Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh

Lời mở đầu Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Và là vấn đề đại cục của mỗi Quốc gia, đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện cải cách thuế bước hai. Điểm nổi bật của cuộc cải cách này là thay thế luật thuế doanh thu bằng luật thuế giá trị gia tăng được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX, có hiệu lực thi hà

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh từ ngày 01/01/1999. Sự ra đời của luật thuế giá trị gia tăng được xem là một bước ngoặc có tính đột phá trong công tác quản lý thu thuế và đã thể hiện được sự mạnh dạn, đương lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước. Những năm gần đây, số lượng các doanh nghiệp, số lượng đăng ký tăng gấp nhiều lần đã tạo số thu lớn trong số thu ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực thất thu lớn và gian lận thuế diễn ra khá phổ biến. Điển hình là thuế giá trị gia tăng trong đó: Tình trạng sử dụng hoá đơn giả, khai khống hoá đơn đầu vào để xin hoàn thuế, ghi giá trên hoá đơn thấp hơn giá thực tế... đang là vấn đề mang tính thời sự hiện nay. Để khắc phục được những hạn chế trên thì cần thiết phải tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với loại hình doanh nghiệp này. Hà Tĩnh là một tình nhỏ, kể từ khi có luật doanh nghiệp và đặc biệt là từ khi có luật thuế mới ra đời đã có hơn 300 doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập, góp phần không nhỏ và sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Thời gian qua, Cục thuế Hà Tĩnh đã đạt được khá nhiều kết quả tốt trong công tác quản lý thu thuế đối với khu vực doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, trong công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Cục thuế Hà Tĩnh cũng gặp khá nhiều khó khăn. Điển hình là công tác quản lý hoá đơn chứng từ và sổ sách kế toán, phát hiện ra một số hiện tượng tiêu cực, các sai phạm chủ yếu xuất phát từ trình độ kém hiểu biết về luật của doanh nghiệp, số khác thì “ quá ” hiểu biết đến độ tìm mọi kẻ hở để trốn, tránh thuế, thành lập các công ty “ ma ” để xin hoàn thuế khống... Vì những vấn đề bức xúc đó và qua quá trình thực tập tại Cục thuế Hà Tĩnh với những kiến thức đã học được cùng với sự giúp đỡ của thầy giáo, các cô chú và anh chị trong phòng quản lý thu thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – Cục thuế Hà Tĩnh, em đã nghiên cứu và tìm hiểu để đi đến lựa chọn đề tài “Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh ” làm đề tài của chuyên đề tốt nghiệp. Với mục đích, tìm hiểu thực trạng công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh và đánh giá những mặt được, những mặt còn hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý để từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Trên cơ sở đó, bố cục của chuyên đề được trình bày theo 3 phần như sau: Phần I: Lý luận chung về thuế giá trị gia tăng Phần II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Phần III: Một số giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Phần I Lý luận chung về thuế GTGT 1. Một số nội dung cơ bản của luật thuế GTGT 1.1. Khái niệm về thuế GTGT Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu, được nghiên cứu từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) và chính thức được áp dụng đầu tiên tại nước Pháp vào ngày 1 tháng 7 năm 1954. Khai sinh từ nước Pháp, thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay, đã có trên 120 nước áp dụng thuế GTGT, chủ yếu là các nước châu Phi, châu Mỹ Latinh, các nước trong khối cộng đồng châu Âu và một số nước châu á. Thuế GTGT tiếng Anh là Value Added Tax (VAT), tiếng Pháp là Taxe Sur la Valeur Ajoutée (TVA) là loại thuế được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Do thuế tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ nên đối tượng nộp thuế phải là các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có giá trị tăng thêm, nhưng thực chất phần thuế mà họ nộp là do người mua hàng hóa dịch vụ phải thanh toán. Vì vậy, thuế GTGT là thuế gián thu. Như vậy, thuế GTGT được hiểu: "Thuế GTGT là loại thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng". 1.2. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở nước ta Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, từ năm 1986, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển đổi cơ bản từ một nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu (kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu Nhà nước và kinh tế tập thể hợp tác xã), trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, sang một nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế. Theo đó, hệ thống chính sách thuế cũng có nhiều thay đổi. Trước năm 1986, để phù hợp với đường lối phát triển kinh tế lúc đó, Nhà nước ta đã thực hiện chính sách thuế ưu đãi có phân biệt theo thành phần kinh tế: khu vực kinh tế quốc doanh được ưu đãi nộp thuế với thuế suất thấp hơn khu vực kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tập thể được ưu đãi hơn khu vực kinh tế cá thể. Từ năm 1990 đến nay, hệ thống chính sách thuế đã có nhiều cải cách phù hợp với đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, cùng bình đẳng trong quá trình sản xuất - kinh doanh. Có thể nói, với hệ thống chính sách thuế bao gồm 9 sắc thuế áp dụng thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế, cho dù đó là kinh tế quốc doanh hay kinh tế tập thể; kinh tế cá thể hay kinh tế tư nhân, nếu hoạt động sản xuất - kinh doanh như nhau đều có nghĩa vụ nộp thuế giống nhau đã có những thành công đáng kể, đem lại cho đời sống kinh tế - xã hội nước ta những khởi sắc mới. Nền kinh tế đã thoát khỏi tình trạng lạm phát, tiến dần đến sự ổn định, tăng trưởng và ngày càng phát triển. Số thu thuế và phí ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu của ngân sách Nhà nước. Nguồn thu từ thuế và phí qua từng năm đã đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước và ngày càng tăng thêm phần tích lũy cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo cho đồng tiền ổn định, giá cả không có biến động lớn. Cũng trên cơ sở thực hiện một hệ thống chính sách thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, đã giúp cho các nhà quản lý thấy rõ khuyết tật của khu vực kinh tế quốc doanh. Cùng với việc thực hiện các chủ trương, biện pháp chấn chỉnh, sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh, tăng cường tổ chức quản lý, củng cố, nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), có giải pháp giải thể, cổ phần hóa những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, Nhà nước ta đã có những định hướng kịp thời, đúng đắn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng đầu tư đúng và ngày càng nâng cao hiệu quả đầu tư, từng bước khắc phục được hiện tượng lãi giả trong các DNNN; giải thể những cơ sở làm ăn thua lỗ triền miên, dành địa bàn thích đáng cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nhưng qua quá trình thực hiện, bên cạnh những mặt ưu điểm, hệ thống chính sách thuế này ít nhiều đã bộc lộ khuyết tật của nó. Thể hiện trong từng sắc thuế, ví dụ: Trong Luật thuế doanh thu, việc thu thuế còn trùng lắp. Theo quy định của Luật thuế doanh thu, đối tượng chịu thuế là toàn bộ số tiền thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, điều đó đã làm cho việc tính thuế, thu nộp thuế bị trùng lắp, thuế thu chồng lên thuế. Bên cạnh đó, hoạt động sản xuất - kinh doanh xuất khẩu chưa được xem xét ưu đãi đúng mức. Việc quy định quá nhiều thuế suất (11 mức thuế suất, thấp nhất là 0,5%, cao nhất là 30%) của Luật thuế doanh thu tạo cho đối tượng nộp thuế dễ lợi dụng để tính nộp thuế dưới mức nghĩa vụ quy định. Để khắc phục những mặt hạn chế nói trên của Luật thuế doanh thu, ngày 10-5-1997, kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX đã nhất trí thông qua Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) có hiệu lực thi hành từ 1-1-1999 thay cho Luật thuế doanh thu. Thuế GTGT được tính trên giá trị mới tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng mà không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu trước nên cách tính thuế GTGT rất khoa học và cần thiết đối với nhu cầu phát triển sản xuất, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế. Thuế GTGT có những ưu điểm nổi bật hơn so với thuế doanh thu là: - Tránh được hiện tượng đánh thuế chồng lên thuế, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường. - Thuế GTGT thuộc loại thuế đánh vào tiêu dùng, được áp dụng rộng rãi đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa, hoặc được cung ứng dịch vụ, nên có thể tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước. - Thuế tính trên giá bán hàng hoặc giá dịch vụ, nên không phải đi sâu xem xét, phân tích về tính hợp lý, hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu. - Thuế được hoàn đối với hàng xuất khẩu nên có tác dụng giảm chi phí, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế. - Thuế GTGT kết hợp với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập khẩu, có tác dụng tích cực bảo vệ sản xuất, kinh doanh hàng nội địa. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chống thất thu thuế đạt hiệu quả cao. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hóa đơn mua vào đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hóa đơn, ghi doanh thu đúng với hoạt động mua bán; khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ, thường xẩy ra trốn lậu thuế. Người tiêu dùng không cần đòi hóa đơn, vì đối với họ không còn xẩy ra việc khấu trừ thuế. Tuy vậy, ở khâu bán lẻ cuối cùng, giá trị tăng thêm thường không lớn, số thuế thu ở khâu này không nhiều. Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế GTGT, cơ quan thuế tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Từ đó, tạo được tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương, thỏa thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế GTGT cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải lập và lưu giữ chứng từ, hóa đơn đầy đủ, nên việc thu thuế tương đối sát với thực tế hoạt động kinh doanh. - Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hóa, chuyên môn hóa sản xuất, tích cực đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá thành sản phẩm. 1.3 Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT Nội dung của Luật thuế GTGT được quy định một cách chi tiết trong Thông tư số 122/2000/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP ngày 29-12-2000 và Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13-9-2002 của CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 79 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-10-2002. Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT gồm: 1.3.1. Phạm vi áp dụng * Đối tượng chịu thuế GTGT: Theo quy định tại điều 2 Luật thuế GTGT và Điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 29-12-2000 thì đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, từ các đối tượng không chịu thuế GTGT. * Đối tượng nộp thuế GTGT: Theo quy định tại Điều 3 luật thuế GTGT và Điều 3 Nghị định số 79/2000/NĐ-CP thì đối tượng nộp thuế GTGT là các tổ chức cá nhân có hợp đồng sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và các tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu). * Đối tượng không chịu thuế GTGT. Các đối tượng không chịu thuế GTGT được quy định tại Điều 4 Luật thuế GTGT và Điều 4 Nghị định số 79/2000/NĐ.CP ngày 29-12-2000. Theo đó, các đối tượng không chịu thuế bao gồm 26 nhóm hàng hóa, dịch vụ đặc trưng của những nhóm hàng này là: + Những hàng hóa, dịch vụ mang tính chất phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống nhân dân chẳng hạn các dịch vụ khám chữa bệnh, bảo hiểm và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, dạy học... + Một số mặt hàng Nhà nước chưa thể sản xuất được hay những mặt hàng có ứng dụng về khoa học công nghệ. + Hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh, mà có tính chất quân sự, vũ khí; và duy trì bản sắc văn hóa dân tộc như: khí tài dùng cho quốc phòng, an ninh, duy tu, sửa chữa, xây dựng các công trình văn hóa, nghệ thuật... + Khuyến khích sản xuất trong nước như một số mặt hàng còn đang gặp khó khăn: Sản xuất muối, nông nghiệp, thủy hải sản... ở dạng sơ chế thông thường của các tổ chức cá nhân. 1.3.2. Căn cứ tính thuế GTGT Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất: * Giá tính thuế: Giá tính thuế là một căn cứ quan trọng để xác định số thuế GTGT phải nộp. Giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT được ghi trên hóa đơn bán hàng của người bán hàng người cung cấp dịch vụ hoặc người nhập khẩu. Theo Điều 7, luật thuế GTGT, giá tính thuế được quy định như sau: + Đối với hàng hóa, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT. + Đối với hàng hóa nhập khẩu là nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu. + Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu, tặng là giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm sử dụng các hoạt động này. + Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu từng kỳ. + Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hóa, tính theo giá bán trả 1 lần, không tính theo số tiền trả từng kỳ. + Đối với hoạt động gia công hàng hóa là giá gia công. + Đối với hàng hóa, dịch vụ khác là giá cho Chính phủ quy định. * Thuế suất Việc lựa chọn số lượng và mức thuế suất thuế GTGT khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, đặc điểm kinh tế - xã hội và mục tiêu đặt ra cho chính sách thuế của từng nước. ở Việt Nam, luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất, cụ thể là: - Thuế suất 0% Thuế suất 0% là mức thuế suất áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, dưới hình thức trực tiếp hay gia công, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa thu ngoại tệ. - Thuế suất 5%. Thuế suất 5% là mức thuế suất áp dụng đối với các loại hàng hóa, dịch vụ trực tiếp hay gián tiếp phục vụ cho nhu cầu thiết yếu trong đời sống kinh tế - xã hội. + Thuế suất 10% Những nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế suất 10% thường là những hàng hóa, dịch vụ thông thường trong đời sống xã hội như các loại thực phẩm chế biến, dịch vụ khách sạn, ăn uống... + Thuế suất 20% Thuế suất 20% áp dụng cho những nhóm hàng hóa, dịch vụ cao cấp hoặc khả năng nhận được doanh lợi cao như: kinh doanh vàng, bạc, đá, quý, xổ số kiến thiết và các loại hình xổ số khác, đại lý tàu biển; dịch vụ môi giới... Hiện nay, đang có dự thảo về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong luật thuế GTGT, trong đó có đề cập đến vấn đề bỏ mức thuế suất 20% và một số nhóm hàng trước đây không chịu thuế GTGT và lý do sợ đánh trùng thuế (nhóm hàng số 3 trong 26 nhóm) nay phải chịu thuế GTGT và sẽ được áp dụng trong tháng 5-2003 tới đây. 1.3.3. Phương pháp tính thuế GTGT. Có 2 phương pháp tính thuế GTGT: Phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. a) Phương pháp khấu trừ thuế: - Đối tượng áp dụng: Là tất cả các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo luật DNNN, luật doanh nghiệp, luật HTX, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT. Yêu cầu chung phương pháp của các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ là phải có đầy đủ các căn cứ, chứng từ hợp pháp để xác định số thuế GTGT được khấu trừ đầu vào. + Xác định số thuế - Phương pháp tính: Số thuế GTGT Thuế GTGT Thuế GTGT phải nộp = Đầu ra - Đầu vào trong đó: - Thuế GTGT đầu ra được xác định: Thuế GTGT Giá tính thuế của hàng hóa Thuế xuất thuế GTGT đầu ra = dịch vụ chịu thuế bán ra - của hàng hóa dịch vụ đó Cơ sở kinh doanh khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và thứ thuế GTGT của hàng hóa dịch vụ bán ra. Khi lập hóa đơn bán hàng hóa dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế và tổng số tiền người mua phải thanh toán. - Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả TSCĐ) hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Trước năm 2003, đối với hàng hóa dịch vụ mua vào không có hóa đơn GTGT và một số mặt theo tỷ lệ % với các mức là: từ 3%, 4%, 5% xuống hai mức 2% và 3%, năm 2002 xuống tỷ lệ tính trên giá hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa đơn GTGT thì kể từ 1-1-2003 bãi bỏ hoàn toàn chế độ khấu từ khống đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào không có hóa đơn, chứng từ chỉ có bảng kê hàng hóa. - Xác định thuế GTGT đầu vào được khấu trừ Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế phương pháp khấu trừ thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào (gọi là thuế đầu vào) như sau: + Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ. + Thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. + Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế GTGT phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay để lại trong kho. + Hàng hóa mua vào tổn thất do trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải bồi thường thì không được tính vào số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ khi kê khai thuế GTGT phải nộp. b) Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT - Đối tượng áp dụng: Các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt Nam; tổ chức cá nhân là người nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, ngoại tệ. - Phương pháp tính thuế Thuế GTGT Giá trị gia tăng Thuế suất thuế GTGT phải nộp = của hàng hóa, dịch vụ x của hàng hóa dịch vụ đó trong đó GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế được xác định như sau: GTGT của Giá thanh toán Giá TT của hàng hóa, DV hàng hóa, DV = của hàng hóa, DV bán ra x mua vào tương ứng Giá trị gia tăng được xác định đối với từng ngành nghề kinh doanh cụ thể. Phương pháp xác định GTGT làm căn cứ tính thuế GTGT phải nộp đối với từng cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ có hóa đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán hay không. 1.3.4. Hoàn thuế GTGT * Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế GTGT: - Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau: Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên độ kế toán) có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế. + Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hóa xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng, hoặc chuyến hàng (nếu xác định được thuế GTGT đầu vào của riêng chuyến hàng). - Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu có thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn thuế theo từng năm. - Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa. - Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. - Hoàn thuế GTGT đã trả đối với các dự án sử dụng vốn ODA. - Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hóa tại Việt Nam thì được hoàn lại tiền thuế GTGT đã trả ghi trên hóa đơn GTGT khi mua hàng. * Đối tượng được hoàn thuế GTGT có trách nhiệm: - Lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế gửi cơ quan thuế. - Khi lập và gửi hồ sơ phải kê khai đúng, trung thực các số liệu và phải chịu trách nhiệm về số liệu kê khai trước pháp luật. - Bổ sung hoặc giải trình nếu hồ sơ không rõ ràng. 1.3.5. Quy định về hóa đơn, chứng từ mua bán hàng hóa, dịch vụ - Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT phải sử dụng hóa đơn thuế GTGT (trừ trường hợp dùng hóa đơn, chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT). - Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT khi bán hàng hóa, dịch vụ phải sử dụng hóa đơn bán hàng. Khi lập hóa đơn, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hóa đơn. Đối với hóa đơn GTGT phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có thuế; nếu không tách riêng giá bán chưa có thuế và thuế GTGT, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán. 1.3.6. Miễn, giảm thuế GTGT - Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế trong những năm đầu áp dụng thuế GTGT mà bị lỗ do số thuế GTGT phải nộp lớn hơn số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây thì được xét giảm thuế GTGT phải nộp. - Mức thuế GTGT được xét giảm đối với từng cơ sở kinh doanh tương ứng với số lỗ nhưng không quá số chênh lệch giữa thuế GTGT phải nộp với số thuế tính theo mức thuế doanh thu trước đây của năm được xét giảm thuế. - Thời gian được xét giảm thuế GTGT theo quy định được xét từng năm, tính theo năm dương lịch và chỉ thị thực hiện trong ba năm đầu. Khi doanh nghiệp đủ điều kiện được xét giảm thuế thì phải lập hồ sơ đề nghị giảm thuế gửi cơ quan thuế theo đúng các thủ tục quy định. Thẩm quyền xét giảm thuế thuộc về các Cục trưởng hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính. 2. Quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD Như chúng ta đã biết nền tảng của kinh tế thị trường là kinh tế tư nhân. Nó đóng góp nhiều vào GDP, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới và nói cho cùng thì người đóng thuế chủ yếu trong xã hội. Chính sự phát triển của khu vực tư nhân này làm giảm nhẹ phần lớn các căng thẳng về các vấn đề xã hội mà quốc gia phải giải quyết. Vì vậy, Chính phủ nước nào cũng quan tâm khuyến khích và hỗ trợ mọi mặt cho phát triển kinh tế tư nhân ở nước mình. Trong sự phát triển kinh tế tư nhân đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển ngày càng nhiều và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế. 2.1 Đặc điểm và vai trò của các DNNQD. * Đặc điểm: Đặc điểm cơ bản của các DNNQD là mang tính tư hữu về tư liệu sản xuất và hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích chính là lợi nhuận. Sự phát triển của các DNNQD thường mang tính tự phát, sự gia tăng không ổn định, có nhiều biến động phụ thuộc vào cung cầu hàng hóa, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và vào quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hay hạn chế phát triển. Quy mô sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường vừa và nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, tập trung chủ yếu các ngành thương mại, dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp... Các đơn vị này thường hoạt động ở các ngành nghề có tính năng động cao dễ chuyển hướng kinh doanh, dễ thích nghi hoàn cảnh, với yêu cầu của nền kinh tế. ý thức chấp hành pháp luật của các đơn vị ngoài quốc doanh thường không cao. Điều đó được thể hiện qua việc thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ mua bán hàng hóa chưa đầy đủ, không theo đúng quy định của Nhà nước. Việc giao dịch, mua, bán hàng hóa, dịch vụ chủ yếu bằng tiền mặt, rất ít trường hợp thanh toán qua Ngân hàng bằng cách sử dụng thẻ, do đó gây không ít khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan thuế. * Vai trò của các DNNQD Để đạt được mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vững mạnh vào năm 2020, tất yếu phải có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo thì thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển toàn diện và mạnh mẽ đối với nền kinh tế, góp phần cùng kinh tế Nhà nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH – HĐH và nâng cao nội lực của đất nước, trong hội nhập kinh tế quốc tế. DNNQD đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, góp phần ổn định xã hội. Giải quyết công ăn việc làm là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các nước trên thế giới. Sự tồn tại và phát triển các DNNQD là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp, là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm mặc dù số lượng lao động làm việc trong một DNNQD trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. DNNQD góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ, bởi trong hệ thống các loại DNNQD có một bộ phận doanh nghiệp nhỏ và vừa, là những doanh nghiệp có thể phát triển rộng rãi ở mỗi vùng lãnh thổ và tạo ra những sản phẩm phong phú, đa dạng, đồng thời tạo ra sự phát triển cân bằng giữa các vùng trong mỗi nước. DNNQD góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư. Trình độ lực lượng sản xuất nước ta còn thấp, trong khi tiềm năng phát triển kinh tế lớn nhưng khả năng khai thác các nguồn lực này hạn chế, sự độc chiếm của hình thức sở hữu Nhà nước không cho phép khai thác những tiềm năng lớn đó. Một số lượng vốn khá lớn vẫn nằm trong tay nhân dân, do đó chỉ có phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới có khả năng khai thác được nguồn lực đó. DNNQD góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn thu cho NSNN. Ngày nay, mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia phát triển rộng rãi đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu quan trọng. Việc phát triển DNNQD đã tạo ra khả năng thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành nghề truyền thống ở các địa phương. Bên cạnh đó, sự ra đời luật doanh nghiệp dưới những điều kiện thông thoáng đã làm gia tăng số lượng doanh nghiệp và gia tăng khả năng cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. Cùng với điều đó sẽ làm tăng nguồn thu cho NSNN . 2.2 Thực trạng phát triển các DNNQD Tại hội nghị toàn thể lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã khẳng định: Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần của nước ta. Kinh tế tư nhân thực sự là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, góp phần cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao nội lực của đất nước, trong hội nhập kinh tế quốc tế. Các DNNQD phát triển ngày càng nhiều. Nếu như năm 1991 có 414 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần thì đến hết năm 2002 con số đó lên tới xấp xỉ 50.000 DNNQD trong đó 72% là doanh nghiệp tư nhân, tiếp đến là công ty trách nhiệm hữu hạn 27% và cuối cùng 1% là công ty cổ phần. Các doanh nghiệp này hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau: trải rộng trên địa bàn cả nước tập trung nhiều nhất ở miền Nam chiếm 73%. Các DNNQD có quy mô vốn và lao động nhỏ . Do vốn ít nên thường có khả năng thành lập doanh nghiệp nhỏ và vừa. Và tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và lớn nhất trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc phát triển các DNNQD đã góp phần quan trọng vào tăng GDP và khắc phục tình trạng khan hiếm hàng hóa, lưu thông hàng hóa được thông suốt trên phạm vi cả nước, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân và đóng góp ngày càng tăng NSNN. Tuy nhiên, sự phát triển ồ ạt của các DNNQD đã sớm bộc lộ ra nhiều khiếm khuyết. Với cơ chế thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp nên không ít những cá nhân, những hộ kinh doanh nhỏ với số vốn của mình đã đứng ra thành lập công ty trong khi không hiểu về luật doanh nghiệp, trình độ kinh doanh, quản lý kinh tế chưa cao nên dẫn đến tình trạng doanh nghiệp thành lập nhưng không phát huy hiệu quả. Bên cạnh đó, các DNNQD rất nhạy bén, linh hoạt trong kinh doanh và với mục đích là lợi nhuận cho nên nó cũng bộc lộ hạn chế: kinh doanh trái phép, làm hàng giả, tìm mọi cách trốn lậu thuế như bán hàng không xuất hóa đơn, in và sử dụng hóa đơn giả, ghi doanh thu trên liên một và liên hai khác nhau. Từ đó, cho thấy tốc độ phát triển các doanh nghiệp tăng nhanh, nhưng chất lượng các doanh nghiệp thì yếu kém, vì vậy, việc xây dựng các chính sách, biện pháp quản lý để giúp doanh nghiệp phát triển là một yêu cầu vô cùng cấp bách, không nhỏ góp phần tăng thu ngân sách mà còn thúc đẩy sản xuất phát triển. 2.3 Quy trình quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD Theo Quyết định số 1368/TTC/QĐ/TCCB của Tổng Cục trưởng Tổng Cục thuế ban hành ngày 16-12-1998 , Qui trình quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp gồm các nội dung sau : a) Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế 1. Doanh nghiệp lập đăng ký thuế: Doanh nghiệp dù mới ra kinh doanh hay doanh nghiệp đã và đang hoạt động sản xuất kinh doanh tính đến thời điểm 1-1-1999 đều phải lập đăng ký thuế. Doanh nghiệp phải liên hệ với Cục thuế để nhận và kê khai tờ khai đăng ký thuế theo mẫu quy định. Sau khi kê khai đầy đủ các chỉ tiêu trên tờ khai, doanh nghiệp gửi tờ khai đăng ký tới cơ quan thuế để được cấp mã số thuế. 2. Tiếp nhận và kiểm tra đăng ký thuế: Phòng hành chính tiếp nhận tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp, phân loại và chuyển tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp tới Phòng quản lý thu. Phòng hành chính thực hiện phát các tài liệu, tóm tắt chính sách thuế và một số văn bản hướng dẫn cho doanh nghiệp. Phòng Quản lý thu kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên tờ đăng ký thuế của các doanh nghiệp, phát hiện nếu có sai sót thì liên hệ với doanh nghiệp để chỉnh sửa. 3. Nhập đăng ký thuế và cấp mã số thuế: Phòng KH-KT-TK (MT) nhận các tờ khai đăng ký thuế từ các doanh nghiệp từ phòng Quản lý thu, thực hiện nhập các thông tin trên tờ đăng ký thuế vào máy tính. Máy tính sẽ gắn._. mã số thuế cho các ĐTNT. 4. Kiểm tra tại Tổng cục thuế Phòng KH-KT-TK (MT) Cục thuế truyền dữ liệu đăng ký thuế về Tổng Cục thuế để kiểm tra, tránh sự trùng lắp mã số thuế trên phạm vi toàn quốc. Tổng cục tiến hành kiểm tra dữ liệu đăng ký thuế các Cục thuế trên phạm vi toàn quốc để tránh sự trùng lắp, đồng thời kiểm tra quan hệ doanh nghiệp chủ quản với đơn vị trực thuộc thông qua mã số thuế. Sau khi kiểm tra, Tổng cục thuế gửi trả kết quả kiểm tra cho các cục thuế. 5. In giấy chứng nhận cấp mã số. Phòng KH-KT-TK (MT) nhận kết quả kiểm tra từ Tổng cục. Đối với các trường hợp được chấp thuận thì tiến hành in giấy chứng nhận đăng ký thuế và bảng kê danh sách mã số ĐTN chuyển cho các phòng quản lý thu. Các phòng Quản lý thu tổ chức lưu đăng ký thuế vào hồ sơ của từng doanh nghiệp. b) Quy trình xử lý tờ khai/chứng từ nộp thuế 1. Lập và kiểm tra tờ khai thuế: Phòng quản lý thu hướng dẫn và nhắc nhở các doanh nghiệp lập các tờ khai thuế theo mẫu và gửi cơ quan thuế theo đúng hạn quy định của Luật thuế: lập và gửi tờ khai thuế GTGT trong 10 ngày đầu tháng. Phòng Hành chính nhận tờ khai thuế, đóng dấu ngày nhận vào tờ khai và chuyển từo khai cho các phòng Quản lý thu. Phòng Quản lý thu nhận tờ khai và tiến hành kiểm tra phát hiện lỗi. Phòng Quản lý thu có trách nhiệm liên hệ với ĐTNT để sửa lỗi tờ khai. Thông qua kiểm tra tờ khai, bằng kinh nghiệm quản lý của mình, nếu cán bộ quản lý thu còn phát hiện ra các nghi ngờ về việc kê khai thuế thì phải đánh dấu tờ khai có nghi ngờ cần kiểm tra. Sau khi kiểm tra tờ khai thuế, phòng Quản lý thu phân loại và gửi tờ khai cho Phòng KH-KT-TK (MT) ngay trong ngày. 2. Nhập tờ khai Phòng KH-KT-TK (MT) tiến hành nhập tờ khai vào máy tính ngay sau khi nhận được từ phòng Quản lý thu. Máy tính hỗ trợ phát hiện thêm các trường hợp lỗi như: tính toán số học trên tờ khai sai; số thuế còn nợ, còn được khấu trừ kỳ trước chuyển sang tháng này trên tờ khai không khớp với số theo dõi của ngành thuế... Những lỗi phát hiện trong quá trình nhập tờ khai thì phòng KH-KT-TK (MT) xử lý lấy theo số đo máy tính toán về số nợ, số khấu trừ của cơ quan thuế theo dõi từ kỳ trước chuyển sang. Phòng KH-KT-TK (MT) in danh sách ĐTNT kê khai sai mà máy tính đã sửa, lý do sai và thông báo cho phòng Quản lý thu biết để báo cho ĐTNT về các sai sót trên tờ khai và các nội dung cơ quan thuế đã sửa. 3. Sửa lỗi kê khai. ĐTNT liên hệ qua điện thoại hoặc trực tiếp đến cơ quan thuế để sửa lỗi tờ khai. Việc sửa lỗi tờ khai thuế GTGT phải diễn ra trước ngày 15 hàng tháng. Nếu quá thời hạn này,doanh nghiệp chưa sửa xong tờ khai thì phòng Quản lý thu tiến hành ấn định thuế. Phòng quản lý thu tiến hành so sánh số thuế kê khai trên tờ khai nộp chậm với thông báo thuế đã phát hành. Số thuế chênh lệch giữa tờ khai nộp chậm và số thuế ấn định sẽ được tính điều chỉnh vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp sau. 4. In thông báo thuế Thông báo thuế lần 1: Phòng KH-KT-TK (MT) tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính thuế phải nộp kỳ này dựa vào tờ khai và danh sách ấn định thuế và in thông báo thuế. Hạn in thông báo thuế lần 1 là ngày 18 hàng tháng. Nhập tờ khai ngày nào in ngay thông báo thuế trong ngày đó. Hạn nộp thuế in trên thông báo thuế có thể sau ngày in thông báo 4 đến 7 ngày. Thông báo thuế lần 2: Qua theo dõi thu nộp cảu ĐTNT, Phòng Quản lý thu lựa chọn đề xuất danh sách ĐTNT quá hạn nộp thuế ghi trên tờ thông báo thuế mà vẫn chưa nộp thuế để gửi phòng KH-KT-TK (MT) phát hành thông báo thuế lần 2 gồm: số tiền thuế chưa nôpọ và số tiền phạt của số thuế nộp chậm. Ký và gửi thông báo thuế: Thông báo thuế in xong được chuyển cho lãnh đạo cục thuế ký, sau đó được chuyển tới doanh nghiệp và được lưu một bản vào hồ sơ của doanh nghiệp. 5. Xử lý phạt + Tính phạt nộp chậm: Phòng KH-KT-TK (MT) tính phạt 0,1%/ngày trên số tiền thuế nộp chậm đối với các ĐTNT nộp chậm tiền thuế. Việc tính phạt nộp chậm căn cứ vào số ngày và số thuế nộp chậm. Số ngày nộp chậm được xác định như sau: - Trường hợp đến lần thông báo hiện tại, ĐTNT đã nộp thuế của kỳ trước nhưng chậm so với ngày hạn định (25 tháng trước) thì số ngày tính phạt nộp chậm được tính từ ngày 26 tháng trước đến ngày ĐTNT nộp thuế vào Kho bạc ghi trên giấy nộp tiền hoặc ngày Ngân hàng trích chuyển tài khoản ghi trên giấy nộp tiền. - Trường hợp đến lần thông báo hiện tại, đối tượng vẫn chưa nộp thuế ghi trên thông báo kỳ trước, số ngày phạt nộp chậm số thuế kỳ trước được tính từ ngày 26 tháng trước đến ngày phát hành thông báo hiện đại. + Phạt hành chính: Phòng Quản lý thu hoặc phòng TT-XLTT xem xét ĐTNT cần phạt hành chính thuế, dự thảo quyết định phạt hành chính trình lãnh đạo Cục duyệt. 6. Lập lệnh thu: Phòng Quản lý thu theo dõi tình hình nợ đọng thuế, lựa chọn và lập danh sách các ĐTNT nợ thuế lớn, kéo dài nhiều tháng để đề xuất lập lệnh thu. Phòng Quản lý thu phối hợp với Phòng KH-KT-TK (MT) để xác định số thuế nợ đọng sẽ ghi vào lệnh thu, dự thảo lệnh thu và tờ trình lãnh đạo duyệt. Việc lập và phát hành lệnh thu phải được thực hiện trong vòng 10 ngày đầu tháng. Chuyển hồ sơ sang các cơ quan pháp luật Sau khi phát hành lệnh thu, phòng Quản lý thu có trách nhiệm theo dõi việc thực hiện lệnh thu. Trường hợp lệnh thu không được thực hiện và ĐTNT vi phạm luật thuế với tình tiết nặng nhẹ, phòng Quản lý thu lập hồ sơ và thực hiện các thủ tục chuyển sang cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để truy tố theo pháp luật. 7. Nộp và thu thuế tại Kho bạc: ĐTNT căn cứ vào tờ khai thuế của mình để tự viết giấy nộp tiền và nộp thuế vào kho bạc. Khi nhậnđược thông báo thuế, nếu chưa nộp đủ số tiền thuế theo thông báo thì viết giấy nộp tiền nộp tiếp số tiền thiếu vào kho bạc (ngân hàng). Kho bạc (Ngân hàng) thu tiền thuế (hoặc trích chuyển tài khoản) ghi ngày nộp, số tiền nộp và xác nhận vào giấy nộp tiền. Phòng KH-KT-TK (MT) hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ Kho bạc và nhập số liệu vào máy tính để theo dõi tình hình nộp thuế của ĐTNT. Đồng thời cung cấp thông tin cho các phòng quản lý thu để thực hiện nhắc nhở các đối tượng còn nộp thiếu hoặc chưa nộp. 8. Lập kế hoạch kiểm tra ĐTNT về kê khai thuế: Phòng TT-XLTT (MT) và các phòng Quản lý thu khai thác danh sách ĐTNT có nghi vấn về kê khai thuế trên máy tính. ĐTNT có thể bị kiểm tra khi có hiện tượng sau: thuế phát sinh tháng này tăng quá mức so với tháng trước; thuế được khấu trừ quá lớn so với thuế đầu ra;... 9. Xử lý danh sách ĐTNT nghi vấn Phòng TT-XLTT và các phòng Quản lý thu khai thác và phân tích thông tin về ĐTNT có nghi vấn về tờ khai. Đối với các trường hợp nghi ngờ về tính toán sai và kê khai thuế tháng sai thì Phòng Quản lý thu chịu trách nhiệm kiểm tra xác minh. Các trường hợp nghi ngờ ĐTNT khai man, trốn lậu thuế thì phòng TT-XLTT lập kế hoạch kiểm tra trực tiếp tại cơ sở trình lãnh đạo duyệt. 10. Kiểm tra trực tiếp ĐTNT Phòng TT-XLTT phối hợp với phòng Quản lý thu thực hiện kiểm tra trực tiếp tại cơ sở theo các quy trình kiểm tra quy định của ngành. Phòng KH-KT-TK (MT) nhận và nhập danh sách kết quả kiểm tra, điều chỉnh số thuế phải nộp kỳ hiện tại. Nếu đã phát hành thông báo thuế thì đưa kết quả kiểm tra vào điều chỉnh số thuế phải nộp cho kỳ thuế tiếp theo. c) Quy trình xử lý hoàn thuế 1. ĐTNT lập và gửi hồ sơ đề nghị hoàn thuế ĐTNT lập hồ sơ theo quy định để đề nghị hoàn thuế và gửi đến cơ quan thuế trực tiếp quản lý thu. Phòng Quản lý thu giải đáp thắc mắc về thủ tục nộp hồ sơ đề nghị hoàn thuế cho các ĐTNT. Phòng hành chính tiếp nhận hồ sơ, làm thủ tục và chuyển cho các phòng Quản lý thu. 2. Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế được hoàn. Phòng Quản lý thu tiến hành kiểm tra các thủ tục hồ sơ đề nghị hoàn thuế của ĐTNT như: + Hồ sơ hoàn thuế đã đầy đủ theo quy định chưa? + ĐTNT và trường hợp ghi trong hồ sơ đề nghị hoàn thuế có đúng đối tượng và trường hợp được hoàn thuế không? + Các chỉ tiêu trong hồ sơ có đầy đủ và đúng quy định không? Sau khi kiểm ra hồ sơ đề nghị hoàn thuế, nếu phát hiện hồ sơ lập không đầy đủ thì cán bộ phòng Quản lý thu thông báo lại cho ĐTNT biết để bổ sung kịp thời. Trường hợp ĐTNT không thuộc diện hoàn thuế theo Luật phải thông báo cho đối tượng biết và giải thích lý do tại sao không hoàn và trả lại hồ sơ cho đối ưtợng. Kiểm tra, xác định số thuế hoàn trả Đối với các trường hợp đề nghị hoàn thuế có đầy đủ hồ sơ với đầy đủ căn cứ pháp lý thì phòng Quản lý thu xác định số thuế được hoàn dựa vào các căn cứ: + Kiểm tra, đối chiếu số liệu đề nghị hoàn thuế với các căn cứ, hồ sơ chi tiết gửi kèm theo. + Đối chiếu số liệu trong hồ sơ với số liệu cơ quan thuế đang quản lý về các chỉ tiêu kê khai thuế tháng có liên quan, số thuế đã nộp, số còn phải nộp. + Kiểm tra, tính toán cụ thể số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, trong đó phân tích mối quan hệ doanh thu hàng xuất khẩu với tiêu thụ trong nước. Trường hợp thật cần thiết phải kiểm tra tại cơ sở để xác minh thêm căn cứ xác định số thuế được hoàn của ĐTNT thì phòng Quản lý thu phải báo cáo lãnh đạo Cục duyệt kế hoạch kiểm tra trực tiếp tại doanh nghiệp. Đối với các trường hợp hoàn thuế lớn, tính chất phức tạp, thời gian khấu trừ kéo dài thì phòng Quản lý thu chuyển hồ sơ cho phòng TT-XLTT kiểm tra. Trong quá trình xem xét giải quyết hồ sơ hoàn thuế, các phòng Quản lý thu, phòng TT-XLTT có thể khai thác thông tin từ hệ thống máy tính để tham khảo trong từng trường hợp như: + ĐTNT có số thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra liên tục ba tháng trở lên. + ĐTNT có số thuế khấu trừ đầu vào nhưng không có số thuế phát sinh đầu ra. + ĐTNT có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra. + ĐTNT có số thuế sẽ được hoàn sau quyết toán. 3. Tiến hành hoàn thuế cho các doanh nghiệp Lãnh đạo sẽ xem xét các trường hợp được hoàn thuế, ký quyết định hoàn thuế. Phòng Hành chính sẽ gửi và lưu các quyết định hoàn thuế. Quyết định hoàn thuế sẽ được gửi cho ĐTNT và kho bạc. Phòng Quản lý thu phối hợp với các phòng khác lập danh sách các đối tượng được hoàn thuế. Trong thời gian 5 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hoàn thuế củacơ quan thuế, kho bạc tiến hành thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp. Phòng KH-KT-TK (MT) nhận và nhập chứng từ hoàn thuế từ Kho bạc chuyển sang. d) Quy trình miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế 1. Lập hồ sơ miễn, giảm, tạm giảm thuế. ĐTNT thuộc diện được miễn giảm, tạm giảm theo Luật thuế phải nộp lập hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế theo quy định để gửi cơ quan thuế. Phòng Quản lý thu có trách nhiệm hướng dẫn, giải thích các thủ tục lập hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế cho các ĐTNT. Phòng Hành chính tiếp nhận hồ sơ từ phía các doanh nghiệp và chuyển cho các phòng Quản lý thu. 2. Kiểm tra hồ sơ, xác định số thuế miễn hoặc giảm, tạm giảm thuế Phòng Quản lý thu nhận hồ sơ đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế của các ĐTNT, tiến hành kiểm tra thủ tục hồ sơ để xác định số thuế được miễn, giảm, tạm giảm, gồm các thủ tục: hồ sơ có đầy đủ hay chưa? Các chỉ tiêu trong hồ sơ có đầy đủ và đúng quy định hay không? Số liệu tính toán đã đúng hay chưa?... Khi kiểm tra thủ tục hồ sơ, nếu phát hiện hồ sơ lập chưa đầy đủ thì thông báo lại cho ĐTNT biết để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời. Nếu trường hợp đề nghị không thuộc đối tượng được miễn, giảm thuế thì phải thông báo cho đối tượng biết, giải thích lý do và trả lại hồ sơ cho đối tượng. Kiểm tra xác định số thuế được miễn, giảm, tạm giảm: Các phòng Quản lý thu xác định số thuế miễn, giảm hoặc tạm giảm gồm có: Số tạm giảm trong năm; số giảm thuế khi kết thúc năm tài chính, số thuế được miễn. Phòng Nghiệp vụ thuế hỗ trợ và giám sát việc xét hồ sơ miễn, giảm, tạm giảm thuế. Quyết định xử lý sẽ được lãnh đạo xét duyệt. Khi có quyết định miễn, giảm, tạm giảm cho doanh nghiệp Cục thuế thông báo cho doanh nghiệp biết. 3. Điều chính số thuế phải nộp Phòng KH-KT-TK (MT) nhận Danh sách kết quả Quyết định miễn thuế, giảm thuế hoặc tạm giảm thuế, nhập số thuế được miễn, giảm hoặc tạm giảm để điều chỉnh số thuế phải nộp của từng thời kỳ. e) Quy trình xử lý quyết toán thuế 1. Lập quyết toán thuế ĐTNT trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch phải lập và gửi quyết toán thuế. Đối với ĐTNT chia tách, sát nhập, giải thể... phải nộp quyết toán thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn 45 ngày kể từ khi có quyết định chia tách, sát nhập, giải thể... ĐTNT có gì thắc mắc hỏi phòng Quản lý thu. Phòng Hành chính tiếp nhận quyết toán thu của các doanh nghiệp và chuyển cho phòng Quản lý thu. 2. Kiểm tra số liệu quyết toán thuế. * Kiểm tra ban đầu Phòng Quản lý thu nhận quyết toán thuế, kiểm tra phát hiện các chỉ tiêu kê khai trong quyết toán thuế như: ghi sau tên ĐTNT; không ghi hoặc ghi sai mã số thuế; khai thiếu chỉ tiêu trong quyết toán... Đối với các lỗi này, cán bộ phòng quản lý thu liên hệ với ĐTNT qua điện thoại để chỉnh sửa. * Kiểm tra xác minh số liệu quyết toán thuế Đối với các bán quyết toán thuế kê khai rõ ràng, đầy đủ chứng từ chứng minh số liệu, phòng Quản lý thu kiểm tra tính chính xác của các số liệu kê khai trên quyết toán; đối chiếu với số theo dõi thu nộp của cơ quan thuế và số liệu liên quan trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Phòng Quản lý thu nhập các dữ liệu trên tờ khai quyết toán thuế của các ĐTNT vào chương trình quản lý thuế trên máy tính để xác định những dấu hiệu nghi ngờ về kê khai quyết toán thuế như: đối tượng còn nợ đọng đến thời điểm quyết toán thuế quá lớn; các số liệu về số thuế phải nộp và đã nộp kê khai trong quyết toán so với số liệu cơ quan thuế quản lý chênh lệch quá... 3. Xác định kết quả quyết toán thuế và điều chỉnh thuế phải nộp. Phòng quản lý thu xác định số thuế còn thừa hay còn phải nộp của từng ĐTNT. Đối với các ĐTNT nộp chậm hay không nộp quyết toán thuế, các phòng Quản lý thu lập danh sách trình lãnh đạo quyết định phạt hành chính. Phòng KH-KT-TK (MT) nhận và nhập kết quả quyết toán thuế từ phòng Quản lý thu chuyển sang, điều chỉnh vào số thuế phải nộp của tháng hiện tại. Nhận và nhập danh sách kết quả kiểm tra và số phạt hành chính do không nộp hoặc do nộp chậm quyết toán thuế. h) Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế a - Phòng quản lý thu có nhiệm vụ tạo lập và quản lý hồ sơ các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một cặp hồ sơ riêng lưu trữ các tài liệu gồm: đăng ký thuế; thông báo thuế; các hồ sơ và quyết định hoàn thuế, giảm, tạm giảm thuế; quyết toán thuế, các quyết định xử lý kiểm tra; lệnh thu; các tài liệu có liên quan tới doanh nghiệp. b - Phòng KH-KT-TK có nhiệm vụ tổ chức lưu giữ các tờ khai, bảng kê, chứng từ nộp thuế của ĐTNT theo từng sắc thuế, kỳ thuế và theo phòng Quản lý thu. c - Chế độ thông tin, báo cáo: các bộ phận theo từng công việc của mình, định kỳ tháng, quý lập một số báo cáo lãnh đạo Cục và sao gửi các phòng liên quan tới công tác quản lý thu thuế thuộc Cục: Phòng Quản lý thu; Phòng KH-KT-TK; Phòng TT-XLTT; Phòng nghiệp vụ thuế. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế GTGT đối với DNNQD Luật thuế GTGT ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc cải cách cơ chế quản lý kinh tế tài chính đặc biệt là chính sách thuế của Nhà nước. Sau hơn 4 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của đất nước: khuyến khích đầu tư nước ngoài, mở rộng khuyến khích và phát triển xuất khẩu thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu ổn định và ngày càng tăng của NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vướng mắc làm giảm hiệu ứng tích cực của thuế GTGT. Các doanh nghiệp đã lợi dụng kẻ hở trong luật thuế để chiếm đoạt tiền của Nhà nước lên tới con số hàng tỷ đồng với hơn 170 bộ hồ sơ hoàn thuế khống. Công tác quản lý thu gặp không ít những khó khăn. Vậy những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế GTGT đối với loại hình DN này là: Thứ nhất là hệ thống chính sách, các văn bản thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Ban hành quá nhiều văn bản thi hành luật nhưng lại chưa sát thực tế, còn sơ hở, chưa lường hết các phát sinh có thể xảy ra khi thực hiện đã gây khó khăn cho cán bộ quản lý cũng như các đối tượng nộp thuế. Thứ hai xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế nước ta, những năm gần đây đã có những bước tiến đáng kể, nhưng vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu, quan hệ thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, trình độ dân trí còn thấp, do đó việc tiếp thu các luật thuế mới hạn chế, người dân chưa có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng trong khi hóa đơn chứng từ là một trong những điều kiện tiên quyết thực hiện thành công sắc thuế này. Thứ ba là từ trình độ quản lý thu thuế GTGT của các cán bộ còn thấp thậm chí có những cán bộ thuế chưa biết đọc quyết toán thuế của doanh nghiệp, chưa biết tính khấu hao, chưa biết tính tiền lương lỗ, lãi... Việc phân bố trình độ của cán bộ thuế chưa đồng bộ trong cả nước. Thứ tư là các cơ sở kinh doanh chưa có ý thức chấp hành pháp luật nói chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế. Họ luôn quan niệm rằng đóng thuế cho Nhà nước là moi tiền túi ra để nộp, là khoản làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận, do đó họ tìm mọi cách để trốn, tránh thuế kiếm lợi. Thứ năm xuất phát từ đặc điểm của các DNNQD là quy mô vốn và lao động nhỏ, kinh doanh mang tính thời vụ, nhỏ lẻ khó kiểm tra đã gây khó khăn cho các cán bộ thuế trong công tác quản lý thu. Tóm lại, thuế GTGT chỉ có thể được quản lý một cách chặt chẽ khi các nhân tố trên được điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hơn. 4. ý nghĩa của việc quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD. Thuế giá trị gia tăng là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế nước ta. Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu sẽ đảm bảo tập trung một số thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, do nhu cầu chi tiêu phát triển kinh tế rất lớn nên đã xảy ra tình trạng thiếu hụt ngân sách. Do vậy, chúng ta phải tìm mọi biện pháp để tăng thu ngân sách Nhà nước. Việc tăng cường nguồn thu từ các Doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng là một công việc rất cần thiết và là một điều tất yếu. Mặt khác, đảm bảo sự công bằng xã hội là một yêu cầu đặt ra với chính sách thuế và bản thân với chính sách thuế cũng phải đảm bảo sự công bằng xã hội, vì có công bằng xã hội thì mới có thể động viên số thu lớn nhất trong thời gian ngắn nhất. Tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh một cách chặt chẽ chính là biện pháp để đảm bảo tính công bằng xã hội vì những ưu đãi mà nhà nước đã dành cho các doanh nghiệp này. Mặt khác, sẽ hạn chế đến mức tối đa hiện tượng gian lận thuế, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Trước đây, việc quản lý thu thuế nói chung và thuế doanh thu nói riêng đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn khá nhiều sai sót, dẫn đến kết quả cuối cùng là thất thu thuế, Nhà nước bị chiếm dụng vốn gây tác động xấu đối với nền kinh tế. Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu đã và sẽ tạo ra khả năng kiểm tra, kiểm soát tốt hơn với công tác quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy vậy, kinh nghiệm chung cho thấy, dẫu những nhà hoạch định các chính sách của một luật thuế cố gắng hoàn thiện luật thuế đến bao nhiêu thì trong quá trình áp dụng vẫn có những kẽ hở để những kẻ cố tình vi phạm luật thuế “lách” luật để gian lận thuế. Trong quá trình quản lý thuế giá trị gia tăng còn khá nhiều tiêu cực và khó khăn do thuế giá trị gia tăng chỉ được thực hiện một cách thực sự hiệu quả khi chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn, chứng từ được thực hiện nghiêm chỉnh, trong khi người dân Việt Nam chưa hề quen với việc mua, bán hàng hóa, dịch vụ có hóa đơn. Số lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lớn, quy mô hoạt động và phạm vi kinh doanh khá rộng nên công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp này còn khá nhiều khó khăn. Trong phần tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu rõ thực trạng của công tác quản lý thu thuế Giá trị gia tăng đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Phần II Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 1. Đặc điểm kinh tế- xã hội tỉnh Hà Tĩnh và các DNNQD. 1.1. Tỉnh Hà Tĩnh. Hà Tĩnh là một tỉnh thuộc dải đất miền Trung, có tọa độ địa lý từ 17o53'50 đến 18o95'40 vĩ độ Bắc, 105o05'50 đến 106o30'20 kinh độ Đông. Độ cao trung bình ở đồng bằng so với mặt biển từ 2,6 đến 3,2 mét. Phía Bắc giáp huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên thành phố Vinh tỉnh Nghệ An bởi núi Thiên Nhẫn, sông Lam với chiều dài 130 km - là những vùng có điều kiện phát triển tương tự Hà Tĩnh, nhưng đã đạt được những thành tựu lớn trong quá trình phát triển kinh tế tỉnh. Đặc biệt có thành phố Vinh - là một thị trường tiêu thụ lớn cho sản phẩm sản xuất bởi các doanh nghiệp ở Nghệ An và Hà Tĩnh; phía Nam giáp huyện Tuyên Hóa, Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình bởi Đèo Ngang, Hoành Sơn. Quảng Bình là tỉnh cũng mới được chia cắt như tỉnh Hà Tĩnh nhưng đã sớm có định hướng phát triển nền kinh tế vững chắc và đúng hướng đặc biệt về vấn đề bố trí vị trí các cơ quan hành chính sự nghiệp và các trung tâm thương mại, dịch vụ là lĩnh vực mà Hà Tĩnh cần học hỏi kinh nghiệm; Phía Đông giáp biển với chiều dài 137 km, là một nguồn tài nguyên thủy, hải sản lớn, cho phép Hà Tĩnh phát triển loại hình doanh nghiệp này; phía Tây giáp với nước Lào bởi dãy Trường Sơn với chiều dài 170 km. Có cửa khẩu Cầu Treo mở ra cơ hội thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa với nước bạn Lào. Hà Tĩnh có 2 thị xã và 8 huyện với tổng diện tích tự nhiên là 605.395 ha. Dân số tính đến nay đã vượt trên 1,3 triệu người, cung cấp lực lượng lao động lớn cho tỉnh và các tỉnh, thành khác trong cả nước. Có đường quốc lộ xuyên Việt đi qua, có đường 8A, có cảng nước sâu Vũng áng qua vùng Hương Khê sang nước Lào. Cùng với nhiều tài nguyên, khoáng sản đây là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, Hà Tĩnh vẫn còn là một tỉnh nhỏ, nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp, công nghiệp chậm phát triển nếu có thì còn mang tính chất manh mún, tự phát. Lĩnh vực thương mại nhỏ lẻ, chưa có quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, đã có sự tăng lên ở mỗi năm nhưng vẫn còn chậm so với các tỉnh có cùng điều kiện phát triển. Chưa phát huy có hiệu quả nguồn lực lao động rất dồi dào với giá thuê nhân công rẻ mạt như hiện nay. Chính những khó khăn đó đã tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của tỉnh, từ đó tác động đến kết quả thu ngân sách, trong khi đó nhu cầu chi tiêu tăng lên đã dẫn đến thâm hụt ngân sách và hàng năm tỉnh Hà Tĩnh vẫn cần đến gần 80% trợ cấp trên tổng số chi từ ngân sách Trung ương. Với mục tiêu giảm bớt tỷ lệ trợ cấp từ ngân sách Trung ương, phát huy nội lực, tăng nguồn thu trong tỉnh, HĐND, UBND tỉnh cùng các sở, ban ngành liên quan cần có định hướng phát triển kinh tế đúng đắn, đặc biệt chú trọng phát triển lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, đồng thời tăng cường công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này trên toàn địa bàn tỉnh. 1.2. Các DNNQD: 1.2.1. Các đối tượng thuộc DNNQD Từ khi Đảng có chủ trương xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường chịu sự quản lý của Nhà nước. DNNQD trở thành bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Đã có hàng vạn doanh nghiệp ra đời trên khắp mọi miền đất nước, không những thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn tạo ra nhiều tiềm lực mới cho nền kinh tế. Đặc biệt đối với một tỉnh nhỏ như tỉnh Hà Tĩnh, sự ra đời của các DNNQD góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà. DNNQD bao gồm các công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp; các HTX, các hộ kinh doanh công thương nghiệp. Các doanh nghiệp này có điểm chung về sở hữu là mang tính tư hữu về tư liệu sản xuất, quy mô sản xuất vừa và nhỏ, vốn ít và công nghệ còn lạc hậu. Loại hình doanh nghiệp phổ biến hiện nay ở tỉnh Hà Tĩnh là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XDCB và TMDV. Để làm rõ hơn chúng ta xem xét phần thực trạng phát triển các doanh nghiệp này. 1.2.2. Thực trạng phát triển Trong những năm gần đây, đặc biệt từ khi có luật DN ra đời, các chỉ tiêu thành lập doanh nghiệp đơn giản hơn thì tốc độ thành lập DN tăng nhanh. Theo số liệu thống kê tại Sở Kế hoạch Đầu tư và Phòng quản lý doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh và Quốc doanh quận huyện - Cục thuế tỉnh thì đến ngày 31 tháng 1 năm 2003 đã có 375 doanh nghiệp được thành lập (con số đó vào năm 1999 là 130 doanh nghiệp). Cụ thể có 287 doanh nghiệp tư nhân, 72 công ty TNHH 2 thành viên; 6 công ty TNHH 1 thành viên, 10 công ty cổ phần trong đó phòng quản lý NQD quản lý 128 DN chiếm 34,3% trên tổng số và ở các chi cục là 217 doanh nghiệp chiếm 57,8%, số còn lại 30 doanh nghiệp chưa có cấp nào quản lý theo luật DN. Trong số 345 doanh nghiệp đã đưa vào quản lý, khoảng 80 % doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, số doanh nghiệp còn lại thì vẫn còn nhiều chưa có báo cáo tài chính hàng năm, nếu có báo cáo tài chính thì không có quyết toán thuế hàng năm và ngược lại có quyết toán thuế thì không có báo cáo tài chính hoặc nộp báo cáo tài chính chậm so với luật định. Về cơ cấu ngành nghề thì Hà Tĩnh chủ yếu là ngành nghề XDCB và TMDV trong khi thế mạnh chính của Hà Tĩnh là nông, lâm nghiệp thì lại chiếm một tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm dần, lĩnh vực công nghiệp, TTCN, được coi là một lĩnh vực quan trọng để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn lại chiếm một tỷ lệ không đáng kể và cũng có xu thế giảm dần). (Chi tiết xem ở biểu sau - biểu số 1). Nguyên nhân của tình trạng trên là do doanh nghiệp nhỏ ít vốn, thành lập theo lối mỳ ăn liền. XDCB chọn công trình nhỏ chủ yếu đào đắp, thuê mướn nhân công là chính không cần nhiều vốn, lao động là thủ công hoạt động thương nghiệp có thể mua chịu và bán chịu trong khi lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản và sản xuất tiểu thủ công nghiệp lại đòi hỏi vốn lớn, công nghệ hiện đại, mặt hàng có tính cạnh tranh cao, thị trường phải mở rộng quản lý phức tạp cho nên nhà đầu tư không muốn đầu tư vào sản xuất. Về trình độ quản lý của các DNNQD thì trong số các doanh nghiệp được thành lập chỉ có khoảng 10% giám đốc doanh nghiệp có trình độ đại học, 50% có trình độ trung sơ cấp, còn lại khoảng 40% chưa qua một trường lớp đào tạo nào. Chính trình độ yếu kém như vậy nên việc thực hiện và thi hành luật thuế chưa được bảo đảm một cách nghiêm minh. Còn nhiều doanh nghiệp được thành lập không có bộ phận kế toán chuyên trách, mà chủ yếu thuê kế toán của các đơn vị hành chính sự nghiệp Nhà nước các DNNN để làm. Thậm chí, có những doanh nghiệp không có sổ sách, chứng từ kế toán mà cuối năm thuê một người có trình độ dựng lên một báo cáo tài chính rồi gửi đi cơ quan thuế. Một số bộ phận doanh nghiệp có kế toán thì chủ yếu trình độ trung cấp và vừa mới ra trường chưa biết làm tờ khai thuế, tình tự luân chuyển chứng từ, mở sổ sách kế toán. Do đó, càng gây khó khăn cho công tác quản lý thu thuế trên địa bàn, đặc biệt với việc quản lý thu thuế GTGT - một loại thuế mới mẻ, có những yêu cầu nghiêm ngặt về chế độ kế toán và sổ sách chứng từ. Còn có những doanh nghiệp chỉ thành lập ra không phải vì mục đích kinh doanh mà để dùng hồ sơ cho các doanh nghiệp khác đi thuê đấu thầu công trình. Bộ phận thương nghiệp dịch vụ thì không xuất hóa đơn, không kê khai hóa đơn đầu vào, không kê khai doanh số đầu ra để trốn thuế. Chính vì vậy mà việc nâng cao hiệu quả thu đối với các doanh nghiệp này là hết sức cần thiết, vừa hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện đúng luật thuế, tránh vi phạm luật thuế. Vừa tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. 2. Thực trạng về vấn đề quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. 2.1 Chức năng nhiệm vụ chính của các phòng ban trong quá trình quản lý thu thuế đối với các DNNQD Hiệu quả của việc quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNN nói chung và DNNQD nói riêng phụ thuộc rất lớn vào bộ phận trực tiếp hành thu. Việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các đối tượng đó là rất cần thiết, nhằm đảm bảo cho quá trình quản lý thu được chặt chẽ và theo đúng định hướng, mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Theo Quyết định 1368/TCT/QĐ/TCCB ngày 16-12-1998 các bộ phận chính trực tiếp thực hiện hành thu là các phòng: Phòng Quản lý thu các DNNQD, Phòng Kế hoạch KT-TK, Phòng máy tính, Phòng TT-XLTT. Chức năng; nhiệm vụ chính của các bộ phận này trong quá trình quản lý thu là: + Phòng quản lý thu: Quản lý đối tượng nộp thuế: Theo dõi tình hình biến động về đối tượng nộp thuế trên lĩnh vực, địa bàn quản lý như: nắm số doanh nghiệp phát sinh, doanh nghiệp phá sản, giải thể, sát nhập, liên doanh, liên kết... Phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu, khai thác nguồn thu trong lĩnh vực được giao quản lý. Tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Cục các biện pháp quản lý thuế. - Hướng dẫn ĐTNT các thủ tục kê khai đăng ký thuế, kê khai thuế, lập hồ sơ miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế... Giải đáp các thắc mắc của ĐTNT liên quan đến việc tính thuế, thu nộp thuế. Lập và tổ chức lưu giữ hồ sơ các doanh nghiệp. - Thực hiện kiểm tra các chỉ tiêu kê khai các tờ khai đăng ký kinh doanh, kê khai nộp thuế, hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế. Liên hệ với ĐTNT để chỉnh sửa việc kê khai theo đúng quy định. - Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế. Lập các thủ tục xét miễn, giảm, hoàn thuế theo quy định. Kiểm tra hồ sơ quyết toán thuế, xác định số thuế quyết toán của từng ĐTNT. Cung cấp các thông tin về kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế và quyết toán thuế cho bộ phận tính thuế. - Thực hiện việc ấn định thuế cho các ĐTNT không nộp hoặc chậm nộp tờ khai thuế. Xác định các ĐTNT cần phát hành lệnh thu hoặc phạt hành chính thuế. - Theo dõi tình hình nộp thuế để thực hiện việc đôn đốc, nhắc nhở nộp thuê đầy đủ và đúng hạn và ngân sách Nhà nước. Phối hợp với Phòng TT-XLTT thực hiện kiểm tra sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ mua, bán của các đối tượng có hiện tượng khai man thuế, trốn, lậu thuế, nợ đọng tiền thuế... + Phòng KH- TK và phòng máy tính a) Căn cứ số liệu về tình hình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, phân tích số liệu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của toàn đơn vị. Phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch của các chi cục và các phòng quản lý thu. Tham mưu cho lãnh đạo Cục về ._.mua hàng, hình thành 1 tâm lý chung của toàn xã hội. + Cục thuế Hà Tĩnh cần có biện pháp xử lý các vi phạm về hóa đơn chứng từ. Mặc dù thời gian qua cơ quan thuế và cơ quan chức năng đã tăng cường xử lý vi phạm hóa đơn đối với các trường hợp vận chuyển hàng hóa, kê khai chi phí nhưng không có hóa đơn hợp pháp. Tuy nhiên, việc kiểm tra kiểm soát đối với hàng vận chuyển trên đường chưa chặt chẽ. Trường hợp xuất toán do không có hóa đơn hợp pháp đối với quyết toán thuế, quyết toán tài chính còn áp dụng giải pháp dung hóa. Để nâng cao hiệu lực pháp luật, phải cương quyết xử lý, mọi trường hợp không có hóa đơn đều bị xuất toán và có thể truy thu thuế. Để công tác thanh, kiểm tra tránh được cả 2 thái cực: Thất thu thuế nhiều và ít kiểm tra và thị trường bị xáo trộn do kiểm tra dàn trải, công tác kiểm tra cần tập trung vào các doanh nghiệp các hộ kinh doanh có quy mô tương đối lớn, các ngành nghề còn thất thu nhiều, công tác này cần tập trung vào các đối tượng ghi giá không đúng thực tế mà qua kiểm soát giá niêm yết đã có thông tin nhưng đối tượng cố ý che giấu hoặc chống đối. Cơ quan thuế có thể kiểm tra tính trung thực một cách tương đối các bảng kê mua bán hàng hóa trong các cơ sở trên địa bàn, qua đó đưa vào quản lý thu thuế các trường hợp chưa đăng ký thuế. + Khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in: Thời gian qua các doanh nghiệp tự in hóa đơn đã quản lý khá tốt, tự giác và chịu trách nâng cao trước pháp luật. Hóa đơn tự in rất thuận lợi cho các đơn vị vì trên hóa đơn được thiết kế phù hợp với nhu cầu, mục đích kinh doanh, giới thiệu quảng bá sản phẩm của từng doanh nghiệp. Trên tờ hóa đơn còn ghi rõ tên, địa chỉ của doanh nghiệp đã giúp họ tự khẳng định và tự chịu trách nhiệm với khách hàng trước pháp luật, bảo đảm cả về công tác hạch toán kế toán trong việc sử dụng hóa đơn... Với những ưu điểm này, Cục thuế Hà Tĩnh đã có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp tự in hóa đơn. Cùng với việc trang bị máy tính cho ngành thuế nối mạng để quản lý sử dụng và đối chiếu chéo trong cả nước, để kiểm tra, phát hiện sai phạm thì việc khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường nội bộ để quản lý, sử dụng hóa đơn và ngăn ngừa các trường hợp sử dụng hóa đơn bất hợp pháp của đơn vị khác. Để tạo động lực tốt cho cán bộ thuế trong công tác nói chung và quản lý, sử dụng hóa đơn nói riêng, việc xây dựng và áp dụng chế độ khen thưởng rõ ràng là yêu cầu cấp thiết, làm trong sạch đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để đảm đương nhiệm vụ đã đề ra. Nghiên cứu xây dựng chế độ khen thưởng xử phạt thích đáng đối với cán bộ thuế có thành tích cũng như vi phạm quy chế là điều cần phải làm trong thời gian tới. 2.3. Nâng cao chất lượng thanh tra, kiểm tra về thuế Như chúng ta đã biết doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển mở rộng và đa dạng; việc trốn lậu thuế trở nên tinh vi và nghiêm trọng hơn. Để thực hiện đúng luật thuế là phải thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách Nhà nước; vì vậy cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra về thuế nhằm nâng cao ý thức chấp hành về thuế và hạn chế thấp nhất thất thu thuế. Với việc nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự giác nộp thuế vào kho bạc Nhà nước đã nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế, Quy trình này đã giảm tới mức tối thiểu mối quan hệ trực tiếp giữa cán bộ thuế với các đối tượng nộp. Bằng cách đó, với lực lượng có hạn trong bộ máy quản lý thuế có thể tập trung vào việc kiểm tra, thanh tra phát hiện và xử lý những trường hợp vi phạm. Để có thể thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả trong cơ chế thu mới, Cục thuế Hà Tĩnh cần thiết phải thực hiện một số biện pháp sau: + Cần phải có phương án và kế hoạch cụ thể để tăng cường công tác thanh tra- kiểm tra về công tác kê khai quyết toán, hoàn thuế các doanh nghiệp trong và ngoại tỉnh đến kinh doanh trên địa bàn. Kiểm tra việc thực hiện các qui trình quản lý thuế ở chi cục, kiểm ta sử dụng hoá đơn đối tượng nộp thuế, kiểm tra nội bộ ngành. Đề xuất xử lý vi phạm sau kiểm tra để tăng cường công tác quản lý, chống thất thu ngân sách. + Đẩy mạnh công tác thanh tra định kỳ đối với các doanh nghiệp, khi phát hiện thấy có trường hợp nghi vấn cần nhanh chóng triểnkhai công tác thanh tra.Tuy nhiên, không thể làm một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những căn cứ xác đáng để tránh quấy nhiễu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. + Duy trì thường xuyên công tác thanh tra nội bộ nghành về việc chấp hành luật thuế được quy định cho đối tượng nộp thuế. Công tác thanh tra xử lý phải bám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của toàn ngành. + Cần phải có biện pháp xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với những trường hợp vi phạm, đặc biệt đối với các tình trạng vi phạm nghiêm trọng kiên quyết truy tố trước pháp luật để giáo dục răn đe các đối tượng khác. Đảm bảo việc thi hành các qui định về việc kê khai, tính thuế, nộp thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế được thực hiện một cách nghiêm túc, xử lý vi phạm các luật thuế một cách chặt chẽ. Phối hợp với các cơ quan chức năng như công an, viện kiểm sát, thanh tra, quản lý thị trường... rà soát chặt chẽ các đối tượng kinh doanh buộc doanh nghiệp phải kê khai đầy đủ đúng kỳ hạn đầu ra, đầu vào, bán hàng phải có hoá đơn, bảng kê, phải niêm yết giániêm yết, nhằm chống thất thu có hiệu quả. 2.4. Phối hợp với các cơ quan hữu quan trong công tác quản lý thu thuế. Thuế là khoản nộp mang tính quyền lực Nhà nước, nên việc tổ chức thực hiện chính sách thuế (đặc biệt là thuế ngoài quốc doanh) gắn chặt với việc sử dụng quyền lực của các cấp chính quyền. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại trong việc đưa chính sách thuế đi vào cuộc sống. Do đó, việc xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa các cơ quan thuế với cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên môn, các đoàn thể nhân dân là vấn đề mang tính tất yếu và có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý thu thuế cũng như xây dựng ngành thuế lớn mạnh. Trọng tâm mối quan hệ này là phát huy chức năng vai trò của các cơ quan liên quan đến quá trình thu thuế để phối hợp triển khai nghiêm túc pháp luật thuế, các cơ quan nội chính kiểm tra, kiểm soát quá trình thi hành luật, chính quyền xã phường, thị trấn phối hợp thu thuế trên địa bàn các cơ quan tuyên truyền, hội, đoàn thể... Phối hợp tuyên truyền động viên giáo dục người dân chấp hành luật thuế... Từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ,kế hoạch mà Nhà nước và nhân dân giao phó. Cơ quan thuế phối hợp chặt chẽ với Sở Kế hoạch và Đầu tư để có biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp sau khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nhằm ngăn chặn, phát hiện kịp thời tình trạng thành lập doanh nghiệp để buôn bán hóa đơn, chiếm đoạt tài sản Nhà nước. Đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư cần tăng cường công tác hậu kiểm đối với các doanh nghiệp mới thành lập, nhằm khắc phục tình trạng các doanh nghiệp hiện nay trên địa bàn tỉnh còn thiếu trình độ kế toán kiểu doanh nghiệp “chồng làm giám đốc, vợ làm kế toán” mà không qua trường lớp đào tạo nào đã gây nhiều khó khăn cho cán bộ thuế trong công tác quản lý thu. Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan công an nhằm phát hiện ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận về thuế, buôn bán hóa đơn bất hợp pháp. Tập trung chỉ đạo khẩn trương tiến hành điều tra, hoàn chỉnh hồ sơ những vụ gian lận, chiếm đoạt tiền hoàn thuế để truy tố kịp thời, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Cơ quan thuế phối hợp với các ngân hàng, Kho bạc Nhà nước có biện pháp mở rộng thanh toán qua tài khoản mở tại ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở tài khoản, thanh toán qua ngân hàng đối với hàng xuất nhập khẩu. Cơ quan thuế phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tuyên truyền thông tin đẩy mạnh việc tuyên truyền về thuế giá trị gia tăng, có chuyên mục tuyên truyền về thuế để mọi tổ chức cá nhân và đối tượng nộp thuế hiểu về thuế giá trị gia tăng và cập nhật những điều sửa đổi bổ sung mới nhất trong các nghị định. Biểu dương các doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời lên án gay gắt hành vi, đối tượng gian lận thuế. Xây dựng mối quan hệ với các cơ quan hữu quan trong công tác quản lý thu thuế tốt sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp để cùng nhau làm tròn và làm tốt trách nhiệm mà UBND tỉnh, HĐND tỉnh giao phó. 2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ thuế có trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, toàn thể cán bộ công chức ngành thuế cần phải thực hiện cải tiến hành thu, cải cách hành chính thuế, thực hiện nghiêm các quy trình quản lý thuế và từng bước tháo gỡ khó khăn đề cao tinh thần tự giác của các đối tượng nộp thuế, tăng cường chống thất thu thuế, thường xuyên phát động phong trào thi đua, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và áp dụng các biện pháp khen thưởng, xử phạt công minh. Những vấn đề cụ thể cần được đảm bảo như sau: * Nâng cao trình độ chuyên môn cho mỗi cán bộ thuế bằng cách chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho cán bộ lãnh đạo ngành như khuyến khích học đại học, trên đại học, bồi dưỡng quản lý Nhà nước, lý luận chính trị, tin học, ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu quản lý trong giai đoạn hiện nay. Có biện pháp khuyến khích các cán bộ thuộc diện chờ đủ tuổi để nghỉ hưu được về hưu sớm với việc học sẽ nhận được một khoản tiền truy thu thay vào đó là bổ sung lực lượng cán bộ mới nhưng Cục chỉ nên tuyển cán bộ thuế là những người có trình độ đại học trở lên về chuyên ngành thuế được đào tạo chính quy. * Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đạo đức trách nhiệm của mình. Mỗi người phải quan tâm xem các quy định chức trách của mình như thế nào, chế độ đó ra sao và lãnh đạo Cục, phòng tổ chức cán bộ cần thường xuyên tổ chức cán bộ cần thường xuyên tổ chức thi đua trong nội bộ Cục để đẩy mạnh hiệu quả công tác quản lý, các cán bộ vượt mức kế hoạch đề ra. Muốn thực hiện được những điều trên, Cục thúe cần chăm lo đời sống về mọi mặt của toàn ngành; xây dựng phong trào thể dục thể thao; văn nghệ tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm công tác lâu dài và phát huy tốt năng lực của mình vào sự nghiệp phát triển của ngành. 2.6. Xây dựng và kiện toàn bộ máy thu thuế của ngành Tổ chức bộ máy của ngành cơ bản ổn định, vấn đề là tập trung chăm lo xây dựng, kiện toàn đảm bảo cho mỗi tổ chức, nhất là các tổ, đội thuế đủ khả năng làm tốt, làm đầy đủ những quy định về chức năng, nhiệm vụ quy chế hoạt động đã được ban hành; khẩn trương bổ khuyết những quy định chưa đúng, chưa đủ, không còn phù hợp... làm cho mọi hoạt động của tất cả các tổ chức trực thuộc cục thuế. Theo quy củ, nề nếp, đảm bảo phát huy hiệu lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ; Xây dựng và giải quyết tốt các mối quan hệ trong giữa các đơn vị trong hệ thống tổ chức, đảm bảo yêu cầu thông tin, học tập, kiểm tra giám sát lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau trong công tác chuyên môn, xác lập sự đồng bộ và đồng đều trong mọi hoạt động. Đồng thời hết sức quan tâm đẩy nhanh quá trình cải tiến các thủ tục hành chính, các lề lối, phương pháp làm việc, tạo được sự nghiêm túc, quy củ, trong công việc, trách phiền hà cho nhau và cho đối tượng nộp thuế, phát huy tốt hiệu quả công việc. Mỗi tổ chức cần xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ có chính sách về trình độ, về nghiệp vụ cần thiết, hợp lý, sự tương quan giữa lực lượng làm công tác nghiên cứu và thanh tra, kiểm tra, làm cơ sở cho việc định hướng quy hoạch, đào tạo tuyển dụng và bố trí sắp xếp hợp lý phát huy được năng lực củ từng cán bộ, đối với lĩnh vực công tác được phân công, động viên và khơi dậy khả năng tự rèn luyện vươn lên nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, coi trọng cập nhật kiến thức về pháp luật, quản lý, về chuyên môn nghiệp vụ, về vi tính, ngoại ngữ, phương pháp công tác, vận động quần chúng để cán bộ đạt được trình độ thành thạo trong công việc và không chỉ đơn thuần là cán bộ chuyên môn mà vừa là cán bộ phổ biến giải thích, vận động tuyên truyền pháp luật, làm công tác quy hoạch cán bộ trong mỗi tổ chức và tập trung đào tạo bồi dưỡng theo quy hoạch, đảm bảo đội ngũ này phải thật sự có phẩm chất và năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, coi trọng việc quản lý, kiểm tra giám sát mọi hoạt động của cán bộ từ cơ sở, trực tiếp là các tổ, đội phòng mà cốt lõi là thực hiện 10 điều kỷ luật của ngành. 2.7. Giải pháp thành lập phòng tư vấn thuế công Hiện nay, pháp luật về thuế ngày càng được hoàn thiện, quy trình ngày càng cải tiến theo hướng đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế vào kho bạc. Nhưng không phải tất cả các đối tượng nộp thuế đều nắm chắc và hiểu biết đầy đủ về pháp luật thuế để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Hơn nữa các sắc thuế mới được áp dụng ở nước ta như thuế giá trị gia tăng còn là vấn đề mới mẽ, gây lúng túng cho nhiều doanh nghiệp. Công tác tư vấn thuế trở thành yêu cầu khách quan đối với các đối tượng nộp thuế. Công ty tư vấn thuế công đã được thành lập và triển khai thực hiện ở một số Cục thuế thuộc tỉnh thành phố trong cả nước. Trong một thời gian ngắn thực hiện các công ty tư vấn này sớm đã nhận được những phản hồi rất tốt từ phía các doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm. Với điều kiện phát triển kinh tế của tỉnh còn yếu kém việc thành lập một công ty tư vấn là chưa thể triển khai được nhưng khả năng thành lập thêm một phòng tư vấn thuế công trong Cục thuế thiết nghĩ là điều hoàn toàn có thể. Theo đó, Cục thuế cần học hỏi kinh nghiệm của các tỉnh đã thực hiện để tìm ra một mô hình cho phù hợp cho mình.Để có sự chuẩn bị tốt, Cục thuế Hà Tĩnh cần chú ý tới một số vấn đề sau: + Về nhiệm vụ của các phòng tư vấn thuế. Phòng tư vấn thuế có nhiệm vụ tuyên truyền, cung cấp các chính sách, quy định mới về các luật thuế cũng như các thông tin cần thiết khác có liên quan tới quá trình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phòng chỉ được phép hướng dẫn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về những quy địnhcủa luật thuế để giúp các doanh nghiệp này nắm chắc luật. Tuyệt đối không được làm thay các doanh nghiệp những việc như quyết toán thuế, kê khai các tờ khai nộp thuế. + Về phía cán bộ tư vấn thuế. Phải là những cán bộ có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản lý thu thuế, có phẩm chất đạo đức tốt, phải được quy định về chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức như các phòng ban khác. Cán bộ thuế không được “hỗ trợ” các doanh nghiệp để gian lận thuế, vấn đề này cần được quy định rõ khi tổ chức thành lập phòng và phải có những biện pháp xử lý đối với những cán bộ cố tình vi phạm, thực hiện công tác thiếu trách nhiệm, thậm chí có thể đình chỉ công tác hay cho thôi việc với những cán bộ vi phạm nghiêm trọng. Thành lập phòng tư vấn thuế giúp cho các đối tượng nộp thuế hiểu biết về luật thuế rõ hơn, nhằm mở rộng kênh thông tin hỗ trợ pháp luật cho hoạt động của các doanh nghiệp giúp họ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật hơn từ đó làm giảm chi phí thu thuế, giảm các đơn kiện xuất phát từ sự hiểu biết kém về luật thuế. Nếu thực hiện được như vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và các doanh nghiệp nói chung sẽ nhanh chóng đứng vào hàng ngũ của những doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về thuế. Công tác quản lý thu thuế đặc biệt đối với thuế giá trị gia tăng sẽ ngày càng đựơc hoàn thiện hơn. 3. Một số kiến nghị 3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 3.1.1 Sửa đổi và bổ sung một số quy định về chính sách thuế GTGT. * Về thuế suất thuế giá trị gia tăng: Thuế suất là linh hồn của thuế, là yếu tố quan trọng nhất của một chính sách thuế bởi nó biểu hiện tập trung nhất các chính sách của Nhà nước, phản ánh quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Quy định mức thuế suất hợp lý sẽ kích thích sản xuất phát triển, tăng thu Ngân sách Nhà nước, tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Việc quy định số lượng các mức thuế suất nhiều hay ít, cao hay thấp có tính quyết định đến sự áp dụng thành công hay thất bại của một sắc thuế. Nếu số lượng các mức thuế suất quá nhiều sẽ làm cho chính sách thuế phức tạp, khó quản lý, dễ bị vận dụng tuỳ tiện, dễ bị lợi dụng để lách thuế, trốn thuế gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước, nhưng có ưu điểm thể hiện được khả năng điều tiết linh hoạt của Nhà nước trong những trường hợp cần thiết tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế – xã hội và các đặc điểm của từng loại thuế. Trái lại, nếu số lượng các mức thuế suất quá ít; Nhà nước khó thực hiện được những chính sách xã hội, dễ bị phản ứng, nhưng lại có ưu điểm đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng, hạn chế tình trạng thất thu thuế. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để khắc phục những tác động không tốt đối với nền kinh tế – xã hội của thuế giá trị gia tăng. Thiết nghĩ chính sách thuế giá trị gia tăng ở nước ta chỉ nên quy định một mức thuế suất chung duy nhất áp dụng cho các loại hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước là trong nước là 10%, ngoại trừ mức thuế suất 10% áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu. * Về phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:Theo quy định của chính sách thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện có 2 phương pháp tính thuế giá trị gia tăng là phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng. Phương pháp khấu trừ được áp dụng cho các đối tượng thường có quy mô sản xuất kinh doanh vừa, lớn, doanh số lớn và có đủ những điều kiện tổ chức hạch toán kế toán và lưu giữ chứng từ hóa đơn một cách đầy đủ. Còn phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được quy định áp dụng cho những cá nhân kinh doanh hộ gia đình kinh doanh và những tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuê theo phương pháp khấu trừ và các cơ sở kinh doanh mua, bán vàng - đá quý. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, khi nền kinh tế phát triển chưa cao, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô vừa, nhỏ chưa thực hiện tốt chế độ sở thích kế toán, chứng từ hóa đơn còn nhiều, không đáp ứng được yêu cầu tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ của việc áp dụng, đồng thời 2 phương pháp tính thuế giá trị gia tăng nêu trên là cần thiết. Song, trên thực tế khi triển khai thực hiện luật thuế GTGT cho thấy sự tồn tại 2 phương pháp tính thuế GTGT như thế là bất cập, không hợp lý, bởi lẽ: + Việc tồn tại 2 phương pháp tính thuế GTGT sẽ tạo ra sân chơi không bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh.Do xuất hiện hóa đơn giả, hoá đơn khống, hóa đơn thiếu độ tin cậy nên các đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng phần lớn khi xác định GTGT tính thuế đều dựa trên doanh thu tính thuế ấn định và tỷ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế quy định. Trên thực tế, cán bộ thuế thường dựa vào mức khoán thuế doanh thu phải nộp trước đây để suy ngược lại doanh thu tính thuế ấn định sau đó nhân với tỷ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế quy định do Tổng Cục thuế quy định, Cục thuế cụ thể hóa. Điều này không khác gì thuế doanh thu trước đây. + Tạo khe hở cho sự xuất hiện cơ chế chuyển giao sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trốn thuế giữa các đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ và các đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp thông qua việc hợp thức hóa bằng các hóa đơn giả, hoặc háo đơn khống, không khớp số liệu giữa các liên... Xuất phát từ những luận cứ nêu trên kết hợp với kinh nghiệm các nước trên thế giới đã thực hiện thì chính sách thuế giá trị gia tăng ở nước ta nên chỉ quy định một phương pháp tính thuế duy nhất, đó là phương pháp khấu trừ thuế. * Về tổ chức thực hiện thuế GTGT: Để chính sách thuế GTGT thật sự đi vào đời sống kinh tế – xã hội một cách hữu hiệu, trong công tác hành thu cần thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp sau: - Chú trọng thường xuyên nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ thuế và trang bị phương tiện hiện đại cần thiết đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thu thuế GTGT. Đây là khâu quan trọng quyết định thực thi, tính hiệu quả chính sách thuế GTGT, bởi việc quản lý thu thuế GTGT rất phức tạp nên nếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn chỉ cán bộ thuế yếu hay thiết bị phương tiện quản lý lạc hậu sẽ không thể quản lý tốt thuế GTGT, làm gia tăng hiện tượng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Nếu thuế GTGT được quản lý tốt sẽ nghiêm túc công tác sổ sách, chứng từ hóa đơn, giúp khắc phục được tình trạng thất thu thuế. Đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền chính sách thuế GTGT đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội để mọi người hiểu rõ bản chất và nắm được những ưu điểm của thuế GTGT, tránh những hiểu lầm, nhận thức không đúng, gây ngộ nhận do không hiểu biết về thuế GTGT tạo nên khe hở cho kẻ khác lợi dụng, gây bất an cho nhân dân, qua đó, khuyến khích mọi người an tâm mạnh dạn đầu tư vốn để giúp nền kinh tế có thêm lượng vốn cần thiết cho nhu cầu phát triển. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế, thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp kinh tế, nghiệp vụ và hành chính trong công tác hành thu thuế GTGT nhằm ngăn chặn, hạn chế tình trạng hóa đơn, chứng từ, hợp đồng giả, khống, thiếu độ tin cậy để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước, thị trường biến động, cơ cấu lao động xã hội bị xáo trộn. Trên đây là một số đề xuất góp ý hướng điều chỉnh những nội dung cơ bản của chính sách thuế GTGT hiện nay ở nước ta nhằm phát huy những tác động tích cực và khắc phục những tác động tiêu cực về kinh tế – xã hội của thuế GTGT, đồng thời góp phần củng cố, hoàn thiện chính sách thuế GTGT ở nước ta. 3.1.2 Tạo ra môi trường pháp lý về công tác kế toán đối với sự phát triển các DNNQD. Kế toán là công cụ quan trọng để điều hành quản lý, tính toán kinh tế và kiểm tra việc sử dụng tài sản vật tư tiền vốn sau một kỳ kinh doanh. Kế toán cung cấp các thông tin cần thiết cho các nhà quản lý và những người có liên quan. Hai báo cáo quan trọng nhất để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Bảng cân đối kế toán đánh giá tổng quát tình hình tài chính, trình độ sử dụng vốn, những khả năng sử dụng vốn của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh tổng thu, tổng chi của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Trong đó đề cập đến tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế, và các khoản phải nộp khác của Nhà nước. Chế độ kế toán khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng còn nhiều hạn chế, một trong những nguyên nhân chủ yếu đó là còn có những khó khăn vướng mắc về môi trường pháp lý, một số cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh đại bộ phận có quy mô vừa và nhỏ hiện nay. Do vậy để đẩy mạnh và phát triển kinh tế ngoài quốc doanh thì cần tạo ra môi trường pháp lý tốt về kế toán cho các doanh nghiệp này. 3. 2. Kiến nghị đối với Bộ Tài chính, Tổng cục thuế về việc quản lý hóa đơn, chứng từ Luật thuế GTGT chỉ phát huy tích cực khi mà mọi hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được thực hiện đều phản ánh đầy đủ trên hóa đơn theo quy định. Vì vậy việc quản lý và sử dụng hóa đơn của cơ sở sản xuất kinh doanh và ý thức của người tiêu dùng trong việc lấy hóa đơn khi mua hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của luật thúe và công tác quản lý kinh tế tài chính. Trong thời gian qua, xung quanh việc thực hiện luật thuế GTGT đang nổi lên vấn đề được dư luận quan tâm, đó là hiện trạng người tiêu dùng không lấy hóa đơn khi mua hàng hóa. Một số doanh nghiệp lợi dụng cơ chế hoàn thuế GTGT đã lập hóa đơn chứng từ khống đầu vào để xin hoàn thuế, rút tiền ngân sách nhà nước. Trước thực tế đó, đề nghị Tổng Cục thuế nghiên cứu có hình thức thưởng lợi ích bằng vật chất đối với hóa đơn mua hàng của người tiêu dùng từ đó khuyến khích họ yêu cầu người bán hàng phải lập hóa đơn. ở một số nước trên thế giới nhằm khuyến khích khách hàng mua hàng đòi hóa đơn với nội dung đầy đủ, chính xác và lưu giữ chứng từ cung cấp cho cán bộ thuế khi có yêu cầu. Họ đã dùng biện pháp quay số hóa đơn trúng thưởng đối với hóa đơn mua hàng. Thiết nghĩ, đây cũng là một kinh nghiệm hay cần tham khảo, vận dụng thích hợp vào nước ta nhằm góp phần nâng cao ý thức tự giác trong việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hóa đơn, chứng từ. Kết luận. Nước ta đang từng bước quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN nên bước quá độ gặp không ít khó khăn về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như lý luận kinh tế đúng đắn. Trong điều kiện đó, thuế và các nguồn thu khác trong nước chính là trụ cột cho nền tài chính quốc qia và đóng vai trò quan trọng trong công cuộc kiến thiết nước nhà. Thuế GTGT là một loại thuế tiên tiến mới được đưa vào áp dụng ở nước ta trong vòng 4 năm trở lại đây. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, thuế GTGT chưa phát huy hết được những mặt tích cực của nó. Do vậy đặt ra một yêu cầu cấp thiết trong vấn đề quản lý thuế GTGT. Qua thời gian thực tập tại Cục thuế tỉnh Hà Tĩnh, em đã có dịp tìm hiểu công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trên địa bàn. Theo đó, em đã nêu được thực trạng của công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp đó hiện nay dựa trên những cơ sở lý luận cơ bản như: Khái niệm thuế giá trị gia tăng, quy trình quản lý thu thuế, vai trò và đặc điểm các DNNQD…, đồng thời nêu lên được những kết quả đạt được và những vướng mắc, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các DNNQD. Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân của nó, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và một số kiến nghị đối với Nhà nước, Bộ tài chính và Tổng cục thuế góp phần hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. Với tất cả cố gắng của mình và với sự giúp đỡ của Thầy giáo hướng dẫn, các cô, chú, anh, chị trong cục thuế em đã hoàn thành chuyên đề này. Song do thời gian và trình độ có hạn nên chuyên đề chưa thể coi là hoàn thiện. Em kính mong nhận được nhận xét của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản lý thuế - Trường Đại học KTQD - 2002. Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã được sửa đổi và bổ sung - NXB Tài chính, 10-2002. Các báo cáo tổng kết năm về thực hiện thu thuế GTGT của Cục thuế Hà Tĩnh. Tạp chí thuế nhà nước các số năm 2001, 2002, 2003. Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2001, 2002, 2003. Tạp chí Kế toán các số năm 2002. Tạp chí Kinh tế phát triển các số năm 2002. Trang thông tin của Bộ Tài chính: Tạp chí Tài chính số năm 2002, 2003. Mục lục Lời mở đầu 1 Phần I: Lý luận chung về thuế GTGT 3 1. Một số nội dung cơ bản của luật thuế GTGT 3 1.1. Khái niệm về thuế GTGT 3 1.2. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở nước ta 3 1.3. Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT 7 1.3.1. Phạm vi áp dụng 7 1.3.2. Căn cứ tính thuế GTGT 8 1.3.3. Phương pháp tính thuế GTGT 9 1.3.4. Hoàn thuế GTGT 12 1.3.5. Quy định về hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ 13 1.3.6. Miễn, giảm thuế GTGT 13 2. Quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD 13 2.1. Đặc điểm và vai trò của các DNNQD 14 2.2. Thực trạng phát triển của DNNQD 16 2.3. Quy trình quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD 17 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế GTGT đối với DNNQD 26 4. ý nghĩa của việc quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD 27 Phần II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các NNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 29 1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tĩnh và các DNNQD 29 1.1. Tỉnh Hà Tĩnh 29 1.2. Các DNNQD 30 1.2.1. Các đối tượng thuộc DNNQD 30 1.2.2. Thực trạng phát triển 31 2. Thực trạng về vấn đề quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 34 2.1. Chức năng nhiệm vụ chính của phòng ban trong quá trình quản lý thu thuế đối với các DNNQD 34 2.2. Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 37 2.2.1. Quản lý công tác đăng ký và cấp mã số thuế cho các DNNQD 37 2.2.2. Công tác xử lý tờ khai 38 2.2.3. Xác định số thuế GTGT phải nộp 39 2.2.4. Xử lý hoàn thuế 41 2.2.5. Quản lý hoá đơn, chứng từ 43 2.2.6. Quản lý việc thu nộp tiền thuế và miễn giảm thuế 44 2.2.7. Công tác thanh tra, kiểm tra thuế 46 3. Đánh giá chung về công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 48 3.1. Kết quả đạt được 48 3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 51 3.2.1. Những mặt hạn chế 51 3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế 52 Phần III: Một số kiến nghị trong công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các DNNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh 54 1. Định hướng hoạt động cục thuế Hà Tĩnh 54 2. Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng trên địa bàn Hà Tĩnh 55 2.1. Tăng cường quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà Tĩnh 55 2.2. Hoàn thiện công tác quản lý hoá đơn, chứng từ các DNNQD trên địa bàn tỉnh 56 2.3. Nâng cao chất lượng thanh tra, kiểm tra về thuế 59 2.4. Phối hợp với các cơ quan hữu quan trong công tác quản lý thu thuế 60 2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ thuế có trình độ chuyên môn và ý thức trách nhiệm 61 2.6. Xây dựng và kiện toàn bộ máy thu thuế của ngành 62 2.7. Giải pháp thành lập phòng tư vấn thuế công 63 3. Một số kiến nghị 65 3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 65 3.1.1. Sửa đổi và bổ sung một số quy định về chính sách thuế GTGT 65 3.1.2. Tạo ra môi trường pháp lý về công tác kế toán đối với sự phát triển của các DNNQD 68 3.2. Kiến nghị đối với Bộ Tài chính, Tổng cục thuế về việc quản lý hoá đơn, chứng từ 68 Kết luận 70 Biểu cơ cấu ngành nghề của DNNQD (2001-2002) Năm 2001 Năm 2002 Phân cấp Qlý ồ số XDCB CN, TTCN TMDV NL thủy sản ồ số DN XDCB CN, TTCN TM, DV NL, thủy sản DN ồ số Tỉ lệ ồ số Tỷ lệ ồ số Tỷ lệ ồ số Tỷ lệ ồ số Tỷ lệ ồ số Tỷ lệ ồ số Tỷ lệ ồ số Tỷ lệ Tổng số DN cục QL DN chi cục QL Chi cục QL 311 105 90 116 155 55 29 71 49,8% 52,3% 32,2% 19 12 10 6,2% 11,4% 11% 104 31 39 33,4% 29,5% 43,3% 33 7 12 10,6% 6,8% 13,5% 375 128 217 30 167 71 88 44,5% 554% 40,5% 105 25 68 28% 19,5% 31,3% 82 28 48 4,8% 21,8% 22,1% 21 4 13 5,7% 3,3% 6,1% (Nguồn: Phòng Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh - Cục thuế tỉnh Hà Tĩnh) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docX0113.doc
Tài liệu liên quan