Tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may của Campuchia: LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan luận văn tốt nghiệp này hoàn thành là do sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của GS.TS Đỗ Đức Bình và bằng chính bản thân em nghiên cứu, thu thập, số liệu một cách nghiêm túc, tuyệt đối không sao chép bất cứ một chuyên đề, luận văn, luận án nào.
Nếu có gì sai với lời cam đoan này em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 07 thang 06 năm 2008
Sinh Viên
Hap Sokny
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AFTA
Asean Free Trade Area
... Ebook Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may của Campuchia
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1832 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may của Campuchia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khu mậu dịch tự do ASEAN
APEC
Asia-Pacific Economic
Co-operation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương
ASEAN
Association of South-East Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam á
BOO
Build-Owned-Operate
Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh
BOOT
Build-Owned-Operate-Transfer
Xây dựng - Sở hữu - Kinh doanh - Chuyển giao
BOT
Build-Operate-Transfer
Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
CDC
Council for the Development of Cambodia
Uỷ ban phát triển Campuchia
CIB
Cambodia Investment Board
Ban đầu tý Cămpuchia
EU
European Union
Liên minh Châu Âu
EEC
European Economic Community
Cộng đồng kinh tế Châu âu
EIB
Eropean Investment Bank
Ngân hàng đầu tý Châu âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT
General Agreement on Tariff and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại
GDP
Gross Domestic Products
Tổng sản phẩm quốc nội
GSP
General System of Preferences
Hệ thống ưu đãi thuế chung
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
NAFTA
North American Free Trade Agreement
Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ
ODA
Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
UNDP
United Nations Development Program
Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc
USD
United States Dollar
Đô la Mỹ
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. 10 nước đầu tư nhiều nhất vào ngành dệt may Cămpuchia (2001 - 2007) 28
Bảng 2.2: Hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã thực hiện vào ngành dệt may Campuchia 30
Bảng 2.3. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2007 32
Bảng 2.4: Địa bàn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp dệt may Campuchia năm 2007 34
Bảng 2.5. Các công ty nước ngoài chủ yếu đầu tư ở Cămphuchia năm 2007 36
Bảng 2.6. So sánh luật đầu tư Cămpuchia với các nước 39
trong khu vực sông Mêkông 39
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng giữ một vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã buộc tất cả các nước và vùng lãnh thổ từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách đóng cửa biệt lập với thế giới là không thể tồn tại. Một quốc gia khó có thể tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu của khoa học và kinh tế đã kéo con người xích lại gần nhau hơn và xu hướng quốc tế hoá buộc các nước phải mở cửa.
Mặt khác trong xu thế mở cửa, các nước đều muốn thu hút được nhiều nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Vì thế, các nước đều muốn tạo ra những điều kiện hết sức ưu đãi để thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho quốc gia mình.
Chinh vi vậy , đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Cămpuchia có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang nổi lên như một xu hướng tất yếu để các quốc gia hội nhập và phát triển. Cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giữa các quốc gia đang diễn ra rất khốc liệt trên phạm vi toàn cầu, giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển.
Nhận thức được vấn đề này, Chính phủ hoàng gia Cămpuchia đã thực hiện đường lối đổi mới theo hướng mở cửa với bên ngoài. Kể từ khi thực hiện đường lối mở cửa đến nay, Cămpuchia đã thu được những thành tựu đáng kể cả trong phát triển kinh tế đặc biệt là trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ bên ngoài. Hàng năm, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào trong nước tăng nhanh cả về số lượng dự án lẫn quy mô nguồn vốn. Tuy nhiên, việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Cămpuchia vẫn thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực và chưa thể hiện được hết tiềm năng của mình trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để đáp ứng nhu cầu phát triển. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tình hình thực tiễn về môi trường và kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài của Cămpuchia là việc quan trọng và không thể thiếu để có thể đưa ra giải pháp và hướng giải quyết mới nhằm nâng cao khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Chính vì những lý do trên em đã chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may của Cămpuchia” để làm luận văn. Em xin chân thành cảm ơn tới GS.TS . Đỗ Đức Bình đã chỉ đạo hướng dẫn em hoàn thiện đề tài này .
2. Mục đính nghiên cứu của đề tài :
Nghiên cứu lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài , phân tích và đánh giá thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may để tìm ra nguyên nhân của những tồn tại từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may ở Cămpuchia.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chứ không đi vào nghiên cứu các hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sau khi cấp phép đầu tư.
Phạm vi nghiên cứu :Nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may trên lãnh thổ Cămpuchia.
Thời gian nghiên cứu từ năm 2001 đến hết 2007.
4. phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng , phân tính ,tổng hợp và so sánh số liệu.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài danh mục , lời mở đầu , kết luận , mục tài liệu tham khảo , luận văn gồm 3 chương như sau :
Chương I : Lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may ở Cămpuchia.
Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may ở Cămpuchia.
Chương III: Một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may ở Cămpuchia.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO NGÀNH DỆT MAY CỦA CĂMPUCHIA
1.1 Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoai
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1 Khái niệm của đầu tư trực tiếp nước ngoai
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động hoặc trí tuệ. Nhưng kết quả thu được trong tương lai có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật....) và các nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các nguồn lực là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người đầu tư mà cả đối với toàn bộ kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng thụ. Chẳng hạn một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài sản vật chất tiềm lực của xã hội cũng được tăng thêm.
Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là một quá trình có sự di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác theo các kênh cam kết thu hút vốn ĐTNN của một quốc gia.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo IM , đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của nhà đầu tư tại một doanh nghiệp ở một nước khác với nước của nhà đầu tư, trong đó nhà đầu tư phải có vai trò có ý nghĩa quyết định trong quản lý doanh nghiệp.
Theo luật đầu tư nước ngoài Việt Nam (Điêu 1), đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hay bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư .
Tuy nhiên định nghĩa chung nhất cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc gia trong đó người sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Như vậy về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây dựng hoặc mua phần lớn hay thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để làm chủ sở hữu một phần hay toàn bộ cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham gia quản lý điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư . Đồng thời họ chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án.
1.1.1.2 Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài có bốn đặc điểm sau :
Tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định của dự án đạt mức độ tối thiểu tuy theo luật đầu tư quy định.
Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà họ bỏ vốn đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp tùy thuộc vào tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án . Nếu doanh nghiệp góp vốn 100% vốn trong vốn pháp định thì doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và cũng do họ quản lý toàn bộ .
Kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án được phân chia cho các bên theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có ).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới , mua lại từng phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập các doanh nghiệp với nhau .
1.1.2. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Xét trên góc độ toàn cầu, thì hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thường được sử dụng là:
Một là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business Co-operation).
Đây là hình thức liên kết kinh doanh giữa đối tác trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên bằng các văn bản ký kết, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân riêng, mà không tạo nên một pháp nhân mới.
Hai là: Doanh nghiệp Liên doanh (Joint venture enterprise)
Đây là một hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau, trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu bao gồm nghiên cứu triển khai theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh ký kết giữa các bên tham gia phù hợp với các qui định luật pháp của nước sở tại.
Ba là: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign capital enterprise).
Đây là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn, do đó hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, chịu sự điều hành, quản lý của nhà đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn là pháp nhân nước sở tại, chịu sự kiểm soát của luật pháp nước sở tại.
Ngoài các hình thức trên đây đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn được thực hiện dưới các hình thức BOT, BTO, BT, công ty cổ phần trong nước có vốn đầu tư nước ngoài, cổ phần hoá... doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp hợp danh v.v.
Hình thức BOT (Building Operate Transfer, Xây dựng- kinh doanh- Chuyển giao):
Đây là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập trên cơ sở văn bản ký kết giữa một bên là nhà đầu tư nước ngoài và một bên là Chính phủ nước sở tại để thành một pháp nhân mới của nước sở tại, nhằm thực hiện trách nhiệm của từng bên theo văn bản đã ký. Hình thức BOT thường chủ yếu áp dụng cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kinh doanh trong thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Khi hết thời hạn kinh doanh, công trình sẽ được chuyển giao không bồi khoản cho nước sở tại.
Hình thức BTO (Building Transfer Operate, Xây dựng- Chuyển giao- Kinh doanh):
Hình thức này giống BOT, nhưng khác ở điểm, trong hình thức BOT công trình sau khi xây dựng được khai thác sử dụng trong một thời gian mới chuyển giao cho nhà nước sở tại, còn BTO thì sau khi xây dựng xong, công trình được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại rồi chủ đầu tư mới được khai thác.
Hình thức BT (Building Transfer, Xây dựng- Chuyển giao):
Hình thức này giống BTO ở chỗ sau khi xây dựng xong, công trình cơ sở hạ tầng được chuyển nhượng cho nhà nước sở tại, nhưng khác ở điểm, trong hình thức BTO Chính phủ cho phép nhà đầu tư nước ngoài được khai thác tại chính công trình đó, còn trong hình thức BT, Chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
1.1.3. Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại, một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Trên phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn, khó có một lợi ích nào không đòi hỏi chi phí. FDI mang lại lợi ích và cả rủi ro cho cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Tác động của FDI được thể hiện:
1.1.3.1. Đối với nước đi đầu tư
Tác động tích cực
Có thể nhận thấy lợi ích của FDI thông qua các nội dung sau :
Thứ nhất: Thông qua FDI, các nước chủ đầu tư khai thác những lợi thế so sánh của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp giảm giá thành sản phẩm (nhờ giảm giá nhân công, vận chuyển, chi phí sản xuất khác và thuế...), nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như lợi nhuận của vốn đầu tư, đồng thời giảm bớt rủi ro đã đầu tư so với chỉ tập trung vào thị trường trong nước.
Thứ hai: Theo thuyết chu kỳ sống của sản phẩm, thông qua FDI, các nước đi đầu tư, thường là nước phát triển, có thể chuyển giao cộng nghệ cho nước nhận đầu tư để họ có thể nhanh chóng đổi mới công nghệ, kéo dài thêm chu kỳ sống của sản phẩm, hoặc để mua khấu hao, cũng như để tăng sản xuất tiêu thụ, giúp thu hồi vốn và tăng thêm lợi nhuận.
Thứ ba: FDI giúp các nước chủ đầu tư xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Nhiều nước nhận đầu tư có tài nguyên dồi dào, nhưng do hạn chế về tiền vốn, kỹ thuật, công nghệ cho nên những tài nguyên đó chưa được khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả. Thông qua việc đầu tư khai thác tài nhuyên (như dầu thô), các nước chủ đầu tư ổn định được những nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho ngành sản xuất ở nước mình.
Thứ tư: FDI giúp các nước chủ đầu tư tăng thêm sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Thông qua xây dựng nhà máy sản xuất vào thị trường tiêu thụ ở nước ngoài (đây là cách làm có có hiệu quả để thâm nhập, mở rộng thị trường có triển vọng), các nước chủ đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước, cũng như có thể thông qua ảnh hưởng về kinh tế để tác động chi phối đời sống chính trị nước chủ nhà, có lợi cho nước đầu tư.
Tác động tiêu cực
Khi các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nước sẽ mất đi khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển cũng như giải quyết việc làm. Do đó trong nước có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái, vì thế mà nước chủ nhà không đưa ra những chính sách khuyến khích cho việc đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn trong môi trường mới về chính trị, sự xung đột của quốc gia hay đơn thuần chỉ là sự thay đổi trong chính sách và pháp luật của quốc gia. Tiếp nhận tất cả những điều đó đều khiến cho các doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng mất tài sản, cơ sở hạ tầng. Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước ổn định về chính trị cũng như ổn định trong chính sách và môi trường kinh tế.
1.1.3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Tác động tích cực ư
+ Nhờ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư để khai thác tốt nhất các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý. Bởi lẽ các nước tiếp nhận thì thường là nước đang phát triển có nguồn lao động rẻ, rồi rào nhưng thiếu vốn và công nghệ để khai thác các nguồn tài nguyên.
+ Tạo điều kiện để khai thác được nguồn vốn từ bên ngoài do không quy định mức vốn góp tối đa mà chỉ quyết định mức vốn góp tối thiểu cho nhà đầu tư.
+ Thông qua việc hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài hay cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ hiện đại hay tiếp thu được kinh nghiệm quản lý kinh doanh của họ.
+ Tạo điều kiện để tạo việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ vốn cũng như tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, qua đó nâng cao đời sống nhân dân.
+ Khuyến khích doanh nghiệp trong nước tăng năng lực kinh doanh, cải tiến công nghệ mới nâng cao năng suất chất lượng giảm giá thành sản phẩm do phải cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, một mặt khác thông qua hợp tác với nước ngoài có thể mở rộng thị trường thông qua tiếp cận với bạn hàng của đối tác đầu tư.
Tác động tiêu cực
+ Nếu không có quy hoạch cụ thể và khoa học, sẽ có thể dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên có thể bị khai thác bừa bãi dẫn đến hậu quả là gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
+ Môi trường chính trị trong nước có thể bị ảnh hưởng, các chính sách trong nước có thể bị thay đổi do khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư thường có các biện pháp vận động quan chức địa phương theo hướng có lợi cho mình.
+ Hiệu quả của đầu tư phụ thuộc vào nước tiếp nhận có thể tiếp nhận từ các nước đi đầu tư những công nghệ thiết bị lạc hậu không phù hợp với nền kinh tế, gây ô nhiễm môi trường.
+ Các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của nhà đầu tư nước ngoài mà không theo ý muốn của nước tiếp nhận. Do vậy việc bố trí cơ cấu đầu tư sẽ gặp khó khăn, tạo ra sự phát triển mất cân đối giữa các vùng.
+ Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước do quá trình cạnh tranh nên nhiều doanh nghiệp trong nước bị phá sản; ảnh hưởng tới cán cân thanh toán
quốc tế do sự di chuyển của các luồng vốn cũng như luồng hàng hoá ra vào trong nước .
+ Ngày nay hầu hết việc đầu tư là của các công ty đa quốc gia, vì thế các nước tiếp nhận thường bị thua thiệt, thất thu thuế hay các liên doanh sẽ phải chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do các vấn đề chuyển nhượng giá nội bộ của các công ty này.
1.2 Lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trên thực tế đã có nhiều lý thuyết giải thích khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới đây là một số lý thuyết cơ bản :
1.2.1 Chênh lệnh về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helman và Sibert cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên của vốn giữa các nước .Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn . Tình trạng nay sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận .
1.2.2 Chu kỳ sản phẩm
Akmatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư , sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài . Tại nước nhập khẩu , ưu điểm của sản phẩm mới là nhu cầu trên thị trường nội địa tăng lên , nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn , kỹ thuật của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa , nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.
Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến , nên cạnh tranh giữa nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất . Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn . Theo Vernon , giai đoạn đổi mới chỉ diễn ra ở những nước phát triển như Mỹ,vì ở đó mới có điều kiện nghiên cứu và phát triển và có khả năng triển khai sản xuất với khối lượng lớn ,và cũng chỉ ở các nước này thì kỹ thuật sản xuất tiên tiến với đặc trưng sử dụng nhiều vốn mới phát huy được hiệu quả sử dụng cao . Do vậy , sản phẩm được sản xuất ra hang loạt với giá thành hạ và đã nhanh chóng đạt tới điểm bão hòa . Để tránh suy thoái , các công ty phải mở rộng thị trường ra nước ngoài , nhưng điều này gặp cản trở bởi vì hàng rào thuế quan và chi phí vận chuyển , mặt khác do yêu cầu thương mại hóa sản phẩm nên việc sản xuất được tiêu chuẩn hóa , lao động tay nghề thấp có thể sử dụng được. Vì vậy lúc này, FDI sẽ xuất hiện và hiệu quả hơn sản xuất trong nước để xuất khẩu .
1.2.3. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960) , Jonh H. Dunning (1981) , Rugman (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài . Khi chọn địa điểm đầu tư , những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện ( lao động , đất đai ) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên .
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút FDI
1.3.1 Các nhân tố quốc tế
Những nhân tố quốc tế tác động lên hoạt đông ĐTTTNN được xem xét dưới góc độ của nước sở tại , và bao gồm những điểm sau :
Một là , khả năng của nhà đầu tư . Trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế thế giới , dòng vốn ĐTTTNN đều giảm xuống , do hầu hết các nước chủ nhà đầu tư thay nhau rút vốn đầu tư về nước vì lý do yếu kém về mặt tài chính. Ngược lại, khi có nền tai chính vững mạnh thì các chủ đầu tư lại chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư thu lợi nhuận .
Hai là, sự biến động của tình hình kinh tế khu vực và thế giới . Chẳng hạn như những cuộc khủng hoảng kinh tế tầm khu vực và thế giới luôn có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động ĐTTTNN. Điều này là rất rõ rang , vì khi xảy ra khủng hoảng thì tiềm lực của nhà đầu tư cũng như nước sở tại đều suy yếu . Sức mua của thị trường giảm sút , do đó tỷ suất lợi nhuận cũng suy giảm . Khi đó hiệu quả tất yếu này là sự giảm sút của hoạt động ĐTTTNN trên phạm vi khu vực và thế giới .
Ba là, sự cạnh tranh từ các quốc gia khác trong việc thu hút vốn ĐTTTNN. Xác định được vai trò của ĐTTTNN đối với nền kinh tế nên hầu hết các quốc gia đều chú tâm đến việc thu hút nguồn vốn này . Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút vốn . Sự cạnh tranh này sẽ dẫn đến sự giảm sút trong ĐTTTNN ở những nước có môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiện nay, Trung Quốc đang nổi lên một hiện tượng hút vốn ĐTTTNN mạnh trên thế giới, và điều đó có ảnh hưởng đến các quốc gia khác.
1.3.2 Các nhân tố quốc gia
1.3.2.1 Môi trường chính trị của nước tiếp nhận
Khi tiến hành đầu tư vào bất kỳ một nước nào trên thế giới thì các nhà đầu tư coi yếu tố chính trị là một yếu tố hàng đầu để xem xét có nên đầu tư vào một nước nào đó hay không. Một nền chính trị ổn định sẽ khuyến khích FDI. Ngược lại, bất kỳ sự không ổn định nào về chính trị sẽ gây tác động không nhỏ đến các nhà đầu tư, thậm chí có nguy cơ nhà đầu tư sẽ mất trắng tay, không ai có thể đoán trước được sự đổ vỡ chính trị, chiến tranh, địch hoạ... sẽ xảy ra bất cứ lúc nào.
Một quốc gia ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Đối với đầu tư nước ngoài, môi trường chính trị càng ổn định bao nhiêu thì sự an toàn và sinh lợi của vốn càng được đảm bảo bấy nhiều.
1.3.2.2 Môi trường kinh tế nước tiếp nhận
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút FDI. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn có xu hướng đầu tư vào những quốc gia có sự ổn định về kinh tế. Một nền kinh tế ổn định thể hiện ở sự ổn định của đồng tiền, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế... Chính sự ổn định về kinh tế và tốc độ tăng trưởng cao sẽ tạo ra một nhu cầu lớn trong tương lai. Đó chính là điều các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn và kỳ vọng để có thể bán được sản phẩm mà mình đầu tư sản xuất. Một nền kinh tế ổn định nhưng không bất động, trì trệ mà phải đảm bảo vững chắc lâu bền. Còn nếu có sự bất ổn về kinh tế, tốc độ lạm phát cao, nền kinh tế trì trệ sẽ tạo ra nguy cơ bị thua lỗ rất lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.3.2.3 Môi trường luật pháp của nước tiếp nhận
Hệ thống pháp luật bao gồm các văn bản luật, các quy định, các văn bản quản lý hoạt động đầu tư... là bức tranh phản ánh rõ nhất môi trường đầu tư của các nước sở tại có hấp dẫn hay không? Các nhà đầu tư chủ yếu quan tâm đến các nội dung sau :
Sự đảm bảo pháp luật đối với các tài sản tư nhân và môi trường cạnh lành mạnh.
Quy chế pháp luật của sự phân chia lợi nhuận, quyền hồi thường lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại các nước sở tại.
1.3.2.4 Cơ chế, chính sách kinh tế của nước tiếp nhận
Cơ chế chính sách kinh tế liên quan trực tiếp đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia. Có thể kể ra một số như: chính sách giá cả, các biện pháp chống lạm phát, chính sách tiền tệ, chính sách thương mại, chính sách thuế và những ưu đãi... Đây là những chính sách phản ánh khả năng sinh lợi của vốn đầu tư cao hơn những nơi khác, hay là sự đảm bảo an toàn cho sự sinh lợi của đồng vốn. Đồng thời là những chính sách thể hiện sự ưu đãi, khuyến khích hay hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong đó hai công cụ là lãi suất và tỷ giá hối đoái không chỉ có ý nghĩa đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp thông qua vai trò ổn định nền kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến tốc độ dòng chảy của vốn. Mức lãi suất cao sẽ đảm bảo cho việc ngăn chặn vốn chảy ra ngoài và huy động vốn trong nước, nhưng điều đó đồng nghĩa với việc chi phí cao làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Kinh nghiệm trong hai thập kỷ vừa qua, mức lãi suất quá cao thì nền tài chính thường làm tăng chi phí của FDI cho nền kinh tế. Ngược lại, các nước mở cửa theo quy tắc điều gì tốt cho các nhà đầu tư trong nước thì cũng tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài đã thu được nhiều mối lợi từ FDI.
1.3.2.5 Các quy định về thuế của nước tiếp nhận
Nếu như các quy định về pháp luật đảm bảo sự an toàn về vốn của các nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư đó không phương hại đến an ninh quốc gia, đảm bảo mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước dễ dàng thì khả năng hấp dẫn và thu hút vốn FDI càng cao. Hệ thống pháp luật có thể tạo thuận lợi, làm hạn chế hay cản trở hoàn toàn động của các công ty nước ngoài. Vấn đề đặt ra là phải có cơ chế pháp lý rõ ràng, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư mà không làm mất đi chủ quyền quốc gia.
1.3.2.6 Cơ sở hạ tầng của nước tiếp nhận
Một trong những trở ngại lớn đối với hoạt động đầu tư là sự nghèo nàn và lạc hậu của hệ thống cơ sở hạ tầng. Kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhất là ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển vốn và vòng đời sản phẩm. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng. Trình độ cơ sở hạ tầng phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia, nó tạo ra bộ mặt của đất nước và môi trường cho hoạt động đầu tư. Sự phát triển cân đối và toàn diện cơ sở hạ tầng của một quốc gia luôn được đề ra như một yêu cầu hàng đầu của thu hút FDI.
1.4 Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư (Cămpuchia )
+Tác động tích cực
Tạo điều kiện khai thác được nhiều vốn từ bên ngoài do không quy định mức vốn góp tối đa mà chỉ quy định mức tối thiểu cho các nhà đầu tư nước ngoài .
Tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và trình độ làm việc , quản lý tiên tiến của nước ngoài từ đó hoàn thiện tác phong làm việc hiệu quả .
Tạo điều kiện thuận lợi để khai thác tốt nhất các lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên , về vị trí địa lý…
Tạo thêm việc làm , tăng kinh ngạch xuất khẩu , nâng cao đời sống của nhân dân .
Khuyến khích nâng cao năng lực trong nước , tiếp cận với thị trường nước ngoài .
+ Tác động tiêu cực
Tác động tiêu cực chỉ xảy ra nếu chính quyền nước chủ nhà quản lý không tốt .
- Hoạt đông ĐTTTNN thường dẫn đến sự phụ thuộc của nước tiếp nhận vào nước chủ đầu tư . Vì phần lớn các nước tiếp nhận thường là các nước đang phát triển trình độ còn nhiều hạn chế .
- Tình trạng cạn kiệt các nguồn tài nguyên tại nước tiếp nhận . Các nước chủ đầu tư khi bỏ vốn đều nhằm mục đích khai thác các nguồn tài nguyên dồi dào tại nước tiếp nhận , đối khi vì mục đích lợi nhuận họ tiến hành các hoạt động khai thác không hợp lý đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên .
Ngoài ra hoạt động đtttnn còn gây ra tác động tiêu cực khác cho nước tiếp nhận như gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường , tiếp nhận máy móc công nghệ lỗi thời … và đặc biệt là phải chia sẻ lợi nhuận .
Như vậy chúng ta có thể khẳng định ĐTTTNN một vai trò rất quan trọng song trong quá trình thu hút đầu tư chúng ta cần phải lựa chọn hợp lý đối tác đầu tư, phương thức đầu tư … để phát huy được các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế .
1.5. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút FDI vào ngành dệt may CPC
Việc tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với ngành dệt may ở Cămpuchia là rất cần thiết. Điều đó trước hết xuất phát từ một thực tế rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Cămpuchia trong thời gian qua tuy đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và vị thế của đất nước. Ngoài ra, những cơ hội, thách thức đối với Chính phủ hoàng gia Cămpuchia trong thời gian tới và nhu cầu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho sự tăng trưởng và phát triển của đất nước trong tương lai cũng là những nhân tố quy định tầm quan trọng của các giải pháp đó.
Dệt may là ngành công nghiệp gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người trên thế giới. Khi xã hội ngày càng phát triển hơn, văn minh hơn và mức sống mỗi ngày một cao hơn thì nhu cầu của mỗi con người về hàng may mặc ngày càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Đối với các nước phát triển thì công nghiệp dệt may được coi như là động lực quan trọng của tăng trường kinh tế, bởi vì đây là ngành công nghiệp thu hút nhiều la._.o động, công nghệ tương đối đơn giản, cần ít vốn mà lại có giá trị xuất khẩu lớn, dệt may thực sự phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng vào xuất khẩu trong chính sách thương mại của Chính phủ hoàng gia Cămpuchia. Mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây, những kết quả mà ngành dệt may mang lại cho nền kinh tế Vương quốc Cămpuchia là đáng ghi nhận. Từ những năm khởi đầu sự phát triển của ngành dệt may, đến năm 1994 khi Chính phủ Cămpuchia đã ký kết hiệp định xuất khẩu hàng dệt may với Mỹ và EU, hàng dệt may đã trở thành nguồn thu xuất khẩu thứ 3 của Cămpuchia sau gạo và thuỷ sản. Kết quả là năm 1994, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 270 triệu USD và tạo việc làm cho 6 vạn lao động, đến năm2003 kim ngạch hàng dệt may đạt 750 triệu USD (tăng 220% so với năm 1994), tạo việc làm cho hơn 50 vạn người. Ngoài việc đóng vai trò hàng đầu trong việc cân đối ngoại tệ của quốc gia, ngành dệt may thu hút được một lực lượng lao động lớn như vậy có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, công nghiệp dệt may rất cần thiết vì ngành này phù hợp với xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động của các nước phát triển. Dệt may là ngành công nghiệp sử dụng lao động, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư không lớn so với nhiều ngành trong nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, Cămpuchia đang dồi dào về lao động và thiếu vốn đầu tư, trong khi các nước phát triển lại thiếu lao động, dồi dào về vấn đề vốn đầu tư và đang thực hiện chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động ra nước ngoài, trong đó có ngành dệt may là một ngành rất cần thiết mà nhà đầu tư trên thế giới đang quan tâm.
Tóm lại, trong Chương I đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận chung về các hoạt động thu hút FDI và sự cần thiết phải tăng cường thu hút FDI vào lĩnh vực dệt may Cămpuchia trên cơ sở phát triển nến kinh tế Nhà nước. Còn Chương II sẽ phần tích thực trạng thu hút FDI vào ngành dệt may Cămpuchia thời gian qua đặc biệt thực trạng đến việc tim ra những nguyên nhân hạn chế trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành dệt may Cămpuchia.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀO NGÀNH DỆT MAY Ở CĂMPUCHIA
2.1. Khái quát về ngành dệt may Cămpuchia hiện nay
Ngành dệt may Cămpuchia là một trong những ngành có vị trí quan trọng ở Cămpuchia. Hiện nay, đây là ngành chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao (trên 80% tổng giá trị hàng xuất khẩu) và tạo công ăn việc làm cho khoảng 350.000 lao động nữ. Việc nghiên cứu và khảo sát ngành dệt may Cămpuchia và ngành dệt may ở các nước khác cho thấy:
Thứ nhất : Trình độ công nghệ ngành dệt may còn thấp, máy móc thiết bị của ngành dệt may phần lớn là cũ kỹ, lạc hậu và có xuất sứ từ nhiều nước. Ngành dệt may có gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 10 năm nên bị hư hỏng nhiều, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao. Như vậy, vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may phải đặt ra yêu cầu kết hợp đầu tư xây dựng mới, đồng thời chú ý thoả đáng hình thức liên doanh để hiện đại hoá, đồng bộ hoá thiết bị hiện có.
Thứ hai : Ngành dệt may Cămpuchia thường xuyên ở trong tình trạng bị động về nguồn nguyên liệu. Các loại nguyên liệu chủ yếu cho ngành dệt may như bông, hoá chất, thuốc nhuộm hầu hết đều phải nhập từ nước ngoài.
Nguyên liệu phục vụ sản xuất đối với xí nghiệp dệt may có tầm quan trọng rất lớn, trung bình chiếm 30% cơ cấu giá thành. Mức phụ thuộc về nguyên liệu của 20 công ty dệt may được điều tra thì trung bình 50% trong số đó phải 100% nhập ngoại tơ sợi tổng.
Các xí nghiệp may công nghiệp lớn của Cămpuchia hiện nay, chủ yếu nhận may gia công cho các công ty nước ngoài, nên nguyên liệu do nước ngoài cung cấp, các doanh nghiệp của Cămpuchia chỉ là nguyên vật liệu phụ trợ.
Một số chuyên gia đã tính toán có tới 85% giá của sản phẩm dệt may Cămpuchia là do nước ngoài làm ra.
Như vậy, chúng ta thấy ngành dệt may là ngành có tỷ trọng nguyên vật liệu rất lớn, việc cung cấp tại chỗ chưa có phải nhập khẩu hoàn toàn cho nên càng phát triển càng bị động, càng mất cân đối. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng còn yếu kém như Cămpuchia thì đó cũng là một trong những lý do làm giảm khả năng thu hút tư bản nước ngoài đối với các dự án dệt may. Đặc điểm này cần phải đặc biệt chú ý khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi xây dựng các xí nghiệp liên doanh phải đặc biệt chú ý đến khâu giải quyết nguyên vật liệu, phải đầu tư thích đáng cho khâu nguyên vật liệu.
Thứ ba : Về trình độ công nghệ ngành dệt bị mất cân đối với ngành may. Ngành dệt trình độ công nghệ lạc hậu, ngành may có trình độ công nghệ hiện đại hơn. Do đó, khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải lưu ý khuyến khích đầu tư vào ngành dệt, chú ý công nghệ đề đảm bảo sản phẩm của ngành dệt là đầu vào cho ngành may. Như vậy, đòi hỏi chính sách vĩ mô của Chính phủ phải khuyến khích đầu tư chiều sâu cho ngành dệt.
Thứ tư : Ngành dệt may Cămpuchia luôn luôn ở trong tình trạng thiếu vốn, kể cả vốn bằng tiền Cămpuchia và ngoại tệ mạnh Mỹ (USA). Đối với các doanh nghiệp quốc doanh trong ngành dệt may hiện nay chỉ được Chính phủ khuyến khích và giúp đỡ quan hệ với địa phương. Số vốn còn lại để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải tự đi vay.
Ngành công nghiệp dệt may của Vương quốc Cămpuchia luôn đi chậm so với công nghiệp dệt may trên thế giới. Chính vì vậy, hiện nay Chính phủ chủ trương đưa ngành này phát triển ngang tầm thế giới, đặc biệt phải quan tâm đến công nghệ và vốn đầu tư.
Thứ năm : Ngành dệt may hiện nay đang sử dụng lực lượng lao động rất lớn và một trong những lợi thế của ngành dệt may Cămpuchia là nhân công rẻ. Do vậy khi thu hút vốn đầu tư nước ngoài lựa chọn công nghệ phải kết hợp giữa hiện đại và giải quyết công ăn việc làm.
2.2. Thực trạng thu hút FDI vào ngành dệt may Cămpuchia
2.2.1. Vốn và nguồn FDI ở Cămpuchia
Trong thời kỳ 2001-2007 nguồn vốn FDI vào ngành dệt may Cămpuchia chủ yếu là nguồn vốn từ các nước Châu Á, và đứng đầu là Malaysia.
Bảng 2.1. 10 nước đầu tư nhiều nhất vào ngành dệt may
Cămpuchia (2001 - 2007)
TT
Tên nước
Số dự án
Vốn đăng ký
(USD)
Vốn cố định
(USD)
Tỷ lệ giải ngân%
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Malaysia
Đài Loan
Trung quốc
Singapore
Thái Lan
Hồng Kông
Hàn Quốc
Inđonisia
Philiphine
Việt Nam
31
25
22
20
26
19
16
13
14
14
2.630.135.474
434.559.870
277.709.878
252.537.300
210.452.450
13.453.232
99.867.400
57.893.000
1.630.400
1.526.400
2.962.532.062,45
594.730.770,16
367.034.256,16
214.792.346,25
228.374.335,49
245.676.263,89
218.408.723,45
83.210.729,55
1.569.495,00
1.127.039,44
1,6
1,5
1,2
1,2
1,4
1,8
2,4
1,6
1,2
1,1
Nguồn: Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC), Sự phát triển ngành đầu tư Cămpuchia, đường lối và thực hiện năm 2007.
Trong giai đoạn 2001-2007 vốn đầu tư của Malaysia là 2.962.532.062,45 USD trong đó vốn đăng ký là 2.630.135.474 USD. Malaysia trở thành nước có vốn đầu tư cao nhất vào Cămpuchia, tiếp đó là Đài Loan, Trung Quốc và Singapore… Việt Nam là nước đứng thứ 10 trong tổng số 10 nước đầu tư nhiều nhất vào ngành dệt may Cămpuchia.
Chính vì nguồn vốn đầu tư FDI của ngành dệt Cămpuchia chủ yếu từ các nước Châu Á nên tình hình thu hút FDI của Cămpuchia phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế của các nước Châu Á nói chung và của Cămpuchia nói riêng.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu luôn có xu hướng phát triển những ngành có hàm lượng khoa học công nghệ và chất sám cao, còn ngành dệt may thì họ lại ít quan tâm chú ý tới. Đa phần các sản phẩm dệt may lại được nhập khẩu từ Châu Á, nơi có nguồn nhân công rẻ, dồi dào.
2.2.2. Hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài ngày càng tăng, năm 2001 chỉ chiếm có 72,3% tổng số vốn đã thực hiện trong năm, thì năm 2007 chiếm 91,25% tổng số vốn đã thực hiện trong năm. Điều này cho thấy các công ty nước ngoài ban đầu còn nghi ngờ về khả năng làm ăn ở Cămpuchia vì thế họ đã chọn đầu tư theo hình thức liên doanh. Nhưng những năm gần đây do môi trường luật pháp và môi trường kinh tế Cămpuchia có sự thay đôi nên đã tạo được niềm tin đối với người nước ngoài vì vậy họ sẵn sàng đầu tư vào Cămpuchia theo hình thức 100% vốn nước ngoài.
Bảng 2.2: Hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã
Thực hiện vào ngành dệt may Campuchia
Hình thức đầu tư
Năm
Liên doanh
100% Vốn NN
Tổng vốn đăng ký
(Triệu USD)
Số lượng
(Triệu USD)
Tỷ trọng
(%)
Số lượng
(Triệu USD)
Tỷ trọng
(%)
2001
51,2
43,75
84,5
72,3
135,7
2002
37,8
54,85
48,7
64,32
86,5
2003
10
39,68
35,8
81,13
45,8
2004
5,6
38,26
22,4
83,24
28
2005
3,4
26,33
23,9
84,76
27,3
2006
2,3
23,12
31
87,75
33,3
2007
4,3
20,65
38,6
91,25
42,9
Nguồn: Vụ Thông tin Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC)
Một câu hỏi đặt ra ở đây là, đầu tư theo hình thức nào (liên doanh hay 100% vốn nước ngoài) thì có lợi cho Cămpuchia? Câu trả lời ở đây là cả đối với Cămpuchia thì cả hai hình thức đầu tư này đều có lợi. Nhưng xét về lâu dài thì hình thức liên doanh sẽ có lợi hơn. Vì nếu đầu tư theo hình thức liên doanh sẽ giúp cho các doanh nghiệp Cămpuchia học hỏi được kinh nghiêm về quản lý, về công nghệ về tác phong làm việc công nghiệp và cách thức kinh doanh với nước ngoài. Và khi hết thời hạn liên doanh thì Cămpuchia có thể tự mình đứng ra tổ chức hoạt động kinh doanh mà không bị phụ thộc vào phía nước ngoài. Còn nếu đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, tuy về trước mắt sẽ giúp Cămpuchia phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm nhưng về lâu dài khi các doanh nghiệp nước ngoài rút vốn ra khỏi Cămpuchia sẽ gây ra những cú sốc về công ăn việc làm. Ngoài ra nếu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhiều quá sẽ làm cho Cămpuchia mất đi tính tự chủ và luôn chịu ảnh hưởng nhiều từ phí nước ngoài. Đối với một quốc gia, việc tự chủ về kinh tế có vai trò rất quan trọng để tạo nên vị thế và hình ảnh trên trường quốc tế.
2.2.3. Cơ cấu đầu tư
Về cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa ngành dệt và ngành may mặc ở Cămpuchia có thể nói là rất mất cân đối. Tất cả các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào ngành dệt may Cămpuchia đều là đầu tư vào may mặc , chứ hoàn toàn không có một dự án nào đầu tư vào ngành dệt.
Ngành dệt là ngành cung cấp nguyên vật liệu cho chính cho ngành may mặc. Chính vì vậy ngành may mặc phụ thuộc rất lớn vào ngành dệt. Hiện nay, các doanh nghiệp FDI của Cămpuchia đều nhập khẩu vải từ nước ngoài để phục vụ cho may mặc. Chính điều này làm cho Cămpuchia không chủ động được trong hoạt động sản xuất kinh doanh và ngành công nghiệp dệt may Cămpuchia phụ thuộc rất lớn vào nước ngoµi.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc các doanh nghiệp nước ngoài không đầu tư vào ngành dệt ở Cămpuchia là do điều kiện tự nhiên của Cămpuchia không thích hợp cho phát triển vùng nguyên liệu. Mặt khác, chi phí cho ngành dệt ở Cămpuchia lại cao hơn rất nhiều so với ở quốc gia khác (như Trung Quốc, Việt Nam…).
Với một câu hổi đặt ra ở đây cho Chính phủ Hoàng gia Cămpuchia là có nên tăng cường đầu tư và khuyến khích đầu tư vào ngành dệt ở Cămpuchia không? Nếu xét trên khía cạnh về tự chủ kinh tế thì Cămpuchia cần phải phát triển ngành dệt, nhưng theo lý thuyết mà nói (lý thuyết lợi thế so sánh) thì Cămpuchia không cần thiết phải phát triển ngành dệt, vì đây không phải là lợi thế của Cămpuchia. Trên thực tế hiện nay, để phát triển kinh tế thì các quốc gia cần phải phụ thuộc vào nhau để cùng phát triển. Một quốc gia không thể phát triển tất cả các ngành nghề. Nước lớn như Mỹ còn phụ thuộc vào nguồn dầu lửa ở bên ngoài, Nhật Bản phát triển như vậy mà hàng năm vẫn nhập khẩu một khối lượng lớn lương thực trên thế giới thì Cămpuchia cũng không nhất thiết phải bỏ nhiều chi phí vào phát triển một ngành mà mình không có lợi thế.
Nếu xét về cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa dệt may và các ngành khác ta có thể xem bảng sau :
Bảng 2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2007
TT
Ngành
Dự án
% địa phương
% nước ngoài
Vốn đầu tư USD
I
1
2
+ Nông nghiệp
- Nông nghiệp
- Nông - công nghiệp
5
3
2
46
0
46
54
54
0
2.544.000
1.740.000
804.000
II
1
2
3
4
5
6
7
+ Công nghiệp
- Thức ăn chế biến
- Dệt may
- Y khoa
- Mỏ
- Công nghiệp khác
- Thuốc lá
- Đỗ gỗ
38
4
25
3
5
4
3
4
20,31
3,45
8,62
2,00
0,69
3,86
0,69
2,21
79,69
3,45
58,10
6,90
2,76
3,03
2,76
1,69
36.560.000
1.760.000
25.900.000
4.250.000
2.540.000
2.410.000
1.000.000
1.500.000
III
1
2
3
4
+ Dịch vụ
- Dịch vụ năng lực
- Dịch vụ
- Giao thông
- Cung cấp nước
8
2
5
2
1
67,47
16,67
50,00
1,00
0
32,53
0
0
16,86
16,67
20.000.000
2.500.000
4.550.000
11.500.000
1.500.000
IV
1
2
+ Du lịch
- Khách sạn
- Du lịch
15
10
8
66
51
15
34
34
0
31.500.000
26.450.000
15.050.000
Tæng céng
147
29.12
70.88
80.604.000
Nguồn: Uỷ ban phát triển Campuchia(CDC) và (CIB)2007
Ngành dệt tuy có quan hệ chặt chẽ với ngành may nhưng không phát triển ngành dệt cung không có nghĩa là không phát triển ngành may. Ngành may đòi hỏi nhiều lao động giản đơn, điều này lại phù hợp với Cămpuchia. Đây lại chính là lợi thế của Cămpuchia so với các nước khác trên thế giới.
Theo số liệu trên ta thấy đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp dệt may chiếm 58,1% trong tổng số vốn đầu tư vào ngành công nghiệp. Đây là một con số lớn đang chú ý. Do ngành dệt may là ngành đòi hỏi số lượng lao động lớn. Do đó, số vốn đầu tư cho ngành này chiếm tỷ trọng lớn sẽ làm cho số lao động được thu hút vào ngành càn lớn. Điều này rất có ý nghĩa với đất nước Cămpuchia khi mà tình trạng thất nghiệp luôn là vấn đề bức súc đối với Chính phủ Hoàng gia.
2.2.4. Địa bàn đầu tư
Về địa bàn đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may Cămpuchia chủ yếu tập trung vào những tỉnh thành giầu có và phát triển như thủ đô Phnom Penh, tỉnh Kandal. Sở dĩ như vậy là vì Cămpuchia là một nước có cơ sở hạ tầng còn rất lạc hậu. Hệ thống giao thông liên lạc phục vụ sản xuất kinh doanh còn rất yếu kém.
Bảng 2.4: Địa bàn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp dệt may Campuchia năm 2007
STT
Địa bàn đầu tư
Số doanh nghiệp đầu tư
Tỷ lệ phần trăm
1
Phnom Penh
165
85,60 %
2
Tỉnh Kandal
35
9,85 %
3
Sihanouk vill
24
2,70 %
4
Tỉnh Kampong Cham
15
1,26%
5
Tỉnh Takeo
10
0,59 %
Nguồn: Phòng Thương Mại Cămpuchia 2007.
Các tỉnh nghèo như tỉnh Takeo hay tỉnh Kampong Cham có cơ sở hạ tầng rất yếu kém và hầu như không thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mặc dù các tỉnh này có lợi thế về giá nhân công rẻ.
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp dệt may tập trung ở Phnom Penh vì Cămpuchia là một nước đang phát triển nên tốc đồ đô thi hoá tăng nhanh. Lao động di chuyển ra thành phố nhiều. Do đó, hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh chủ yếu tập trung ở thành phố lớn. Điều này làm cho Cămpuchia mất đi sự cân bằng trong phát triển kinh tế, gây ra sự chênh lệch lớn trong phát triển kinh tế giữa các vùng trên lãnh thổ đất nước. Địa bàn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may chỉ tập chung chủ yếu ở Phnom Penh tuy tốt cho Campuchia nhưng xét về tổng thể lại chưa phát huy được hết lợi ích của đầu tư nước ngoài. Vì điều này sẽ kéo theo việc lao động giản đơn tập trung quá nhiều ở một nơi mà nhiều vùng trong khi những vùng mà Chính phủ hoàng gia Cămpuchia cần tập trung xoá đói giảm nghèo lại không được phát triển.
2.2.5. Đối tác đầu tư
Theo số liệu cảu Uỷ ban Phát triển Cămpuchia thì đối tác nước ngoài đầu tư nhiều nhất vào Cămpuchia trong giai đoạn từ 2001 tới cuối 2007, đứng đầu vẫn là Malaysia với tổng số 31 dự án, số vốn đã đăng ký là 2.630 triệu USD, vốn cố định là 2.962 triệu USD. Tiếp sau đó là : Malaysia, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Indonesia, Philippin và Việt Nam.
Bảng 2.5. Các công ty nước ngoài chủ yếu đầu tư ở Cămphuchia
năm 2007
STT
C«ng ty
Tỷ lệ vốn
Vốn cố định
(USD)
Số công nhân
1
Cambo Feshion
Hàn Quốc 100%
944.747
2.103
2
Cinkamp Apparel
Đài Loan 100%
958.708
783
3
Eternity Apparel
Trung Quốc 100%
995.968
2.803
4
Goldfame Enterprises Knitters
Malaysia 100%
31.200.000
4.539
5
June Textiles
Malaysia 95%
Singapore 5%
4.296.730
2.833
6
HSENT
Đài Loan 100%
2.650.000
2.846
7
K&A Garmant Factory
Cămpuchia 45%
UK 55%
424.607
607
8
Oceanic Garment
Trung Quốc 65%
Hồng Kông 35%
998.969
2.533
9
Supreme Choice Garment
Hồng Kông 100%
516.200
104
10
Top One Garment
Đài Loan 100%
22.100.000
2.983
Nguồn: Uỷ ban Đầu tư Nước ngoài Cămpuchia, 2007.
Phần lớn đối tác đầu tư tại Cămpuchia là các công ty thời trang và các công ty may mặc ở Châu Á. Đa phần các công ty này đến đầu tư tại Campuchia để xuất khẩu hàng hoá của hộ ra thị trường nước ngoài.
Theo bảng số liệu trên ta thấy phần lớn các công ty đầu tư vào Cămpuchia là các công ty của Malaysia, Đài Loan, Trung Quốc. Mà các quốc gia này đều là những cường quốc về dệt may. Điều này chứng tỏ Cămpuchia có lợi thế rất lớn về ngành công nghiệp dệt may.
2.3. Các biện pháp Cămpuchia đã áp dụng để thu hút FDI vào Cămpuchia thời gian qua
2.3.1 Hệ thống luật đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Với việc đề cao kinh tế tư nhân Chính phủ hoàng gia Cămpuchia hiểu rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có vai trò rất là quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước Cămpuchia. Chính vì vậy, Chính phủ hoàng gia Cămpuchia đã thiết lập luật đầu tư có sự hấp dẫn cao để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Cămpuchia. Đây chính là cơ sở luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Vương quốc Cămpuchia. Luật này có hiệu lực quản lý các nhà đầu tư đang hoạt động trên địa bàn đất nước Cămpuchia không phân biệt nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Luật pháp đầu tư Cămpuchia hiện nay, có nhiều quy định rất phổ biến giống với những nước khác trong khu vực. Chính phủ hoàng gia Cămpuchia đã tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư, không phân biệt nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, theo hiến pháp Cămpuchia thì các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu đất đai mà chỉ có quyển sử dụng. Nhưng nhà đầu tư nước ngoài có thể thuê đất để làm kinh doanh đến 99 năm và có thể thuê thêm tiếp. Điều 9 luật Đầu tư đã viết rằng “Chính phủ hoàng gia Cămpuchia sẽ không thực hiện việc quốc hữu hóa mà có ảnh hưởng đến tài sản của nhà đầu tư trong Vương quốc Cămpuchia”. Điều này cho thấy rằng Chính phủ hoàng gia Cămpuchia khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân và cam kết bảo đảm lợi ích của họ. Vì thế nhà đầu tư tư nhân có thể yên tâm bỏ vốn của họ đầu tư vào sản xuất.
Chính phủ Hoàng gia Cămpuchia cũng không kiểm soát giá cả sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà đầu tư mà không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
Cũng với sự bảo đảm không quốc hữu hoá và không kiểm soát sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà đầu tư, Chính phủ hoàng gia Cămpuchia còn bảo đảm đối với nhà đầu tư nước ngoài trong việc chuyển tiền vốn lợi nhuận ra nước ngoài. Cho phép nhà đầu tư có quyền mua bán tiền tệ theo hệ thống ngân hàng để thanh toán các khoản tài chính cần chi trả. Luật đầu tư của Cămpuchia được mở rộng cho hầu hết các ngành nghề, ngoài ra Chính phủ hoàng gia còn có chính sách khuyến khích đầu tư đặc biệt đối với một số lĩnh vực.
Để thực hiện luật đầu tư này, Chính phủ hoàng gia Cămpuchia có nghị định số 88 ONRK, ngày 21 tháng 11 năm 2001 về việc thực hiện luật đầu tư của Vương quốc Cămpuchia. Nghị định này là để thực hiện mục tiêu phát huy tiềm năng thu hút đầu tư FDI và để phối hợp quá trình triển khai đầu tư. Tuy nhiên, hệ thống luật liên quan đến đầu tư FDI ở Cămpuchia vẫn chưa được hoàn thiện. Để khắc phục những thiếu sót trong luật Đầu tư, Chính phủ hoàng gia Cămpuchia đã sửa đổi nghị định 88 ONRK, BK ngày 21 tháng 11 năm 2001 về việc thực hiện luật đầu tư của Vương Quốc Cămpuchia. Hơn nữa, luật đầu tư hiện nay đang cải tiến một số điểm để tạo môi trường đầu tư tư nhân ở Cămpuchia.
Luật thuế của Cămpuchia có sự thay đổi, đó là xoá bỏ việc không phải đóng thuế lợi nhuận, nhưng đối với một số dự án đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực ưu tiên thì vẫn còn có hiệu lực. Miễn thuế lợi nhuận trong thời gian 8 năm giảm xuống còn 3 năm và có thể gian ra hạn miễn thuế thêm 3 năm tiếp theo. Việc sửa đổi này sẽ đem lại lợi ích cho Chính phủ hoàng gia Cămpuchia nhưng nó lại không khuyến khích được đầu tư nước ngoài. Mặt khác việc sửa đổi này có thể làm cho nhà đầu tư người nước ngoài nghi ngờ về tính nhất quán của luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Cămpuchia hiện nay.
Nếu so sánh luật đầu tư Cămpuchia với luật đầu tư của các nước khác trong khu vực sông Mekông như Lào, Việt Nam, Thái Lan, Myama và tỉnh Yunam của Trung Quốc thì luật đầu tư của Cămpuchia có phần mở rộng hơn so với các nước trong khu vực.
Bảng 2.6. So sánh luật đầu tư Cămpuchia với các nước
trong khu vực sông Mêkông
Nước
Khuyến khích thuế thu nhập
Tỷ lệ thuế lợi nhuận
Miễn thuế nhập khẩu
Điều kiện
CPC
Đến 8 năm(có dự án chuyển đổi 3 năm cộng n năm đặc biệt
9%
100% nhập khẩu máy móc, đồ may và nguyên liệu nếu có xuất khẩu 80% của tổng SP của mình
Khuyến khích thực hiện mở rộng hoạt động miễn thuế phải trình bày trong nghị định
Lào
Có thể có, nhưng không nhấn mạnh rõ ràng
20%
1% thuế của máy móc và đồ đạc thay thế
Thuế quan không nộp thuế đã quy định theo chiều dài và sự quan trọng của dự án
Myama
Miễn thuế 3 năm và có thể tiếp tục được nếu có lợi ích đến công cộng
30%
Miễn thuế, giảm trên máy móc đặc biệt thay thế, đồ lặp sắp miễn thuế và giảm 3 năm nguyên vật liệu
Tỷ lệ và ưu đãi khác mà thực hiện dự án không được nhấn mạnh rõ ràng
Thái Lan
Miễn thuế 3-8 năm
30%
Hoàn toàn miễn thuế đối với máy móc và5 năm đối với nguyên vật liệu hoặc đồ quan trọng
. Nhờ đến vị trí
. Nhờ đến điều kiện xuất khẩu mà đã đề nghị
Việt Nam
Miễn thuế 1-4 năm cộng với trí hoãn 50%
10-20%
Miễn thuế đối với máy móc nguyên liệu, đồ thay thế sử dụng xuất khẩu
Tỷ lệ xác định trên cơ sở hoạt động thực tế
Tỉnh Yunam Trung quốc
Miễn thuế 2 năm cộng 3 năm trên nhịp độ 50%
10-30%
Miễn thuế đối với trang thiết bị, đồ xây dựng và nguyên vật liệu nhận tiến hành ưu đãi
Dự án mới có kỹ thuật cao trong khu vực công nghiệp đã nhận khuyến khích
Nguồn: Trích dẫn tư Hinh Thoracy Phòng phát triển ngành đầu tư ở CPC
2.3.2. Các qui định pháp lý khác có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Cămpuchia
Những luật như luật chính quyền, luật xây dựng, luật di cư và luật lao động có quan hệ chặt chẽ với hoạt động đầu tư và giúp cho môi trường đầu tư hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, luật lao động là công cụ đắc lực để Chính phủ quản lý nhà đầu tư ở Cămpuchia. Luật này đã tạo ra với mục đích phát triển kinh tế thị trường ở Cămpuchia trong. Xin nhấn mạnh rằng luật lao động của Vương quốc Cămpuchia có hiệu lực đối với các xí nghiệp hoặc cơ quan thẩm quyền công nghiệp, công nghiệp mỏ, thương mại, xí nghiệp dịch vụ, nông nghiệp, vận tải, vận tải đường nước,... các hoạt động xẩy ra ở trong lãnh thổ Vương quốc Cămpuchia. Luật lao động Vương quốc Cămpuchia có mục đích khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tăng cường sử dụng lực lượng lao động trong nước, từ đó làm cho nhân dân có chuyên môn và hiểu biết những kinh nghiệm làm việc, đặc biệt chuyên môn trong quản lý xí nghiệp. Nhà đầu tư nước ngoài phải thường xuyên đào tạo và hợp tác với công nhân Cămpuchia để họ có khả năng làm việc được, đặc biệt là chuyên môn quản lý và chuyên môn về khoa học kỹ thuật. Việc đào tạo có thể là đào tạo tại chỗ hoặc cũng có thể là đưa công nhân đi học ở nước ngoài tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi công ty đầu tư. Từ đó thúc đẩy khả năng của nhân viên Cămpuchia trở thành là người có chuyên môn cao. Hơn nữa, chủ xí nghiệp phải có trách nhiệm trả lương cho công nhân Cămpuchia ngang bằng với người nước ngoài khi trình độ của họ là ngang nhau. Việc sử dụng lao động của các nhà đầu tư phải thực hiện theo luật pháp trong luật lao động của Vương quốc Cămpuchia. Chủ đầu tư có quyền sử dụng lực lượng lao động nước ngoài với điều kiện là không thể tìm thuê người Cămpuchia có trình độ như yêu cầu chuyên môn đạt ra. Nhưng trên thực tế hiện này thì những người có chuyên môn cao, đặc biệt quản lý cấp cao của công ty nước ngoài ở Vương quốc Cămpuchia số nhiều lại là người nước ngoài.
Tình trạng này cho thấy nguồn nhân công có chuyên môn cao ở Cămpuchia vẫn còn thiếu hụt nhiều làm cho khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn còn hạn chế.
2.3.3 Bộ máy quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở CDC
Theo Uỷ ban Phát triển Cămpuchia (CDC), cơ cấu bộ máy quản lý FDI như sau :
Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC) là cơ quan của chính phủ lãnh đạo do cơ quan hành pháp có SAM DECH HUN SEN và Sam dech krom prech norodom ranarith là chủ tịch, Ngài KIET CHHUN Bộ trưởng kinh tế và tài chính là phó chủ tịch thứ nhất, Ngài CHHOM BRASITH, Bộ trưởng Thương Mại là phó chủ tịch, Ngài KONG VIBOL Thứ trưởng Bộ kinh tế và tài chính là phó chủ tịch, Ngài đại diện Bộ nội các, Bộ trưởng Bộ Dinh thự hoặc đại diện Bộ trưởng, thứ trưởng hoặc đại diện các Bộ, các cơ quan của Chính phủ cả Tướng quân hoàng gia, Tướng an ninh nội vụ hoặc đại diện và chủ tịch tỉnh, thành phố hoặc các đại diện thành viên khác.
Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC) chia ra 2 uỷ ban lớn, mỗi uỷ ban thực hiện một nhiệm vụ riêng. Cả 2 uỷ ban này như sau :
à Uỷ ban Khuyến khích Ưu đại
à Uỷ ban Phát triển và Đầu tư Cămpuchia
Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC) có 1 uỷ ban để thực hiện việc hàng ngày.
Uỷ ban thực hành có 5 thành viên như sau
à Chủ tịch Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC)
à Phó chủ tịch Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC)
à Tổng thư ký Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC)
à Tổng thư ký uỷ ban khuyến khích ưu đãi và phát triển (CDC)
à Tổng thư ký Uỷ ban đầu tư (CDC)
Trong vai trò và nhiệm vụ của Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC) là cơ quan hành pháp của Chính phủ hoàng gia Cămpuchia có vai trò là tay phải và là nơi chỉ ra hoặc vào duy nhất trong việc khuyến khích ưu đãi, phát triển và đầu tư khác. Liên quan đến việc đầu tư tư nhân của Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC) cần xin ý kiến từ cơ quan hành pháp đối với các dự án có những điều kiện như sau:
à Dự án đầu tư có vốn tư 50 triệu trở lên
à Dự án đầu tư có xu hướng chính trị
à Dự án tìm kiếm mỏ và kinh doanh tài nguyên thiên nhiên
à Dự án có thể tạo ra sự nguy hiểm môi trường
à Dự án có phương hướng lâu dài
à Dự án Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT), dự án quản lý Kinh doanh - Chuyển giao (BOOT) và dự án xây dựng Thuê - Chuyển giao (BLT).
Lưu ý :
Không nói đến dự án không nằm trong khu vực đã cấm, Uỷ ban phát triển Cămpuchia (CDC) sẽ đồng ý trên dự án đã xin đầu tư và làm thủ tục.
Dự án nào có điều kiện đặc biệt cần trình Chính phủ để xin sự đồng ý.
CDC sẽ chấp nhận các giấy tờ có hiệu lực từ các Bộ có liên quan hoặc các cơ quan mà có chứng nhận trong đệ trình có điều kiện thay cho người xin đầu tư.
Các cơ quan Chính phủ có nhiệm sử lý các tài liệu giấy tờ bằng cách cho phép hoặc đệ trình lên cấp cao hơn (có chấp nhận trong bảng đệ trình có điệu kiện). Sự cho phép các tài liệu thông qua 28 ngày của ngày bắt đầu làm việc mà có bảng đệ trình điều kiện.
Sự ổn định chính sách chính trị về kinh tế vĩ mô và thương mại là một nhân tố quy định giúp ổn định môi trường đầu tư. Hơn nữa, việc quản lý cơ sở hạ tầng kinh tế giúp cho môi trường đầu tư của mỗi quốc gia trở nên hấp dẫn hơn. Luật pháp và các quy định về thủ tục khác có liên quan và thực hiện đầu tư là sự cần thiết không thể thiếu đối với nhà đầu tư.
2.4. Đánh giá thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) vào ngành dệt may ở Cămpuchia
Chỉ tiêu cho đầu tư đạt được 7% vào năm 2006-2007 và giảm từ mức 18% so với năm 2005, lý do là sự tăng trưởng chậm hơn ở cả hai khu vực đầu tư công cộng và tư nhân. Đầu tư công cộng tăng 6% chậm hơn đáng kể so với năm 2005 khi mức đạt 24% tăng trưởng giảm không liên quan đến chính trị nhưng liên quan đến mức thực hiện luật chính sách theo luật chính sách của mỗi năm 2004, 2005, 2006 đầu tư công cộng phải tăng 1% năm 2004 và 1.4% năm 2005 tỷ lệ tăng trưởng cao của đầu tư công cộng năm 2004 ở mức 24%.
Nguyên nhân chính là do việc sử dụng chi tiêu ngân sách vào năm 2006 được viện trợ tài chính từ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chỉ đạt được 85% dự án, mà khi đó sử dụng vốn năm 2007 đạt 127% mức tăng trưởng của đầu tư năm 2007 mà cao hơn mục tiêu 0.9% bị tác động của việc sử dụng vốn đạt 123% mục tiêu. Đầu tư tư nhân trong và ngoài nước tăng trưởng chậm hơn giảm từ 13% năm 2003 xuống 10% năm 2006. Nguyên nhân chính là do sự giảm vốn 162 triệu USD năm 2005. Lý do cơ bản cho việc giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Cămpuchia là sự hồi phục kinh tế chậm chạp của khu vực Đông Nam Á và sự nâng cao nhanh hơn của môi trường đầu tư ở các nước cạnh tranh như Việt Nam, Phillipine, Trung Quốc, Thái Lan. Tiến trình nâng cấp cơ sở vật chất và môi trường tổ chức ở Cămpuchia vẫn không bằng các nước khác. Ví dụ như Việt Nam đã nâng cấp hệ thống giao thông, điện, và hệ thống cơ quan hành chính v.v...
Cămpuchia tụt hậu sau những nước cạnh tranh trong việc thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi hơn, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hầu như không thể tăng. Điều này yêu cầu đòi hỏi một nỗ lực to lớn của Chính phủ để thực hiện nhiều chính sách cải tổ cần thiết, đặc biệt những chính sách liên quan đến hành chính và cuộc đấu tranh chống lại tham nhũng, một chính sách kinh tế mới. Các nhà đầu tư tư nhân trong nước mà sản xuất cho trong nước hoặc cho xuất khẩu nên được coi là những hoạt động chiến lược mà có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
2.4.1. Những ưu điểm trong trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) vào ngành dệt may ở Cămpuchia
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dệt may có những ưu điểm sau :
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn để phát triển ngành dệt may Cămpuchia
- Khối lượng vốn đầu tư từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Cămpuchia rất là lớn .Cùng với quá trình bổ sung nguồn vốn , các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mang lại một khối lượng lớn tài sản, t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10416.doc