Giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc

MỤC LỤC 2.4.Tỷ lệ lưu ban 16 2.5.Xếp hạng học lực của học sinh 16 2.6.Các chỉ tiêu đánh giá về quy mô giáo dục 16 2.7.Nhóm chỉ tiêu đánh giá nguồn lực và cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục 17 3. Chỉ số mức chênh lệch PAR 17 4. Công bằng xã hội trong giáo dục 18 III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 19 1.Các nhân tố về giáo dục 19 1.1. Tỷ lệ nhập học 19 1.2 . Chất lượng dạy học 19 1.3 Các vấn đề về ngân sách 21

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2. Các nhân tố phi giáo dục 21 2.1. Các nhân tố về kinh tế 21 2.2. Các nhân tố về tự nhiên và xã hội 22 PHẦN II: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 24 I.TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC CÁC CẤP CHO TRẺ EM NGHÈO KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 24 1.Giáo dục mầm non 24 1.1 Khái niệm về giáo dục mầm non 24 1.2 Thực trạng giáo dục mầm non tại khu vực miền núi phía Bắc 24 2.Giáo dục tiểu học 28 2.1. Thực trạng giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc 28 2.2 Các chỉ số đánh giá thực trạng giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc 29 3. Giáo dục trung học cơ sở 34 3.1 Tổng quan về cấp giáo dục trung học cơ sở tại miền núi phía Bắc những năm qua 34 3.2 Các chỉ số đánh giá thực trạng giáo dục trung học cơ sở tại khu vực miền núi phía Bắc 36 II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 39 1.Khả năng tiếp cận giáo dục 39 1.1.Khả năng tiếp cận giáo dục mầm non 39 1.2.Khả năng tiếp cận giáo dục tiểu học 40 1.3.Khả năng tiếp cận giáo dục trung học cơ sở 41 2.Những khó khăn còn tồn tại 44 3. Nguyên nhân của những tồn tại 46 PHẦN III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO KHU VỰC 49 MIỀN NÚI PHÍA BẮC 49 I.ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 49 1.Định hướng phát triển giáo dục Việt Nam 49 1.1. Xu thế phát triển giáo dục 49 1.2.Mục tiêu và định hướng trong kế hoạch hành động quốc gia giáo dục cho mọi người 2003-2015 49 2.Định hướng phát triển giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc 53 2.1 Định hướng về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giáo dục tại vùng 53 2.2 Định hướng về công tác phổ cập giáo dục 53 2.3 Định hướng về phát triển đội ngũ giáo viên 54 II. PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 55 1.Một số phương hướng chủ yếu 55 1.1 Thực hiện tốt công tác tiếp cận và phổ cập giáo dục cho trẻ em nghèo 55 1.2 Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo 55 1.3 Đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành kế hoạch kiên cố hóa trường lớp 55 1.4 Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ 56 1.5 Chấn chỉnh tăng cường nền nếp, kỷ cương bổ sung cán bộ quản lý 56 2. Phương hướng tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo 56 2.1 Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo tại khu vực miền núi phía Bắc 56 2.2 Xây dựng đội ngũ giáo viên có chất lượng 57 2.3 Phát triển hệ thống trường lớp, hoàn thiện công tác tiếp cận giáo dục 57 III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 58 1.Giải pháp tiếp cận giáo dục mầm non 58 1.1. Mở rộng mục tiêu tiếp cận 58 1.2 Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục mầm non 59 1.3. Đào tạo cán bộ quản lý có năng lực 60 1.4 Cải thiện và nâng cao điều kiện học tập của học sinh mầm non 60 2. Giải pháp tiếp cận giáo dục cơ bản (tiểu học và trung học cơ sở ) cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc. 61 2.1 Tăng cường cơ sở vật chất 61 2.2 Tăng cường đầu tư cho giáo dục 61 2.3 Phát triển đội ngũ quản lý giáo dục 62 2.4 Giải pháp thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở 63 2.5 Đáp ứng nhu cầu học tập cho trẻ em khu vực miền núi phía Bắc 64 2.6 Nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục 64 2.7 Giải pháp đối với giáo viên 65 2.8 Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục 66 C. KẾT LUẬN 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 68 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1 : Tỷ lệ nghèo chung và nghèo lương thực, thực phẩm của khu vực miền núi phía Bắc (%) 4 Bảng 2 : Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo vùng (nghìn đồng) 4 Bảng 3: Tỷ lệ học sinh dân tộc trong tổng số học sinh. (%) 26 Bảng 4: Tỷ lệ nhập học giáo dục mầm non 2000 chia theo vùng 27 Bảng 5: Tỷ lệ nhập học giáo dục mầm non năm 2005 chia theo vùng 27 Bảng 6: Tỷ lệ tuyển mới thô ở cấp tiểu học năm 2005, phân theo vùng 30 Bảng 7: Tỷ lệ nhập học thô cấp tiểu học phân theo vùng năm 2005 31 Bảng 8: Tỷ lệ lưu ban theo lớp cấp tiểu học ở các vùng (%) 32 Bảng 9: Tỷ lệ học sinh học đến lớp cuối cấp của tiểu học phân theo vùng 33 Bảng 10: Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tiểu học 34 Bảng 11: Tỷ lệ tuyển mới thô vào lớp 6 ở các vùng ( năm học 2005-2006) 36 Bảng 12: Tỷ lệ nhập học thô cấp trung học cơ sở ở các vùng năm 2005 (%) 37 Bảng 13: Tỷ lệ suy trì đến lớp 9 tại các vùng 38 Bảng 14: Phần trăm giáo viên trung học cơ sở đạt chuẩn đào tạo 38 A. LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế xã hội ở khu vực miền núi phía Bắc có nhiều chuyển biến, một số mặt xã hội được cải thiện, đặc biệt là giáo dục đào tạo. Vai trò quan trọng của công tác giáo dục và đào tạo tại các tình miền núi phía Bắc đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là mục tiêu hàng đầu và tất yếu trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi phía Bắc, đưa khu vực miền núi phía Bắc dần trở thành khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước. Do đó, ngay từ bây giờ, cần phải đẩy mạnh và tăng cường hiệu quả của công tác giáo dục tại khu vực miền núi phía Bắc, lấy giáo dục làm tiền để để thực hiện phát triển kinh tế xã hội sau này. Và nhân tố quyết định đó chính là thế hệ các em học sinh tại nơi đây. Tuy nhiên, do còn nhiều khó khăn và bất cập, một số các em học sinh nghèo, có hoàn cảnh khó khăn tại vùng miền núi phía Bắc khó có cơ hội để tiếp cận với giáo dục. Điều này cho thấy công tác tiếp cận giáo dục tại khu vực miền núi phía Bắc còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc phải tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục tại khu vực miền núi phía Bắc, em đã lựa chọn: “Giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc” làm đề tài chuyên đề thực tập. Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn – người đã tận tình góp ý, hướng dẫn và chỉ bảo em trong suốt quãng thời gian thực tập, giúp em có thể hoàn thành bài chuyên đề thực tập này. Em xin chân thành cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Đức Minh – phó giám đốc trung tâm chuyên biệt, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục – Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhiệt tình hướng dẫn và chỉ bảo em trong những ngày tháng thực tập tại Viện. B. NỘI DUNG PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC Tổng quan về khu vực miền núi phía Bắc Về vị trí địa lý Như chúng ta đã biết, khu vực miền núi phía Bắc nước ta là khu vực địa đầu của Tổ quốc, bao gồm 14 tỉnh, là địa bàn kinh tế xã hội quan trọng của cả nước, gồm Lai Châu (cả tỉnh Điện Biên mới), Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang. Đây là khu vực có diện tích rộng lớn , giáp với biên giới Trung Quốc, rất thích hợp cho giao lưu hàng hóa, thương mại giữa hai nước. Khu vực miền núi phía Bắc có nguồn tiềm năng to lớn về đất đai, tài nguyên, khoáng sản, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là thương mại du lịch. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó, khu vực miền núi phía Bắc cũng còn nhiều khó khăn về điều kiện địa lý như khí hậu khắc nghiệt, quanh năm phải lo đối phó với thiên tai như lũ lụt, cháy rừng. Đường sá đi lại khó khăn, đồi núi còn trập trùng, điều này có ảnh hưởng không nhỏ trong việc phát triển khu vực miền núi phía Bắc trở thành vùng kinh tế trọng điểm của đất nước như Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Về Kinh tế - Xã hội Đời sống kinh tế xã hội ở miền núi phía Bắc nước ta còn nhiều khó khăn, cuộc sống của người dân còn thấp, nền kinh tế còn nhiều lạc hậu, phần lớn vẫn dựa chủ yếu vào nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt cá. Tỷ lệ hộ nghèo trong vùng còn cao (43,19 %), nền kinh tế chậm phát triển, tính đến nay vẫn là vùng nghèo nhất cả nước. Nguyên nhân là do sức cạnh tranh kinh tế kém, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không vững chắc và năng lực quản lý kém dẫn đến nhiều lĩnh vực được triển khai nhưng rất chậm và không đạt hiệu quả. Đa số các chỉ tiêu đạt thấp so với các khu vực khác trong cả nước. Bảng 1 : Tỷ lệ nghèo chung và nghèo lương thực, thực phẩm của khu vực miền núi phía Bắc (%) 2002 2004 Cả nước Tỷ lệ nghèo chung 28,9 19,5 Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm 9.9 6.9 Đông Bắc Tỷ lệ nghèo chung 38.4 29.4 Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm 14.1 9.4 Tây Bắc Tỷ lệ nghèo chung 68.0 58.6 Tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm 28.1 21.8 Nguồn tổng cục thống kê Tập tục du canh du cư vẫn còn nặng nề, cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông lâm nghiệp độc canh; chăn nuôi chưa tách khỏi trồng trọt để đi vào sản xuất hàng hoá; thế mạnh về rừng, cây công nghiệp chưa được phát huy mạnh mẽ; ngành nghề cũng chưa phát triển; làm cho kinh tế trung du, miền núi còn đơn điệu, nặng về nông lâm nghiệp tự nhiên Bảng 2 : Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo vùng (nghìn đồng) 1999 2002 2004 Cả nước 295.0 356.1 484.4 Đông Bắc 210.0 268.8 379.9 Tây Bắc 197.0 265.7 Nguồn tổng cục thống kê Tỉ lệ học sinh bỏ học giữa chừng cao, nhiều nơi chưa có đủ trường lớp để học; tình trạng suy dinh dưỡng, bệnh tật, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao do chưa được chăm sóc tối thiểu về y tế. Tất cả những kết quả đó đều do trình độ kinh tế xã hội của khu vực miền núi phía Bắc còn thấp và nhiều lạc hậu. Dân số và lao động Khu vực miền núi phía Bắc nước ta tập trung khá đông dân cư sinh sống, hiện có khoảng 12 triệu người sinh sống, thuộc hơn 30 dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc Tày, Thái, Mường, Kinh chiếm tỷ trọng lớn. Toàn vùng có 1,45 triệu hộ nông dân sống rải rác ở các làng bản nhỏ theo từng dân tộc gắn chặt với rừng và đất rừng. Nhìn chung, dân cư ở các tỉnh trong vùng sống thưa thớt, mật độ khoảng 90 người/km2, một số tỉnh như Lai Châu có mật độ dân số rất thấp (27 người/km2), ở vùng sâu, vùng xa chỉ có 6-8 người/km2. Trình độ dân trí trong vùng nói chung thấp. Hiện tượng tái mù chữ trong dân cư còn phổ biến. Bên cạnh đó, phong tục tập quán còn nhiều lạc hậu. Đó chính là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đói nghèo của một bộ phận khá đông dân cư. Chất lượng nguồn lao động của các tỉnh trong vùng cũng thấp hơn các vùng khác. Tỷ lệ người không biết chữ trong độ tuổi lao động cao, có nơi tới 80-90%. Về cơ sở hạ tầng Về giao thông : mặc dù một số tỉnh có hệ thống đường sắt chạy qua, hệ thống đường bộ gần đây đã có sự phát triển khá, nhiều tuyến đường đến tỉnh lỵ, huyện lỵ và một số tuyến đường ô tô đến xã. đã được nâng cấp và trải nhựa, tạo thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu và phát triển kinh tế, nhưng vấn đề giao thông ở miền núi phía Bắc còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với vùng cao, vùng sâu vùng xa. Khó khăn nhất về giao thông ở các tỉnh trong vùng hiện nay là hệ thống đường đến các xã chưa tốt, một số xã chưa có đường ô tô đến, giao thông còn bị tác động xấu của thời tiết khí hậu, nhất là về mùa mưa thường bị tắc, đi lại rất khó khăn. Về thuỷ lợi : nhìn chung hệ thống thuỷ lợi đã được xây dựng tương đối khá ở các huyện vùng thấp, nhưng với các huyện vùng cao thì còn nhiều bất cập. Trong những năm tới cần phải có sự đầu tư mạnh mẽ hơn, nhất là ở các huyện vùng cao, đặc biệt cần có chiến lược để giải quyết vấn đề lũ quét, vấn đề hạn hán cục bộ ở những vùng khó khăn về nguồn nước. Về văn hóa và con người Trình độ văn hóa của khu vực miền núi phía Bắc nhìn chung còn thấp, nhận thức của người dân chưa cao. Trình độ dân trí eo hẹp cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Người dân không có ý thức về tầm quan trọng của việc tiếp cận giáo dục, đổi mới phương thức canh tác theo hướng hiệu quả, nhận thức còn hạn hẹp, do đó dẫn đến tình trạng nền kinh tế ngày càng khó phát triển. Cuộc sống phụ thuộc nhiều vào yếu tố thiên nhiên, mô hình chủ yêu được người dân nơi đây áp dụng vẫn là kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại, tự cung tự cấp. Phần lớn người dân không được tiếp cận với những phương tiện thông tin đại chúng, văn hóa người dân còn lạc hậu, cổ hủ. Chính những điều này đã gây ra những khó khăn trong cả phát triển kinh tế lẫn xã hội nơi đây Sự cần thiết của việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục đối với trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc Cơ sở lý luận về giáo dục cho người nghèo Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách có liên quan đến vẫn đề hỗ trợ giáo dục cho người nghèo và quán triệt đến từng địa phương, đặc biệt là tại những khu vực còn nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế xã hội như vùng núi phía Bắc. Những chủ trương, chính sách, và đường lối giáo dục cho người nghèo của Đảng và Nhà nước ta đã đề cập và nhấn mạnh đến vấn đề kiên quyết không để cho học sinh bỏ học vì nghèo, phối hợp thực hiện tốt chính sách cho học sinh vay tiền đi học. Hỗ trợ học sinh nghèo về trang thiết bị cần thiết cho học tập như sách vở, bút thước, có chính sách về miễn giảm học phí, bảo đảm điều kiện cho các em học sinh nghèo có điều kiện đến trường và theo học. Có những chính sách và các quỹ khen thưởng cho những học sinh nghèo vượt khó, tạo động lực cho các em hăng say trong học tập, vượt qua những mặc cảm và cản trở của sự nghèo khó, giúp các em vươn lên, trở thành những con người tri thức Vai trò quan trọng của giáo dục đối với trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục đối với trẻ em khu vực miền núi phía Bắc, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (Điều 36) có nêu :“... Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn...”. Đặc biệt, năm 2001, Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX nhấn mạnh “Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống trường lớp, cơ sở vật chất - kỹ thuật các cấp học, mở thêm các trường nội trú, bán trú và có chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho vùng này...” và “... Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập, tiếp tục phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú dành cho con em dân tộc thiểu số, chú trọng quyền được học tập của nhân dân ở trên hai nghìn xã nghèo nhất...” Như chúng ta đã biết, cuộc sống của người dân miền núi phía Bắc phần lớn là còn nhiều khó khăn, quanh năm vất vả mà vẫn không đủ ăn, nhiều gia đình không cho con em đến trường, bắt ở nhà đi làm để phụ giúp thêm cho kinh tế gia đình. Họ không nhận thức được sự cần thiết của giáo dục. Bên cạnh đó cũng có những nguyên nhân khách quan như do trình độ phát triển kinh tế còn thấp, hệ thống giao thông còn yếu kém, tình trạng thiếu trường thiếu lớp còn phổ biến, đi lại khó khăn cũng dẫn đến khả năng tiếp cận giáo dục nơi đây còn hạn chế. Chính vì thế cần phải tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nơi đây Do đó tình trạng học sinh bỏ học của khu vực miền núi phía Bắc là rất phổ biến, tỷ lệ học sinh bỏ học thuộc các cấp học rất cao, và đi đôi với nó là chất lượng học tập còn nhiều hạn chế. Điều này được phản ánh thông qua bảng tỷ lệ học sinh bỏ học và tỷ lệ học sinh lưu ban của khu vực miền núi phía Bắc so với các vùng miền khác. Thông qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy tỷ lệ học sinh bỏ học và tỷ lệ học sinh lưu ban ở khu vực miền núi phía Bắc là rất đáng báo động. Vì vậy việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ở khu vực miền núi phía Bắc được đặt ra như là một yêu cầu cấp thiết hiện nay trong điều kiện còn nhiều khó khăn và bất cập. Việc nâng cao chất lượng giáo dục cho khu vực miền núi phía Bắc là góp phần thực hiện chiến lược lâu dài về xóa đói giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của người dân, và từng bước thực hiện mục tiêu đưa khu vực miền núi phía Bắc trở thành khu vực kinh tế trọng điểm. Nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc là góp phần đem lại tri thức cho trẻ em nghèo nơi đây, giúp các em được tiếp cận với giáo dục một cách bình đẳng, nâng cao học vấn, trình độ và tạo điều kiện cho các em sau này có thể thoát ra khỏi cuộc sống khó khăn. Để có thể thoát khỏi nghèo đói thì phải nâng cao trình độ học vấn cho người nghèo, do đó việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo ở khu vực miền núi phía Bắc là giải pháp quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở nơi đây. Triển vọng của việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục Để có thể thực hiện tốt việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại khu vực miền núi phía Bắc thì việc đầu tiên và trước nhất là phải chú trọng tới các bậc học mầm non và tiểu học và từ đó làm tiền đề cho giáo dục trung học cơ sở. Kinh tế xã hội ngày càng phát triển Kinh tế xã hội của cả nước ngày một được nâng cao, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, điều này cũng có tác động một cách tích cực đến khu vực miền núi phía Bắc. Cùng với sự quan tâm đúng đắn và chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, khu vực miền núi phía Bắc trong tương lai không xa sẽ ngày một phát triển cả về kinh tế lẫn xã hội. Điều này sẽ góp phần đặc biệt quan trọng trong công tác tiếp cận giáo dục tại nơi đây Chính sách về kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước ta đối với khu vực miền núi phía Bắc Nhà nước ta đã có ban hành rất nhiều chính sách đúng đắn và kịp thời, nhằm phát triển kinh tế xã hội tại khu vực miền núi phía Bắc trong đó tập trung vào vấn đề bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào các dân tộc thiểu số có cơ hội phát triển bình đẳng với dân tộc đa số. Đảng và Nhà nước ta đã xác định : Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi là sự nghiệp chung của cả nước. Nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách phát triển vùng dân tộc, miền núi trước hết là phục vụ trực tiếp đồng bào các dân tộc tại chỗ, đồng thời còn vì lợi ích quốc gia, vì lợi ích chung của nhân dân cả nước, giữ gìn, bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Đầu tư cho phát triển vùng dân tộc và miền núi là đầu tư cho sự nghiệp phát triển chung, lâu dài và bền vững của đất nước. Đó là những nhận thức mang tính khoa học cao, thể hiện tầm nhìn bao quát chiến lược của các nhà hoạch định chính sách dân tộc. Chính sách phát triển vùng dân tộc và miền núi được xây dựng, thực hiện trên cơ sở chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển chung của cả nước. Nó được cụ thể hoá từ chính sách chung cho phù hợp điều kiện thực tế vùng dân tộc và miền núi. Chính sách phát triển vùng dân tộc và miền núi đúng đắn, hiệu quả sẽ là một động lực phát triển mạnh mẽ và tạo sự ổn định, bền vững cho đất nước. Và thực tế cho thấy, nó đã và đang được áp dụng một cách có hiệu quả tại khu vực miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn này Nhận thức của cộng đồng được nâng cao hơn Tốc độ phát triển nhanh chóng của các phương tiện thông tin đại chúng và các kênh thông tin tuyên truyền giáo dục về pháp luật, phổ biến kiến thức khoa học, xã hội đã giúp cho nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là nhận thức về quyền của trẻ em được nâng cao. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp đều hiểu rõ về sự bình đẳng về cơ hội trong giáo dục của mọi trẻ em. Các gia đình đã chủ động trong việc chọn lựa trường lớp và đưa trẻ đến trường. Sự kỳ thị, phân biệt trẻ em theo hoàn cảnh xuất thân, địa vị gia đình hoặc khiếm khuyết hầu như đã được xoá bỏ. Những trường hợp phân biệt đối xử còn tồn tại rất cá biệt và không nhận được sự đồng tình của cộng đồng, xã hội. Đây chính là tiền đề quan trọng cho sự tham gia giáo dục tại tất cả các cơ sở giáo dục, đào tạo của trẻ có hoàn cảnh khó khăn tại khu vực miền núi phía Bắc. Chất lượng giáo dục ngày càng được cải thiện cả về số lượng và chất lượng Chúng ta đang có tiền đề quan trọng là giáo dục tiểu học cũng đã phát triển và tất cả các xã thuộc khu vực miền núi phía bắc đều đã có trường tiểu học. Các hình thức tổ chức dạy học và nội dung giáo dục đặc thù cho trẻ là người dân tộc thiểu số đã được chú ý. Nhiều trường tiểu học vùng vùng núi phía bắc đã đạt chuẩn Quốc gia. Việc dạy 2 buổi/ngày cũng đã phát triển đến các xã vùng cao, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Một số lượng nhất định giáo viên tiểu học của các tỉnh miền núi phía bắc đã được bồi dưỡng về giáo dục, dạy học cho trẻ khuyết tật. Mạng lưới giáo dục tiểu học đã có tới thôn/ bản và được tổ chức đa dạng cũng là cơ sở tốt để thực hiện việc tiếp cận giáo dục cho trẻ em khu vực miền núi phía Bắc. Tỷ lệ số học sinh bỏ học và lưu ban đang có xu hướng giảm dần qua các năm, chất lượng của công tác giáo dục đào tạo trên địa bàn khu vực miền núi phía Bắc ngày một được cải thiện. Số lượng trường lớp học có tính chất tập trung cũng ngày một tăng. Xã hội hóa giáo dục ngày càng được quan tâm Ngoài các yếu tố quan trọng bên trong hệ thống, công tác xã hội hoá giáo dục tại khu vực miền núi phía bắc cũng đã thu được kết quả ban đầu. Nhận thức về xã hội hóa giáo dục của các ngành các cấp và xã hội có chuyển biến tích cực với những kết quả quan trọng. Công tác tuyên truyền, vận động các lực lượng xã hội chăm lo cho giáo dục đã được triển khai ở các địa phương và bước đầu có hiệu quả. Cơ sở pháp lý của việc phát triển giáo dục cho trẻ em Cơ sở về mặt hiến pháp Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam kiểu mới, Hiến pháp 1946 đã quy định về quyền được giáo dục và giáo dưỡng của trẻ em. Nhà nước đảm bảo cho trẻ em được giáo dục, học tập, được chăm sóc về mặt giáo dưỡng. Có thể thấy mặc dù chỉ có 2 điều song Hiến pháp 1946 đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng định các quyền cơ bản và thiêng liêng của trẻ em, bao gồm quyền được học tập và chăm sóc. Đáng chú ý, tại Hiến pháp 1980, ngoài việc kế thừa các Hiến pháp 1946, đã quy định thêm rằng Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho công tác chăm sóc sức khoẻ, cho hoạt động học tập, giáo dục, sinh hoạt văn hoá tinh thần của trẻ em. Đây là lần đầu tiên tại Hiến pháp, quyền lợi của trẻ em được đặt bên cạnh trách nhiệm của gia đình trong việc nuôi dạy, chăm sóc giáo dục trẻ em. Cho tới Hiến pháp 1992, Quyền trẻ em được gói gọn trong khoảng hơn 10 điều, với nội dung toàn diện hơn, thể hiện nhân sinh quan, một nhận thức mới đối với vấn đề quyền trẻ em một cách bao quát. Một lần nữa, Hiến pháp khẳng định các quyền cơ bản, thiêng liêng của trẻ em, gồm quyền được học tập, chăm sóc và bảo vệ về mặt sức khoẻ, thể chất. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng đối với trẻ em năng khiếu, trẻ em tàn tật hoặc có hoàn cảnh khó khăn. Hiến pháp nhấn mạnh: “nghĩa vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là của gia đình, Nhà nước và xã hội”. Cơ sở về mặt pháp luật Từ sau đổi mới, Quốc hội Việt Nam cũng đã thảo luận, xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng hướng tới công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày một tốt hơn như: "Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em" (1991; 2004), "Luật Phổ cập Giáo dục tiểu học" (1991), “Luật Giáo dục” (1998) “Luật Giáo dục sửa đổi và bổ sung ”(2005) Điều 1, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (2004) chỉ rõ: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”. Điều đó nghĩa là trẻ em ở đây được giới hạn thấp hơn Công ước LHQ về Quyền trẻ em 2 tuổi. Theo luật này, Điều 16 khẳng định: “Trẻ em có quyền được học tập. Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí”. Điều 17 luật này cũng chỉ ra: “Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí lành mạnh, được hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa tuổi”. Tại Điều 9, Luật Giáo dục (1998) đã ghi: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, giới tính, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội hoặc hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, đảm bảo điều kiện để những người học giỏi phát triển tài năng. Nhà nước ưu tiên tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng hưởng chính sách ưu đãi, người tàn tật và đối tượng hưởng chính sách xã hội khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình”. Giáo dục cho trẻ em chính là tạo nền tảng cho sự phát triển sau này. Thông qua những điều trên ta có thể thấy rõ được vai trò quan trọng của giáo dục trẻ em đối với xã hội. Đây là một yêu cầu vô cùng cấp bách hiện nay và đòi hỏi phải dồn nhiều công sức cũng như tâm huyết của không những những người làm công tác giáo dục, thực hiện chính sách mà đây là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, cộng đồng, nhà trường và gia đình. Giúp cho trẻ em được hưởng đúng và đầy đủ quyền lợi của mình. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC Các chỉ tiêu đo lường việc tiếp cận giáo dục Tỷ lệ đi học đúng tuổi Tỷ lệ đi học đúng tuổi là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá phổ cập giáo dục và khả năng huy động trẻ em đến trường. Việc tăng tỷ lệ đi học đúng tuổi ở các bậc học luôn là mối quan tâm của chính phủ, ngành giáo dục của cả nước và các vùng. Tỷ lệ đi học đúng tuổi là tỷ lệ % giữa số học sinh đang học ở 1 cấp học nhất định đúng độ tuổi chuẩn của các cấp học đó so với tổng số trẻ em ở độ tuổi chuẩn của cấp học đó. = Số người trong độ tuổi cấp học x 100 Dân số độ tuổi cấp học X Tỷ lệ đi học Là tỷ lệ % giữa số học sinh đang học ở một cấp học (không kể độ tuổi) so với tổng số trẻ em ở độ tuổi chuẩn cho các cấp học đó. TLHĐ = Số người đang đi học cấp X x 100 Dân số trẻ em trong độ tuổi cấp X Tỷ lệ đi học đặc trưng theo tuổi (cấp X) Là tỷ lệ % giữa số học sinh trong độ tuổi chuẩn của cấp học ( cấp X) so với tổng số trẻ em ở độ tuổi chuẩn của các cấp học đó = Số người trong độ tuổi cấp X đang đi học x 100 Dân số độ tuổi học cấp X Tỷ lệ phổ cập trung học cơ sở Tỷ lệ phổ cập trung học cơ sở được chia thành ba cấp sau: Xã phường; Quận huyện, thị xã và Tỉnh thành phố. Tỷ lệ đạt chuẩn PCTHCS = Tổng số xã, quận ....đạt chuẩn PCTHCS x 100 Tổng số xã , quận huyện.... 1.4.1 Cấp xã, phường, thị trấn Duy trì, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, số trẻ em 6 tuổi đi học lớp 1 đạt tỷ lệ từ 90% trở lên, có ít nhất 80% số trẻ em ở độ tuổi 11 – 14 tốt nghiệp tiểu học, trẻ em còn lại trong độ tuổi này đang học tiêu học. Đối với vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, huy động số trẻ em 6 tuổi đi học lớp 1 đạt tỷ lệ từ 80% trở lên và có ít nhất 70% số trẻ em ở độ tuổi 11 đến 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học. Hàng năm, huy động số học sinh tốt nghiệp tiểu học vào trung học cơ sở đạt tỷ lệ từ 95% trở lên, ở những xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn từ 80% trở lên. Bảo đảm tỷ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 – 18 đều tốt nghiệp trung học cơ sở từ 80% trở lên, ở những xã có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn là từ 70 % trở lên. Hàng năm, bảo đảm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở từ 90% trở lên, ở những xã có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn từ 75% trở lên 1.4.2 Cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh Đối với các cấp quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh thì tỷ lệ phổ cập trung học cơ sở phải đạt ít nhất 90% số xã phường thị trấn đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. 1.4.3 Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Đối với các cấp này thì tiêu chí đặt ra là phải đạt 100% số quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và chất lượng của giáo dục Chỉ tiêu hiệu quả trong giáo dục Là tỷ lệ % số học sinh tốt nghiệp cấp X học năm kết thúc so với tổng số học sinh vào đầu cấp X HQT (cấp X) (t) = HSTN cấp X (t) x 100 HS có mặt đầu cấp cấp X * (t – (k – 1)) HQT (cấp X) (t) : hiệu quả giáo dục cấp X năm t HSTN cấp X (t) : Số lượng học sinh tốt nghiệp cấp X năm t K: số năm học mỗi cấp Chỉ tiêu tỷ lệ biết chữ Là tỷ lệ % số người từ 10 tuổi trở lên biết chữ so với dân số 10 tuổi trở lên. TLBC= Số người biết chữ 10 tuổi trở lên x 100 Dân số từ 10 tuổi trở lên Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học hàng năm Là tỷ lệ % học sinh sau khi dự kỳ thi tốt nghiệp cấp học X vào năm t được hội đồng chấm thi công nhận là tốt nghiệp = Số học sinh thi đỗ tốt nghiệp cấp học X x 100 Tổng số học sinh dự thi tốt nghiệp cấp học X Tỷ lệ lưu ban Tỷ lệ lưu ban lớp G năm học t là số % học sinh lưu ban lớp G trong năm học t so với tổng số học sinh lớp G trong cùng năm học Tỷ lệ học sinh lưu ban (G) Tổng số học sinh lưu ban (G) x 100 Tổng số học sinh (G) Xếp hạng học lực của học sinh Kết quả học tập của học sinh bao gồm số lượng và tỷ lệ học sinh xếp loại học lực: Xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, yếu, kém cũng là căn cứ quan trọng để đánh giá chất lượng dạy và học Các chỉ tiêu đánh giá về quy mô giáo dục Để thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển giáo dục, nhóm chỉ tiêu về quy mô hoạt động giáo dục có thể xem là chỉ tiêu trung gian. Nó là cơ sở để đặt ra các mục tiêu, chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu này lại là căn cứ để xác định các chỉ tiêu về nguồn lực cho phát triển giáo dục. 2.6.1 Số lượng học sinh theo các cấp học phổ thông Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô học sinh của các cấp phổ thông, và thông qua chỉ tiêu này thì các cấp nhà nước mới có cơ sở để thực hiện phân bổ ngân sách chi tiêu cho giáo dục một cách hợp lý và hiệu quả. Và từ đó đánh giá được cơ cấu trong độ tuổi đi học cũng như quy mô giáo dục tại địa phương. 2.6.2 Tốc độ tăng số lượng học sinh các cấp học = Tổng số học sinh cấp học X (t)- Tổng số học sinh cấp học X (t-1) x 100 Tổng số học sinh cấp học X (t-1) Chỉ tiêu này phản ánh được quy mô tăng số lượng học sinh tham gia vào các cấp học. 2.6.3 Tỷ lệ bỏ học Chỉ tiêu này tác động đến quy mô học sinh của các cấp học, lớp học. Tỷ lệ bỏ học được chia thành: Tỷ lệ bỏ học của cấp học và của lớp học Tỷ lệ bỏ học của cấp học là số học sinh đã bỏ học của tất cả các lớp trong một cấp học nào đó trong năm học xác định, tính bình quân trên 100 học sinh nhậ._.p học cấp học đó trong cùng một năm học 2.6.4 Số học sinh trên một lớp học Là tỷ lệ giữa số học sinh của một cấp học so với số lớp học ở cấp đó (gọi là tỷ lệ học sinh/lớp học) = Tổng số học sinh cấp học X Tổng số lớp học cấp học X Nhóm chỉ tiêu đánh giá nguồn lực và cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục Đây được coi là các chỉ tiêu biện pháp để thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục và đáp ứng yêu cầu về qui mô hoạt động giáo dục. Các chỉ tiêu nhóm này bao gồm số lượng chất lượng của trường học, phòng học phục vụ cho việc dạy và học. Ngoài ra còn có chỉ tiêu để đánh giá việc phân bố địa điểm trường học, sao cho gần trung tâm nhất, thuận tiện cho việc đi học và dạy học của giáo viên cũng như học sinh Quy mô và chất lượng giáo viên cũng là một tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá giáo dục của một địa phương. Chỉ tiêu này thể hiện chất lượng cũng như số lượng về nguồn nhân lực của lĩnh vực giáo dục phổ thông. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm tốc độ tăng giáo viên, số giáo viên / lớp học, số học sinh/ giáo viên và chất lượng của giáo viên. 3. Chỉ số mức chênh lệch PAR Mức độ chênh lệch giữa các vùng, nhóm dân cư về tình trạng giáo dục được thể hiện thông qua việc tính toán chỉ số PAR ( Population Antributable Risk – Sự rủi ro gắn với dân số). Chỉ số này vốn được sử dụng trong dịch tễ học để đo lường mức độ của những rủi ro gắn với dân số. Bản chất của PAR là sự chênh lệch ( độ lớn của sự thay đổi cần có) để toàn thể xã hội có được ưu thế ( mức tiến bộ) tương đương như mức độ của nhóm dân cư hiện có ưu thế nhất. Mở rộng ra có nghĩa là mức chênh lệch giữa đối tượng được so sánh ( có thể là toàn thể hoặc chỉ là một bộ phận) và một đối tượng được chọn làm chuẩn ( đối tượng có ưu thế nhất ) về mức độ rủi ro đối với một hiện tượng nào đó ( ví dụ trong trường hợp này là chênh lệch giữa các vùng về tỷ lệ đi học tiểu học đúng tuổi của trẻ em 6-10 tuổi) PAR được xác định như là một tỷ lệ giữa giá trị tuyệt đối của hiệu số giữa giá trị bình quân chung ( L) và giá trị của nhóm dân cư có ưu thế nhất (la) và giá trị bình quân chung của chỉ tiêu là đối tượng so sánh PAR giảm thì chênh lệch giảm và ngược lại Tình trạng công bằng trong giáo dục cũng là một nhân tố quan trọng để xác định khả năng đánh giá và tiếp cận giáo dục cua địa phương cũng như có cách thức để tiến hành thực hiện việc nâng cao chất lượng tiếp cận sao cho có hiệu quả nhất 4. Công bằng xã hội trong giáo dục Các nhóm đối tượng dễ bị thiệt thòi nhất trong giáo dục phổ cập bao gồm Trẻ em, con của các hộ gia đình thuộc nhóm dân cư yếu thế Những người có thu nhập thấp (nghèo, không nơi nương tựa) Dân tộc ( ít người ) Giới tính ( nữ) Vùng, địa lý ( Thành thị - Nông thôn, vùng sâu, vùng xa) Đối tượng chính sách xã hội ( con thương binh, liệt sĩ) Những người không có việc làm Những đối tượng có sức khỏe yếu, không đảm bảo Trẻ em khuyết tật, bị nhiễm HIV, chất độc da cam, trẻ em lang thang, cơ nhỡ, bị ngược đãi và bị lạm dụng Do đó cần phải có một sự quan tâm đặc biệt sao cho tất cả mọi đối tượng đều bình đẳng và đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận với giáo dục, tránh tình trạng phân biệt đối xử, bất công trong công tác giáo dục nói chung và tiếp cận giáo dục nói riêng. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là một mục tiêu cơ bản của giáo dục. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách nhằm thực hiện mục tiêu này, tạo cơ hội tiếp cận với giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở các vùng còn nhiều khó khăn. Và việc đánh giá mức độ công bằng trong giáo dục được thể hiện ở các tiêu chí sau: Khoảng cách về tiếp cận với giáo dục giữa các nhóm dân tộc Khoảng cách chênh lệch về tiếp cận giáo dục giữa các vùng Cơ hội tiếp cận với giáo dục theo nhóm thu nhập Chênh lệch giữa nam và nữ trong tỷ lệ nhập học các cấp CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC Các nhân tố về giáo dục Tỷ lệ nhập học - Tỷ lệ trẻ nhập học ở các cấp học thấp : Trẻ 5 tuổi chưa được đi học mẫu giáo trước khi vào lớp 1 còn chiếm tỷ lệ cao. Do đó việc huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 gặp nhiều khó khăn. - Nhận thức của người dân về tầm quan trọng của giáo dục còn nhiều hạn chế do đó dẫn đến tình trạng trẻ em không được đến trường. 1.2 . Chất lượng dạy học - Chất lượng dạy học chưa cao. Kết quả thi tốt nghiệp THPT năm học 2006-2007 đã cho thấy rất rõ điều đó. Tình trạng lưu ban, bỏ học ở các vùng núi phía bắc vẫn là hiện tượng phổ biến. Tỷ lệ học sinh bỏ học, theo nguồn của Bộ GD&ĐT năm học 2005-2006: Đông Bắc (5,1%), Tây Bắc (7,1%), do vậy hiệu quả giáo dục ở những vùng này cũng thấp nhất cả nước. - Việc bỏ học nhiều dẫn tới tình trạng không học hết cấp học, huy động đi học lại khó khăn. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc huy động trẻ em nghèo ra lớp. Nguyên nhân lưu ban bỏ học cao thường rất đa dạng, nhưng chủ yếu do học sinh học yếu, kém, không theo được chương trình; do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, các em phải nghỉ học giúp gia đình lao động sản xuất; do đường tới trường xa, nhiều trường không có nơi trọ học (KTX)... - Các hình thức và nội dung giáo dục đặc thù chưa phát triển vững chắc. Lớp ghép chưa được quản lí. Việc dạy tiếng dân tộc triển khai chưa vững chắc. Do đó nếu trong lớp ghép, có học sinh thuộc các dân tộc khác nhau và thêm học sinh nghèo sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc bảo đảm chất lượng giáo viên, dạy học và giáo viên rất khó thực hiện theo đúng chương trình. - Giáo dục hướng nghiệp dạy nghề cũng chưa phù hợp với nhu cầu và điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của vùng miền núi phía bắc. - Về cơ bản, số lượng giáo viên Trung học cơ sở đã đủ theo nhu cầu giảng dạy. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên thường xuyên thay đổi, thiếu các điều kiện để nâng cao chất lượng dạy học. Mặt khác, nếu xem xét số liệu theo từng vùng thì những vùng khó khăn nhất vẫn là những nơi có tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn thấp nhất (năm học 2006-2007 Tây Bắc đạt 93,5%; Đông Bắc đạt 94,3%). Hầu như tất cả giáo viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chăm sóc, giáo dục trẻ em nghèo. Do đó giáo viên thiếu những hiểu biết thấu đáo về học sinh nghèo, về phương pháp dạy học phù hợp với trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc. - Một số giáo viên người kinh được cử lên công tác chưa yên tâm với công việc, nhất là số giáo viên công tác ở vùng cao, vùng khó khăn do chưa có chính sách một cách thỏa đáng nhằm thu hút giáo viên, gây ra sự thiếu tâm huyết và thiếu nhiệt tình. - Việc quản lí giáo dục ở vùng núi phía bắc còn nhiều bất cập. Tỷ lệ giáo viên người dân tộc thiểu số ít dẫn đến cán bộ quản lí là người dân tộc cũng ít. Trên thực tế, nhiều trường có phần lớn học sinh là người dân tộc ít người nhưng không có một cán bộ quản lí là người tộc ít người. Đội ngũ cán bộ quản lí các trường còn khá trẻ. Phần lớn họ chưa được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ quản lí một cách đầy đủ 1.3 Các vấn đề về ngân sách Như chúng ta đã biết, hiện nay nguồn ngân sách của Nhà nước cấp cho giáo dục nói chung và giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng chủ yếu vẫn dựa trên các yếu tố đầu vào như số lượng học sinh nhập học, số giáo viên, số bàn ghế, trường lớp. Điều này rất dễ dàng dẫn tới sự bất bình đẳng trong giáo dục. Cơ hội tiếp cận giáo dục giữa vùng núi và đồng bằng là khác nhau, đồng bằng đương nhiên có nhiều thuận lợi hơn trong việc tiếp cận giáo dục. Thêm vào nữa là việc phân bổ ngân sách theo đầu người sẽ dẫn đến có một số bộ phận mà cụ thể là trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói chung và trẻ em nghèo thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng sẽ chịu nhiều thiệt thòi hơn trong việc tiếp cận với giáo dục so với các trẻ em khác thuộc các khu vực khác. Điều này dẫn đến một vấn đề là chúng ta phải đổi mới công tác phân bổ ngân sách cho giáo dục, cần thực hiện phân bổ ngân sách theo đầu ra, và phải chú ý tới các yếu tố vùng miền, dân tộc, hoàn cảnh sống của đối tượng được phân bổ, các yếu tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội, cơ hội tiếp cận giáo dục. Có như vậy chúng ta mới đảm bảo được sự công bằng trong giáo dục, giúp cho công tác giáo dục được hiệu quả hơn. Tạo cơ hội tiền đề để nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc. 2. Các nhân tố phi giáo dục 2.1. Các nhân tố về kinh tế - Điều kiện kinh tế xã hội tại khu vực miền núi phía Bắc còn nhiều thiếu thốn, kinh tế phát triển thấp, điều này dẫn đến nhiều trẻ em phải bỏ học giữa chừng hoặc không được đi học để ở nhà làm việc, phụ giúp cho kinh tế gia đình. Đây là một cản trở không nhỏ trong công tác nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục nơi đây. - Kết quả xoá đói giảm nghèo tại khu vực miền núi phía bắc chưa thật vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng tăng thêm nên điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc còn nhiều hạn chế, khó khăn. Không nâng cao được mức sống của cộng đồng thì số lượng trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc khó có thể giảm được và công tác chăm sóc, việc tiếp cận giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc sẽ khó được cải thiện. 2.2. Các nhân tố về tự nhiên và xã hội - Học sinh nghèo tại địa bàn miền núi đi học thường đóng tại địa điểm rất xa nhà và nếu không nội trú hoặc bàn trú thì khó có thể theo học. Trong khi đó học sinh ở nội trú và bán chú thì kinh phí chủ yếu vẫn do gia đình chu cấp, trong khi điều kiện kinh tế của các gia đình (nếu có) còn nhiều khó khăn. Mặt khác, cán bộ, giáo viên được phân công quản lí nội trú chưa có được những hiểu biết và kĩ năng cần thiết trong công tác của mình. Do vậy, nếu không có chính sách hỗ trợ và vận động xã hội hoá phù hợp thì khả năng được đi học của trẻ vùng miền núi là rất nhỏ. Nghĩa là công tác tiếp cận giáo dục càng khó khăn hơn. - Cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu. Tỷ lệ trường lớp tạm vẫn còn cao. Thiết bị và phương tiện dạy học thiếu thốn. Do nguồn kinh phí hạn hẹp nên thực tế nhiều năm qua mới chỉ tập trung giải quyết nhu cầu về phòng học còn các loại phòng khác trong nhà trường như phòng học bộ môn, thư viện, y tế, phòng chức năng khác... đều rất thiếu. Với những vùng miền núi phía bắc, tỷ lệ trường học có các loại phòng chức năng khác là thấp nhất trong cả nước - Tại các vùng khó khăn, do đặc điểm địa lí (núi cao xa xôi, sông nước) học sinh phải đi học xa, đi bộ đường núi. Thời tiết khắc nghiệt hoặc quá lạnh, quá nóng, lũ lụt... nguy hiểm nên nhiều học sinh có nhu cầu ở lại trường nhưng các điều kiện sinh hoạt như nhà nội trú cho học sinh, khu nấu ăn, điện nước sạch, khu vệ sinh ở các trường vùng sâu, vùng dân tộc hầu như chưa có hoặc có là do cha mẹ đóng góp nên chỉ là những lều tạm thời bằng tranh tre nứa lá, không đảm bảo an toàn vệ sinh. Vì vậy khi tiếp nhận học sinh nghèo thì các trường chưa thể bảo đảm các điều kiện về an toàn và thuận lợi cho học sinh. Đây cũng là lý do mà rất nhiều trường đưa ra để chối không chịu cho học sinh nghèo vào học. - Mặt khác, do địa bàn miền núi rất rộng trong khi phương tiện, đường sá đi lại ở vùng cao rất khó khăn mà biên chế của Phòng, Sở Giáo dục và Đào tạo ở miền núi thường hạn chế, nên việc quản lí và chỉ đạo của các cấp quản lý Giáo dục và Đào tạo tới các trường gặp nhiều khó khăn. Vì vậy khi nhiều học sinh nghèo theo học thì nếu cần sự chỉ đạo, hỗ trợ giải quyết nhanh các tình huống, trường hợp đặc biệt sẽ rất khó và không kịp thời, dễ đẫn đến hậu quả tiêu cực và khó để đạt chất lượng cao. - Thêm vào đó là nhận thức của các bậc cha mẹ về tầm quan trọng của giáo dục chưa cao, điều này khiến cho công tác giáo dục bị xem nhẹ. Trình độ học vấn của cha mẹ thấp cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc bị cản trở PHẦN II THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN GIÁO DỤC CHO TRẺ EM NGHÈO TẠI KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC CÁC CẤP CHO TRẺ EM NGHÈO KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC Giáo dục mầm non 1.1 Khái niệm về giáo dục mầm non Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, Nhà nước có trách nhiệm quản lý, đầu tư phát triển giáo dục Mầm non, tập trung vào các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; Việc chăm sóc, giáo dục trẻ em phải được thực hiện với sự phối hợp gắn kết giữa nhà trường, gia đình và xã hội Để mở rộng tiếp cận cho trẻ em nghèo, giảm thiệt thòi và đảm bảo quyền học tập cho trẻ em độ tuổi nhỏ tại các thành phố lớn và các tỉnh miền núi, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 31/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 20/10/2005 về điều kiện tối thiểu cho các lớp mầm non, lớp mẫu giáo và nhóm trẻ độc lập có nhiều khó khăn ở những nơi không đủ điều kiện thành lập trường mầm non. Giáo dục mầm non có một ý nghĩa hết sức quan trọng, nó góp phần đào tạo và bồi dưỡng cho trẻ về mặt nhân cách, tri thức, giúp trang bị cho trẻ những hành trang đầu đời, góp phần nâng cao và hoàn thiện nhân cách cũng như tri thức của trẻ. Vì vậy cần phải chú trọng và nâng cao việc tiếp cận giáo dục mầm non, đặc biệt là đối với trẻ em nghèo tại khu vực miền núi phía Bắc. 1.2 Thực trạng giáo dục mầm non tại khu vực miền núi phía Bắc Với 197 xã, thị trấn của 11 huyện miền núi, sau nhiều năm mở rộng quy mô trường lớp đến nay 100% số xã, thị trấn trên địa bàn đã có trường mầm non và hệ thống các trường mầm non đã phủ kín các bản làng, kể cả các xã vùng sâu, vùng xa. Toàn khu vực đã có 197 trường mầm non, trong đó có 116 trường công lập, 86 trường bán công với 654 nhóm trẻ. 1.766 lớp mẫu giáo, năm học 2007-2008 đã thu hút gần 9.700 cháu nhà trẻ (mức huy động đạt khoảng 14%) và hơn 36.000 trẻ mẫu giáo (mức huy động đạt trên 60%). Đội ngũ cán bộ, giáo viên (CBGV) thường xuyên được tăng cường và được đào tạo đạt chuẩn ngày càng nhiều, hiện nay toàn vùng có hơn 3.800 CBGV, hơn 90% đạt chuẩn và trên chuẩn. Những năm gần đây, bằng nhiều cơ chế chính sách mới, nhiều chương trình phát triển kinh tế - xã hội... cơ sở vật chất các trường mầm non khu vực miền núi đã thay đổi hẳn. Đến nay, toàn vùng đã có 183/197 trường mầm non đã xây dựng được khu trung tâm với 2.264 phòng học và phòng chức năng, trong đó có 807 phòng kiên cố (chiếm hơn 35%), 699 phòng cấp 4 và 327 phòng tranh tre, đặc biệt ở các khu lẻ thuộc các bản vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng khó khăn... nhiều nơi cũng đã xây dựng được các phòng học... Tuy nhiên, hiện nay giáo dục mầm non khu vực miền núi vẫn đang gặp không ít khó khăn, bất cập. Đó là, cơ sở vật chất trường lớp của ngành học mầm non ở đây còn thiếu nhiều và nhiều cơ sở đã xây dựng xong nhưng không đồng bộ, có nơi không phù hợp và kém hiệu quả. Ngành học mầm non khu vực miền núi còn thiếu tới 431 phòng học (đang phải học tạm, học nhờ nhà văn hóa hoặc cơ sở khác của xã...). Đó là chưa kể còn 14 trường chưa xây dựng được khu trung tâm và nhiều trường tại các khu lẻ chưa có phòng học. Một điều đáng quan tâm là hiện nay phần lớn các trường thiếu các công trình phụ trợ và phòng chức năng như nhà bếp, nhà vệ sinh, nguồn nước, hàng rào... Trang thiết bị và đồ dùng, đồ chơi phục vụ dạy học ở các trường hiện nay đều thiếu, đều không có kinh phí để mua sắm, các cô giáo đều phải tự làm, tự thu thập, tuy nhiên vẫn không đủ và không bảo đảm, phần nhiều vẫn phải dạy chay. 1.2.1. Tỷ lệ nhập học của trẻ em dân tộc thiểu số Việc phát triển giáo dục cho trẻ em nghèo vùng đồng bào dân tộc ít người đã đạt được nhiều thành tựu về quy mô, mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất trường học, đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Năm học 2002-2003 cả nước có 208 “xã trắng” về giáo dục mầm non, số xã này tại các xã có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, đặc biệt khó khăn, đến năm học 2005-2006 không còn “xã trắng” về giáo dục mầm non. Tỷ lệ trẻ mầm non các dân tộc đi học trong tổng số trẻ em đi học trong 5 năm gần đây ngày càng tăng lên; năm học 2002-2003 chỉ có 12,88%, đến năm học 2005-2006 có 13,75% (Bảng 3) Tỷ lệ này tương đương tỷ lệ dân số các dân tộc thiểu số trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tại các vùng dân tộc thiểu số, núi cao, vùng sâu tại khu vực miền núi phía Bắc, trẻ em được học thêm chương trình tăng cường Tiếng Việt, làm cho trẻ vững vàng, tự tin khi vào học lớp 1, hạn chế lưu ban bỏ học, góp phần phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Bảng 3: Tỷ lệ học sinh dân tộc trong tổng số học sinh. (%) Năm học 2001-2002 2002-2003 2003-2004 2004-2005 2005-2006 Tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số 12,40 12,88 12,88 13,46 13,75 Nguồn: Vụ Kế hoạch-Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo Tỷ lệ trẻ nhập học phân theo vùng địa lý Các vùng địa lý – kinh tế ở Việt Nam có những khác biệt đáng kể về nhiều mặt, như điều kiện địa lý tự nhiên; mật độ dân số, dân tộc, thu nhập. Vì vậy tỷ lệ trẻ nhập học ở các vùng cũng chênh lệch nhau đáng kể. Các dữ liệu mô tả trẻ nhập học giáo dục mầm non giữa các vùng năm 2000 và 2005 dưới đây cũng phản ánh rõ thực trạng đó. Bảng 4: Tỷ lệ nhập học giáo dục mầm non 2000 chia theo vùng Tỷ lệ nhập học của giáo dục mầm non (%) Nam Nữ Tổng số Cả nước 30,73 32,47 31,58 Đồng bằng sông Hồng 47,90 50,04 48,96 Đông Bắc 27,95 33,37 30,58 Tây Bắc 27,10 28,22 27,66 Bắc Trung Bộ 42,05 44,46 43,23 Nguồn: Vụ Kế hoạch - Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo Bảng 4 cho thấy sự chênh lệch khá rõ nét trong tỷ lệ nhập học mầm non giữa các vùng miền mà đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc so với các vùng miền khác. Bảng 5: Tỷ lệ nhập học giáo dục mầm non năm 2005 chia theo vùng Tỷ lệ nhập học của giáo dục mầm non (%) Nam Nữ Tổng số Cả nước 36,83 35,59 36,23 Đồng bằng sông Hồng 54,73 51,80 53,31 Đông Bắc 41,33 40,94 41,14 Tây Bắc 38,13 36,10 37,13 Bắc Trung Bộ 45,87 48,14 46,99 Nguồn: Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo Đến năm 2005, tỷ lệ trẻ em được đi học mầm non tại các vùng miền nhìn chung là có sự tăng lên rất đáng ghi nhận, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc bao gồm Đông Bắc và Tây Bắc. Đây là kết quả của sự nỗ lực và cố gắng của Đảng và Nhà nước cũng như các cơ quan chức năng trong công cuộc đẩy mạnh công tác tiếp cận giáo dục mầm non cho khu vực miền núi phía Bắc. Tuy nhiên vẫn còn sự khác biệt tương đối đáng kể so với các vùng miền khác, điều này đặt ra một vấn đề là cần sự cố gắng hơn nữa trong việc đẩy mạnh tiếp cận giáo dục mầm non tại nơi này Tỷ lệ giáo viên được huấn luyện theo chương trình giáo dục mầm non Năm học 2000-2001 mới chỉ có 2.15% giáo viên đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên, tới năm học 2005-2006 đã có 10%. Tỷ lệ giáo viên đạt trình độ chuẩn Trung cấp sư phạm mầm non năm học 2005-2006 tăng lên gần 2 lần so với năm 2000-2001. Cùng với sự vươn lên để đạt chuẩn là sự giảm đi hơn 3 lần của tỷ lệ giáo viên có trình độ sơ cấp trở xuống (17,1/59,23) Đánh giá về chất lượng của giáo dục mầm non tại khu vực miền núi phía Bắc Những chính sách đối với giáo dục mầm non đã thực sự phát huy tác dụng trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển bình đẳng cho trẻ em giữa các vùng địa lý – kinh tế khác nhau; đồng thời đảm bảo sự công bằng giới đáng khích lệ. Nhóm trẻ em nghèo tại các dân tộc thiểu số đã nhận được sự quan tâm đặc biệt. Trẻ được phát huy tính tích cực, phát triển tư duy, ngôn ngữ trong các hoạt động học tập, vui chơi. Giáo viên được nâng cao về kỹ năng và phương pháp dạy học mới, mang lại kết quả tốt Trẻ học mầm non tại khu vực miền núi phía Bắc được làm quen với chữ cái, lễ giáo, âm nhạc, được phòng chống suy dinh dưỡng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ. Những nội dung an toàn cho trẻ, giáo dục vệ sinh, xây dựng môi trường luôn được đặt lên hàng đầu trong thực hiện chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Giáo dục tiểu học 2.1. Thực trạng giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc Trong những năm qua, mặc dù công tác giáo dục tiểu học cho trẻ em nghèo dân tộc thiểu số tại khu vực miền núi phía Bắc đã được quan tâm và đẩy mạnh, giáo dục tiểu học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều bất cập do nhiều lý do khác nhau khiến cho công tác tiếp cận giáo dục tiểu học ở nơi đây nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn và vẫn tồn tại sự chênh lệch khá rõ nét so với các vùng miền khác. Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO), 90% số trẻ em hoàn thành bậc giáo dục tiểu học trên toàn quốc. Tuy nhiên, con số này ở các vùng Tây Nguyên là 43%, ở các vùng núi phía Bắc là 48%. Như vậy, ở miền núi có tới 1/3 trẻ em không học hết lớp 5 và 70% số học sinh bỏ học là trẻ em gái. Nghiên cứu còn cho thấy, nghèo đói vẫn là rào cản chính để trẻ em gái dân tộc thiểu số chưa được hưởng một nền giáo dục có chất lượng. Các em có thể bị đói ăn, suy dinh dưỡng trước và ngay cả trong khi đi học, không đủ tiền để mua đồ dùng học tập, áo quần và thức ăn, và thường bị áp lực phải bỏ học để chăm sóc cho người thân, hay giúp đỡ cha mẹ về kinh tế. Bên cạnh rào cản nghèo đói, chất lượng dạy và học chưa đạt yêu cầu tại các địa phương cũng là rào cản đáng kể. Giáo viên thường chỉ dạy bằng tiếng Việt và chỉ dành một số ít thời gian dạy bằng tiếng mẹ đẻ, phương pháp giảng dạy nặng về thuyết trình. Các em gái do ít tiếp xúc xã hội nên việc tiếp thu bài bằng tiếng Việt không tốt, dẫn tới không hiểu bài rồi chán và bỏ học. Trường học xa nhà, đi học quá vất vả, các gia đình cũng chưa có nhận thức đầy đủ lợi ích của giáo dục. 2.2 Các chỉ số đánh giá thực trạng giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc 2.2.1. Tỷ lệ tuyển mới và nhập học vào cấp tiểu học phân theo vùng a. Tỷ lệ tuyển mới thô Tỷ lệ tuyển mới thô vào cấp tiểu học (lớp 1) cho biết kết quả sự huy động trẻ em trong độ tuổi tiểu học vào lớp 1 và khả năng đáp ứng của hệ thống giáo dục tiểu học trước nhu cầu học tập của trẻ em. Việc huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường được quan tâm đúng mức để mọi trẻ em trong độ tuổi đều được tạo cơ hội đến trường. Mấy năm qua tỉ lệ tuyển mới thô vào tiểu học (lớp 1) trong cả nước nhìn chung lớn hơn 100%, đặc biệt là tại khu vực miền núi phía Bắc, tỉ lệ này vượt xa hơn nhiều so với tỉ lệ chung của cả nước, điều đó cho thấy còn nhiều trẻ em 7 tuổi, 8 tuổi, thậm chí là 9 tuổi, 10 tuổi mới được học lớp 1. Nguyên nhân của tình trạng này là do các bậc phụ huynh chưa quan tâm đến việc cho con em đi học đúng độ tuổi, nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục của người dân tại khu vực miền núi phía Bắc chưa cao, do đó dẫn đến tình trạng trẻ em không được đi học đúng độ tuổi, nhất là trẻ em nghèo, việc học đối với các em chỉ là phụ, do nhà nghèo, kinh tế gia đình khó khăn nên các em phải ở nhà làm việc để phụ giúp kinh tế cho gia đình. Bảng 6: Tỷ lệ tuyển mới thô ở cấp tiểu học năm 2005, phân theo vùng Tỷ lệ tuyển mới thô ở cấp tiểu học, % Nam Nữ Tổng số Cả nước 101 104 102 Đồng bằng sông Hồng 95 97 96 Đông Bắc 97 93 95 Tây Bắc 112 111 112 Bắc Trung Bộ 91 94 93 Nguồn: Vụ Kế hoạch-Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tổng cục Thống kê Qua số liệu trong bảng 6 ta có thể thấy sự không đồng đều về tỉ lệ tuyển mới thô vào lớp 1 giữa vùng miền núi phía Bắc so với các vùng miền lân cận trong cả nước, rõ ràng vẫn còn một sự chênh lệch rất lớn, điều này phản ánh một thực trạng rằng công tác tiếp cận giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc vẫn còn nhiều khó khăn cần phải giải quyết, nhất là đối với các trẻ em nghèo dân tộc thiểu số. b. Tỷ lệ nhập học thô Nhìn chung tỷ lệ nhập học thô trên quy mô Quốc gia giữ ở mức khá ổn định. Tỷ lệ nhập học thô cho thấy sự phát triển bền vững của giáo dục tiểu học, thực sự đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân, mặc dù ở một số vùng khó khăn vẫn còn một số những bất cập nhất định, nhất là tại khu vực miền núi phía Bắc- nơi có nhiều trẻ em nghèo dân tộc sinh sống đang trong độ tuổi đến trường. Bảng 7: Tỷ lệ nhập học thô cấp tiểu học phân theo vùng năm 2005 Nam Nữ Tổng số Cả nước 99 98 99 Đồng bằng sông Hồng 94 95 94 Đông Bắc 100 94 97 Tây Bắc 115 99 107 Bắc Trung Bộ 89 92 91 Nguồn: Vụ Kế hoạch-Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tổng cục thống kê Qua dữ liệu của bảng 7 cho thấy có sự không đồng đều giữa các vùng, khu vực miền núi phía Bắc vẫn là khu vực có tỷ lệ nhập học thô cao đáng lưu tâm, điều này cho thấy sự phát triển của giáo dục tiểu học tại nơi đây chưa vững chắc, vẫn còn rất nhiều việc cần phải giải quyết sao cho hoàn thiện và củng cố được công tác tiếp cận giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc, mà đối tượng cần chú ý đầu tiên chính là các trẻ em nghèo tại nơi này. 2.2.2. Tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học Do có những khó khăn về địa lý, về ngôn ngữ, về chậm phát triển kinh tế xã hội nên việc học tập của trẻ em các dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc thường gặp nhiều khó khăn. Những năm vừa qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo cơ hội cho các em học sinh dân tộc thiểu số đến trường. Do sự quan tâm của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của các địa phương, nên đã mang lại những kết quả bước đầu. Tỉ lệ số học sinh dân tộc thiểu số vùng miền núi phía Bắc nhập học tăng dần hàng năm so với tổng số học sinh cấp tiểu học. Tỉ lệ này được ổn định và duy trì từ 17,5% đến 18,4%. (bảng 8) Kết quả này chứng tỏ các chế độ chính sách ưu đãi đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã phát huy tác dụng. Nhà nước đã có những chương trình phát triển kinh tế xã hội cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Đây là cơ hội để từng bước thu hẹp khoảng cách giữa vùng dân tộc thiểu số với vùng phát triển thuận lợi. Ở vùng miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn có đông đồng bào dân tộc thiểu số, việc huy động học sinh dân tộc thiểu số đến trường vẫn đạt tỷ lệ cao. 2.2.3. Tỷ lệ lưu ban theo lớp ở cấp tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc Tỷ lệ lưu ban theo lớp cho biết khả năng thực hiện thành công chính sách phổ cập giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc, đồng thời phản ánh có tính biểu kiến chất lượng dạy- học tại nơi này. Bảng 8: Tỷ lệ lưu ban theo lớp cấp tiểu học ở các vùng (%) ĐBSH Đông Bắc Tây Bắc BTB 2003-2004 Lớp 1 0,57 2,63 3,24 1,04 Lớp 2 0,13 1,03 1,53 0,38 Lớp 3 0,08 0,59 1,08 0,23 Lớp 4 0,04 0,34 0,68 0,17 Lớp 5 0,02 0,06 0,08 0,11 Toàn cấp 0,15 0,87 1,32 0,35 Nguồn: Vụ Kế hoạch-Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tổng cục thống kê Tỷ lệ lưu ban theo lớp ở các vùng có sự khác nhau rõ rệt, phản anh trình độ phát triển giáo dục của mỗi vùng Bảng 8 cho thấy sự khác biệt giữa các vùng trong tỷ lệ lưu ban theo lớp, theo đó, vùng miền núi phía Bắc vẫn là vùng có tỷ lệ lưu ban theo lớp cao nhất, điều này cũng phản ánh đúng trình độ phát triển giáo dục tại nơi đây. Một lần nữa bài toán giáo dục tiểu học lại được đặt ra, làm thế nào để có thể tiếp cận được giáo dục tiểu học cho trẻ em dân tộc thiểu số và làm thế nào để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học nơi đây. 2.2.4. Tỷ lệ học sinh học đến lớp cuối cấp của tiểu học phân theo vùng Tỷ lệ duy trì học sinh học đến lớp 5 cho biết kết quả thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc thông qua việc lưu giữ trẻ em trong độ tuổi đi học ở nhà trường, và cũng có thể so sánh và đối chiếu được với các vùng miền khác để qua đó nhận thấy được sự khác biệt và chất lượng của công tác tiếp cận và phổ cập giáo dục nơi đây Bảng 9: Tỷ lệ học sinh học đến lớp cuối cấp của tiểu học phân theo vùng Năm 2002 2003 2004 2005 Cả nước 82,01 84,13 86,11 88,25 Đồng bằng sông Hồng 97,35 97,74 98,29 98,74 Đông Bắc 75,93 79,71 80,61 83,52 Tây Bắc 62,96 66,35 75,04 79,31 Bắc Trung Bộ 91,68 92,51 94,81 96,77 Nguồn: Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy rõ thực trạng của công tác giáo dục tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc là rất đáng lo ngại, tỷ lệ học đến lớp 5 thấp hơn hẳn các vùng miền khác, điều này phản ánh một thực trạng là học sinh bỏ học giữa chừng, không theo đến lớp cuối cấp, mà nguyên nhân chính là phải ở nhà phụ giúp cho kinh tế gia đình. Rõ ràng công tác tuyên truyền giáo dục tại nơi đây còn nhiều hạn chế cần giải quyết. 2.2.5. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn cấp tiểu học Trong những năm vừa qua có thể khẳng định sự nỗ lực của các địa phương về thực hiện chủ trương “Chuẩn hóa đội ngũ giáo viên tiểu học”, coi đây là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học Bảng 10: Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tiểu học 2002 2003 2004 2005 Cả nước 88% 92% 94% 95% Đồng bằng sông Hồng 97% 99% 98% 96% Đông Bắc 92% 91% 96% 96% Tây Bắc 89% 99% 93% 100% Bắc Trung Bộ 88% 96% 98% 98% Nguồn: Vụ Kế hoạch-Tài chính, Bộ Giáo dục & Đào tạo Bảng 10 có thể cho chúng ta thấy rõ tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn tiểu học tại khu vực miền núi phía Bắc đang ngày càng tăng lên, và có những tiến bộ rất lớn, từ 89% năm 2002, đến năm 2005 đã tăng lên xấp xỉ gần 100%. Điều này chứng tỏ sự quan tâm thích đáng của ngành trong việc nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học ở khu vực miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn, từng bước thu hẹp khoảng cách với các vùng khác có điều kiện thuận lợi hơn. 3. Giáo dục trung học cơ sở 3.1 Tổng quan về cấp giáo dục trung học cơ sở tại miền núi phía Bắc những năm qua Như chúng ta đã biết, những năm qua, tình hình phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho các tỉnh thuộc vùng miền núi phía Bắc đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Mạng lưới trường lớp được mở rộng, cơ sở vật chất trường học được tăng cường, thu hút đại bộ phận trẻ em có nhu cầu đi học được đến trường. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó thì vẫn còn rất nhiều vấn đề tồn tại trong công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở tại vùng núi phía Bắc. Điển hình trong đó là tình trạng học sinh lưu ban, bỏ học giữa chừng. - Tình trạng lưu ban, bỏ học ở các vùng núi phía bắc vẫn là hiện tượng phổ biến. Tỷ lệ học sinh bỏ học, theo nguồn của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm học 2005-2006: Đông Bắc (5,1%), Tây Bắc (7,1%), do vậy hiệu quả giáo dục ở những vùng này cũng thấp nhất cả nước. Việc bỏ học nhiều dẫn tới tình trạng không học hết cấp học, huy động đi học lại khó khăn. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc huy động trẻ em nghèo ra lớp. Nguyê._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28552.doc