Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học kinh tế quốc dân
luận văn tốt nghiệp
Đề tài :
giải pháp tăng cường công tác quản lý thu
thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
trên địa bàn tỉnh nghệ an.
Lớp : Tài chính công 40
Sinh viên : Nguyễn Thị An
Giáo viên hướng dẫn : Lê Đức Lữ
Hà nội - 2002
Mục lục
Lời nói đầu 5
Chương I: Thuế giá trị gia tăng và quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 7
I/ Vị trí thuế giá trị gia tăng trong hệ thống thuế tr
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong nền kinh tế thị trường
---------------------------------------------------------------------------------------------------7
1. Khái niệm về thuế -7
1.1. Nguồn gốc xuất hiện của thuế 7
1.2. Khái niệm về thuế 8
2. Thuế giá trị gia tăng 8
2.1. Khái niệm 9
2.2. Đặc điểm cơ bản của thuế giá trị gia tăng --10
2.3. Nội dung cơ bản của luật thuế giá trị gia tăng 11
2.3.1. Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng 11
2.3.2. Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng 11
2.3.3. Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng 12
2.3.4. Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng 13
II. Vai trò của thuế giá trị gia tăng 15
1. Luật thuế giá trị gia tăng đã khuyến khích đầu tư, ổn định sản xuất kinh doanh, góp phần khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước----------------------------16
1.1.Thuế giá trị gia tăng góp phần khuyến khích đầu tư----------------------------------16
1.2.Thuế giá trị gia tăng đã góp phần ổn định và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh-----16
2. Thuế giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu-----------------------------17
3.Thuế giá trị gia tăng thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt việc hạch toán kế toán-----------------------------------------------------------------------------------------------17
III. Quản lý thu thuế giá trị gia tăng------------------------------------------------------17
1. Nội dung quản lý thu thuế giá trị gia tăng----------------------------------------------- 17
Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế---------------------------------------------17
Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế------------------------------------------------------18
Công tác hoàn thuế------------------------------------------------------------------------18
Công tác miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế----------------------------------------18
Quyết toán thuế ---------------------------------------------------------------------------18
Quản lý hồ sơ doanh nghiệp -------------------------------------------------------------19
Bộ máy quản lý thu thuế giá trị gia tăng------------------------------------------------19
2.1 Phòng quản lý thu--------------------------------------------------------------------------20
2.2. Phòng kế hoạch - kế toán - thống kê và phòng máy tính----------------------------21
2.3 Phòng thanh tra - xử lý tố tụng ---------------------------------------------------------21
Các nhân tố tác động tới hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng-----------------22
3.1 Những nhân tố chung ---------------------------------------------------------------------22
3.2 Những quy định cụ thể ------------------------------------------------------------------24
IV/ Quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh------25
1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh --------------------------------------------------------25
Đặc điểm -----------------------------------------------------------------------------------25
Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta------------------------------------------------------------------------------------- 26
2. Quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh --------28
Chương II : Thực trạng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An----------------------------------------30
I. Khái quát về tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm qua----------------------------------------------------------------------------------------30
II. Khái quát về tình hình thu thuế trên địa bàn tỉnh Nghệ An---------------------31
III. Tình hình các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An
-------------------------------------------------------------------------------------------------34
IV. Thực trạng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An -----35
1.Tình hình công tác thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
35
1.1.Công tác quản lý đối tượng nộp thuế 35
1.2.Công tác nộp tờ khai thuế 37
1.3 Quản lý căn cứ tính thuế 38
1.4.Công tác khấu trừ thuế, hoàn thuế 42
1.5.Quản lý thu nộp thuế ------------------------------------------------------------------ 44
1.6. Công tác thanh tra, kiểm tra -----------------------------------------------------------47
2.Đánh giá công tác quản lý thu thuế------------------------------------------------------49
2.1.Kết quả đạt được 49
2.2.Những mặt hạn chế và nguyên nhân 51
Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An -----------------56
I/ Những quan điểm cơ bản về tăng cường quản lý thu thuế-------------------------56
II/ Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế GTGT đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An.-----------------------------------------------58 1.Thay đổi quy trình quản lý thu thuế trong tương lai -------------------------------------58
2.Thường xuyên xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuế đáp ứng yêu cầu mới, chấn chỉnh công tác tổ chức cán bộ, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế---59
3.Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thuế sâu rộng hơn nữa-------------------------------61
4.Tin học hoá công tác quản lý thu thuế ---------------------------------------------------63
5.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra -------------------------------------------------65
6.Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan chức năng có liên quan trong công tác quản lý thu thuế -------------------------------------------------------66
III/ Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý , thu thuế------------------------------------------------------------------68
1.Nhà nước cần chỉnh sửa một số điều khoản trong luật thuế--------------------------- 68
2.Thành lập các trung tâm tư vấn thuế ------------------------------------------------------71
Kết luận -------------------------------------------------------------------------------------73
Tài liệu tham khảo-------------------------------------------------------------------- 75
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, thuế là mối quan tâm hàng đầu của mọi Nhà nước, bởi nó không chỉ là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước mà còn được sử dụng làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế góp phần phân phối lại thu nhập, thực hiện công bằng xã hội.
ở nước ta luật thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/ 01/ 1999, thay thế luật thuế doanh thu, được xem là một bước đột phá có tính chất quyết định trong công cuộc cải cách thuế bước II của Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay đang còn nhiều yếu kém, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, ý thức chấp hành luật thuế chưa cao ... Vì thế, việc thực hiện luật thuế mới cũng như công tác quản lý thu thuế đang còn gặp nhiều khó khăn cần tháo gỡ. Nổi cộm nhất trong công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng là: tình hình sử dụng hoá đơn giả, khai khống hoá đơn đầu vào để xin hoàn thuế, ghi giá trên hoá đơn thấp hơn giá thực tế ... đã làm ảnh hưởng nhiều đến số thu Ngân sách Nhà nước và công bằng xã hội. ở thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà cụ thể là doanh nghiệp ngoài quốc doanh với số lượng rất đông, hoạt động vô cùng phức tạp và đa dạng nên khó quản lý. Vì vậy, công tác quản lý thu thuế đối với thành phần này đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Để có thể khắc phục được những hạn chế trên cần có sự quản lý thu thuế một cách chặt chẽ bằng nhiều biện pháp khác nhau. Do yêu cầu bức xúc của thực tiễn, trong quá trình thực tập tại Cục thuế Nghệ An cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội ở trường và sự giúp đỡ của các thầy cô, các cán bộ thuế ở Cục thuế Nghệ An, em đã tìm hiểu, nghiên cứu công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng và chọn đề tài:
“ Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng
đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An”
Với thời gian có hạn và phù hợp trong việc nghiên cứu tài liệu, thực tế tại Cục thuế Nghệ An, đề tài chỉ nghiên cứu ở phạm vi các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do Cục quản lý.
Mục đích của đề tài: Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian qua; trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị để công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng được hoàn thiện hơn đáp ứng yêu cầu thu đúng, thu đủ và kịp thời về cho Ngân sách Nhà nước. Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Thuế giá trị gia tăng và quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế .
Chương II: Thực trạng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An .
Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, ban lãnh đạo cùng với các cán bộ thuế của Cục thuế Nghệ An đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Chương I
thuế giá trị gia tăng và quản lý thu thuế giá trị gia tăng
đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh
I - Vị trí thuế giá trị gia tăng trong hệ thống thuế trong nền kinh tế thị trường.
Khái niệm về thuế.
1.1. Nguồn gốc xuất hiện của thuế.
Trong lịch sử tiến hoá và phát triển của nhân loài, trước xã hội nô lệ con người sống với nhau theo từng bầy đàn để chống lại thú dữ, điều kiện làm việc còn rất thô sơ, năng suất lao động thấp, sản phẩm kiếm được chưa đủ ăn, do đó chưa có sản phẩm thặng dư, chưa có giai cấp trong xã hội lúc đó chưa có Nhà nước và thuế.
Cùng với thời gian, lực lượng sản xuất phát triển có sự phân công lao động trong xã hội làm cho năng suất tăng lên xuất hiện sản phẩm thặng dư. Trong cộng đồng có người giàu, kẻ nghèo hình thành các giai cấp khác nhau, giữa các giai cấp này có mâu thuẫn về quyền lợi. Để giải quyết mâu thuẫn này cần thiết phải có một tổ chức trung gian đứng ra điều hoà mâu thuẫn giai cấp đó là Nhà nước. Nhà nước muốn tồn tại và phát triển cần phải có các cơ sở vật chất nhất định để nuôi sống bộ máy của mình và để thực hiện các chương trình, dự án theo ý đồ của mình. Để có thể làm được điều đó nhất thiết phải có nguồn Ngân sách dự trữ, nguồn Ngân sách này có được có thể từ các nguồn: bắt buộc nhân dân đóng góp thông qua nộp thuế, vay của nhân dân thông qua phát hàng công trái hoặc phát hành tiền.
Trong ba nguồn tài trợ trên, thuế là nguồn tài trợ quan trọng hơn cả; vì thuế có sự điều tiết, có sự chia sẻ, là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế của Nhà nước, nó thể hiện quyền lực của Nhà nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp, ngang giá.
Nếu tài trợ chỉ bằng cách phát hành tiền mới sẽ có hậu quả gây ra một mức lạm phát nào đó. Các nhà kinh tế, tài chính đều thận trọng về phương cách áp dụng lối tài trợ này.
Còn tài trợ chỉ bằng cách phát hành công trái để bán rộng rãi cho công chúng thì tại các nước chậm phát triển hoặc đang phát triển thì nguồn tài trợ này khó có thể thực hiện được. Tại các nước phát triển, đơn vị tiền tệ có giá trị ổn định, nguồn tài trợ này sẻ thu kết quảt tốt. Tuy đạt dược kết quả tốt nhưng vay của nhân dân cuối cùng cũng phải hoàn trả, mà Nhà nước không có khoản thu nhập nào, nếu không thu của dân lấy từ đâu để trả.
Qua đó ta thấy thuế ra đời cùng với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và là cơ sở kinh tế của Nhà nước.
1.2. Khái niệm về thuế.
Tuỳ theo các giác độ nghiên cứu khác nhau về thuế mà có các khái niệm khác nhau:
Đứng trên giác độ pháp luật, thuế được định nghĩa là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà các tổ chức, doanh nhân phải nộp vào Ngân sách Nhà nước.
Đứng trên giác độ phân phối: Thuế được hiểu là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước.
Từ các khái niệm trên ta thấy thuế có các đặc điểm chính là khoản đóng góp mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế pháp lý cao, không mang tính hoàn trả trực tiếp.
2. Thuế giá trị gia tăng.
Quán triệt Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI về đổi mới kinh tế, từ năm 1990 đến nay qua các lần họp Quốc hội đã lần lượt ban hành chính sách thuế và một số loại phí, lệ phí áp dụng cho các thành phần kinh tế. Hiện nay trong hệ thống thuế của chúng ta có các loại thuế sau:
Thuế giá trị gia tăng.
Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế thu nhập doanh nghiệp
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế tài nguyên.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Thuế nhà đất (pháp lệnh).
Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Thuế môn bài.
Thuế là công cụ quan trọng và hiệu quả được Nhà nước sử dụng để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thu Ngân sách về thuế chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng số thu, khoảng 90%, là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước.
Một sắc thuế ra đời điều chỉnh vào một hoặc một số đối tượng nhất định với các mục tiêu khác nhau.
Ví dụ: Như thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu đánh vào khâu sản xuất và nhập khẩu các hàng hoá và dịch vụ nằm trong danh sách chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, danh sách này thường là những hàng hoá, dịch vụ không được Nhà nước khuyến khích tiêu dùng, nhập khẩu, nên mức độ điều chỉnh khá cao thông qua thuế suất. ở nước ta thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt thấp nhất là 15% và nước cao nhất là 100%. Hoặc thuế xuất khẩu, nhập khẩu là sắc thuế được ban hành ra đề đánh trên giá trị và chủng loại hàng hoá trao đổi giữa hai hay nhiều quốc gia với các mục đích khuyến khích đầu tư, bảo hộ sản xuất trong nước ... Và các loại thuế trên được ban hành ra còn để tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Trong các loại thuế chúng ta nêu ở trên thì thuế giá trị gia tăng chiếm một tỷ trọng rất đáng kể trong tổng số thu từ thuế, khoảng 30% và tỷ trọng này có xu hướng ngày càng tăng.
ở nước ta luật thuế giá trị gia tăng được quốc Hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ 11 và nó có hiệu lực thi hành từ ngày 1/ 1/ 1999 thay thế luật thuế doanh thu là một bước đột phá trong quyết định trong công cuộc cải cách thuế bước II ở Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về luật thuế này chúng ta đi tìm hiểu khái niệm, đặc điểm và các nội dung cơ bản của nó.
2.1. Khái niệm.
Thuế giá trị gia tăng có tên gọi theo tiếng Pháp: “ Tax sur lavalue ajourtée “ (TVA) hay theo tiếng Anh là : “Value Added Tax “ (VAT)
Thuế giá trị gia tăng có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất và người đầu tiên có sáng kiến về thuế giá trị gia tăng là một người Đức tên là CARL FRIEDRICH VON SIEMENS nhằm khắc phục sự chồng chéo của thuế doanh thu từ năm 1918. Tuy nhiên, ông ta không thuyết phục được Chính phủ Đức áp dụng sắc thuế này. Đến năm 1947 thuế giá trị gia tăng lại được đề cập trong tác phẩm về “ Cải cách hệ thống thuế “ của nhà kinh tế học người Mỹ tên là Chao. ở Nhật Bản một dự án về thuế giá trị gia tăng đã được đệ trình ra Quốc hội năm 1953 nhưng không được thông qua. Năm 1954 Pháp là nước đầu tiên thực hiện luật thuế giá trị gia tăng nhưng chỉ áp dụng ở khâu sản xuất. Đến năm 1968 chỉ có 47 nước áp dụng thuế giá trị gia tăng thì đến nay đã có hơn 120 nước áp dụng loại thuế này. Riêng Châu á, thuế giá trị gia tăng ngày càng trở thành phổ biến.
ở Việt Nam, luật thuế giá trị gia tăng được nghiên cứu từ khi tiến hành cải cách thuế bước I (1990) áp dụng thử nghiệm năm 1993 ở 11 đơn vị (ngành đường, dệt, xi măng ), ban hành thành luật và được thông qua tại kỳ họp lần thứ 11 Quốc hội khoá IX ngày 10 tháng 5 năm 1997 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999.
Trước hết, ta có thể hiểu giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ khi qua mỗi công đoạn sản xuất, mua bán hàng hoá hay thực hiện dịch vụ.
Như vậy, thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
2.2. Đặc điểm cơ bản của thuế giá trị gia tăng.
- Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá nhằm động viên một phần thu nhập thông qua sự đóng góp của người tiêu dùng; các nhà sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ chỉ là người nộp hộ.
- Thuế giá trị gia tăng có phạm vi điều chỉnh rộng áp dụng cho tất cả các hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại điều 4 của Luật này.
- Thuế giá trị gia tăng đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm ở mỗi giai đoạn. Vì vậy, tổng số thuế thu được ở các giai đoạn sẽ bằng với số thuế tính theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
- Thuế giá trị gia tăng có tính trung lập cao, nó không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế.
- Thuế giá trị gia tăng có khả năng đem lại số thu thường xuyên và ổn định cho Ngân sách Nhà nước tuỳ theo quan điểm động viên của mỗi nước. Thuế giá trị gia tăng phụ thuộc vào mức tiêu dùng xã hội.
2.3. Nội dung cơ bản của luật thuế giá trị gia tăng.
Theo luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn thực hiện, nội dung cơ bản của luật thuế giá trị gia tăng bao gồm:
2.3.1. Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng.
Theo quy định tại điều 2 luật thuế giá trị gia tăng và điều 2 nghị định số 79/ 2000/ NĐ - CP của Chính Phủ thì đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu thụ ở Việt Nam, trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại Điều 4 luật thuế giá trị gia tăng. Những mặt hàng này thể hiện quan điểm chính sách chủ yếu sau:
+ Một số ngành sản xuất trong lĩnh vực đang gặp khó khăn cần khuyến khích tạo điều kiện phát triển như : sản xuất nông nghiệp, muối, tưới tiêu phục vụ nông nghiệp; một số lĩnh vực liên quan tới vốn đầu tư sản xuất kinh doanh như : nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng làm tài sản cố định trong nước chưa sản xuất được; dịch vụ tín dụng, chuyển giao công nghệ...
+ Hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống xã hội, nhu cầu cộng đồng như: dạy học, dạy nghề, dịch vụ khám chữa bệnh, dịch vụ vận chuyển hành khách bằng xe buýt...
+ Hàng hoá, dịch vụ sử dụng không nhằm mục đích kinh doanh, thu lợi nhuận hoặc vì mục đích nhân đạo: vũ khí, khí tài chuyên dùng cho an ninh – quốc phòng, xây dựng công trình văn hoá - nghệ thuật, công trình phục vụ cộng đồng, hàng viện trợ nhân đạo...
+ Hàng hoá, dịch vụ thể hiện quan điểm quản lý, ưu đãi có mức độ đối với sản xuất kinh doanh như: tài nguyên xuất khẩu dạng chưa chế biến, hàng hoá, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế và các đối tượng tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Những nhóm hàng hoá, dịch vụ này được quy định tại điều 4 luật thuế giá trị gia tăng, không tính và không thu thuế giá trị gia tăng nhưng cũng không được khấu trừ hay hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào (nếu có).
2.3.2. Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng:
Theo quy định tại điều 3 luật thuế giá trị gia tăng và điều 3 nghị đínhố 79/2000/NĐ - CP của Chính phủ thì đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam (gọi chung là cơ sở kinh doanh ) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế ( gọi chung là người nhập khẩu ) không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức sản x uất kinh doanh.
2.3.3. Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng: là giá tính thuế và thuế suất.
- Giá tính thuế:
+ Đối tượng hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng
+ Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. Giá nhập khẩu tại cửa khẩu được xác định theo các quy định về giá tính thuế nhập khẩu.
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng thì giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh hoạt động này.
+ Đối với hoạt động cho thuê tài sản không phân biệt loại tài sản và hình thức cho thuê là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế giá trị gia tăng tính trên số tiền thuê trả từng kỳ hoặc trả trước.
+ Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, tính theo giá chưa có thuế của hàng hoá đó bán trả một lần ( không bao gồm khoản lãi trả góp ), không tính theo số tiền trả góp từng kỳ .
+Đối với hoạt động xây dựng, xây lắp là giá xây dựng, xây lắp chưa có thuế của công trình, hạng mục công trình hay phần công việc thực hiện; trường hợp xây dựng, xây lắp đặt công trình thực hiện thanh toán theo tiến độ hạng mục công trình phần công việc hoàn thành bàn giao thì thuế giá trị gia tăng tính trên phần giá trị bàn giao.
+ Đối với hàng hoá, dịch vụ có tính đặc thù được dùng loại chứng từ thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng, thì giá chưa có thuế làm căn cứ tính thuế được xác định bằng giá có thuế chia cho (1+%) thuế suất của hàng hoá, dịch vụ đó.
+ Đối với các hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá, dịch vụ hưởng hoa hồng, giá chưa có thuế làm căn cứ tính thuế là tiền hoa hồng thu từ các hoạt động này.
Giá tính thuế đối với các loại hàng hoá, dịch vụ quy định tại Điều này bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
- Thuế suất: có 4 mức thuế suất, cụ thể
+ Thuế suất 0% : áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.
+Thuế suất 5% : áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ có tính thiết yếu trong đời sống kinh tế xã hội
+Thuế suất 10% : áp dụng cho các nhóm hàng hoá, dịch vụ thông thường trong đời sống kinh tế xã hội.
+Thuế suất 20% : áp dụng cho nhóm hàng hoá, dịch vụ cao cấp hoặc khả năng nhận được doanh lợi cao.
2.3.4. Phương pháp tính thuế.
Có hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
+ Phương pháp khấu trừ thuế.
+ Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
Phương pháp khấu trừ thuế.
- Đối tượng áp dụng: là các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo luật doanh nghiệp Nhà nước, luật doanh nghiệp, luật Hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng tại khoản 2 Điều này. Các đối tượng này phải thực hiện và chấp hành đầy đủ các yêu cầu về mở, ghi sổ sách kế toán và các quy định về hoá đơn, chứng từ.
Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng). Và phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định, trong đó ghi rõ giá bán, khoản phải thu, phí thu thêm, khoản thuế giá trị gia tăng, tổng giá thanh toán.
- Cách tính thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp.
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào.
Trong đó:
+ Thuế đầu vào bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của hàng hoá nhập khẩu dùng vào sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.
Đối với hàng hoá mua vào là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất bán ra và loại hàng hoá, dịch vụ dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán đã có thuế thì thuế đầu vào được tính khấu trừ theo quy định tại điểm 9 Mục II, phần C thông tư số 122/2000/TT-BTC có nội dung :
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được tính khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào ( gọi là thuế đầu vào ) như sau:
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ.
+ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng.
Cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng thuế đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ; trường hợp không hạch toán được thì được khấu trừ theo tỷ lệ (%) giữa doanh số chịu thuế giá trị gia tăng so với tổng doanh số bán ra.
+ Thuế đầu vào được phát sịnh tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó.
Riêng thuế đầu vào của tài sản cố định được khấu trừ lớn thì thực hiện khấu trừ dần hoặc được hoàn thuế theo quy định.
+ Trường hợp cơ sở sản xuất, chế biến mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất mà không có hoá đơn giá trị gia tăng thì được tính khấu trừ thuế đầu vào theo một tỷ lệ (%) tính trên giá trị hàng hoá mua vào.
=
Thuế GTGT Giá tính thuế của hàng hoá Thuế suất tương ứng của
đầu ra dịch vụ chịu thuế bán ra X hàng hoá, dịch vụ
Trường hợp hàng hoá, dịch vụ đặc thù được dùng loại chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng đầu ra thì thuế giá trị gia tăng đầu ra được xác định như sau:
=
Thuế GTGT Giá thanh toán x thuế suất
đầu ra 1 + thuế suất
* Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
- Đối tượng áp dụng: là tất cả các hộ cá thể sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chủ yếu là các hộ nhỏ; tổ chức, cá nhân nước ngoài ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế và cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Những hộ sản xuất kinh doanh nếu chấp hành mở sổ sách kế toán và tự nguyện đăng ký áp dụng phương pháp khấu trừ thì được khuyến khích nộp thuế theo phương pháp khấu trừ:
- Công thức xác định:
Số thuế GTGT = GTGT của hàng hoá X Thuế suất thuế
phải nộp dịch vụ chịu thuế GTGT của hàng hoá,
dịch vụ đó
trong đó:
GTGT của hàng hoá Giá thanh toán Giá thanh toán
dịch vụ chịu thuế = của hàng hoá, dịch vụ X của hàng hoá, dịch vụ
bán ra mua vào tương ứng
II. Vai trò của thuế giá trị gia tăng.
Luật thế giá trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay thế luật thuế doanh thu; đến nay luật thuế mới đã đi vào cuộc sống được hơn 3 năm và đã phát huy tác dụng đối với nền kinh tế nói chung và các cơ sở kinh tế nói riêng. Đồng thời, thuế giá trị gia tăng có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế; điều này được thể hiện:
1. Luật thuế giá trị gia tăng đã góp phần khuyến khích đầu tư ổn định sản xuất kinh doanh, góp phần khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong nước.
1.1. Thuế giá trị gia tăng góp phần khuyến khích đầu tư.
Có chế độ khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đã tạo điều kiện cho công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm so với trước đây áp dụng thuế doanh thu. Ngoài ra, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế giá trị gia tăng cũng làm cho giá thành công trình đầu tư giảm.
1.2. Thuế giá trị gia tăng đã góp phần ổn định và đẩy mạnh sản xuất kinh doanh.
Thực hiện luật thuế giá trị gia tăng đã thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hoá do thuế giá trị gia tăng chỉ thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng, nên nó khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là thuế đánh trùng lên thuế ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá. Ngoài ra, nó còn khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất, kinh doanh;nhất là trong lĩnh vực cơ khí như: sản xuất lắp ráp xe đạp, xe máy, ô tô, điện, điện tử...
Trong quá trình thực hiện luật thuế giá trị gia tăng, một số ngành nghề, lĩnh vực, mặt hàng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực và tác động của chính sách thuế gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội và Chính phủ đã có các văn bản sửa đổi, bổ sung một số danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng và giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với một số loại hàng hoá, dịch vụ để tháo gỡ khó khăn cho các ngành cơ khí, dược phẩm ... Bằng các nội dung, chính sách và biện pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên, luật thuế giá trị gia tăng đã góp phần ổn định sản xuất kinh doanh.
2. Thuế giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu.
Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, đánh vào người tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi, có phạm vi đối tượng rất rộng nên nó tạo nguồn thu rất lớn cho Ngân sách Nhà nước. Thuế giá trị gia tăng chiếm xấp xỉ khoảng 30% tổng số thu từ thuế. Ngoài ra, nó là loại thuế do người tiêu dùng chịu nên không gây ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
3. Thuế giá trị gia tăng thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt việc hạch toán kế toán, hoá đơn chứng từ.
Với việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đã thúc đẩy các đơn vị thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán, hoá đơn chứng từ. Bởi không có hoá đơn chứng từ ghi rõ số thuế đã nộp ở khâu trước thì không được khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế. Vì thế, thuế giá trị gia tăng sẽ góp phần hạn chế được những sai sót, gian lận trong việc ghi chép hoá đơn, cho phép chống buôn lậu thuế có hiệu quả, nâng cao tính tự giác của đối tượng nộp thuế.
III. quản lý thuế giá trị gia tăng.
1. Nội dung quy trình quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp.
Quy trình này ban hành kèm theo Quyết định số 1368 TCT/ QĐ/ TCCB, ngày 16 tháng 2 năm 1998 của Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Thuế.
Quy trình quản lý thu thuế được xây dựng nhằm cải tiến công tác quản lý thu thuế theo hướng phân công, phân nhiệm rõ ràng cụ thể giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý thu thuế, tăng cường công tác kiểm tra thuế, phát hiện kịp thời các trường hợp trốn lậu thuế, giảm hiện tượng tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế. Quy trình mô tả trình tự các bước thực hiện các công việc sau:
1.1. Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế.
Doanh nghiệp mới ra kinh d._.oanh phải mua bộ tờ khai tại phòng ấn chỉ và kê khai đăng ký thuế. Phòng hành chính tiếp nhận đăng ký thuế và chuyển đến phòng quản lý thu; phòng quản lý thu kiểm tra tờ khai đăng ký; sau đó chuyển phòng kế hoạch - kế toán - thống kê và máy tính (gọi tắt là phòng máy tính). Phòng máy tính nhập đăng ký thuế và cấp mã số thuế, sau đó chuyển dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục thuế để kiểm tra tránh sự trùng lắp mã số thuế trên phạm vi toàn quốc. Sau khi kiểm tra tại Tổng Cục, phòng máy tính in giấy chứng nhận cấp mã số thuế và phòng quản lý thu gửi lại cho doanh nghiệp.
1.2.. Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế.
Hàng tháng doanh nghiệp lập tờ khai thuế gửi Cục thuế, phòng hành chính tiếp nhận và chuyển phòng quản lý thu. Phòng quản lý thu kiểm tra tờ khai ban đầu, xác định chính xác mức thuế phải nộp của doanh nghiệp rồi chuyển phòng máy tính nhập tơ khai và in thông báo thuế hoặc xử lý phạt nộp chậm, sau đó gửi thông báo thuế hoặc quyết định nộp phạt cho doanh nghiệp. Nhận được thông báo thuế doanh nghiệp tự nộp vào kho bạc hoặc qua ngân hàng bằng giấy nộp tiền vào Ngân sách. Sau khi nhận được thông báo của kho bạc hoặc của ngân hàng, phòng máy nhập giấy nộp tiền theo danh mục từng doanh ngiệp.
1.3. Công tác hoàn thuế.
Doanh nghiệp lập và gửi hồ sơ đề nghị hoàn thuế lên phòng quản lý thu; phòng quản lý thu kiểm tra hồ sơ xác định số thuế được hoàn, sau đó trình lãnh đạo xét duyệt. Quyết định hoàn thuế được chuyển đến phòng hành chính, phòng hành chính sao quyết định hoàn thuế thành 3 bản, đóng dấu, lấy số công văn và gửi:
+ 01 bản cho đối tượng nộp thuế.
+ 01 bản gửi cho Kho bạc Tỉnh, thành phố để làm thủ tục hoàn thuế.
+ 01 bản gửi phòng quản lý thu để theo dõi việc thực hiện hoàn thuế. Sau đó lưu vào hồ sơ của đối tượng nộp thuế.
Phòng quản lý thu căn cứ vào quyết định hoàn thuế để lập danh sách kết quả hoàn thuế các doanh nghiệp chuyển kho bạc.. Kho bạc hoàn thuế cho doanh nghiệp; phòng máy tính nhập chứng từ hoàn thuế.
1.4. Công tác miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế.
Quy trình miễn, giảm, tạm giảm thuế cũng tương tự như ở hoàn thuế chỉ có khác là phòng máy tính điều chỉnh số thuế phải nộp của doanh nghiệp, phòng quản lý thu lưu hồ sơ.
1.5. Quyết toán thuế.
Đầu năm dương lịch, doanh nghiệp lập hồ sơ và gửi quyết toán thuế đến Cục thuế; phòng hành chính nhận quyết toán thuế và chuyển cho các phòng quản lý thu, phòng quản lý thu kiểm tra số liệu quyết toán thuế, xác định số thuế còn thừa hoặc thiếu sau quyết toán của từng đối tượng nộp thuế. Đối với trường hợp đối tượng nộp thuế nộp thừa tiền thuế, phòng quản lý thu phải xác định hình thức xử lý là trừ số thuế thừa này vào số thuế phải nộp kỳ thuế tới hay yêu cầu đối tượng nộp thuế lập thủ tục đề nghị hoàn thuế .
Phòng quản lý thu lập danh sách đối tượng nộp thuế nộp chậm hoặc không nộp quyết toán thuế trình lãnh đạo quyết định phạt hành chính; chuyển danh sách ghi số tiền phạt hành chính cho phòng kế hoạch - kế toán – thống kê để theo dõi thu nộp. Phòng kế hoạch – kế toán – thống kê nhận và nhập danh sách kết quả quyết toán thuế từ phòng quản lý thu chuyển sang, điều chỉnh số thuế phải nộp vào tháng hoặc quý hiện tại. Phòng quản lý thu lưu vào hồ sơ doanh nghiệp: quyết toán thuế, các biên bản kiểm tra quyết toán thuế tại doanh nghiệp, các quyết định xử lý phạt hành chính.
Trong quá trình quyết toán thuế nếu thấy có đối tượng nào có dấu hiệu nghi ngờ về kê khai quyết toán thì phòng quản lý thu phối hợp với phòng thanh tra - xử lý tố tụng lập kế hoạch kiểm tra các đối tượng này tại cơ sở để trình lãnh đạo duyệt.
1.6. Quản lý hồ sơ doanh nghiệp.
Phòng quản lý thu có nhiệm vụ tạo lập và quản lý hồ sơ doanh nghiệp, phòng kế hoạch - kế toán - thống kê có nhiệm vụ tổ chức lưu giữ các tờ khai, bảng kê, chứng từ nộp thuế của đối tượng nộp thuế theo từng sắc thuế, kỳ thuế và theo phòng quản lý thu. Thời hạn lưu trữ hồ các tài liệu này là 5 năm; riêng chứng từ nộp thuế thực hiện thời hạn lưu theo quy định của chế độ kế toán.
2. Bộ máy quản lý thuế giá trị gia tăng.
Hiệu quả của việc thực hiện hệ thống các luật thuế phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu tổ chức của hệ thống ngành thuế.
Căn cứ vào quyết định 1386 TCT/ QĐ/ TCTB về tổ chức bộ máy ngành thuế, các phòng tổ đội và đối tượng thuộc Cục thuế liên quan trực tiếp tới quy trình quan lý thu thuế là :
+ Lãnh đạo Cục thuế.
+ Phòng hành chính.
+ Phòng kế hoạch - kế toán - thống kê.
+ Phòng máy tính.
+ Phòng quản lý thu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ...
+ Phòng thanh tra và xử lý tố tụng.
+ Phòng nghiệp vụ.
+ Phòng quản lý ấn chỉ.
Trong đó các bộ phận chính trực tiếp thực hiện hành thu là các phòng quản lý thu, phòng kế hoạch - kế toán - thống kê, phòng máy tính, phòng thanh tra - xử lý tố tụng. Chức năng, nhiệm vụ chính của các bộ phận này trong quy trình quản lý thu là:
2.1.Phòng quản lý thu:
Quản lý đối tượng nộp thuế: Theo dõi tình hình biến động về đối tượng nộp thuế trên lĩnh vực, địa bàn quản lý như : nắm số doanh nghiệp phát sinh, doanh nghiệp phá sản, giải thể, sát nhập, liên doanh, liên kết... Phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu, khai thác nguồn thu trong lĩnh vực được giao quản lý. Tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Cục các biện pháp quản lý thuế.
- Hướng dẫn đối tượng nộp thuế các thủ tục kê khai đăng ký thuế, kê khai thuế, lập hồ sơ miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế ... Giải đáp các thắc mắc của đối tượng nộp thuế liên quan đến việc tính thuế, thu nộp thuế. Lập và tổ chức lưu giữ hồ sơ các doanh nghiệp.
Thực hiện việc kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên các tờ khai đăng ký kinh doanh, kê khai nộp thuế, hồ sơ đề nghị miễn, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế. Liên hệ với đối tượng nộp thuế để chỉnh lại việc kê khai theo đúng quy định.
- Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp đề nghị miễn, giảm thuế, hoàn thuế, lập các thủ tục xét miễn, giảm, hoàn thuế. Theo quy định kiểm tra hồ sơ quyết toán thuế, xác định số thuế quyết toán thuế của từng đối tượng nộp thuế; cung cấp thông tin vè kết quả xét miễn, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế cho bộ phận tính thuế.
Thực hiện việc ấn định thuế cho các đối tượng nộp thuế, không nộp thuế hoặc chậm nộp tờ khai thuế. Xác định các đối tượng nộp thuế cần phát hành lệnh thuế hoặc phạt hành chính thuế.
Theo dõi tình hình nộp thuế của các doanh nghiệp và đôn đốc nhắc nhở các doanh nghiệp nộp thuế đúng hạn vào Ngân sách Nhà nước. Phối hợp với phòng thanh tra – xử lý tố tụng thực hiện kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ mua, bán của các đối tượng có hiện tượng khai man thuế, trốn, lậu thuế, nợ đọng thuế,..
2.2. Phòng kế hoạch - kế toán - thống kê và phòng máy tính.
+ Căn cứ số liệu về tình hình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương phân tích số liêu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của toàn đơn vị. Phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch của các đối tượng có hiện tượng khai man thuế, trốn, lậu thuế, nợ đọng tièn thuế,.. Tham mưu cho lãnh đạo Cục về khai thác nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu và các biện pháp chỉ đạo thu.
+ Thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế và quản lý hệ thống cấp mã số đối tượng nộp thuế, in giấy chứng nhận đăng ký thuế.
+ Xử lý tính thuế, tính nợ, tính phạt nộp chậm, in thông báo thuế, nhận giấy nộp thuế từ kho bạc, chấm nợ: Nhận các kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế, quyết toán thuế và kết quả thanh tra kiểm tra từ các phòng quản lý thu và phòng thanh tra – xử lý tố tụng để điều chỉnh số thuế phải nộp của các đối tượng nộp thuế.
+Tổng hợp tình hình thu nộp thuế của các đối tượng nộp thuế theo các chỉ tiêu khác nhau đẻ cung cấp thông tin cho các phòng quản lý thu, phòng thanh tra – xử lý tố tụng và phòng nghiệp vụ,...thực hiện các biện pháp quản lý thu nộp thuế.
+Triển khai và phát triển công tác tin học cho Cục thuế và các chi Cục thuế trực thuộc Cục thuế.
+ Thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế theo chế độ kế toán ; kiểm tra đối chiếu số thu với kho bạc.
2.3. Phòng thanh tra – xử lý tố tụng.
Kiểm tra phát hiện đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhưng không kê khai đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế.
+ Căn cứ vào các thông tin do bộ phận quản lý và bộ phận tính thuế cung cấp về tình hình nộp tờ khai thuế, nộp thuế và các nguồn thông tin khác để xác định cácđối tượng cần thanh tra, kiểm tra về thuế lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra trình lãnh đạo duyệt. Tổ chức lực lượng kiểm tra và tiến hành kiểm tra các đối tượng cần kiểm tra về hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kiểm tra sổ kế toán, hoá đơn chứng từ mua bán hoá đơn ... phát hiện kịp thời các hành vi khai man thuế, trốn lậu thuế, đề xuất các hình thức xử lý theo pháp luật.
+ Hỗ trợ các phòng quản lý thu để quản lý, đôn đốc thu nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thu đối với những đối tượng chây ỳ, cố tình vi phạm luật thuế.
+ Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thu và tính thuế của các bộ phận để kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong công tác quản lý thu thuế.
3. Các nhân tố tác động đến hiệu quả của quản lý thu thuế giá trị gia tăng.
Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp lần thứ 11 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Từ đó đến nay, Luật thuế g0iá trị gia tăng đã từng bược đi vào đời sống kinh tế – xã hội và bước đầu đã phát huy tác dụng trên nhiều mặt như: sắp xếp lại cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, đảm bảo nguồn thu Ngân sách Nhà nước ...Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vướng mắc làm giảm hiêụ ứng tích cực của thuế giá trị gia tăng. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là do các điều kiện áp dụng luật thuế giá trị gia tăng chưa được thiết lập đầy đủ ở tầm vĩ mô và vi mô. Do vậy, để luật thuế giá trị gia tăng có thể phát huy được tất cả các ưu điểm của nó cần phải có các nhân tố sau:
3.1. Những nhân tố chung.
- Nền kinh tế phát triển ổn định: theo các nhà nghiên cứu kinh tế, thuế giá trị gia tăng là sắc thuế của nền kinh tế phát triển vì ở đó giá cả hàng hoá thường xuyên ổn định. Nền kinh tế ổn định đảm bảo cho giá cả hàng hoá ở khâu sau thường xuyên cao hơn khâu trước, khi đó thuế đầu ra lớn hơn thuế đầu vào, trường hợp hoàn thuế rất ít xẩy ra.
- Nhà nước phải thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật: Nhà nước thực hiện việc thu thuế và quản lý nền kinh tế là hai mặt của một quá trình thống nhất và biện chứng với nhau. Trong trường hợp áp dụng thuế doanh thu, thuế thu được dứt ở từng khâu và từng cơ sở kinh doanh cho nên nếu có thất thu thuế ở một cơ sở hay một khâu nào thì đó chỉ là hiện tượng cá biệt, độc lập và mang tính tạm thời. Đối với thuế giá trị gia tăng, nếu Nhà nước không quản lý được nền kinh tế thì không những không thu được thuế, thu được ít mà có thể mất đi một phần thuế của khâu trước đó do phải hoàn thuế.
- Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc ghi chép đầy đủ, sổ sách kế toán phải đồng nhất. Hoá đơn chứng từ phải được sử dụng trong tất cả các hoạt động giao dịch. Việc tính toán, theo dõi và quản lý của cơ quan thuế chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở chế độ kế toán thống nhất, hoá đơn, chứng từ đầy đủ. Vì vậy, mặc dù nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần, nhiều loại hình doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp đều phải bình đẳng trước pháp luật, hệ thống tài khoản phải thống nhất.
- Các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế phải phát triển ở trình độ cao. Trong một nền kinh tế mà đại bộ phận các quan hệ thanh toán, giao dịch đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng thì Nhà nước sẽ thông qua hệ thống ngân hàng để kiểm tra, giám sát được tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, cơ quan thuế có thể kiểm tra được việc kê khai, tính và nộp thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp một cách dễ dàng.
- Cán bộ quản lý, thu thuế phải được đào tạo cơ bản. Với cách tính và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng đòi hỏi cán bộ thuế phải có đủ trình độ, năng lực để thực hiện các quy trình tính và quản lý thu thuế đúng theo luật thuế.
- Trình độ nhận thức của dân cư và các thành phần kinh tế phải tương đối cao. Thuế giá trị gia tăng phải phát huy được tích cực đối với nền kinh tế khi các cơ sở kinh doanh phải có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế. Mặt khác, khi áp dụng thuế giá trị gia tăng tiền thuế được ghi rõ trên hoá đơn bán hàng và người mua phải thanh toán. Trong điều kiện như vậy, các cơ sở kinh doanh cũng như mọi người dân phải tìm hiểu về nghĩa vụ đóng thuế, biết ghi chép, đọc, viết và lưu giữ hoá đơn chứng từ. Đó là cơ sở cho việc tính thuế.
- Phải có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quản lý thu thuế. Do đặc điểm của thuế giá trị gia tăng là loại thuế mà khi tính thuế phải nộp ở khâu sau liên quan chặt chẽ đến thuế ở khâu trước đó nên để quản lý thu thuế cần phải quản lý chặt chẽ doanh số bán ra và mua vào của các cơ sở kinh doanh. Điều đó chỉ có thể thực hiện được tốt khi có hệ thống máy vi tính nối mạng giữa các cơ sở kinh doanh và các cơ quan thuế cũng như trong nội bộ ngành thuế.
3.2. Những quy định cụ thể.
- Về những phương diện pháp lý: cần phải có luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn. Luận thuế giá trị gia tăng cần phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất : Đối tượng chịu thuế, nộp thuế phải được xác định rõ ràng.
Thứ hai : Phương pháp tính thuế phải khoá học. Phương pháp tính thuế là một trong những nội dung rất quan trọng quyết định sự thành công của thuế giá trị gia tăng. Phương pháp tính thuế và phạm vi áp dụng của các phương pháp đó có quan hệ mật thiết với hệ thống sổ sách và các tài khoản kế toán. Phương pháp tính thuế còn là cơ sở để xác định việc khấu trừ thuế và vì thế nó giữ vai trò quyết định trong việc quản lý và chống thất thu thuế .
Thứ ba : Thuế suất phải hợp lý. Số lượng và các mức thuế suất cụ thể được quy định trong luật thuế phải phù hợp với thực trạng nền kinh tế, với đời sống của nhân dân và trình độ quản lý của cơ quan thuế. Thông thường không có một nguyên lý chung nào trong việc xác định số lượng và mức thuế suất cho các sắc thuế nói chung cũng như thuế giá trị gia tăng nói riêng mà tuỳ thuộc tình hình cụ thể của mỗi nước.
Thứ tư: Các luật thuế khác có liên quan phải được thực nộp thuế phải được xác định đồng bộ. Thuế giá trị gia tăng chỉ có thể phát huy được tác dụng tích cực khi nó được đặt trong mối quan hệ ràng buộc với các luật thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, xuất khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp ... Do đó, để áp dụng thuế giá trị gia tăng, Chính phủ cần điều chỉnh các luật thuế trên để các chính sách thuế đó bổ trợ cho nhau và cùng phát huy tác dụng tốt đối với nền kinh tế.
- Quy định về tổ chức thực hiện.
+ Công tác kế toán và hoá đơn chứng từ ở các doanh nghiệp phải được đổi mới phù hợp với việc tính thuế giá trị gia tăng.
+ Đối với công tác quản lý của cơ quan thuế: Cấp mã số thuế, ứng dụng tin học vào công tác quản lý thuế, phát hành và quản lý hoá đơn chứng từ ...Điều đó cũng đặt ra việc hoàn thiện và đổi mới công tác quản lý và sắp xếp lại cán bộ của ngành thuế.
+ Tuyên truyền, giải thích để mọi người cùng hiểu và thực hiện luật thuế mới.
Tóm lại, thuế giá trị gia tăng chỉ có thể được áp dụng một cách hoàn chỉnh trong một nền kinh tế phát triển ổn định. ở đó, Nhà nước thực sự quản lý được nền kinh tế bằng pháp luật và sự phát triển của lực lượng sản xuất phải đạt đến đến trình độ nhất định.
IV. Quản lý thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) Đảng ta đã khẳng định: “ Với điều kiện nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, việc tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước là tất yếu khách quan. Kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo môi trường tốt cho việc khai thác mọi tiềm năng kinh tế của đất nước, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của các đơn vị kinh tế cơ sở, thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước thúc đẩy nền kinh tế xã hội không ngừng tiến lên.
Từ chủ trương đúng đắn này khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh từng bước được xác lập và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
1. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Luật doanh nghiệp ra đời đã tạo hành lang thông thoáng cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
1.1. Đặc điểm :
- Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là mang tính tư hữu về tư liệu sản xuất và hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích chính là lợi nhuận.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hợp tác xã.
Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường mang tính tự phát, sự gia tăng không ổn định, có nhiều biến động phụ thuộc vào cung cầu hàng hoá, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và vào quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hay hạn chế phát triển.
Quy mô sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường vừa và nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, tập trung chủ yếu các ngành thương mại, dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp ... mà đặc biệt là dịch vụ. Các đơn vị này thường hoạt động ở các ngành nghề có tính năng động cao để chuyển hướng kinh doanh, dễ thích nghi với hoàn cảnh, với yêu cầu của nền kinh tế.
ý thức chấp hành pháp luật của các đơn vị ngoài quốc doanh thưòng không cao bằng các đơn vị quốc doanh thể hiện qua việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá chưa đầy đủ, không theo đúng quy định của Nhà nước.
Việc giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ chủ yếu bằng tiền mặt, rất ít trường hợp thanh toán qua ngân hàng do đó công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng gặp rất nhiều khó khăn.
1.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Với quan điểm phát triển kinh tế nước ta bằng con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhằm đưa nước ta thành một nước công nghiệp vững mạnh vào năm 2020, tất yếu phải có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Bên cạnh thành phần kinh tế quốc doanh có vai trò chủ đạo thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhân tố quan trọng sự phát triển toàn diện và mạnh mẽ đối với nền kinh tế trong giai đoạn quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp phần không nhỏ vào tăng trưởng GDP hàng năm của đất nước, đồng thời cũng mang lại một nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Nếu có cơ chế chính sách tốt thì mức động viên từ thuế đối với thành phần kinh tế này sẽ ổn định và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu thu Ngân sách.
Trình độ lực lượng sản xuất nước ta còn thấp, trong khi đó tiềm năng phát triển của nền kinh tế còn rất lớn nhưng khả năng khai thác còn hạn chế, sự độc chiếm của hình thức sở hữu Nhà nước không cho phép khai thác những tiềm năng lớn của đất nước. Một số lượng vốn khá lớn vẫn nằm trong tay nhân dân, do đó chỉ có phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới có khả năng khai thác được chúng.
Với quy mô và hình thức kinh doanh ngày càng phong phú, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang góp phần rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm cho người lao động. ở nước ta hàng năm có khoảng 1,5 triệu người đến độ tuổi lao động, nếu như chỉ thông qua thành phần kinh tế quốc doanh thì người lao động không thể sử dụng hết số lao động này, dẫn đến một số lượng lớn người lao động thất nghiệp gây khó khăn đối với nền kinh tế. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mà trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực, với số lượng lớn quy mô hình thức đa dạng mới có thể sử dụng hết số lao động này và trên cơ sở đó tạo nhiều sản phẩm cho xã hội đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh cùng tồn tại với loại hình kinh doanh khác như doanh ngiệp quốc doanh , hộ cá thể ... cùng tương hỗ nhau phát triển. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp, hoàn thiện, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp quốc doanh. Với số lượng cơ sở kinh doanh đông đảo, doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã trở thành các đơn vị dịch vụ quan trọng, đại lý tiêu thụ sản phẩm hoặc tham gia sản xuất gia công một phần , một khâu, một công đoạn sản phẩm cho các doanh nghiệp Nhà nước. Ngược lại, các doanh nghiệp Nhà nước có điều kiện ưu đãi về vốn, khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hơn có lợi thế cạnh tranh hơn, từ đó có thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao; muốn tiêu thụ sản phẩm này nhanh chóng và hiệu quả phải cần đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Hoặc nhờ có lợi thế này doanh nghiệp Nhà nước sản xuất ra các máy móc, thiết bị phục vụ cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Sự kết hợp sản xuất – tiêu thụ giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo nên một dây chuyền sản xuất lớn trong xã hội, giúp cho thời gian sản xuất, tiêu thụ rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra hoàn thiện hơn với chất lượng cao hơn. Như vậy, sự phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh thúc đẩy các mối quan hệ trong nước và tạo nên sự cạnh tranh lành mạnhlãn nhau.
Hiện nay, nước ta có khoảng năm vạn doanh nghiệp ngoài quốc doanh đây là tiềm năng rất lớn đối với nền kinh tế. Xuất phát từ vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đối với toàn xã hội nói chung và đối với nền kinh tế quốc dân nói riêng; Đảng và Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện để thành phần kinh tế này ngày càng phát triển lành mạnh trở thành một thành phần kinh tế quan trọng đem lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhất cho đất nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nếu có các biện pháp quản lý tốt thì mức động viên sẽ ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu Ngân sách Nhà Nước.
2. Quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Qua hơn ba năm thực hiện luật thuế giá trị gia tăng đã đưa lại những kết quả đáng phấn khởi, sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế vẫn tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng đạt từ 5 - 8%. Công tác thu Ngân sách ba năm qua đều hoàn thành vượt mức dự toán được giao từ 14 - 24 % tình hình giá cả thị trường ít biến động, đời sống nhân dân được ổn định.
Tuy nhiên thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế mới ban hành nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn cần giải quyết. Quản lý và thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn được xem là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp. Với hơn 50. 000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau, trải rộng trên địa bàn cả nước, hầu hết là nhỏ lẻ, phần giá trị tăng thêm tuy không lớn lắm nhưng công tác quản lý thì lại vô cùng phức tạp. Để thực hiện được nhiệm vụ quản lý thu thuế ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt kết quả tốt, Tổng Cục Thuế chỉ đạo các Cục thuế ở các tỉnh, thành phố thực hiện các biện pháp quản lý như: rà soát các doanh nghiệp trên địa bàn, đôn đốc các đối tượng nộp thuế thực hiện tốt việc kê khai và nộp thuế theo thông báo thuế, tăng cường kiểm tra đối với việc kê khai và tính thuế của đơn vị, kiểm tra đối chiếu hoá đơn, chứng từ đối với các đơn vị được hoàn thuế ...
Nhìn chung các doanh nghiệp chấp hành tương đối tốt việc kê khai và nộp Ngân sách đúng thời gian quy định, chế độ hoá đơn, chứng từ và kê khai sát với hoạt động kinh doanh thực tế. Do vậy đã hạn chế được tình trạng nợ đọng thuế triền miên so với trước đây.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do có đặc điểm là mang tính tư hữu về tư liệu sản xuất, hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh mang tính tự chủ cao, tự tìm hiểu nguồn lực, vốn, sức lao động, quyết định từ quy trình sản xuất kinh doanh, đến phân phối tiêu thụ sản phẩm. Do doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất nhạy bén, linh hoạt trong kinh doanh và với mục đích chính là lợi nhuận; cho nên nó cũng bộc lộ hạn chế như: kinh doanh trái phép, làm hàng giả, tìm mọi cách trốn lậu thuế như luôn tìm mọi cách để trốn lậu thuế như bán hàng không xuất hoá đơn, in và sử dụng hoá đơn giả, ghi doanh thu trên liên một và liên hai khác nhau ...
Họ luôn tâm niệm rằng đóng thuế cho Nhà nước là móc tiền túi ra để nộp, là khoản làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận, không trốn thuế thì không có lợi nhuận... Nắm bắt được những khó khăn trong công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cơ quan thuế trong quá trình thực hiện đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm và các giải pháp hợp lý. Như trước đây hiện tượng mua, bán hoá đơn rất nhộn nhịp giữa các đơn vị để chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước rất khó kiểm soát...Do vậy, để ngăn chặn việc mua, bán hoá đơn, lợi dụng hoá đơn trong việc kê khai khống thuế để tiền thuế của Nhà nước, vừa qua Bộ Tài chính có thực hiện chủ trương đóng dấu tên, địa chỉ, mã số thuế vào hoá đơn trước khi mang ra khỏi cơ quan thuế. Đây là giải pháp bất đắc dĩ nhằm ràng buộc các doanh nghiệp, hạn chế việc mua đi, bán lại hoá đơn.
Trong quá trình thực hiện thấy một số vướng mắc trong việc hoàn thuế giá trị gia tăng như thủ tục hoàn thuế còn rườm ra, thời gian qua dài để khắc phục nhược điểm trên đã đưa ra chủ trương “ hoàn thuế trước, kiểm tra sau “ nhằm đẩy nhanh nhịp độ hoàn thuế.
Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực công tác gặp nhiều khó khăn mang tính thời sự nóng bỏng cần có các giải pháp khắc có phục hiệu quả như: làm sao có thể kiểm tra, đối chiếu bảng kê mua hàng nông lâm, thuỷ sản của người sản xuất trực tiếp có hiệu quả cao; kiểm tra, đối chiếu giữa liên một và liên hai hoá đơn mua và bán hàng...
Chương 2.
Thực Trạng Quản Lý THU Thuế giá trị gia tăng Đối Với Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh nghệ an.
I. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm qua.
Nghệ An là một tỉnh phía Bắc Miền Trung: phía bắc giáp tỉnh Thanh Hoá - một tỉnh đang từng bước đi lên vững chắc trong sự nghiệp phát triển kinh tế với nhiều khu công nghiệp mới và đang xây dựng; phía Nam tiếp giáp với tỉnh Hà Tĩnh - tỉnh có đặc điểm và hoàn cảnh gần giống với Nghệ An đang trong tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển; phía Tây giáp với Lào có cửa khẩu Nậm Cắn với hệ thống đường bộ xương sống là Quốc lộ 7 mở ra cơ hội thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá giữa Nghệ An và nước bạn Lào; phía Đông có hải cảng Cửa Lò, cảng sông Bến Thuỷ, từ đây những chuyến tàu ra vào cập bến như bàn tay xoè rộng nối liền sự hợp tác kinh tế, văn hoá với bạn bè khắp Năm châu, mở ra triển vọng lớn trong sự phát triển kinh tế của Nghệ An.
Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo của cả nước, thu Ngân sách của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn do tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, thu nhập trên đầu người thấp, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tổng sản phẩm, công nghiệp chưa phát triển, lại thiếu những doanh nghiệp có số vốn, nộp Ngân sách lớn, nguồn thu giảm do thực hiện chính sách thu mới ... những khó khăn đó ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn và số thu của ngành thuế. Kinh tế ngoài quốc doanh mà trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển chậm, đời sống nhân dân nhìn chung còn rất thấp.
Tuy số thu ở tỉnh Nghệ An qua từng năm tăng rất lớn, trung bình tăng từ 30 – 45%, đây là một tốc độ tăng vào loại nhanh nhất nước, tuy nhiên nền kinh tế của tỉnh có xuất phát điểm thấp nên số thu tuyệt đối tăng lên không tương ứng so với các tỉnh và mức bình quân chung của cả nước. Từ những nguyên nhân trên và do nhu cầu chi tiêu tăng lên nên cân đối Ngân sách của tỉnh Nghệ An hiện nay vẫn là một cân đối thiếu hụt, hàng năm Trung ương vẫn phải trợ cấp trên 50% tổng số chi.
Mục tiêu của Nghệ An là phải phấn đấu để đạt được sự cân đối thu chi lành mạnh với phương châm: coi trọng phát triển nguồn thu trong Tỉnh, nguồn trợ cấp của Trung Ương phải giảm dần và về lâu dài nguồn thu này chỉ nên dành cho các chương trình phát triển lớn, tiến tới khắc phục tình trạng bị động và phụ thuộc vào nguồn trợ cấp của Trung Ương.
Theo số liệu của Cục thống kê hiện nay tổng số nguồn thu động viên vào Ngân dách ở tỉnh chỉ đạt 10% GDP; đây là một tỷ lệ quá thấp so với mức bình quân chung của cả nước là 20% - 22%. Để mức động viên này tăng lên cần phải phát triển kinh tế và tăng cường công tác quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh.
II. Khái quát về tình hình thu thuế trên địa bàn tỉnh Nghệ An quản lý
Trong những năm gần đây, Cục thuế Nghệ An hoàn thành tương đối tốt công tác quản lý thu thuế trên địa bàn. Để đánh giá đúng mức thành tích đạt được cũng như những hạn chế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của toàn cục nói chung và bộ phận thu thuế doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng tiến hành phân tích tình hình quản lý và kết quả cụ thể trong công tác quản lý thu thuế năm 2001 như sau:
Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước:
Kết quả năm 2001 đã thu được 139,4 tỷ đồng đạt 120% so với dự toán Trung Ương, đạt 115% dự toán của tỉnh và tăng 19% so với thực hiện năm 2000. Trong đó thu từ doanh nghiệp Trung Ương đạt từ 138% dự toán tỉnh và thu từ doanh nghiệp địa phương đạt 95%.
Nhìn chung qua ba năm thực hiện các luật thuế mới, các doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến tích cực, từ việc kê khai, nộp thuế, sử dụng hoá đơn, chứng từ đến công tác hoạch toán kế toán đều có tiến bộ. Trong công tác quản lý thu thuế, các phòng quản lý đã tổ chức tập huấn cho giám đốc, kế toán trưởng của tất cả các doanh nghiệp do phòng mình quản lý về chính sách thu khi có sửa đổi, bổ sung, đồng thời tiến hành kiểm tra hồ sơ, thủ tục miễn, giảm và hoàn thuế nhanh chóng.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại như một số đơn vị chấp hành chế độ báo cáo chưa nghiêm, đặc biệt là quyết toán thuế. Còn nhiều doanh nghiệp sử dụng hoá đơn không hợp pháp, hoá đơn giữa các liên một và liên hai chênh lệch nhau lớn ...
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Kết quả thu năm 2001 từ khu vực này được 29.500 triệu đồng, đạt 399% so với dự toán. Là một năm đạt số thu cao nhất từ trước đến nay, nguyên nhân là do năm nay chính sách thay đổi khấu trừ thuế đầu vào của cây mía giảm từ 5% xuống 2%, mặt khác sản lượng đường và giá._. về quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được phân công quản lý, hàng tháng phải tập hợp kết quả thu, phân tích đánh giá nguyên nhân và đề xuất giải pháp chấn chỉnh những tồn tại báo cáo lãnh đạo Cục trực tiếp phụ trách. Phân công các phó trưởng phòng phụ trách từng công việc,từng phó trưởng phòng chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về phần việc được gia, phải chỉ đạo cán bộ thực hiện đúng các quy trình và giải pháp của Tổng Cục đề ra. Nếu kiểm tra cán bộ không thực hiện đúng thì phó trưởng phòng phải tự chịu trách nhiệm.
3. Đẩy mạnh công tác tuyền truyền thuế sâu rộng hơn nữa.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc các đối tượng nộp thuế vi phạm luật thuế là do họ chưa hiểu hoặc không nắm bắt hết tinh thần của luật thuế, dẫn đến vi phạm trong quá trình thực hiện. Do vậy cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền thuế, hướng dẫn luật và các văn bản dưới luật đến tận cơ sở sản xuất kinh doanh, vì cơ sở sản xuất kinh doanh vừa là nơi tiếp thu vừa thực hiện luật, chủ động kê khai sử dụng hoá đơn.
Trước hết, cơ quan thuế phải phân tích điều tra xem đối tượng nộp thuế có những vường mắc gì, từ đó tổ chức đáp ứng giữa hai kênh: dịch vụ công và dịch vụ độc lập, đảm bảo cho các đối tượng nộp thuế hiểu thấu đáo chính sách thuế, biết ghi chép, kê khai, tính thuế, quyết toán thuế đúng chính sách và nộp thuế đúng, đủ, kịp thời cho Nhà nước. Phối hợp giữa ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng như: báo, đài phát thanh, truyền hình, các tổ chức đoàn thể xã hội trong tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả hơn chúng ta cần tập trung vào những nội dung và áp dụng các phương thức sau:
+ Nghành thuế cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các báo đài Trung ương và địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền nội dung các văn bản pháp luật thuế, các chinh sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng, in các chính sách thuế, nội dung và ý nghĩa của mỗi sắc thuế … với nội dung ngắn gọn và dễ hiểu để các doanh nghiệp cũng như nhân dân nắm được chương trình cải cách thuế, chế độ thu thuế trong thời gian từng giai đoạn.
+ Xây dựng kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền ngắn, trung và dài hạn.
+ Xây dựng cho được đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền mạnh về số lượng và trình độ. Tập trung đào tạo nâng cao một bước căn bản cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền bằng việc đào tạo bổ sung các kiến thức thiếu hụt như: Kỹ năng viết, kiến thức về thuế, kinh tế - tài chính ... để mỗi cán bộ có thể đảm đương được việc in ấn, phát hành một tài liệu tuyên truyền.
+ Mở các dịch vụ tư vấn thuế đối với đối tượng nào cần tham mưu.
+ Cục thuế tăng cường đối thoại với doanh nghiệp để kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp từ đó có biện pháp giải quyết trong phạm vi thẩm quyền của mình.
+ Ngành thuế nên tiếp tục tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân về thuế giá trị gia tăng, xây dựng nề nếp và thói quen sử dụng hoá đơn trong việc mua bán hàng hoá, giáo dục ý thức tố giác các hành vi trốn thuế của các đối tượng nộp thuế.
. Việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng của Nhà nước có đầy đủ, nghiêm túc hay không; Nhà nước có quản lý thu thuế được hay không thì vai trò quản lý của quần chúng nhân dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi áp dụng luật thuế giá trị gia tăng thì khách hàng (người tiêu dùng) là người chịu thuế, người bán hàng là người nộp thuế thay cho khách hàng. Như vậy, thuế giá trị gia tăng có quản lý và nộp đầy đủ cho Ngân sách Nhà nước liên quan đến việc đòi hoá đơn bán hàng hợp pháp của người mua hàng cho tiêu dùng hàng ngày, cho sản xuất, cho kinh doanh; nếu người mua hàng không đòi hoá đơn hợp pháp thì Nhà nước sẽ không những không quản lý và thu được số thuế giá trị gia tăng mà người mua hàng đã trả cho Nhà nước. Trong trường hợp này người bán hàng vừa chiếm đoạt số thuế giá trị gia tăng và trốn được cả thuế thu nhập doanh nghiệp của Nhà nước. Nhà nước đã mất cả thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Do vậy, việc đòi hoá đơn hợp pháp khi mua hàng là một yêu cầu bắt buộc của mỗi khách hàng, dù là mua hàng tiêu dùng cá nhân, tập thể, xí nghiệp, đơn vị đều có ý nghĩa trong chấp hành luật thuế góp phần chống thất thu thuế cho Ngân sách Nhà nước thiết lập kỹ cương trong công tác quản lý hành chính, lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội. Đây là quyền lợi thiết thực của toàn dân, đòi hoá đơn bán hàng là quyền lợi của người mua hàng ( người tiêu dùng), nó là chứng từ để bảo đảm chất lượng hàng hóa và chứng từ để bảo hành hàng hoá.
Nhằm khuyến khích khách hàng mua hàng đòi hoá đơn với nội dung đầy đủ, chinh xác và lưu giữ chứng từ, cung cấp cho cán bộ thuế khi có yêu cầu; ở một số nước có chế độ tuần kỳ quay số trúng thưởng đối với hoá đơn mua hàng. Thiết nghĩ đây cũng là một kinh nghiệm hay cần tham khảo, vận dụng thích hợp vào điều kiện nước ta nhăm góp phần nâng cao ý thức tự giác trong việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn chứng từ.
4. Tin học hoá công tác quản lý thu thuế.
Đẩy mạnh công tác quản lý thuế giá trị gia tăng trên máy vi tính nhằm ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thu thuế theo hướng hiện đại, hiệu quả và tiết kiệm; với ba nội dung trọng tâm của chương trình là: tin học hoá quản lý về đối tượng nộp thuế, tin học hoá công tác quản lý thu thuế và tin học hoá phân tích số liệu thống kê thuế phù hợp với mỗi sắc thuế.
Theo số liệu thống kê của Tổng Cục thuế, trên phạm vi cả nước sổ trường hợp mất hoá đơn tương đối lớn. Nếu chỉ một hoá đơn bị mất mà bị lợi dụng thì thiệt hại cho Ngân sách đã không thể tính được. Một trong những biện pháp ngăn chặn việc lợi dụng hoá đơn là thông báo các số hoá đơn không còn giá trị trên phạm vi cả nước... Tuy nhiên, trong thực tế biện pháp này còn nhiều bất cập. Nếu một trường hợp nào đó mất hoá đơn thì phải thông báo cho Tổng Cục thuế, Cục thuế 61 tỉnh, thành phố trong cả nước, các chi Cục thuế, các cơ quan ban ngành chức năng ..., tính sơ bộ số lượng phát hành của mỗi thông báo trên 80 bản, mỗi thông báo khi đến đơn vị lại được nhân lên hai, ba lần nữa. Nếu tính trên phạm vi cả nước thì các số lượng các thông báo loại này đã góp phần làm tăng lên đáng kể khối kượng văn bản được lưu giữ tại cơ quan. Với khối lượng đó kinh phí giấy mực kinh phí bưu điện dành cho công tác này hàng năm không nhỏ vì số thông báo rất nhiều.
Nhưng các thông báo đó có phát huy tác dụng trong việc ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi lợi dụng để trốn thuế không? Thực tế, viêc sử dụng các thông tin từ thông báo để phát hiện các hành vi lợi dụng, gian lận trốn thuế rất hy hữu. Có chăng chỉ là một số trường hợp sử dụng hoá đơn, chứng từ không còn giá trị sử dụng ngay gần thời điểm phát hành thông báo, còn sau một thời gian khả năng này hầu như không có vì việc tra cứu các thông báo đã được lưu trữ để kiểm tra, đối chiếu với các hoá đơn chứng từ nghi vấn tại hầu hết các cơ quan thuế hiện nay chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp thủ công rất tốn thời gian, công sức mà hiệu quả không cao; với số lượng hoá đơn, chứng từ cần đối chiếu lớn như vậy cùng thời gian hoàn thuế tương đối ngắn thì những hoá đơn, chứng từ đã được đối chiếu chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số hoá đơn, chứng từ cần được đối chiếu.
Ngoài việc lợi dụng các hóa đơn không còn giá trị sử dụng, nhiều đối tượng còn trốn thuế bằng cách ghi sai lệch các nội dung trên hoá đơn. Cho đến thời điểm hiện nay việc kiểm tra, đối chiếu hoá đơn đầu vào của các doanh nghiệp mua hàng hóa ngoài địa phương vẫn còn thực hiện bằng cách gửi công văn đề nghị các Cục thuế bạn hỗ trợ. Việc này cũng có nhiều bất cậpvà mất nhiều thời gian cho việc chờ kết quả xác minh. Mặt khác, các Cục thuế khi nhận được văn bản đề nghị này phải hình thành một bộ phận để xử lý công việc này mà các văn bản này không phải là ít. Một vấn đề đặt ra cho ngành thuế là làm thế nào để công tác xác minh hoá đơn nhanh hơn, giản tiện, chính xác hơn đỡ tốn kém hơn.
Trước thực trạng trên, để tăng cường công tác quản lý thu thuế, giải quyết các vấn đề nổi cộm hiện nay trong việc chống lợi dụng hoá đơn để trốn thuế ... ngành thuế cần sớm nghiên cứu, đưa chương trình ứng dụng máy ví tính vào công tác quản lý hoá đơn trên phạm vi cả nước. Trong đó, cùng với việc cập nhật các hoá đơn đầu vào, đầu ra trong tờ khai hàng tháng của doanh nghiệp nêu trên nên có phần nhập các thông tin về các hoá đơn không còn giá trị sử dụng; đồng thời có một chương trình tự động kiểm tra, đối chiếu để kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp lợi dụng hoá đơn để trốn thuế. Các hoá đơn bán ra của các doanh nghiệp được đưa lên mạng để Cục thuế các tỉnh, thành phố có thể tự kiểnm tra được mức độ chính xác của các hoá đơn tạo điều kiện cho viêc trao đổi thông tin và tóc độ làm việc nhanh hơn, kịp thời và chính xác hơn.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc kiểm tra đối chiếu hoá đơn, chứng từ và quản lý thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế nhất là thuế đã nộp, nợ đọng ... cần phải hoà mạng máy tính trong toàn ngành thuế nhưng phải bảo đảm an toàn bảo mật.
5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
Như chúng ta đã biết doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển mở rộng và đa dạng; việc giấu doanh thu, trốn lậu thuế trở nên tinh vi và nghiêm trọng hơn. Để thực hiện đúng luật thuế là phải thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào Ngân sách Nhà nước; vì vậy công tác thanh tra phải tăng cường hơn nữa để đạt hiệu quả cao nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và hạn chế thấp nhất thất thu thuế.
Với việc đối tượng nộp thuế tự kê khai, tính thuế và tự giác nộp thuế vào kho bạc Nhà nước đã nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế, Quy trình thu thuế này đã giảm tới mức tối thiểu mối quan hệ trực tiếp giữa cán bộ thuế với các đối tượng nộp thuế. Bằng cách đó, với lực lượng có hạn trong bộ máy quản lý thuế có thể tập trung vào việc kiểm tra,thanh tra phát hiện và xử lý những trường hợp vi phạm. Để có thể thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả trong cơ chế thu mới, Cục thuế Nghệ An cần thiết phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Tăng cường số lượng thanh tra viên lên khoảng 25% - 30% tổng cán bộ ngành. ở Cục thuế Nghệ An hiện nay số thanh tra còn quá mỏng chỉ xấp xỉ 19%, đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng có liên quan như: công an kinh tế, Viện kiểm sát…
+ Đẩy mạnh công tác thanh tra định kỳ đối với các doanh nghiệp, khi phát hiện thấy có trường hợp nghi vấn cần nhanh chóng triển khai công tác thanh tra. Thanh tra thường xuyên là cần thiết nhưng phải dựa trên những ăn cứ xác đáng, không được vin vào cớ thanh tra để quấy nhiễu làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Duy trì thường xuyên công tác thanh tra nội bộ ngành về việc chấp hành các quy định của luật thuế, các quy định của ngành ... và coi đây là công tác trọng tâm của ngành nhằm đưa công tác thu vào đúng quy trình quản lý, hạn chế thấp nhất sai sót trong tổ chức thực hiện các luật thuế và các quy định của ngành.
+ Xác minh và trả lời các thắc mắc của các doanh nghiệp theo thời gian quy định để từ đó các doanh nghiệp tin tưởng vào chính sách của Nhà nước và công tác quản lý thu thuế tạo được sự ủng hộ giúp đỡ của người dân như tố cáo các hành vi trốn lậu thuế ...
+ Trong quá trình thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện thấy có trường hợp nào vi phạm cần phải xử lý nghiêm minh và kịp thời; đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng kiên quyết truy tố trước pháp luật để giáo dục răn đe các đối tượng khác.
Đẩy mạnh thanh tra còn để giúp các đơn vị tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ đề xuất giải quyết các chủ trương chính sách bất hợp lý nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện luật thuế.
6. Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan chức năng có liên quan trong công tác quản lý thu thuế.
Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan hữu quan có một vai trò quan trọng trong sự thành công của công tác quản lý thu thuế. Bởi công tác quản lý thu thuế là trách nhiệm chung của chính quyền các cấp, các ngành và của toàn dân chứ không chỉ riêng ngành thuế. Do đó, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu thuế, ngoài việc chất hành sự chỉ đạo cảu cơ quan chuyên môn, Cục thuế nhất thiết phải tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền các cấp, sự kiểm tra giám sát của các tổ chức quần chúng, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành chức năng, nhất là các ngành nội chính như: Công an, Quản lý thị trường, Viện kiểm sát, Toà án, Ngân hàng, Kho bạc, Sở Kế hoạch Đầu tư, ...
Trong những năm qua, các ngành các cấp chính quyền từ xã phường,đến quận, huyện, thành, các tổ chức xã hội chưa quan tâm đến vấn đề quản lý thu thuế nhiều, coi quản lý thu thuế là nhiệm vụ của ngành thuế. Các ngành, các cấp luôn phải coi nhiệm vụ thu Ngân sách là trách nhiệm chung chứ không chỉ riêng ngành thuế và chuyển nó thành những hành động cụ thể. Như mỗi cán bộ, đảng viên đều có nghĩa vụ trong việc cùng ngành thuế trực tiếp chỉ đạo thực hiện luật, chịu trách nhiệm về việc cơ sở trê địa bàn mình, đơn vị mình, gia đình mình không hoàn thành nhiệm vụ, nghĩa vụ nộp thuế. Phải có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo thu thuế nói chung và thuế giá trị gia tăng nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp của các cấp ,các ngành.
Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan công an để kiểm tra các trường hợp hoàn thuế nhất là các trường hợp xin hoàn thuế đối với hàng hoá xuất khẩu qua biên giới, phối hợp và xử lý kịp thời các trường hợp lập chứng từ khống, nhằm chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước, tăng tính nghiêm minh của pháp luật.
Cơ quan thuế phối hợp với Kho bạc tổ chức cho đối tượng kinh doanh nộp thuế trực tiếp qua kho bạc, tổ chức trao đổi thông tin để nắm bắt kịp thời tình hình thu nộp thuế, từ đó có thể nắm chắc số thuế còn nợ đọng và đưa ra các biện pháp thu hồi số nợ đọng này.
Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường đẩy mạnh kiểm tra việc chấp hành các quy định về đăng ký kinh doanh, về niêm yết giávà bán theo giá niêm yết, về lập hoá đơn chứng từ khi mua hàng hoá ... phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm làm căn cứ xử lý thuế, ấn định thuế.
Cơ quan thuế phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc xét cấp đăng ký kinh doanh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các trường hợp lợi dụng, rà soát lại các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, doanh nghiệp nghỉ kinh doanh ...để báo cáo UBND giải pháp xử lý thích hợp, ngăn chặn việc bán hoá đơn khống của các đối tượng ngừng, nghỉ kinh doanh. Lập hồ sơ đề nghị thu hồi giấy phép kinh doanh đối với doanh nghiệp nợ đọng thuế keo dài.
Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng để có thể lập lệnh thu tiền trên tài khoản các doanh nghiệp khi cần thiết.
Trong thời gian tới các ngành chức năng cần phối hợp, tập trung chỉ đạo để phát hiện ra những tổ chức in hoá đơn giả ... cơ quan hành pháp cần sớm đưa ra xét xử một số vụ án gian lận điển hình để ngăn chặn, răn đe.
Phần trên em đã trình bày một số giải pháp để tăng cường quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đây em xin đưa ra một số kiến nghị:
III. Một số kiến nghị.
1. Nhà nước cần chỉnh sửa một số điều khoản trong luật thuế.
Yêu cầu và mục tiêu sửa đổi luật thuế giá trị gia tăng là góp phần khắc phục những tồn tại hiện nay để luật thuế giá trị gia tăng thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư đối với xuất khẩu.
- Vấn đề khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:
+ Nên chăng bỏ chế độ khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng đầu vào trong trường hợp không có hoá đơn: Xuất phát từ mục tiêu hỗ trợ bà con nông dân tiêu thụ nông sản, thực phẩm đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ quy định đối với các trường hợp thu mua nông sản của người dân trực tiếp sản xuất bán ra không có hoá đơn nhưng có bảng kê thì được khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng theo tỷ lệ 2%. Thực chất đó là khoản trợ giá của Nhà nước đối với hàng nông sản, thực phẩm của nông dân, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người kinh doanh trong việc mua hàng của nông dân – những người bán hàng không có hoá đơn - để tránh việc các doanh nghiệp mua hàng ép giá của người bán, từ đó khuyến khích sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản. Nhưng trên thực tế, khi các doanh nghiệp mua hàng họ vẫn mua theo giá thị trường, người nông dân không thấy được mình được hưởng lợi ở chỗ nào hay nói cách khác, không thấy mình được hưởng lợi trực tiếp từ việc khấu trừ ấy. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận, do có chính sách khấu trừ nên các doanh nghiệp chấp nhận mua với giá như hiện nay mà không thấp hơn và đối với người làm ăn chân chính thì mức khấu trừ sẽ hỗ trợ phần thiệt thòi của doanh nghiệp so với thuế doanh thu trước đây. Nhưng rõ ràng cơ chế này đã bị nhiều cơ sở kinh doanh lơi dụng để moi tiền của Nhà nước. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu thường ít hoặc không mua trực tiếp hàng nông sản của nông dân mà thu mua qua các nhà buôn còn bảng kê chỉ là hình thức, người nông dân không được hưởng gì từ chính sách khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng của Nhà nước. Vì vậy, cần bãi bỏ khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng để hạn chế, loại bỏ cá trường hợp lợi dụng kẻ hở của pháp luật trốn lậu thuế của Nhà nước. Mà việc cho khấu trừ thuế theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng không có hoá đơn giá trị gia tăng ( 2%đối với hàng nông lâm thuỷ sản không có hoá đơn mua của người sản xuất trực tiếp ), thực chất là hình thức trợ giá của Nhà nước đối với một số mặt hàng. Nó chỉ phát huy tác dụng trong thời gian đầu triển khai luật thuế giá trị gia tăng. Trong một vài năm tới, cùng với sự ổn định cua nền kinh tế ở nước ta thì biện pháp này sẽ không còn phù hợp và điều tất yếu là vòng tay bảo hộ của Nhà nước sẽ từng bước buông lỏng, trên cơ sở phát huy nội lực tối đa của cơ sở kinh doanh. Đồng thời trả lại tính trung lập của thuế giá trị gia tăng và các luật thuế mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, thực sự phát huy hết tác dụng là công cụ quản lý nền kinh tế vĩ mô. đòi hỏi phải có bước chuyển biến để thu hẹp dần hướng tới xoá bỏ dần diện khấu trừ thuế đối với mọi trường hợp không có hoá đơn, chứng từ; đưa việc hạch toán kinh tế của cơ sở sản xuất kinh doanh vào nề nếp tạo điều kiện tự chủ cho doanh nghiệp nâng công tác hạch toán nhằm kinh doanh có hiệu quả và nộp đủ thuế , đảm bảo công bằng xã hội. Và hơn nữa trên thực tế doanh nghiệp có kinh doanh những mặt hàng xuất khẩu thường ít hoặc không mua trực tiếp hàng nông sản của nông dân mà thu mua qua các nhà buôn còn bẳng kê chỉ là hình thức; do đó giải pháp bãi bỏ khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng là hợp lý.
+ Theo quy định của pháp luật hiên hành thì hàng hoá mua của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp trực tiếp được khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng đầu vào, nếu hàng hoá đó được bán ta trong nước và quy định không áp dụng đối với trường hợp hàng hoá xuất khẩu. Như vậy không phù hợp với chính sách xuất khẩu của Nhà nước; theo tôi Nhà nước nên khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ (%) bằng hoặc cao hơn tỷ lệ khấu trừ hiện hành đối với hàng hoá tiêu thụ trong nước nhằm khuyến khích xuất khẩu và tạo sự công bằng hơn.
+ Để khuyến khích các đơn vị trong việc sử dụng hoá đơn, chứng từ nên quy định: khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào có hoá đơn bán hàng còn nếu không có hoá đơn bán hàng thì không được khấu trừ.
- Về thuế suất thuế giá trị gia tăng: Như phần trên đã phân tích do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ nên một sắc thuế có thể hiểu nhiều cách khác nhau đã làm giảm tính pháp lý cao của pháp luật. Như căn cứ tính thuế chủ yếu dựa vào định tính của sản phẩm để phân biệt các mức thuế suất khác nhau. Ví dụ: căn cứ vào đâu để phân biệt hoá chất cơ bản và hoá chất thông thường, kinh doanh ăn uống bình dân và cao cấp để áp dụng mức thuế suất 5% hay 10%, chênh lệch thuế suất lớn như vậy nên nhiều đối tượng nộp thuế lợi dụng kẽ hở của pháp luật để lách thuế. Do đó theo tôi để phân biệt các mức thuế suất khác nhau chúng ta nên căn cứ vào định lượng của sản phẩm chứ không phải định tính như hiện nay.
Thuế suất là linh hồn của mỗi sắc thuế; trong kinh tế thị trường, với đường lối mở cửa để hội nhập, thuế suất không chỉ làm nhiệm vụ động viên tích luỹ vào Ngân sách Nhà nước, mà còn giúp cho doanh nghiệp định hướng đầu tư, chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh, để từmg bước chiếm lĩnh thị trường trong nước, hướng ra xuất khẩu. Thuế suất quyết định mức thuế thu nộp nhiều hay ít, một mức thuế suất hợp lý mới có tác dụng kích cầu và cung.
Một sắc thuế có nhiều thuế suất dẫn đến hạn chế trong việc tính toán thu nộp thuế rất phức tạp. Để cân nhắc, đánh giá, sắp xếp một hàng hóa của một ngành nào đó vào mức thuế suất cụ thể thật không đơn giản. Vì thế, nó có thể tạo ra kẽ hở cho việc tránh thuế, kê khai sai mặt hàng ... gây ra thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta mở cửa để hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế, theo thông lệ chung, cần thiết phải sử dụng hệ thống chính sách thuế ít thuế suất. Điều này đặt ra cho từng doanh nghiệp phải tự điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh để làm tròn nhiệm vụ nộp thuế cho Nhà nước, mà còn thu được lợi nhuận bình quân xã hội. Xây dựng chính sách thuế ít mức thuế suất sẽ đơn giản cho công tác quản lý và thi hành. Việc nghiên cứu, áp dụng ít mức thuế suất có rất nhiều ưu điểm, tạo ra tiên đề đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải tự đổi mới về mọi mặt để có thể phát triển và thích nghi với những yêu cầu hiện tại và tương lai.
+ Giảm số lượng thuế suất chỉ còn 2 mức ( trừ thuế suát 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu): Thuế giá trị gia tăng đang áp dụng 4 mức thuế suất : 0%; 5%; 10% và 20%. Việc thay thế 11 mức thuế suất thuế doanh thu bằng 4 mức thuế suất thuế giá trị gia tăng trong thời gian đầu là việc làm thận trọng hợp lý, tránh những biến động lớn đảm bảo sự bình ổn và phát triển kinh tế. Đây chỉ là các quy định tình thế; trước mắt trong thời gian tới chúng ta chỉ nên áp dụng các mức thuế suất: 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; 5% đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; những mặt hàng còn lại là 10%; bỏ thuế suất 20%. Đối với một số hàng hoá, dịch vụ cần thiết phải đánh thuế suất cao, cần nghiên cứu để chuyển sang nhóm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để nâng cao tính trung lập của thuế giá trị gia tăng.
- Về hoàn thuế giá trị gia tăng: trong thời gian tới khi luật thuế giá trị gia tăng đang từng bước hoàn thiện để tránh gian lận trong việc kê khai khống để hoàn thuế nên giảm bớt số đối tượng được thực hiện hoàn thuế. Chỉ tập trung hoàn cho các doanh nghiệp tổ chức hạch toán đầy đủ, chính xác, xuất - nhập khẩu chính ngạch, thực hiện thanh toán qua ngân hàng và một số dự án đầu tư xây dựng có số thuế đầu vào lớn.
-Về hoá đơn, chứng từ: khuyến khích sử dụng hoá đơn tự in.
2. Thành lập các trung tâm tư vấn thuế .
Cơ sở tạo nên nhu cầu tư vấn thuế xuất phát từ đối tượng nộp thuế, từ hệ thống pháp luật và từ chính các cơ quan thuế. Số lượng lớn các đối tượng nộp thuế tạo nên nhu cầu không nhỏ đối với dịch vụ tư vấn thuế.
Hiện nay, cả nước có hơn 5.700 doanh nghiệp Nhà nước, trên 50.000 doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần ( trong đó có khoảng 15.000 doanh nghiệp được thành lập mới theo luật doanh nghiệp), hơn 1.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trên 1,2 triệu hộ kinh doanh đang tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước. Ngoài việc tạo ra sản phẩm hàng hoá phục vụ nhu cầu xã hội, tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, họ còn có nghĩa vụ phải đóng góp cho Ngân sách Nhà nước từ đó tạo nên nhu cầu về tư vấn thuế rất lớn.
Mặc dù hiện nay pháp luật về thuế đang ngày càng được hoàn chỉnh, quy trình ngày càng cải tiến theo hướng đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế vào Kho bạc. Nhưng không phải tất cả các đối tượng nộp thuế đều nắm chắc và hiểu biết đầy đủ về pháp luật thuế để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Hơn nữa các sắc thuế mới được áp dụng ở nước ta như thuế giá trị gia tăng còn là vấn đề bỡ ngỡ, gây lúng túng cho nhiều doanh nghiệp; thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện cũng được các doanh nghiệp cho là không ít phức tạp. Công tác tư vấn thuế trở thành yêu cầu khách quan đối với đối tượng nộp thuế.
Đồng thời tư vấn thuế chính là một chức năng cơ bản của cơ quan thuế nhằm tăng cường ý thức tự giác, tự nguyện chấp hành các luật thuế của đối tượng nộp thuế, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và các khoản thu khác vào Ngân sách Nhà nước. Cơ quan thuế phải tiến hành công tác tuyên truyền, giải thích các luật thuế, giải đáp vướng mắc cho các đối tượng nộp thuế. Sự phát triển của tư vấn thuế sẽ góp phần giảm nhân viên ngành thuế và chính là một phần của công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế.
ở các nước trên thế giới dịch vụ tư vấn thuế rất phát triển và qua thực tế nó đã góp phần giảm biên chế trong ngành thuế nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế. Như ở Nhật Bản, từ năm 1950 đến nay, số nhân viên ngành thuế không những không tăng mà còn giảm ( năm 1995 là 57.000 người so với 62.000 người năm 1950); trong khi ở nước ta, số nhân viên thuế ngày càng lớn, nhưng hiệu quả thực hiện công tác thuế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. ở nước ta dịch vụ này còn rất đơn lẻ, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ... song hình thức tư vấn tư chưa được phát triển thành các tổ chức nên có rất ít đối tượng tiếp cận được loại hình này. Do đó, thúc đẩy tư vấn thuế trong điều kiện hiện nay đang trở thành một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, trên nhiều mặt : thể chế hoá bằng văn bản, các dịch vụ tư vấn thuế; khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các tổ chức tư vấn thuế tư; hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho các chuyên gia, cán bộ làm công tác tư vấn thuế.
Các trung tâm này giải đáp mọi vướng mắc của các đối tượng nộp thuế về: tính thuế, thuế suất, điều kiện hoàn thuế, thủ tục đăng ký khai nộp thuế ... cho các đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn thuế. Trong đó, trung tâm tư vấn thuế công trực thuộc Cục thuế, chi Cục thuế tư vấn các chế độ chính sách về thuế mang tính chất chung như: tư vấn về kế toán thuế cho đối tượng nộp thuế, các chế độ chính sách mới ban hành liên quan đến nhiều ngành nghề kinh doanh, thủ tục kê khai nộp thuế, các hoá đơn chứng từ liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu ... để các đối tượng này làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và dịch vụ này tư vấn không thu phí. Còn trung tâm dịch vụ tư vấn tư cung cấp mọi dịch vụ liên quan đến thuế theo yêu cầu của khách hàng và có thu phí. Thành lập các trung tâm này giúp các đối tượng hiểu biết về luật thuế rõ hơn, nhằm mở rộng kênh thông tin hỗ trợ pháp luật cho hoạt động của doanh nghiệp giúp họ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật hơn từ đó làm giảm công tác đôn đốc nộp thuế, giảm chi phí thu thuế, giảm các đơn kiện xuất phát từ sự hiểu biết kém về luật thuế.
Kết luận
Công cuộc cải cách thuế bước II với sự ra đời của luật thuế giá trị gia tăng là một bước tiến vượt bậc so với thuế doanh thu trước đây góp phần đưa nước ta hội nhập
về kinh tế, nhất là trong lĩnh vực thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua hơn ba năm thực hiện, luật thuế giá trị gia tăng đã thực sự phát huy tác dụng tích cực trên các mặt tài chính - kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện gặp không ít khó khăn, vướng mắc ở chính ngay bản thân luật thuế và do các điều kiện khách quan mang đến như điều kiện về kinh tế xã hội ... đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn được xem là mặt trận “ nóng bỏng “ xuất phát từ đặc điểm của loại hình kinh doanh này. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An mặc dù tỷ trọng thu thuế cuả thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm rất nhỏ trong tổng số thu ( 13% ) và chiếm 9% về số thuế giá trị gia tăng thu được, nhưng số cán bộ thuế ngoài quốc doanh lại chiếm hơn 80% tổng số cán bộ của toàn ngành. Nguồn thu này trong những năm qua chưa tương xứng với mức độ và quy mô phát triển sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính vì vậy đề tài: “ Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Tỉnh Nghệ An “ rất thiết thực, hứng thú đồng thời cũng khá phức tạp.
Với nội dung phân tích ở từng chương, tác giả luận văn đã cố gắng hệ thống hoá một số vấn đề mang tính lý luận cơ bản như: khái niệm thuế, thuế giá trị gia tăng; đặc điểm, vai trò, vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế, quy trình quản lý thu thuế, các nhân tố tác động tới hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng… ; cũng như làm rõ thực trạng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh do Cục thuế Nghệ An quản lý. Luận văn đã thẳng thắn nêu ra những vướng mắc, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị góp phần khắc phục những hạn chế đó nhằm tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên điạ bàn tỉnh Nghệ An.
Đây là vấn đề mới mẻ và phức tạp, hơn nữa với thời gian và trình độ có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Kính mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cán bộ thuế và các bạn quan tâm để tác giả có nhiều kiến thức chuyên môn khi ra trường và để luận văn hoàn thiện hơn, có tính khả thi hơn.
Tài liệu tham khảo
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2000 - 2010.
Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn chi tiết luật thuế giá trị gia tăng.
Giáo trình thuế - Trường Đại học Tài chính.
Luận văn tốt nghiệp.
Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2000, 2001.
Báo cáo tình hình thu nộp thuế năm 2000, 2001.
Thời báo kinh tế.
Tạp chí thuế và Nhà nước.
Tạp chí tài chính.
Tạp chí thông tin tài chính.
Tạp chí kế toán.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Họ và tên giáo viên hướng dẫn:
Chức vụ :
Nhận xét luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị An:
Điểm: - Bằng số :
- Bằng chữ: Người nhận xét
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33879.doc