Lời mở đầu
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế trong điều kiện có xuất phát điểm là nền sản xuất nhỏ tư duy quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp nên bước vào công cuộc khôi phục và phát triển đất nước, cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Nhận thức được những tồn tại trong cơ chế, trong chỉ đạo đã giúp cho Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương đổi mới nền kinh tế chuyển sang thực hiện cơ ch
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường & nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về Xuất khẩu lao động ở huyện Kinh Môn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế thị trường với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đời sống của người dân được cải thiện đất nước đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội .
Hoạt động xuất khẩu lao động của huyện Kinh Môn những năm qua cũng không nằm ngoài tình hình. Từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hiệu quả xuất khẩu lao động là một quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm vừa đúc rút từ thực tiễn, chính vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm mặc dù huyện Kinh Môn có nguồn lao động dồi dào, nhưng tỉ lệ thất nghiệp cao.
Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng so với tiềm năng nguồn lao động của huyện Kinh Môn và nhu cầu của thị trường lao động quốc tế, những kết quả đó còn nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả xuất khẩu lao động thấp, số người phá vỡ hợp đồng ngày càng gia tăng, quyền lợi của người lao động bị xâm hại. Hơn nữa, cơ chế quản lý mới trong xuất khẩu lao động mới hình thành nên còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Mục đích của chuyên đề này nhằm góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về thị trường lao động xuất khẩu, tính tất yếu khách quan của việc xuất khẩu lao động trong hoạt động kinh tế của huyện Kinh môn, của quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động nước ta nói chung và của huyện Kinh Môn nói riêng, những thành công trong hoạt động xuất khẩu lao động của huyện Kinh Môn trong những năm qua, và đưa ra giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động. Chính vì vậy em đã mạnh dạn chon đề tài “ Giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động ở huyện Kinh Môn”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục bố cục chuyên đề của em gồm 3 chương :
Chương I: Một số vấn đề về lý luận, bộ máy đảm nhận và công tác tuyển dụng XKLĐ ở huyện Kinh Môn – Tỉnh Hải Dương
Chương II: Thực trạng xuất khẩu lao động ở huyện Kinh Môn
Chương III: Các giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về XKLĐ ở huyện Kinh Môn
Do trình độ hạn chế, nên chuyên đề này còn nhiều sai sót. Vì vậy em rất mong được đóng góp ý kiến của các thầy, các cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú thuộc phòng TCLĐXH, Phòng Thống kê huyện Kinh Môn, và đặc biệt là cô giáo TS.Trần Thị Thu và cô giáo TH.S. Ngô Quỳnh An đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I: Một số vấn đề về lý luận, bộ máy đảm nhận và công tác tuyển dụng XKLĐ ở huyện Kinh Môn – Tỉnh Hải Dương
1.1. L ý luận về xuất khẩu lao động
1.1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của hoạt động xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế của một quốc gia, thực hiện việc cung ứng lao động cho một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hợp đồng giữa các Nhà nước, tổ chức kinh tế, pháp nhân cá nhân của quốc gia xuất khẩu với các quốc gia nhập khẩu lao động .
Qua định nghĩa trên chúng ta có thể thấy:
Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính kinh tế nhằm mang lại lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế của xuất khẩu lao động được xét trên cả ba mặt cá nhân, các tổ chức kinh tế và Nhà nước .
Đối với cá nhân và tổ chức kinh tế, lợi ích biểu hiện về mặt thu nhập của cá nhân, của tổ chức kinh tế khi tham gia xuất khẩu lao động. Còn đối với Nhà nước, lợi ích không hẳn chỉ là các chỉ tiêu kinh tế như số lượng ngoại tệ thu về cho đất nước, cho ngân sách mà còn phải kể đến các chỉ tiêu như giải quyết việc làm, bảo đảm an toàn xã hội, phát triển quan hệ quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu lao động luôn gắn với thị trường nước ngoài, theo quy luật cung cầu, không những liên quan đến quan hệ kinh tế đối ngoại mà còn liên quan đến nhiều vấn đề trong quan hệ quốc tế nói chung như tư pháp và công pháp quốc tế quan hệ xã hội, chủng tộc.
Xuất khẩu lao động vừa là xuất khẩu một loại hàng hoá vừa kèm theo đó là di chuyển yếu tố sản xuất liên quan đến con người, tức là kèm theo việc di chuyển các yếu tố văn hoá, truyền thống xã hội nên tính phức tạp rất lớn.
Trong nền kinh tế thị trường đang quốc tế hoá hiện nay, xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đối ngoại, tuy nhiên bản chất của xuất khẩu lao động là sự di cư quốc tế nơi thừa lao động có thu nhập thấp sang nơi thiếu hụt lao động và thu nhập cao.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế: ở nhiều nước trên thế giới xuất khẩu lao động lao động là một giải pháp quan trọng trong việc thu hút lực lượng lao động, đặc biệt là đối với những nước có nguồn nhân lực dồi dào như Việt Nam. Đồng thời hoạt động xuất khẩu lao động cũng đem lại một lượng ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước và đem lại thu nhập cao cho bản thân những người đi lao động xuất khẩu và cho gia đình họ. Những lợi ích này buộc các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường lao động ở nứơc ngoài, mà chiếm lĩnh được hay không phải dựa trên quan hệ cung cầu sức lao động, nó chịu sự điều tiết, tác động của các qui luật kinh tế thị trường. bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao để bù đắp được chi phí và có phần lãi, vì vậy cần phải có cơ chế thích hợp để tăng khả năng tối đa cung ứng lao động. Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng hiệu quả của việc xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động mang tính chất xã hội: Xuất khẩu lao động chính là xuất khẩu sức lao động, mà sức lao động không thể tách rời khỏi người lao động. Do đó những chính sách về xuất khẩu lao động thường phải kết hợp chặt chẽ với các chính sách xã hội. Đảm bảo quyền lợi cho người lao động, doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng như người sử dụng lao động. Từ đó góp phần giải quyết việc làm, xoá đói giamr nghèo, nhận thức của người lao động thay đổi, giảm tệ nạn xã hội…
Xuất khẩu lao động là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của nhà nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động được thực hiện trên cơ sở hiệp định, thoả thuận của các Chính phủ và trên cơ sở hợp đồng cung ứng lao động. (Ngày nay, trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế hầu như toàn bộ hoạt động xuất khẩu lao động đều do các tổ chức xuất khẩu lao động thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng thời họ cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm về toàn bộ khâu tổ chức đưa đi và quản lý lao động, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất khẩu lao động của mình. Và như vậy, các hiệp định, thoả thuận song phương chỉ có tính chất nguyên tắc, thể hịên vai trò và trách nhiệm của nhà nước ở tầm vĩ mô.)
Xuất khẩu lao động diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt. tính gay gắt đó do hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, xuất khẩu lao động mang lại lợi ích lớn cho các nước khó khăn về việc làm do vậy phải có cạnh tranh để giành lấy thị trường. Thứ hai xuất khẩu lao động đang diễn ra trong một môi trường không ổn định về tài chính và suy thoái kinh tế trong khu vực, bản thân các nước nhận nhiều lao động cũng gặp khó khăn trong việc giải quyết việc làm. Điều này hạn chế rất lớn đến việc tiếp nhận lao động trong thời kì tới.
Trong quan hệ xuất khẩu lao động phải đảm bảo lợi ích ba bên. Lợi ích của nhà nước là phần ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoản thuế. Lợi ích của các tổ chức xuất khẩu lao động là các khoản thu lệ phí giải quyết việc làm ở nước ngoài. Lợi ích của người lao động là các khoản thu nhập thường cao hơn nhiều so với lao động trong nước. Nếu chạy theo lợi ích thì các tổ chức xuất khẩu lao động rất rễ vi phạm qui định của nhà nước, nhất là việc thu phí dịch vụ, môi giới điều đó vi phạm quyền lợi của người lao động sẽ làm cho việc làm ngoài nước sẽ không thật hấp dẫn. Ngược lại cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động rất rễ vi phạm hợp đồng đã ký kết, như hiện tượng làm thêm bên ngoài, bỏ hợp đồng ra làm ngoài…
Xuất khẩu lao động là hoạt động đầy biến đổi: Hoạt động này phụ thuộc lớn vào nhu cầu nhập khẩu lao động của các nước. Những nước nào chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho xuất khẩu, đào tạo tốt chuyên môn cho họ thì sẽ chiếm được vị trí cao trong thị phần lao động nước ngoài. Và cũng chỉ có nước nào nhìn xa, trông rộng phân tích, đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình, đưa ra chính sách đón đầu trong xuất khẩu lao động.
Vì vậy để hoạt động xuất khẩu lao động có hiệu quả thì phải thực hiện quản lý tốt từ khâu khai thác thị trường, ký kết hợp đồng với đối tác, tuyển chọn đến khâu đào tạo, giáo dục định hướng và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đồng thời quản lý người lao động trong quá trình lao động dến khi hết hạn hợp đồng về nước thực hiện thanh lý hợp đồng và các vấn đề có liên quan.
1.1.2. Việc làm, tạo việc làm và giải quyết việc làm
a. Việc làm
Việc làm theo quy định của Bộ Luật Lao Động là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho người lao động. Việc làm là nhu cầu, quyền lợi nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với mọi người. Theo Đại hội Đảng lần thứ 7: “Mọi công việc mang lại thu nhập cho người lao động, có ích đều được tôn trọng”.
b. Tạo việc làm
Tạo việc làm là việc kiến thiết cho người lao động có được một công việc cụ thể, mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật cấm. Người tạo ra công việc cho người lao độngcó thể là Chính phủ, thông qua các chính sách, có thể là một tổ chức hoạt động kinh tế (các công ty, các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh…) và cả những cá nhân, thông qua các hoạt động thuê mướn nhân công.
Đặc điểm của tạo vịêc làm thông qua xuất khẩu lao động:
+ Việc tạo ra tư liệu sản xuất là do đối tác nước ngoài.
+ Việt Nam cung cấp lao động theo yêu cầu của đối tác.
+ Cầu nối để cho tư liệu sản xuất kết hợp với sức lao động là các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và hoạt động ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới.
Quan hệ nước ta với nhiều nước sẽ tạo ra điều kịên thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động, đặc biệt với các nước điều kiện tự nhiên. phong tục tương tự.
c. Giải quyết việc làm: Là nâng cao chất lượng việc làm tạo ra việc làm để thu hút người lao động vào guồng máy sản xuất của nền kinh tế. Giải quyết việc làm không chỉ nhằm tạo thêm việc làm mà còn phải nâng cao chất lượng việc làm.
Cùng với giải quyết việc làm trong nước là chính thì xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đấ nước trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước, là một bộ phận của hợp tác quốc tế, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước.
1.1.3. Lý thuyết di chuyển lao động quốc tế
Khi thị trường thế giới ngày càng mở rộng, việc di cư có cơ hội được thực hiện dễ dàng thông qua các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia các tổ chức kinh tế, khi đó di cư lao động quốc tế ngày càng trở thành hiện tượng phổ biến gắn với các hoạt động của các quốc gia thì thuật ngữ xuất khẩu lao động được sử dụng rộng rãi.
Trong thực tế, xuất khẩu lao động quốc tế diễn ra bằng hai con đường chính thức và phi chính thức.
Di cư lao động bằng con đường chính thức là việc xuất khẩu lao động thông qua các chính phủ, các tổ chức kinh tế hoặc các pháp nhân, cá nhân được sự đồng ý của chính phủ của nước đi và nước đến.
Xuất khẩu lao động bằng con đường chính thức hay còn gọi là di cư lao động theo hợp đồng được thực hiện theo các hiệp định hoặc hợp đồng giữa các tổ chức kinh tế, cá nhân được sự xác nhận và đồng ý của chính phủ nước đi và nước đến. Xuất khẩu lao động bằng con đường chính thức ngày càng tăng về số lượng và chủng loại.
Đứng về mặt quản lý xã hội mà xét, việc xuất khẩu lao động bằng con đường chính thức là hình thức có hiệu quả vì nó bảo đảm sự ổn định bảo đảm sử dụng có hiệu quả sử dụng và hạn chế tối đa các tiêu cực trong môi giới tổ chức. Di dân động bằng con đường chính thức luôn được các chính phủ tạo điều kiện phát triển.
Di cư lao động không chính thức hay còn gọi là di cư lao động không theo hợp đồng, là việc lao động bằng con đường không thông qua Nhà nước của nước lao động ra đi và nước lao động đến thực hiện việc di cư.
Lao động di cư theo hình thức được thực hiện bằng cách: thông qua các tổ chức buôn lậu người để vào nước sử dụng lao động, thông qua hình thức du lịch, thăm thân nhân, sau đó ở lại nước sử dụng lao động trốn khỏi nơi được chỉ định làm việc ngay cả khi đang còn thời hạn hợp đồng hoặc sau quá trình học tập và lao động ở nước ngoài không trở về nước mà ở lại nước xây dựng lao động
Sau quá trình nhất thể hoá châu âu, các khối liên minh kinh tế khác dần hình thành, chính sách sử dụng lao động của một số nước đã thay đổi để phù hợp với xu thế chung của sự hợp tác nên di cư bằng hình thức không theo hợp đồng càng có cơ hội phát triển.
Đây là hình thức di cư có số lượng ngày càng tăng. Do không phải qua các thủ tục phức tạp của xuất nhập cảnh và đáp ứng yêu cầu về thời gian của thị trường nên số lượng di cư ở một số thị trường có khi lớn hơn số lượng di cư theo con đường chính thức.
Tuy nhiên, việc di cư lao động không thông qua chính phủ thương làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực. Đã có vụ hàng chục người bị chết trong contener khi di cư bằng con đường này do contener chứa hoá chất độc hoặc trả lương mà không dám khiếu nại vì bản thân là lao động bất hợp pháp nên không được pháp luật nước sở tại bảo vệ. Người Việt Nam di cư lao động ở các nước thị trường Đông Âu, SNG sau năm 1991 và phần nào ở Hàn Quốc hiện nay là theo con đường không chính thức
Xem xét hiện tượng di cư lao động quốc tế trong qúa trình lịch sử cho ta thấy có một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, sự chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các quốc gia, giữa các vùng tạo ra luồng lao động di cư. lịch sử phát triển kinh tế các quốc gia trên thế giới cho thấy việc di cư có thể do chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai nhưng luồng di cư do nguyên nhân kinh tế chiếm nhiều nhất. Do quy luật phát triển không đều giữa các quốc gia, khu vực trên nên dân cư ở nước này, khu vực này có mức sống cao hơn quốc gia, khu vực kia. Khi mà các phương tiện giao thông càng thuận lợi hơn, việc giao thương giữa các quốc gia khu vực có mức sống thấp di cư đến quốc gia, khu vực có mức sống cao hơn để tìm kiếm việc làm, tìm kiếm cuộc sống tốt hơn là một quy luật trong cuộc đấu tranh sinh tồn của con người kể từ khi con người xuất hiện trên trái đất này. Hơn nữa tại các quốc gia phát triển hơn cũng có điều kiện cho con người có thể hiện được tài năng sáng tạo nên thu hút được những người có học vấn cao đến làm việc
Về phía các nước nhập cư, sự tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia, các khu vực trên thế giới thường kéo theo sự phát triển và mở rộng sản xuất dịch vụ. Khi đó, nguồn lao động trong nước không đáp ứng được nhu cầu về số lượng chủng loại, gây tình trạng thiếu hụt lao động. Để đảm bảo sự phát triển các nước này phải tính đến việc nhập khẩu lao động nước ngoài.
Kinh tế phát triển làm cho mức sống được cải thiện và nâng cao hơn. Đây cũng là nguyên nhân cho lao động từ các nước nghèo hơn muốn đến tìm việc để thu nhập cao hơn ở các nước có thu nhập cao, lao động có mức sống cao, có điều kiện nâng cao trình độ giáo dục và nghề nghiệp. Họ có điều kiện thuận lợi để chọn các công việc phù hợp, có thu nhập cao và không muốn làm những công việc giản đơn, năng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Do đó tạo ra khoảng trống rất lớn về nhu cầu lao động đối với các công việc đó. Các nước này buộc phải nhận lao động nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt.
Thứ hai, sự mất cân đối nguồn lao động với số chỗ làm việc trong nước khủng hoảng tài chính của các khu vực trên thế giới. Tại một số nước đang phát triển có tỉ lệ tăng dân số hàng năm cao, nguồn nhân lực dồi dào trong khi sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu về chỗ làm việc khiến các nước này phải đương đầu với sức ép về dân số và việc làm. Tình trạng thất nghiệp tăng lên.
Trong khi đó, có những nước đất rộng người thưa, có nhu cầu khai thác đất đai, tài nguyên cho sự phát triển nên thiếu lao động hoặc có một số nước phát triển thu nhập quốc dân đầu người cao, trình độ dân chí cao, người dân không muốn có con hoặc không muốn có nhiều con tỉ lệ sinh thấp, đời sống vật chất cao, các điều kiện chăm sóc con người ngày càng tốt nên tỉ lệ chết thấp dẫn đến tỉ lệ phát triển dân số thấp, dân số ngày càng "già" đi làm cho dân số trong độ tuổi lao động ngày càng giảm cũng dẫn đến tình trạng thiếu lao động
1.1.4. Những nhận định về xuất khẩu lao động của Huyện Kinh Môn
Trong thời kỳ tới, để tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với xuất khẩu lao động cần phải quán triệt quan điểm cơ bản sau:
Một là, Nguyên tắc thị trường trong xuất khẩu lao động là việc chấp nhận sự cạnh tranh quốc tế về thị trường lao động ngoài nước. Đó là chuẩn bị những loại lao động mà thị trường cần, cung cấp các loại lao động với chất lượng mang tính cạnh tranh. Trong khi xu thế toàn cầu hoá về kinh tế ngày càng gay gắt thì trên thị trường xuất khẩu lao động quốc tế sự cạnh tranh cũng không kém phần khốc liệt, đòi hỏi việc hoạch định các chính sách và thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu lao động phải lấy nguyên tắc thị trường làm nguyên tắc chủ yếu cho các hoạt động của mình.
Thực hiện nguyên tắc thị trường trong xuất khẩu lao động bao gồm cả việc chấp nhận một cách chọn lọc sự tham gia của các thành phần kinh tế trong lĩnh vực xuất khẩu lao động phù hợp các quy định của pháp luật.
Hai là, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết của Đại Hội lần thứ IX của Đảng đã xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Do đó, xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh tế cần đảm bảo nguyên tắc đó trong hoạt động của mình.
Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường có nghĩa là tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong xuất khẩu lao động thể hiện ở chỗ các chính đối với người lao động đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của họ và nhằm các mục đích chung khác của xã hội, bảo đảm sự công bằng, dân chủ trong xuất khẩu lao động, không để những tác động xấu của thị trường ảnh hưởng đến người lao động, nhất là đối với người nghèo.
Ba là, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động theo phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá.
Cũng như xuất khẩu các loại hàng hoá khác, xuất khẩu lao động đòi hỏi phải có thị trường, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, cuộc cạnh tranh gay gắt về tranh giành thị trường xuất khẩu lao động càng khốc liệt mà phần thắng thuộc về những quốc gia có chiến lược đúng đắn. Như phần thực trạng trên đây đã trình bày, hiện nay chúng ta mới đưa lao động xuất khẩu đến 2 nước là Đài Loan và Malaysia . Do vậy, để phát triển xuất khẩu lao động chúng ta phải đưa ra các biện pháp để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường và giữ thị trường .
Chiếm lĩnh thị trường là việc nước ta tham gia vào một thị trường nào đó ví dụ một số thị trường như Malaysia, Đài Loan là những thị trường chúng ta mới tham gia. Để có thể đưa lao động vào các thị trường trên, chúng ta đã kiên trì công tác chuẩn bị một số năm trước đó, đã có hàng chục thậm chí hàng trăm cuộc gặp của các công ty xuất khẩu lao động các nhân viên chính phủ và cơ quan chính phủ để cuối cùng có được thoả thuận nhận lao động của các nước đó.
Đối với thị trường lao động ta đang làm việc việc giữ được thị trường là một vấn đề quan trọng. Trong khi vẫn phải tăng nhu cầu nhập khẩu lao động.
Bốn là, chuẩn bị tốt nguồn lao động xuất khẩu
Nguồn lao động chuẩn bị xuất khẩu là một vấn đề rất quan trọng để thực hiện chiến lược xuất khẩu lao động
Cũng như xuất khẩu hàng hoá, chúng ta sẽ không thể có sản phẩm xuất khẩu để xuất đi hoặc có xuất đi cũng bị trả lại nếu chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu quy định của nước nhập khẩu. Để có nguồn lao động xuất khẩu đạt tiêu chuẩn, chúng ta phải có chiến lược phát triển nguồn.
Nguồn lao động cho xuất khẩu bao gồm số lượng, chất lượng và chủng loại lao động. Trong những năm qua, Huyện Kinh Môn đã chú ý đến nhiều nguồn lao động dưới góc độ số lượng, còn chất lượng và chủng loại chưa được đề cập đúng mức. Do vậy, để chuẩn bị tốt nguồn lao động về chất lượng và chủng loại cần phải chú ý dến công tác đào tạo phổ thông cho đến dạy nghề, đại học, cao đẳng và trung học, định hướng công tác đào tạo, trong đó chú trọng đào tạo thợ trong đó thợ có tay nghề giỏi là yếu tố then chốt.
1.2.Bộ máy đảm nhận xuất khẩu lao động của huyện Kinh môn
Trong những năm vừa qua, việc lao động đi xuất khẩu ở huyện Kinh Môn đã có sự thay đổi về quy mô cũng như hình thức xuất khẩu.
Trước đây, người lao động đi xuất khẩu thường qua môi giới, hoặc qua các công ty xuất khẩu lao động, nhưng đã có không ít người lao động bị lừa, vì các công ty này không có giấy phép của nhà nước về quyền được xuất khẩu lao động. Chính vì những hiện tượng trên mà Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo xuống các cấp, các ngành, địa phương thành lập Ban chỉ đạo ( BCĐ) về xuất khẩu lao động nhằm giúp người lao động yên tâm hơn trong quá trình tham gia đi xuất khẩu cũng như những quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động tại nước bạn.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, của Sở lao động tỉnh Hải Dương về việc thành lập BCĐ xuất khẩu lao động, nên Huyện Kinh Môn đã thành lập một bộ máy đảm nhận việc xuất khẩu lao động. Đồng thời chỉ đạo các xã, thị trấn thành lập BCĐ về xuất khẩu lao động, tạo tành một khối liên kết chặt chẽ.
Với lực lượng lao động trong huyện là 91.514 lao động năm 2003 chiếm tỷ lệ 55,61% trong tổng số dân trong huyện là 164.569 người. Thêm vào đó, trong những năm vừa qua cũng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và của Huyện kinh Môn nói riêng. Lực lượng lao động của huyện cũng cũng có bước chuyển đổi rõ nét. Lao động công nghiệp chiếm 50,42%, lao động phổ thông chiếm 14,48%, còn lao động khác chiếm tỷ lệ 35,1%. Chính vì vậy, dựa vào tiềm năng về lao động cho nên Sở lao động TBXH tỉnh đã phân công cho các công ty xuất khẩu lao động về các huyện để tuyển chọn, từ đó giúp các công ty xuất khẩu lao động tuyển được lao động có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu của bên nhận lao động xuất khẩu.
Với những chức năng của BCĐ là tuyển chọn lao động, hướng dẫn lao động làm các thủ tục như vay vốn ngân hàng, khám sức khoẻ, làm hộ chiếu cũng như tuyên truyền sâu rộng đến người lao động, nhằm giúp người lao động hiểi rõ hơn lợi ích của việc xuất khẩu lao động như giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo... Đồng thời, qua việc tuyên truyền này giúp người lao động tránh được những rủi ro không đáng có gây thiệt hại đến người lao động như hiện tượng lừa đảo, hay việc lao động đi xuất khẩu thông qua môi giới.
Để thực hiện được các chức năng nhiệm vụ đó BCĐ đã phân công rõ ràng các vị trí trong BCĐ gồm : Trưởng ban, Phó ban, Phó ban thường trực, Các uỷ viên.
Trưởng Ban
Phó Ban
Phó Ban thường trực
Các ủy viên
Trưởng Ban: Phụ trách tất cả các mặt của vấn đề về xuất khẩu .
Đây là một vị trí quan trọng, nó có tính quyết định đến sự thành bại của xuất khẩu lao động. Vị trí này đòi hỏi người lãnh đạo phải có kinh nghiệm trong vấn đề quản lý, hay nói cách khác người lãnh đạo phải có trình độ chuyện môn cao mới đáp ứng được yêu cầu đề ra. Với trình độ Đại Học, chuyện ngành Kinh tế và chính trị, cộng với 4 năm kinh nghiệm. Hiện nay, trưởng BCĐ đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụcủa mình là thành lập kế hoạch cũng như việc triển khai kế hoạch trong những năm vừa qua.
Phó Ban: Phụ trách công tác phối hợp với sở công an hướng dẫn thủ tục làm xuất nhập cảnh cho người lao động, chủ trì phối hợp với các ngành, xây dựng biện pháp ngăn chặn, xử lý các hiện tượng lừa đảo gây thiệt hại với người lao động tham gia xuất khẩu.
Với chức vụ đảm nhận hiện nay là trưởng công an huyện, với trình độ Đại Học An ninh, cộng với 3 năm kinh nghiệm làm công tác xuất khẩu lao động.
Cho nên việc hướng dẫn người lao đọng làm thủ tục xuất nhập cảnh cũng là chức năng nhiệm vụ của ngành công an, đông thời ngăn chặn, xử lý các hành vi, hiện tượng lừa đảo gây thiệt hại cho người lao động.
Phó Ban thường trực: Với chức vụ là trưởng phòng tổ chức LĐXH cho nên có nhiệm vụ lập kế hoạch điều phối số lượng, vùng tuyển lao động xuất khẩu , tổng hợp chung tình hình để báo cáo thường vụ Huyện uỷ, UBND huyện và báo cáo Sở LĐTBXH.
Các Uỷ viên: Phụ trách công tác cụ thể của từng mảng nên rất rõ ràng và chính xác.
Một uỷ viên thuộc phòng Kế hoạch - Tài chính – Thương mại và khoa học phụ trách công tác cân đối ngân sách, kinh phí cho hoạt động BCĐ và hoạt động triển khai công tác XKLĐ
Một uỷ viên thuộc trung tâm ytế chủ trì việc phối hợp với sở ytế hướng dẫn khám sức khoẻ cho người lao động
Một uỷ viên thuộc phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn – phụ trách công tác triển khai đề án trong các HTX dịch vụ nông nghiệp và các vùng nông thôn
Một uỷ viên là Bí thư Đoàn TNCSHCM phụ trách công tác triển khai đề án tổ chức Đoàn thanh niên từ huyện đến cơ sở
Một uỷ viên là chủ tịch Hội cựu chiến binh huyện phụ trách công tác triển khai đề án đến các hội viên cựu chiến binh từ huyện đến cơ sở
Có thể nói, với một mô hình quản lý chặt chẽ trừu trên xuống dưới và đặc biệt với sự phân công hợp lý từng công việc cho từng thành viên trong BCĐ, cộng với trình độ chuyên môn đảm bảo cho công tác xuất khẩu lao động đã tạo nên một khối vững chắc trong vấn đề về xuất khẩu lao động.
1.3. Công tác tuyển dụng XKLĐ, đối với lao động thông qua tỉnh, huyện hoặc các trung tâm dịch vu việc làm.
Đăng ký danh sách dự tuyển tại các trung tâm
1
Các trung tâm gửi danh sách dự tuyển cho công ty
2
Công ty tổ chức tuyển chọn và phổ biến các chế độ, thủ tục, nghĩa vụ quyền lợi cho người lao động
3
Các trung tâm tổ chức phát hồ sơ, kiển tra sức khỏe, làm hộ chiếu cho người lao động
4
Trước đây lao động đi xuất khẩu ở huyện đi theo con đường tự do, nghĩa là người lao động tự tìm hiểu hoặc qua báo chí, bạn bè người thận giới thiệu cho mình công ty xuất khẩu lao động. người lao động tự đến công ty rồi tham gia khoá học đào tạo nghề, giáo dục định hướng, song sau đó hoàn tất các thủ tục cần thiết để bay. Điều đó không tránh khỏi người lao động bị lừa rồi bị trả về nước. Với những thực trạng trên Đảng và Nhà nước ta đã ra quyết định cho các tỉnh thành phố thành lập BCĐ về xuất khẩu lao động, từ đó tạo cho người lao động một tâm lý ổn định khi tham gia xuất khẩu lao động.
Thực hiện chỉ thị số 41/CT – TW ngày 22/9/1998 của Bộ chính trị về xuất khẩu lao động và chuyện gia, nghị định số 152/1999/NĐ - CP ngày 20/9/1999 của chính phủ quy định người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Thực hiện nghị quyết số 20/NQ – TU ngày 11/6/2002 của Ban thường vụ Tỉnh Uỷ Hải Dương, chỉ thị số 14/2002/CP – UB ngày 24/6/2002 của UBND tỉnh Hải Dương.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của thường trực Huyện Uỷ Kinh Môn về công tác xuất khẩu lao động và quyết định số 326 ngày 1/7/2002 của UBND huyện Kinh Môn về việc thành lập BCĐ xuất khẩu lao động. BCĐ huyện Kinh Môn đã xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch xuất khẩu lao động giai đoạn 2002 – 2005.
* Trước tiên BCĐ đề ra mục tiêu xuất khẩu lao động từ năm 2002 – 2005 là xuất khẩu được từ 800 – 1000 lao động, trong đó chủ yếu là lao động khu vực nông thôn và những người có khó khăn về kinh tế. Mục tiêu năm 2002 xuất khẩu được 200 lao động, các năm tiếp theo mỗi năm 250 – 300 lao động.
* Sau đó BCĐ xác định nội dung, giải pháp xuất khẩu lao động:
Tuyên truyền sâu rộng, chỉ thị số 41/CT – TW ngày 22/9/1998 của Bộ chính trị về xuất khẩu lao động và chuyện gia, nghị định số 152/1999/NĐ - CP ngày 20/9/1999 của chính phủ quy định người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tuyên truyền, nghị quyết số 20/NQ – TU ngày 11/6/2002 của Ban thường vụ Tỉnh Uỷ Hải Dương, chỉ thị số 14/2002/CP – UB ngày 24/6/2002 của UBND tỉnh Hải Dương.
Thông báo công khai về thị trường lao động, số lượng, tiêu chuẩn tuyển chọn, điều kiện làm việc và mức lương được hưởng, các khoản người lao động phải đóng góp, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thủ tục hồ sơ... để ngăn chặn kịp thời các thông tin thất thiệt, các hành vi lừa đảo người lao động.
Về thị trường xuất khẩu lao động : Thị trường xuất khẩu lao động ở nhiều nước, nhưng giai đoạn đầu tập chung cho thị trường ở Malaysia là nơi có nhu cầu lao động lớn, các chi phí cho trình độ tay nghề, chuyên môn phù hợp với người lao động Việt Nam, nhất là lao động nghèo ở nông thôn thuộc huyện.
Về giải pháp hỗ trợ vốn cho người đi xuất khẩu lao động:
Căn cứ đề án xuất khẩu lao động giai đoạn 2002 – 2005 của UBND Tỉnh Hải Dương thì giải pháp hỗ trợ vốn cho người lao động xuất khẩu là :
Bản thân người lao động tự tìm nguồn vốn.
Các ngân hàng chuyên doanh cho vay vốn xuất khẩu lao động theo quy định số 440/2001 ngày 17/4/2001 của ngân hàng nhà nước.
UBND tỉnh dùng quỹ giải quyết ciệc làm của tỉnh để hỗ trợ những người thộc diện chính sách với mức vay vốn không quá 50% số tiền phải nộp.
Các thủ tục cho người lao động xuất khẩu vay theo đúng các quy định hiện hành của nhà nước. UBND xã đứng ra tín chấp cho người lao động có nhu cầu vay vốn
Về khoản kinh phí khi đào tạo giáo dục định hướng ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% người đi xuất khẩu phải nộp 50% kinh phí còn lại.
* Ban chỉ đạo các xã triển khai trong các ban ngành, tuyên truyền các văn bản của nhà nước, của các cấp các ngành về xuất khẩu lao động. Tuyên truyền về điều kiện, tiêu chuẩn về người đi xuất khẩu lao động và chế độ quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động đi xuất khẩu để nhân dân và người lao động hiểu rõ.
* Lập danh sách người lao động đăng ký đi xuất khẩu.
* Báo cáo danh sách người lao động có nhu cầu đi xuất khẩu về BCĐ huyện
* BCĐ huyện tổng hợp danh sách các xã, báo cáo danh sách đăng ký người lao động đi xuất khẩu của huyện về BCĐ tỉnh
* BCĐ tỉnh thông báo cho công ty xuất khẩu lao động và thống nhất với công ty về thời gian sơ tuyển lao động đồng thời thông báo cho BCĐ huyện để BCĐ huyện thông báo cho các xã, các xã thông báo cho người lao động về thời gian sơ tuyển.
* Tổ chức khám sức khoẻ, tổ chức đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động.
* Người lao động làm các thủ tục xin cấp hộ chiếu, thủ tục vay vốn ( nếu có) và hoàn tất các giấy tờ ở xã, phường
* BCĐ các xã, thị trấn, BCĐ huyện gửi danh sách xin ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0343.doc