Bất cập đầu tiên là: Mặc dù các văn bản pháp luật đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư dưới hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để cung cấp dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam, nhưng trong thực tiễn quản lý đầu tư, cơ quan quản lý Nhà nước về quảng cáo lại không cho phép các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu nước ngoài ký hợp đồng trực tiếp với các phương tiện thông tin đại chúng, mà phải ký thông qua một công ty quảng cáo Việt Nam. Điều này không những không khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ để cạnh tranh với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mà còn tạo ra sự thụ động của các doanh nghiệp trong nước. Bất cập thứ hai: Trong các văn bản pháp luật về hoạt động quảng cáo của Việt Nam đã quy định điều kiện về hình thức đầu tư với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo phải là hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong khi các công ty quảng cáo hàng đầu trên thế giới không muốn chia sẻ quyền lợi và khách hàng với các nhà đầu tư khác, vì vậy trong thực tế một số công ty quảng cáo nước ngoài đã yêu cầu nhân viên tin cậy của mình thành lập doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam theo Luật doanh nghiệp, sau đó hợp tác thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài. Hay như việc Mặc dù không có quy định cụ thể về các hoạt động mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ quảng cáo được thực hiện, nhưng trong các văn bản góp ý thẩm định dự án trước khi cấp phép thì Bộ Văn Hóa – Thông Tin luôn đề nghị không cho phép doanh nghiệp quảng cáo được trực tiếp ký kết hợp đồng với các phương tiện thông tin đại chúng, họ phải ký hợp đồng quảng cáo thông qua một công ty quảng cáo Việt Nam. Vì vậy, trong thực tế một số công ty nước ngoài cũng thông qua nhân viên của mình thành lập doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam để thực hiện việc ký kết hợp đồng với phương tiện thông tin đại chúng cũng như việc thực hiện các dịch vụ quảng cáo mà pháp luật Việt Nam còn hạn chế. Về mặt pháp lý, hành động này không vi phạm pháp luật Việt Nam, nhưng đó lại là kẻ hở để các nhà đầu tư nước ngoài có thể lách nhằm thu được những khoản lợi nhuận lớn hơn mà không phải chia sẻ. Bất cập thứ ba: Ranh giới giữa các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo và các dự án nghiên cứu thị trường, lập kế hoạch tiếp thị, chiến lược phát triển sản phẩm chưa rõ ràng, dẫn đến trong thực tế vẫn có sự nhầm lẫn giữa các loại này. Vì vậy trong thời gian tới, để tránh những bất cập nêu trên và tăng cường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này đòi hỏi Việt Nam phải có những sửa đổi cũng như hoàn thiện hơn các văn bản pháp luật. 1.2. Nội dung giải pháp Một là: Hiện nay một quảng cáo trước khi được đưa ra trên các phương tiện truyền thông đều phải được các phương tiện truyền thông kiểm tra trước khi phát hành để xác định tính văn hóa của quảng cáo cũng như theo đúng những quy định của pháp luật. Vì vậy, trong thời gian tới các cơ quan chức năng cần ban hành các văn bản cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu đầu tư nước ngoài được ký kết hợp đồng trực tiếp với các phương tiện truyền thông để tránh những bất cập không đáng có như đã nêu ở trên. Hai là: Cần ban hành các văn bản quy định, cũng như các văn bản hướng dẫn về ranh giới hoạt động giữa các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo và các dịch vụ liên quan khác một cách rõ ràng và minh bạch, nhằm tránh sự lấn sân lẫn nhau. Ba là: Các nhà ban hành luật cần phải xem xét, nghiên cứu tình hình phát triển của ngành quảng cáo trong nước, cũng như cập nhập xu thế của ngành quảng cáo trên thế giới để có thể đưa ra các quy định nhanh và phù hợp nhất. Bốn là: Để phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) khi Việt Nam gia nhập, cần ban hành văn bản thống nhất hướng dẫn cụ thể về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo phù hợp với Luật Đầu tư và Luật doanh nghiệp cũng như pháp luật có liên quan. Tóm lại, để phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế - xã hội và các văn bản pháp luật hiện hành, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta cần phải có những bước chuẩn bị cho công tác sửa đổi, bổ sung các điều luật về quảng cáo, đặc biệt là các điều luật về quảng cáo có yếu tố nước ngoài, hướng tới xây dựng Luật Quảng Cáo nhằm tạo điều kiện phát triển vững mạnh nền quảng cáo của Việt Nam. 2. Tăng cường công tác quản lý đối với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài 2.1. Sự cần thiết của giải pháp Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực quảng cáo là nhiệm vụ thường xuyên của cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, trong thời gian qua công tác thanh tra lĩnh vực này đặc biệt trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được quan tâm sâu sát. Điều đó đã thể hiện ở những vấn đề còn tồn tại, chưa được giải quyết trong thời gian qua, cụ thể là: Tuy không phổ biến nhưng đã có dự án mặc dù chưa được phép thực hiện mục tiêu cung cấp dịch vụ quảng cáo, nhưng đã trực tiếp hoặc gián tiếp (như thông qua công ty Việt Nam do chính nhân viên của mình thành lập) để tiến hành kinh doanh quảng cáo tại Việt Nam. Điều này đã gây phản ứng từ phía các doanh nghiệp quảng cáo trong nước cũng như nước ngoài. Ngoài ra, mặc dù chưa có bằng chứng cụ thể, nhưng việc một số dự án đã hoạt động từ lâu mà vẫn chưa có lãi như công ty liên doanh TNHH Saatchi & Saatchi Việt Nam, trong khi một số các dự án khác lại có lãi ngay từ khi bắt đầu hoạt động. Cộng thêm thực tế là dự án có khách hàng lớn, doanh thu cao nhưng chi phí cũng quá lớn, làm phát sinh vấn đề cần xem xét, kiểm chứng là liệu các dự án quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài có thực hiện việc chuyển giá giữa các công ty trong cùng tập đoàn làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận và tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đáng lẽ phải nộp tại Việt Nam hay không. Nguyên nhân cơ bản của những bất cập trên là do các cơ quan quản lý nhà nước còn thiếu hiểu biết và kinh nghiệm trong lĩnh vực này; Công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật còn yếu; Và công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý chưa được chú trọng. Do đó, các vi phạm của các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được xử lý nghiêm túc và kịp thời. Vì vậy, nhằm hạn chế những hạn chế nêu trên, chúng ta cần phải có những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đối với các dự án cung cấp dịch vụ quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. 2.2. Nội dung của giải pháp Một là: Cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quảng cáo và pháp luật có liên quan đồng thời nâng cao khả năng tổ chức thực hiện về quản lý nhà nước. Để làm được điều đó, một giải pháp rất hữu ích là hàng năm chúng ta cần mở các lớp đào tạo cho các cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, cụ thể là các nhân viên, các thanh tra thuộc Bộ Văn hóa – Thông tin, cũng như các nhân viên ở cấp dưới (Sở, phòng Văn hóa – Thông tin). Ngoài ra, hàng năm chúng ta có thể mở những cuộc thi nhằm nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo qua đó sẽ khuyến khích sự nghiên cứu học hỏi cũng như tinh thần trách nhiệm của họ. Hai là: Thường xuyên tiến hành kiểm tra, thanh tra việc thực thi pháp luật của các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. Hàng năm Bộ Văn hóa – Thông tin, cũng như các Sở Văn hóa – Thông tin cần tổ chức những cuộc kiểm tra định kỳ, khoảng 6 tháng một lần, ngoài ra cũng nên tổ chức những cuộc kiểm tra đột xuất nhằm đánh giá chính xác nhất hoạt động của các doanh nghiệp này. Trong quá trình kiểm tra, nếu có sai phạm được phát hiện thì cần phải xử lý nghiêm khắc, đúng người đúng tội. Đồng thời, những người quản lý cũng cần phải lắng nghe và giải quyết thấu đáo những thắc mắc của các doanh nghiệp. Ba là: Cần phải chú trọng hơn nữa sự phối hợp với các cơ quan chức năng, các bộ và các phòng ban, nhằm đảm bảo một môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tiến tới xây dựng một ngành quảng cáo ổn định và quảng cáo tại Việt Nam. Thực hiện tốt những giải pháp trên sẽ góp phần giúp cho công tác quản lý của nước ta trong lĩnh vực quảng cáo ngày càng tiến bộ và phát triển, đáp ứng được nhu cầu hội nhập sắp tới. Điều này góp phần tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài về một môi trường đầu tư trong sạch và bình đẳng. 3. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư 3.1. Sự cần thiết của giải pháp Sau 20 năm thực hiện việc thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta đều nhận thấy được tầm quan trọng của công tác vận động và xúc tiến đầu tư như thế nào. Thông qua xúc tiến đầu tư, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhận thấy được mức độ hấp dẫn, cũng như thái độ có nồng nhiệt hay không của những nước thu hút đầu tư, qua đó họ sẽ đưa ra những quyết định ban đầu của mình. Tuy nhiên, ngành quảng cáo ở Việt Nam thời gian qua vẫn chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng đó của công tác này. Điều đó được thể hiện rất rõ, đó là tính đến hết năm 2004 cả nước ta mới thu hút được10 dự án đầu tư trong lĩnh vực này. Các dự án thì không phân bổ đều giữa các địa phương mà chỉ chủ yếu tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này chưa có một địa chỉ chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng nào cung cấp những thông tin cho mọi người khi muốn tìm hiêu về tình hình các các dự án đó ra sao, cũng như những chính sách ưu đãi khi đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta. Vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam cần phải đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực quảng cáo để nó trở thành một công cụ hữu hiệu chỉ cho các nhà đầu tư nước ngoài thấy những cơ hội và triển vọng hấp dẫn khi đầu tư vào ngành quảng cáo của Việt Nam. 3.2. Nội dung của giải pháp Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới cả về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả, không thụ động ngồi chờ vì đã đến thời kỳ các nhà đầu tư nước ngoài chọn nước đầu tư chứ không phải ngược lại. Một số biện pháp chúng ta cần làm đó là: Một là: Tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong việc thẩm định dự án, cấp giấy phép, quản lý hoạt động và sử dụng vốn nước ngoài ở nước ta. Vấn đề hiện nay là vẫn còn kha nhiều thủ tục rườm rà và nhiều “cửa” mà các chủ dự án đầu tư phải thông qua trước khi nhận được câu trả lời có chấp nhận hay không. Vì vậy, đề xuất được đưa ra cho tình trạng này là chúng ta cần thực hiện chính sách “một cửa” trong việc phê duyệt và thẩm định dự án, đó là Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Khái niệm “một cửa” ở đây không có nghĩa là phủ nhận tính nhiều công đoạn của quá trình thẩm định với sự tham gia của các cơ quan hành chính chức năng mà nó chỉ hàm nghĩa về tính “trọn gói” mà một cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm lo toàn bộ các thủ tục thẩm định và phê duyệt thay cho việc chủ dự án phải chạy khắp mọi cửa với đủ thứ thủ tục giải trình, xin phê duyệt dự án. Điều đó có nghĩa là, khi một nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam thì họ chỉ cần thông qua Cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư để họ xem xét, giải quyết và lo toàn bộ thủ tục cho dự án đó. Điều này sẽ tạo sự an tâm cho nhà đầu tư nước ngoài khi họ tham gia vào đầu tư trong lĩnh vực này ở nước ta, tránh những phiền hà không cần thiết. Hai là: Bộ Kế hoạch – Đầu tư và Bộ Văn Hóa - Thông tin cần phối hợp với nhau nghiên cứu luật pháp, chính sách và biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo ở các nước trong khu vực cũng như trên thế giới để kịp thời có những đối sách thích hợp. Cần tập trung, chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đây cũng là một biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. Ba là: Nhà nước cần mở rộng giới hạn chi phí quảng cáo của doanh nghiệp từ không quá 10% doanh thu như hiện nay lên 30%, hoặc chia làm hai phần: - Phần một: chi phí quảng cáo trực tiếp (quảng cáo trên báo chí, bảng, biển…) tối đa bằng 20%. - Phần hai: Chi phí quảng cáo gián tiếp (khuyến mại, thiết kế vật phẩm quảng cáo, tổ chức hội nghị, hội thảo giới thiệu) tối đa bằng 10% doanh thu. Như vậy, thị trường quảng cáo nước ta mới thực sự “béo bở” để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực này. Bốn là: Bộ Văn hóa – Thông tin cần phối hợp với Bộ Ngoại giao thành lập các văn phòng đại diện xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Tại các văn phòng đại diện này cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo và triển lãm về ngành quảng cáo ở nước ta, giới thiệu về tiềm năng của ngành cũng như những chính sách ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Đồng thời, cần kết hợp với những địa phương cũng như chính phủ các nước có các văn phòng đại diện đó để tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác và giúp đỡ trong việc tìm kiếm các đối tác. Năm là: Cần xây dựng một Website riêng cho ngành quảng cáo. Hiện nay, trong Website của Bộ Văn hóa – Thông tin cũng có những thông tin về quảng cáo, nhưng rất sơ sài và gần như không có mấy nội dung nào mà các đối tác đầu tư nước ngoài có thể tham khảo được. Do vậy việc xây dựng một Website riêng là rất cần thiết. Trên Website này chung ta cần thường xuyên cập nhập thông tin về tình hình ngành quảng cáo Việt Nam, xu hướng phát triển, cũng như tình hình thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài đã và đang triển khai thực hiện ở Việt Nam thời gian qua. Thông qua Website chính thức này, Nhà nước cần có những thông tin về định hướng đầu tư, dự báo thị trường, hỗ trợ thông tin giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào lĩnh vực này. Việc thay đổi các chính sách cũng cần phải được phổ biến sớm và rộng rãi tới tất cả các doanh nghiệp để họ có thể dự đoán trước và hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Với những chính sách khuyến khích như trên, hi vọng Việt Nam sẽ là điểm dừng chân lâu dài cũng như điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến lĩnh vực quảng cáo. 4. Khuyến khích các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam tham gia liên doanh, nâng cao trình độ cho đối tác Việt Nam 4.1. Sự cần thiết của giải pháp Khi tham gia vào thị trường quảng cáo Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài phải chịu một ràng buộc là chỉ được phép thành lập các doanh nghiệp liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh với một doanh nghiệp quảng cáo của Việt Nam. Vì vậy, một vấn đề rất được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đó là trình độ (cả vể công nghệ, kinh nghiệm và các mối quan hệ), cũng như những hiểu biết về chính thị trường quảng cáo nước mình của đối tác. Nếu các nhà đầu tư tìm được một đối tác có đầy đủ các yếu tố đó, thì họ sẽ hoàn toàn yên tâm phát triển và xây dựng thương hiệu của mình tại Việt Nam vì họ sẽ không phải dò dẫm hay thử nghiệm những bước đi đầu tiên mà có thể yên tâm đầu tư phát triển vì ít ra họ cũng có những khách hàng thân tín, cũng như những mối quan hệ của đối tác. Đồng thời, việc thu hút nước ngoài vào đầu tư trong lĩnh vực quảng cáo ở nước ta cũng nhằm một mục đích cuối cùng là xây dựng một nền quảng cáo Việt Nam phát triển đi đôi với giữ gìn những nét đẹp trong văn hóa của Việt Nam. Với những lý do trên, Việt Nam cần phải có những chính sách khuyến khích những doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam tham gia liên doanh để nâng cao trình độ, góp phần phát triển một nền quảng cáo Việt Nam tiên tiến trong tương lai. 4.2. Nội dung của giải pháp Để làm được điều đó, chúng ta cần một số biện pháp: Một là: Trong thời gian tới, chúng ta cần hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước phát triển. Một vài biện pháp nhằm giúp cho các doanh nghiệp quảng cáo trong nước phát triển đó là: - Phải có quy hoạch phát triển các doanh nghiệp này, tránh sự ra đời ồ ạt làm cho thị trường mất giá. - Bỏ quy định “trói buộc” hiện này về giới hạn tỷ lệ chi phí quảng cáo không cao hơn 10% doanh thu của các doanh nghiệp. Đây là rào cản đáng kể để các doanh nghiệp quyết định chiến lược quảng cáo. Rõ ràng với chi phí hạn hẹp, nhiều doanh nghiệp buộc lòng phải tự thực hiện quảng cáo để tiết kiệm chi phí, thay vì thuê các công ty chuyên nghiệp. - Cần xem xét về tỷ lệ không chế diện tích quảng cáo trên báo chí 10% như hiện nay. Bộ Văn hóa – Thông tin hiện nay cho phép các cơ quan báo chí có thể xin ra thêm phụ trương quảng cáo. Nhưng đối với các doanh nghiệp, việc nhét quảng cáo của mình vào giữa phụ trương này coi như “ném tiền qua cửa sổ”. Nên chăng hãy để cho độc giả quyết định tỷ lệ phần trăm quảng cáo nào là hợp lý. - Các văn bản pháp quy là cần thiết nhưng cần phải cần cập nhập nhanh hơn và thường xuyên hơn, giúp cho các doanh nghiệp quảng cáo yên tâm làm việc. Hai là: Bộ Văn hoá - Thông tin, và đặc biệt là Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam cần khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm đối tác nước ngoài . Xem xét việc hợp nhất một số doanh nghiệp quảng cáo trong ngành thành một doanh nghiệp lớn, đủ sức làm đối tác trong các dự án có vốn FDI lớn, bảo đảm quyền lợi cho phía Việt Nam. Chúng ta cần khuyến khích các doanh nghiệp lớn trong nước chủ động tham gia làm đối tác trong nhiều dự án, nhằm xây dựng thương hiệu của mình ngày càng mạnh hơn. Đồng thời, chúng ta cũng cần tăng tỷ lệ góp vốn tổi thiểu của bên Việt Nam (hiện nay tỷ lệ tối thiểu này là 30%) lên một mức cao hơn để các doanh nghiệp Việt Nam khẳng định được vai trò của mình khi tham gia làm đối tác. Với những biện pháp trên, chúng ta hi vọng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ có nhiều doanh nghiệp quảng cáo lớn đủ sức tham gia liên doanh với các đối tác nước ngoài góp phần xây dựng một nền quảng cáo phát triển ở nước ta, đi đôi với việc giữ gìn bản sắc dân tộc. 5. Chú trọng công tác đào tạo lao động làm việc trong lĩnh vực quảng cáo 5.1. Sự cần thiết của giải pháp Tìm hiểu sự phát triển của ngành công nghiệp quảng cáo các nước, chúng ta thấy vấn đề đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho ngành quảng cáo luôn được quan tâm đặc biệt. Như trường hợp của Singapore, họ đã đầu tư hơn 5 triệu USD để xây dựng truyền thông quảng cáo thuộc Đại học quốc gia Nan Yang. Việc phát triển các khoá đào tạo quảng cáo ở đây đã có từ những thập niên 1950. Ở Hàn Quốc, chỉ riêng Học viện Quảng cáo KOBACO ra đời từ năm 1987 đến nay đã giúp đào tạo hơn 19000 lượt học viên. Lực lượng đào tạo bài bản và có chất lượng này đã đóng góp không nhỏ vào việc tạo ra 5,5 tỷ USD doanh thu toàn ngành quảng cáo năm 2003 của Hàn Quốc. Theo số liệu của Hiệp hội Quảng cáo Trung Quốc (CAA 2004), năm 1980 Trung Quốc chỉ có 2300 công ty quảng cáo thì đến nay đã có hơn 90.000 công ty hoạt động với tổng nguồn nhân lực của ngành công nghiệp vượt trên 800.000 người. Vấn đề đào tạo nhân lực đáp ứng được cho nhu cầu và tốc độ tăng trưởng của ngành quảng cáo Trung Quốc trong những năm qua cũng luôn là vấn đề bức xúc và nan giải. Trong khi đó ở Việt Nam hiện có 3000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo nhưng nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp làm trong lĩnh vực này lại chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Đây cũng là một rào cản cản trở các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực này ở nước ta, vì khi họ đầu tư vào đây thì họ thiếu lao động để có thể tuyển dụng vào làm việc trong những doanh nghiệp của mình, khi đó họ phải bỏ ra một số tiền lớn để thuê những người làm quảng cáo chuyên nghiệp ở nước ngoài làm việc cho họ, cũng như để đào tạo lại nguồn nhân lực. Vì vậy, từ kinh nghiệm ở các nước và thực tiễn Việt Nam, chúng ta cần phải tìm ra những giải pháp đào tạo trước mắt cũng như lâu dài nguồn nhân lực phục vụ cho ngành này. 5.2. Nội dung của giải pháp Một số biện pháp cụ thể được đưa ra, đó là: - Các trường Đại học quốc gia, Đại học chuyên ngành tiếp thị, Mỹ thuật công nghiệp của chúng ta cần sớm hình thành các khoa quảng cáo nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập. - Cần xây dựng một mối quan hệ hợp tác hiệu quả giữa ngành công nghiệp quảng cáo với các trường đại học chuyên ngành để hỗ trợ cho công tác đào tạo. - Trong giai đoạn trước mắt có thể xây dựng các chương trình đào tạo ngắn hạn với giáo trình theo tiêu chuẩn quốc tế nhưng được biên soạn phù hợp với thị trường Việt Nam. Nhằm trang bị những kiến thức nền tảng, hệ thống về quảng cáo hiện đại cho những người đang và sẽ làm việc trong ngành, các chương trình này gồm: + Đại cương về truyền thông tiếp thị tích hợp. + Quản trị thương hiệu. + Quản trị dịch vụ khách hàng công ty quảng cáo. + Truyền thông sáng tạo. + Dịch vụ Media. + Viết quảng cáo. + Quan hệ công chúng… Chúng ta cần nghiên cứu đề án thành lập Học viện Quảng cáo Việt Nam để hỗ trợ cho công tác giảng dạy nghiên cứu. Ngoài những biện pháp trên, trước mắt chúng ta cần mở các lớp tập huấn ngắn hạn đào tạo lại về nghiệp vụ quảng cáo cho các doanh nghiệp, cũng như có những chương trình hợp tác quốc tế trong đào tạo về quảng cáo với các nước có ngành quảng cáo phát triển. Cùng với sự phát triển của đất nước và với tài trí của người Việt Nam đã thể hiện rất thành công qua những chiến dịch quảng cáo sáng tạo mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam, chúng ta hy vọng những giải pháp đào tạo hiệu quả nhằm phát triển nguồn nhân lực cho ngành quảng cáo Việt Nam sẽ sớm thành hiện thực. 6. Mở cửa thị trường quảng cáo 6.1. Sự cần thiết của giải pháp Trong tiến trình hội nhập, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo là tất yếu. Thực tiễn những năm qua cho thấy, sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đã đem lại rất nhiều lợi ích cho sự phát triển của ngành quảng cáo nước ta cũng như người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung. Trong thời gian qua do các doanh nghiệp trong nước còn được sự bảo hộ của Nhà nước, nên họ chưa thực sự đầu tư vào con người, công nghệ để phát triển chất lượng dịch vụ quảng cáo và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường ,vì vậy sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo nước ngoài có trình độ và kinh nghiệm sẽ thúc đẩy sự phát triển của môi trường cạnh tranh trong nước. Mặt khác, với xu thế toàn cầu hóa và hợp tác hóa như hiện nay việc mở cửa thị trường là một yêu cầu tất yếu đối với tất cả các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực. Do đó, ngành quảng cáo sẽ không tránh khỏi xu thế chung đó. Với những yêu cầu cả về mặt chủ quan và khách quan đó thì trong thời gian tới, Việt Nam cần thiết phải mở rộng thị trường quảng cáo. 6.2. Nội dung giải pháp Một là: Việt Nam cần phải mở rộng thị trường quảng cáo theo lộ trình đã cam kết, mà cụ thể là dựa trên cam kết nền đã ký với Hoa kỳ, và cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam để đảm bảo nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tức là hết thời hạn 5 năm kể từ khi bản cam kết gia nhập WTO của Việt Nam có hiệu lực, các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo tại Việt Nam sẽ không chịu ràng buộc giới hạn về vốn pháp định. Hai là: Khuyến khích tất cả các đối tác nước ngoài thuộc tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia vào lĩnh vực này của Việt Nam. Cho phép các đối tác nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam các công ty quảng cáo dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt trong tương lai và về lâu dài chúng ta cần quan tâm hơn đối với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác. Tuy nhiên để khai thác được họ hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản, đòi hỏi phải có chiến lược, sách lược đúng đắn trên cơ sở cùng có lợi. Với những biện pháp nhằm mở rộng thị trường quảng cáo, chúng ta hi vọng ngành quảng cáo Việt Nam sẽ ngày càng phát triển để trở thành một trong những quốc gia hàng đầu khu vực trong lĩnh vực này, cũng như nâng tầm quảng cáo Việt Nam trên trường quốc tế. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực quảng cáo của Việt Nam trong giai đoạn 2006- 2010”, với mong muốn góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình vào tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo thời gian tới, nhằm xây dựng ngành quảng cáo Việt Nam vững mạnh và phát triển ,phấn đấu đến năm 2020 trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực về lĩnh vực này, em đưa ra một vài kiến nghị như sau: Một là: Nhà nước cần nhanh chóng ban hành luật cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, góp phần xây dựng ngành quảng cáo nước nhà. Hai là: Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp quảng cáo trong nước nâng cao nội lực cạnh tranh. - Nhà nước cần mở rộng giới hạn chi phí quảng cáo của doanh nghiệp từ 5% đến 30%. - Quy định mức dịch vụ phí sàn thấp nhất bằng 5% cho tất cả các dịch vụ quảng cáo. Khi đó, các doanh nghiệp quảng cáo trong nước có thể thu được lợi nhuận cao hơn, đồng thời đầu tư tái sản xuất ngày càng cao. - Xây dựng chương trình “Chất lượng thương hiệu Việt Nam- Sản phẩm Việt Nam” giúp các doanh nghiệp trong nước nhận thức đúng tầm quan trọng của thương hiệu mạnh, làm thế nào để thúc đẩy bán hàng, không chỉ ở trong nước mà còn phải mở rộng ra khu vực và thế giới. Với những nỗ lực nhằm nâng cao nội lực cạnh tranh của các doanh nghiệp quảng cáo trong nước như trên, sẽ tạo sự yên tâm và thiện chí cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ ra quyết định đầu tư. Ba là: Chúng ta cần chuyên nghiệp hoá nghề quảng cáo. - Tổ chức các chương trình chính khoá đào tạo các môn liên quan đến quảng cáo (Ví dụ: đưa tiếp thị và quảng cáo vào giảng dạy ở Đại học Kinh tế quốc dân, môn văn hoá và quảng cáo ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn...) - Tổ chức những cuộc thi, diễn đàn, triển lãm về quảng cáo. Những nỗ lực trên góp phần đào tạo cho ngành quảng cáo Việt Nam một đội ngũ chuyên nghiệp, đồng thời góp phần tuyên truyền sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân về ích lợi của quảng cáo. Bốn là: Việt Nam nhất thiết phải ban hành Luật Quảng cáo. Luật quảng cáo nên điều chỉnh quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng làm căn bản, vì người tiêu dùng của sản phẩm này có thể sẽ là nhà sản xuất ra sản phẩm khác và ngược lại. Đồng thời, luật cũng cần quy định tạo thuận lợi cho ngành quảng cáo của Việt Nam phát triển. KẾT LUẬN Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đều thấy sự phát triển cả về chất và lượng của dịch vụ quảng cáo tại Việt Nam, mà góp phần quan trọng cho sự phát triển đó là vai trò của các doanh nghiệp quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, để tạo cơ sở cho sự phát triển vững mạnh của ngành quảng cáo Việt Nam trong tương lai, một mặt chúng ta cần hỗ trợ nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhưng đồng thời cũng cần tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực này thời gian tới. Hy vọng trong một tương lai không xa, nước ta sẽ là điểm đến của nhiều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến lĩnh vực này, để ngành quảng cáo của nước ta thực sự phát triển, có thể khai thác tốt thị trường trong nước và hướng ra thị trường nước ngoài. Do thời gian và hiểu biết của em về lĩnh vực này còn hạn chế, nên trong đề tài sẽ không tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong nhận được ý kiên đóng góp của thầy cô và các bạn, cũng như các bạn đọc để luận văn của em tiếp tục được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tình hình và giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài trong thời gian tới (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 2. Báo cáo tóm tắt các dự án quảng cáo có vốn đầu tư nước ngoài thời gian qua (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 3. Bộ văn hoá thông tin - Cục văn hoá thông tin cơ sở: “Các quy định của Pháp luật về hoạt động quảng cáo” (Hà Nội- 2005). 4. Bộ văn hoá thông tin - Cục văn hóa thông tin cơ sở: “Báo cáo sơ kết hoạt động quảng cáo và công tác quản lý nhà nước về quảng cáo sau ba năm thực hiện pháp lệnh quảng cáo”. 5. Đỗ Thị Tố Uyên (Đầu tư 41- Kinh tế quốc dân): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn- du lịch Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” (Luận văn tốt nghiệp). 6. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 7. Hiệp định tự do, khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa CHXHCN Việt Nam và Nhật Bản. 8. Ngân hàng thế giới: “Nghiên cứu về chiến lược xúc tiến FDI vào Việt Nam”. 9. Nguyễn Xuân Quỳnh (Kinh tế Phát triển 43- Kinh tế quốc dân): “Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ viễn thông Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010” (Chuyên đề thực tập). 10. Phan Thị Thu Trang (K38 - khoa Tài chính quốc tế - Học viện Tài chính): “Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo của Việt Nam” (Luận văn tốt nghiệp). 11. PGS.TS. Nguyễn Bích Đạt (Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu Tư): “Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài và nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Kế hoạch và Đầu tư” (Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số 12/2005)). 12. Tài liệu hội thảo: “Hoạt động quảng cáo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển”. 13. Tài liệu tiếng anh về sự gia nhập của Việt Nam vào WTO: “Accession of Viet Nam”. 14. Trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: 15. Trang web của Cục văn hoá thông tin cơ sở: 16. Văn kiện Đại hội Đảng IX. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28159.doc
Tài liệu liên quan