Giải pháp tăng cường huy vốn tại Công ty XNK Hai Bà Trưng

Lời nói đầu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vốn đều được xem là yếu tố không thể thiếu, là đòi hỏi đầu tiên bắt buộc phải có và đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Đối với một nền kinh tế mới vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta hiện nay, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển của các do

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1164 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường huy vốn tại Công ty XNK Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp rất lớn. Do đó, đi tìm lời giải về vốn hay nói cách khác là các biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp là vấn đề mang tính thời sự và thiết thực đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Là một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực ngoại thương, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đương nhiên không nằm ngoài xu thế này. Trong quá trình thực tập tại Công ty, được sự giúp đỡ và hướng dẫn rất nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn và các cô chú trong Công ty, em đã bước đầu được làm quen với thực tế, nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, vận dụng lý luận vào thực tiễn và từ thực tiễn làm sáng tỏ hơn những lý luận được nghiên cứu trong nhà trường. Qua đó, em đã chú trọng đi sâu nghiên cứu đề tài: Giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng - một trong những vấn đề, mà theo em, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường quốc tế. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương I. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II. Thực trạng huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. Chương III. Giải pháp tăng cường huy vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. Bằng những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập ở trường và những kiến thức có được qua học hỏi thầy cô, bạn bè, các cô chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn em đã hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn cô, các cô các chú trong Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, các thầy cô giáo trong khoa và bạn bè đã giúp đỡ em trong thời gian vừa qua. Chương I Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Sự cần thiết phảI huy động vốn đối với doanh nghiệp Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn được đầu tư vào sản xuất kinh doanh với mục đích cơ bản là tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu. Vậy vốn là gì ? Trong thực tế đã có rất nhiều quan điểm khác nhau khi nói về vốn của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp được coi là toàn bộ giá trị được ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo, tức là không tham gia vào một quá trình sản xuất riêng biệt nào mà trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ lúc mới hình thành đến lúc kết thúc. Vốn trong doanh nghiệp được thể hiện dưới dạng giá trị tiền tệ và đồng thời đại diện cho một giá trị tài sản nhất định. Thông thường, người ta hiểu vốn là tiền thuần tuý, tuy nhiên cần phải phân biệt vốn và tiền. Muốn có vốn thì phải có tiền song có tiền cũng chưa hẳn là có vốn. Tiền được gọi là vốn chỉ khi nó thoả mãn những điều kiện sau: - Tiền phải được đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tức là nó phải được bảo đảm bằng một lượng tài sản có thực. - Tiền phải được tích tụ và tập trung một lượng nhất định. Sự tích tụ và tập trung một lượng tiền là để làm cho nó có đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh, cho dù là một dự án nhỏ. - Khi đã có đủ về lượng, tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lợi. Cách vận động và phương thức vận động của tiền tệ là khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong quá trình vận động đó, tiền có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, điểm xuất phát ban đầu và điểm cuối cùng của vòng tuần hoàn phải là giá trị- là tiền. Ta có thể chứng minh điều này qua mô hình vận động của vốn tiền tệ trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau sau: Đối với doanh nghiệp sản xuất, mô hình vận động của tiền là: TLLĐ T --- H ….….. SX …….. H’………T’ ĐTLĐ Đối với doanh nghiệp thương mại ta có mô hình: T---- H ---- T’ Trong doanh nghiệp tiền tệ mô hình vận động đơn giản hơn cả: T---- T’ Kết thúc một chu kỳ vận động, dù là ở doanh nghiệp nào, đồng tiền cũng phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn giá trị ban đầu của nó (T’>T). Điều này thể hiện khả năng sinh lợi của vốn tiền tệ - đây vừa là mục đích sản xuất kinh doanh vừa là phương tiện để vốn được bảo tồn và tăng trưởng, tiếp tục vận động ở chu kỳ sau. Như vậy, vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng phải là tiền được vận động với mục đích sinh lợi. Trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào, dù ở bất cứ cấp độ nào doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp, vốn là điều kiện tiên quyết, là điểm xuất phát được ứng ra để chuyển hoá thành các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn phải có trước khi diễn ra hoạt động sản xuất kinh doanh, sau đó được sử dụng vào kinh doanh, và sau một chu kỳ hoạt động, nó phải được thu về để tiếp ứng cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn của doanh nghiệp không thể bị mất đi, vì đồng nghĩa với mất vốn là nguy cơ phá sản. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, mọi hoạt động từ việc xác định mục tiêu cho đầu tư dài hạn, tìm nguồn tài trợ cho đến việc đưa ra các quyết định tài chính ngắn hạn - tức là ba vấn đề quan trọng đầu tiên của doanh nghiệp, đều gắn liền tới các hoạt động có liên quan đến vốn. Như vậy rõ ràng, vốn là bộ phận không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và do đó việc huy động, đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc huy động đủ vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục từ khâu mua sắm vật tư, sản xuất, cho đến tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có được các bí quyết, các công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, hạ giá thành sản phẩm… Để thực hiện được điều này, doanh nghiệp cần phải có vốn để hoạt động và đầu tư. Huy động vốn có ý nghĩa quyết định đến quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là trong thời đại bùng nổ khoa học và công nghệ như ngày nay thì nhu cầu vốn lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết và có xu thế tăng không ngừng. Nó giúp doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế trong cạnh tranh. Huy động vốn còn ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động hay việc đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, khi muốn tham gia kinh doanh vào một lĩnh vực mới nào, doanh nghiệp cũng phải có một lượng tiền lớn cho việc đầu tư máy móc sản xuất, dây chuyền công nghệ, xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm… Nếu không có khả năng tài chính mạnh doanh nghiệp khó có thể thực hiện được hoạt động này dù là ngay ở những bước đầu tiên như phân tích thị trường, xây dựng phương án kinh doanh… Cuối cùng, việc đảm bảo nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp chống đỡ được những tổn thất, rủi ro trong quá trình hoạt động, đặc biệt là những lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro như ngân hàng. Như vậy, có thể thấy, huy động vốn là hoạt động có ý nghĩa đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn nền kinh tế trong những năm qua cũng cho thấy doanh nghiệp nào có lượng vốn càng lớn thì càng có thế chủ động trong kinh doanh và có thể thắng được trong cạnh tranh. Ngược lại doanh nghiệp nào thiếu vốn kinh doanh, không có chiến lược tài trợ trước mắt cũng như lâu dài thường đánh mất vai trò của mình trên thị trường, mất bạn hàng thường xuyên ổn định, không tạo ra sức mạnh và hiệu quả tổng hợp trong kinh doanh. Tuy nhiên, đối với mỗi doanh nghiệp, để có được lượng vốn mong muốn không phải là điều đơn giản và trong quá trình xây dựng kế hoạch tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải cân nhắc xem sẽ huy động vốn từ những nguồn nào, với chi phí tương ứng là bao nhiêu… để có được cơ cấu vốn hợp lý nhất? 1.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp Chúng ta đều đã thấy rằng vốn là điều kiện không thể thiếu đối với một doanh nghiệp. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể như: ngành nghề kinh doanh, quy mô, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật, chiến lược phát triển… mà mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp ngày càng được đa dạng hoá, giải phóng các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thúc đẩy sự hút vốn vào các doanh nghiệp. Sau đây là các nguồn vốn và các phương thức huy động vốn mà các doanh nghiệp có thể sử dụng. 1.2.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp. Vốn của một doanh nghiệp là cơ sở vật chất cho hoạt động của doanh nghiệp. Có thể nói sự tồn tại và độ tin cậy của một doanh nghiệp trước đối tác phụ thuộc vào cấu trúc vốn và tư cách pháp lý của doanh nghiệp. Trong đó, cấu trúc vốn thể hiện tỷ trọng các nguồn vốn huy động trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông thường vốn, của một doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn sau: 1.2.1.1. Căn cứ vào thời gian luân chuyển: ta có thể phân chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn. Thông thường những nguồn vốn có thời hạn hoàn trả từ 1 năm trở nên gọi là nguồn dài hạn còn những nguồn vốn có thời hạn hoàn trả dưới một năm gọi là nguồn ngắn hạn. Trong nguồn dài hạn người ta còn phân ra nguồn dài hạn với thời gian hoàn trả từ ba năm trở nên (có nơi tính từ 5 năm) và nguồn trung hạn (từ 1 năm đến 3 năm). Tuy nhiên tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại thực tế không giống nhau giữa các nước, ngay cả các ngân hàng cũng có thể phân loại khác nhau. 1.2.1.2. Xét trên góc độ quyền sở hữu đối với các khoản vốn: ta có vốn chủ sở hữu và nợ. Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn của chính chủ doanh nghiệp, được hình thành từ vốn góp ban đầu cho việc thành lập doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn bổ sung trong quá trình kinh doanh (lợi nhuận để lại, thu từ nhượng bán tài sản…), chênh lệch đánh giá lại tài sản, các quỹ của doanh nghiệp, vốn đầu tư xây dựng cơ bản… Vốn vay là các nguồn vốn hình thành từ việc đi vay từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái phiếu, vay doanh nghiệp khác, sử dụng tín dụng thương mại… Đây là cách phân loại được sử dụng phổ biến hơn các hình thức khác bởi nó giúp các doanh nghiệp nắm được tình hình tài chính của mình dựa trên việc so sánh phần vốn chủ sở hữu với phần được tài trợ từ các chủ nợ, đồng thời xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp trong việc thanh toán nợ vay. Trên cơ sở đó, chủ doanh nghiệp có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể. Ngoài ra người ta còn có thể phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp theo đặc tính thường xuyên (nguồn tài trợ thường xuyên) và tính tạm thời (nguồn tài trợ tạm thời) song hình thức này không phổ biến bằng hai hình thức trên. 1.2.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. Trên cơ sở các nguồn vốn trên, doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể sử dụng các phương thức huy động chủ yếu sau. 1.2.2.1. Huy động vốn chủ sở hữu. Khi một doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là nguồn tài trợ có độ an toàn cao nhất đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời nó là tiêu thức để các chủ nợ thể hiện mức độ tin tưởng và sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu sẽ do các chủ nợ gánh chịu. Như vậy, nguồn vốn chủ sở hữu cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn từ nợ vay của doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì vốn chủ sở hữu có nguồn gốc khác nhau: Đối với doanh nghiệp Nhà nước (Nhà nước là chủ sở hữu) vốn đầu tư ban đầu là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước. Trong doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư ban đầu là vốn của chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp bắt buộc phải có khi thành lập doanh nghiệp, gọi là vốn pháp định. Tùy từng ngành nghề kinh doanh mà Nhà nước quy định một mức vốn riêng. Chẳng hạn, theo điều 9 khoản 2 Luật doanh nghiệp Tư nhân (1994) quy định: “ Có đủ vốn đầu tư ban đầu phù hợp với quy mô và ngành nghề kinh doanh. Vốn đầu tư ban đầu không được thấp hơn vốn pháp định do Chính phủ quy định ”. Đối với Công ty cổ phần, nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức vốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó. Đối với doanh nghiệp liên doanh: vốn đầu tư ban đầu được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư ban đầu, doanh nghiệp có thể bổ sung nguồn vốn của mình bằng một số phương thức sau: - Huy động nội bộ: Theo phương thức này doanh nghiệp sẽ tăng nguồn vốn của mình bằng cách trích một phần lợi nhuận thu được trong năm vào quỹ đầu tư phát triển. Để làm được điều này, trước tiên doanh nghiệp phải làm ăn có lãi. Sau đó, doanh nghiệp có thể giảm tỷ lệ trích lập các quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi hoặc thay đổi chính sách phân chia lợi nhuận cho các cổ đông (đối với công ty cổ phần). Đây là một phương thức huy động vốn quan trọng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện có đạt hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào lợi nhuận thu được và hiệu qủa của việc tái đầu tư. - Phát hành thêm cổ phiếu mới (đối với công ty cổ phần): là một phương thức huy động có hiệu quả các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh doanh của công ty cổ phần. Cổ phiếu là chứng khoán vốn và người nắm giữ cổ phiếu chính là người sở hữu công ty. Tuỳ theo đặc điểm riêng mà các công ty có thể lựa chọn phát hành một trong hai hoặc cả hai loại cổ phiếu cơ bản sau: * Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì đặc điểm của nó đáp ứng được cả hai phía là người đầu tư và phía công ty phát hành. Phần lợi tức mà cổ đông nhận được từ việc sở hữu loại cổ phiếu này phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty trong từng năm. Các cổ đông có quyền tham gia vào kiểm soát và điều khiển mọi hoạt động của công ty thông qua việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành viên ban quản trị. Tuy nhiên, huy động vốn theo phương thức này phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải xét đến tỷ lệ cố phần tối thiểu mà mỗi cổ đông được phép nắm giữ để duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty. * Cổ phiếu ưu tiên: là loại cổ phiếu thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Cổ phiếu ưu tiên khác với cổ phiếu thường ở chỗ người chủ cổ phiếu này được hưởng một tỷ lệ cổ tức cố định và được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Tuy nhiên, những cổ đông này lại không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. Số lượng cổ phiếu phát hành thêm được xác định không chỉ dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của công ty mà còn phụ thuộc vào số cổ phiếu tối đa công ty được phép phát hành và số cổ phiếu đã phát hành trên thị trường. Bên cạnh đó còn phải xem xét các nhân tố khác đặc biệt là “nhiệt độ” trên thị trường chứng khoán. 1.2.2.2. Huy động vốn từ Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Trong nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào có thể hoạt động mà không vay vốn ngân hàng. Việc huy động vốn bằng hình thức này giúp doanh nghiệp tăng khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ khi đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Doanh nghiệp có thể vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng cho nhu cầu vốn cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, song phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác như phải có phương án kinh doanh khả thi, phải là đơn vị hạch toán độc lập… và các yêu cầu về tài sản thế chấp, cầm cố… Trên cơ sở các điều kiện xin vay được thực hiện đầy đủ, ngân hàng sẽ cấp vốn cho doanh nghiệp dưới các hình thức chủ yếu sau: - Tín dụng hạn mức là một hình thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Chỉ khi nào doanh nghiệp sử dụng mới được coi là tín dụng cấp phát và mới được tính lãi. - Chiết khấu thương phiếu là hình thức tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí. Doanh nghiệp sử dụng hình thức vay vốn này khi có nhu cầu tiền ngay mà không phải đợi đến ngày đáo hạn của thương phiếu. Tuy nhiên việc vay được có thuận lợi hay không còn phụ thuộc vào chất lượng của thương phiếu nên phương thức này không phải lúc nào cũng hiệu quả. - Factoring mua nợ (Bao thuê) là một dịch vụ do công ty con của ngân hàng thực hiện, là nghiệp vụ đi mua lại các yêu cầu chi trả của doanh nghiệp để rồi sau đó nhận các khoản chi trả của yêu cầu đó. Thông thường các yêu cầu chi trả ở đây là ngắn hạn. Các công ty mua nợ sẽ chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi, thu hồi và chịu rủi ro về các khoản chi trả của các yêu cầu chi trả đó. Ngoài các hình thức trên, ngân hàng còn cấp vốn cho doanh nghiệp theo các hình thức khác như: tín dụng ứng trước, tín dụng bằng chữ ký… Riêng trên lĩnh vực xuất nhập khẩu, ngân hàng thực hiện tài trợ cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu sau: - Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng. Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thông thường được áp dụng trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C xuất. Nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán tại ngân hàng. Để giám sát và kiểm tra chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông thường Ngân hàng yêu cầu nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định cộng thêm với số tiền vay ngân hàng, để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tại kho ngân hàng, hoặc nhập kho mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý dưới sự giám sát của ngân hàng, muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng. - Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu. Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi được ghi có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại nhân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc ở bất kỳ ngân hàng nào.. Có hai hình thức chiết khấu là chiết khấu truy đòi (ngân hàng sau khi thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu có quyền truy đòi nếu bộ chứng từ không được thanh toán) và chiết khấu miễn truy đòi (ngân hàng sau khi thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu không có quyền truy đòi nếu bộ chứng từ không được thanh toán). Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ những điều kiện chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước tiền hàng, khoảng 50%-60% giá trị hàng xuất. Hình thức tài trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. - Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu. Hình thức này thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu. Trong hình thức này các nhà nhập khẩu phải ký quỹ. Mức ký quỹ sẽ do ngân hàng quyết định trên cơ sở thẩm định các điều kiện về tài chính của doanh nghiệp, tư cách pháp nhân của mặt hàng nhập khẩu, tài sản thế chấp…. - Cho vay thanh toán bộ chứng từ nhập. Đối với nhà nhập khẩu khi hàng vừa cập bến phải nộp tiền cho ngân hàng để thanh toán cho nhà xuất khẩu, thì mới nhận được chứng từ để nhận hàng, bán hàng và thu hồi vốn. Đó là khoảng thời gian khá dài, do đó nhà nhập khẩu cần có sự tài trợ từ ngân hàng. Căn cứ vào các yếu tố như đảm bảo tín dụng, mức tài trợ, khả năng thu hồi nợ đúng hạn… ngân hàng sẽ quyết định tỷ lệ tài trợ cho lô hàng nhập. Ví dụ như nếu ký quỹ trị giá 20% giá trị lô hàng thì ngân hàng chấp thuận tài trợ 60%, lúc này nhà nhập khẩu phải đóng thêm 20% giá trị lô hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn cấp vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông qua các hình thức bảo lãnh và tái bảo lãnh như: bảo lãnh vay vốn bằng cách phát hành thư bảo lãnh, bảo lãnh bằng cách phát hành L/C trả chậm… Nói chung, hiện nay, các hình thức tài trợ vốn cho doanh nghiệp được các ngân hàng sử dụng ngày càng phong phú nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, nguồn vốn vay ngân hàng có đặc điểm là tương đối nhỏ, thời gian ngắn, thủ tục phức tạp, điều kiện vay chặt chẽ… nên vẫn gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn vay vốn. Do đó thông thường khi thiếu vốn các doanh nghiệp thường nghĩ đến nguồn vốn tự có trước khi nghĩ đến ngân hàng. 1.2.2.3. Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Như đã nói ở trên, nguồn vốn vay ngân hàng mặc dù rất linh hoạt song chỉ đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong ngắn hạn. Để khắc phục nhược điểm này doanh nghiệp có thể sử dụng phương thức huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu công ty. Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn được một doanh nghiệp phát hành để huy động vốn của các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Thời hạn của trái phiếu công ty được xác định từ ngày phát hành đến ngày thanh toán lại cho người mua. Khi huy động vốn bằng phương thức này, doanh ngiệp phải chịu trách nhiệm về số vốn đã được huy động như một khoản nợ và phải trả lãi vay theo một tỷ lệ nhất định. Phương thức huy động vốn này chỉ đạt được hiệu quả khi doanh nghiệp lựa chọn được loại hình trái phiếu phù hợp. Do đó, trước khi quyết định phát hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào khả năng tài chính của mình, tình hình cụ thể của thị trường tài chính, cũng như cách thức trả lãi, chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu đó. Nói chung, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong những loại trái phiếu khác nhau dưới đây: - Trái phiếu có lãi suất cố định: đây là loại trái phiếu được sử dụng phổ biến nhất trong các loại trái phiếu công ty. Lãi suất của trái phiếu được xác định ngay khi phát hành trái phiếu và có giá trị thực hiện cho đến khi tới hạn thanh toán. Việc xác định lãi suất trái phiếu được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt là phải tính đến sự cạnh tranh với các trái phiếu của các công ty khác. - Trái phiếu có lãi suất thả nổi: loại trái phiếu này có lãi suất biến động theo sự biến động của thị trường vốn. Trong điều kiện nền kinh tế có mức lạm phát khá cao và lãi suất thị trường không ổn định thì các doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên vệc quản lý loại trái phiếu này gặp một số khó khăn do công ty không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay và phải tốn thời gian cho việc thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. - Trái phiếu có thể thu hồi: loại trái phiếu này cho phép công ty có thể đIều chỉnh lượng vốn sử dụng bằng cách mua lại các trái phiếu đã phát hành vào một thời gian nào đó trước ngày đáo hạn của trái phiếu. Loại trái phiếu này phải được quy định công khai ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết. Thời hạn và giá cả khi chuộc lại cũng phải được quy định rõ ngay từ lúc phát hành. Thông thường, người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi, ví dụ trong thời gian 36 tháng. - Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành một lượng nhất định các cổ phiếu thường. Việc huy động vốn bằng hình thức này có ưu điểm là công ty có thể gắn bó người mua trái phiếu một cách lâu dài và đến một thời gian thích hợp họ có thể mua cổ phiếu để trở thành cổ đông của công ty. Hơn nữa, do hấp dẫn hơn, hình thức này có thể huy động được nguồn vốn có chi phí thấp hơn các hình thức khác đồng thời đa dạng hoá các công cụ huy động vốn. Ngoài các trái phiếu chủ yếu trên, công ty còn có thể lựa chọn một số loại khác như trái phiếu có bảo đảm (là trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản của công ty) hoặc trái phiếu không có bảo đảm (là loại trái phiếu không được bảo đảm bằng một loại tài sản cụ thể nào)… Nói chung, huy động vốn cách phát hành trái phiếu công ty có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí đầu tư; kiềm chế được lạm phát (do không làm tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông, chỉ nhằm sử dụng có hiệu quả hơn lượng tiền sẵn có trong lưu thông); chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Nếu tận dụng được những ưu điểm này thì đây sẽ là phương thức tối ưu và khả thi cho giải pháp về vốn dài hạn của từng doanh nghiệp trong nước, đồng thời có lợi cho tổng thể nền kinh tế nước nhà. 1.2.2.4. Huy động vốn thông qua tín dụng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có thể tăng nguồn vốn của mình bằng cách khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua hoặc bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng muốn bán, trong lúc đó có một số nhà doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này nhà doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hiện được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hoá cho người mua. Ngược lại với tư cách người mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại là một hình thức huy động rất được các doanh nghiệp ưa dùng bởi tính tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh. Mặc khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế. Chi phí của việc sử dụng hình thức tín dụng này thể hiện qua lãi vay được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Trong mua bán hàng hoá trả chậm chi phí này có thể ẩn dưới hình thức nâng giá cao hơn so với bình thường để bao hàm luôn lãi suất tín dụng trong đó. Qui mô của khoản tín dụng này phụ thuộc vào thời hạn mua chịu, tình trạng tài chính người bán, tình trạng tài chính người mua và giảm giá hàng. Có rất nhiều công cụ được sử dụng trong hình thức tín dụng này. Thông thường, khi mua bán hàng hoá người ta thường sử dụng hoá đơn; hoá đơn sẽ được gửi cùng với hàng chuyên chở cho người mua. Khi người mua đã nhận đủ hàng và ký vào hoá đơn thì lúc này hoá đơn đã có giá trị pháp lý về việc người mua nợ tiền của người bán và các thủ tục sau đó chỉ còn là việc chuyển tiền từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán theo thời gian thoả thuận giữu hai bên. Một công cụ tín dụng thương mại khác được sử dụng rộng rãi trên thương trường là thương phiếu. Thương phiếu là sự cam kết tín dụng của người mua trước khi hàng hoá được chuyển đến. Trong thương phiếu, người bán ghi rõ số tiền và hạn trả tiền mà người mua phải thực hiện. Sau đó, thương phiếu được gửi đến ngân hàng của người mua cùng với các hoá đơn chứng từ về việc đã chuyển hàng cho người mua. Có hai loại thương phiếu cơ bản là thương phiếu trả ngay (người bán yêu cầu bên mua trả tiền ngay) và thương phiếu có thời hạn (người bán không yêu cầu người mua trả tiền ngay). Khi thương phiếu đã được người mua hứa trả tiền vào một ngày nào đó trong tương lai thì nó được gọi là chấp nhận thương mại. Người mua sẽ gửi chấp nhận thương mại lại cho người bán. Người bán có thể giữ chấp nhận thương mại để đợi đến ngày lấy tiền hoặc cũng có thể bán nó cho một người khác hoặc đến chiết khấu ở ngân hàng thương mại trong những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hợp đồng bán hàng có điều kiện như là một công cụ tín dụng thương mại. Hợp đồng này đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì quyền sở hữu hợp pháp hàng hoá của mình cho đến khi người mua trả hết tiền. Các hợp đồng bán hàng hoá có điều kiện thường được trả làm nhiều lần và mỗi lần đều có một chi phí lãi suất tương ứng trong mỗi lần chi trả. Huy động vốn qua hình thức tín dụng thuê mua. Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng trung và dài hạn, được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Theo hình thức này, người cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ chuyển giao tài sản cho người đi thuê sử dụng trong một thời gian nhất định (thời gian này được ghi trong hợp đồng). Để đổi lại, người đi thuê phải trả cho cho chủ sở hữu một khoản tiền thuê tưng xứng với quyền sử dụng.Trong quá trình thuê, người đi thuê nhận lấy gần như toàn bộ trách nhiệm về quyền sở hữu bao gồm việc bảo quản tài sản, chi trả tất cả các khoản thuế và bảo hiểm tài sản. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo những điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp người thuê không có ý định mua lại tài sản sau thời gian thuê và chỉ sử dụng tài sản đó trong một thời hạn đã định, thời gian thuê thường rất ngắn so với toàn bộ thời gian tồn tại hữu ích của tài sản. Người đi thuê chỉ phải trả một khoản tiền thuê theo thoả thuận còn người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo hiểm, thuế tài sản… cùng với mọi rủi ro về hao mòn vô hình của tài sản. Hình thức này hoàn toàn phù hợp với những hoạt động mang tính chất thời vụ của doanh nghiệp. Còn đối với trường hợp người thuê mua lại tài sản đã thuê, thời gian thuê thường rất dài và chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản. Hết giai đoạn thuê thoả thuận trong hợp đồng, người cho thuê thường uỷ qyuền cho người thuê làm đại lý bán tài sản. Nếu người thuê quản lý, sử dụng tài sản tốt thì giá trị thực tế của tài sản có thể lớn hơn nhiều so với giá trị còn lại._. của tài sản dự kiến trong hợp đồng. Họ có thể mua lại hoặc có thể bán được với giá cao hơn để hưởng phần chênh lệch. Hình thức này tuy không trực tiếp cấp vốn cho các doanh nghiệp nhưng đã gián tiếp trợ giúp doanh nghiệp về mặt tài chính để các doanh nghiệp trang bị máy móc thiết bị đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đây là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất mới mẻ đối với nước ta, do đó việc nhanh chóng triển khai các điều kiện về pháp lý, hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê mua… là việc làm cần thiết nhằm tăng cường nguồn tài trợ cho các doanh nghiệp hiện nay. 1.2.2.6. Huy động vốn từ việc liên doanh liên kết. Khi muốn thực hiện một dự án nào đó mà không có đủ vốn hoặc không muốn bỏ toàn bộ vốn vào đó, doanh nghiệp có thể kêu gọi vốn liên doanh từ bên ngoài. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp có thể chọn một trong hai hình thức liên doanh sau đây: - Cùng đối tác thành lập một pháp nhân kinh doanh mà vốn thành lập là số vốn góp của mỗi bên. Các bên góp vốn liên doanh có thể dùng một phần tài sản hoặc toàn bộ tài sản của mình để góp vốn. - Các bên ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, không hình thành một pháp nhân mà trách nhiệm và quyền hạn của các bên chỉ giới hạn trong hợp đồng đã ký kết. Đối với cả hai hình thức trên, các bên tham gia liên doanh được chia lãi hoặc chịu lỗ nhiều hay ít phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Các bên liên doanh còn có quyền rút vốn của mình và trong nhiều trường hợp có thể làm liên doanh tan rã. Doanh nghiệp có thể liên doanh với các loại hình doanh nghiệp khác nhau như doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân hoặc với các công ty nước ngoài… Với hình thức này, doanh nghiệp không chỉ huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh của mình mà còn thu hút được công nghệ mới hoặc kinh nghiệm của đối tác, đồng thời chia sẻ được rủi ro trong kinh doanh, song nếu doanh nghiệp quá yếu kém thì rất dễ bị lợi dụng và thiệt hại khi dự án đổ vỡ. Huy động vốn từ một số nguồn khác. Trong hoạt động thực tế, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nội bộ doanh nghiệp, gồm các khoản phải nộp và phải trả cho công nhân viên. Nguồn vốn này tuy không lớn nhưng trong nhiều trường hợp nó giúp doanh nghiệp giải quyết được những nhu cầu vốn có tính có tính chất tạm thời. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể tận dụng các nguồn vốn nhàn rỗi khác như các khoản phải nộp cho nhà nước nhưng chưa nộp, các khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ nhưng chưa trả, các khoản chi phí trích trước… Các nguồn này sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn của doanh nghiệp, tuy nhiên nó chỉ trong thời gian ngắn và không ổn định. Do đó các doanh nghiệp thường chỉ coi nguồn vốn này như một nguồn mang tính chất bổ sung chứ không phải là một trong những nguồn tài trợ chính. Trên đây là những hình thức cơ bản mà các doanh nghiệp có thể sử dụng để huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuỳ thuộc vào các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể lựa chọn một hình thức huy động riêng. Tuy nhiên dù có lựa chọn hình thức nào, doanh nghiệp cũng phải xem xét các nhân tố có thể gây ảnh hưởng đến quá trình huy động để có thể hạn chế được những tác động tiêu cực đồng thời tận dụng được những ưu thế mà chúng tạo ra. Phần tiếp theo sẽ trình bày về những nhân tố này. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều nhân tố, cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. 1.3.1. Nhân tố chủ quan. 1.3.1.1. Chi phí vốn, cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Vốn là nhân tố cần thiết của sản xuất. Cũng như bất kỳ một nhân tố nào khác, để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một chi phí nhất định. Chi phí của mỗi nhân tố cấu thành gọi là chi phí nhân tố cấu thành của loại vốn cụ thể đó. Chi phí vốn là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Đây chính là khoản tiền mà doanh nghiệp phải bỏ ra để được sử dụng vốn hay chính là tỷ lệ sinh lợi cần thiết mà người chủ sở hữu của khoản tiền đó yêu cầu. Các nhà đầu tư chỉ chấp nhận cung cấp vốn cho doanh nghiệp khi họ được trả một khoản lãi xứng đáng và thông thường những người này luôn mong muốn một lãi suất cao. Tuy nhiên, nhà doanh nghiệp không thể trả lãi suất quá cao cho nhà đầu tư, họ luôn phải cân nhắc sao cho lợi nhuận thu được từ nguồn vốn huy động đó không làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp luôn có xu hướng tìm kiếm những nguồn vốn có chi phí thấp. Tuy nhiên, một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiếm khi chỉ sử dụng một nguồn vốn để tài trợ cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình ngay cả khi đó là nguồn có chi phí thấp hơn các nguồn khác. Thông thường, trong một doanh nghiệp có hai loại vốn cơ bản là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một doanh nghiệp ít nợ, nhiều vốn tự có sẽ làm cho các bạn hàng tin tưởng bỏ vốn ra cho vay hay góp vốn cùng đầu tư. Nhưng nguồn vốn này không nên ở mức quá lớn. Chủ doanh nghiệp nên có một phần dự trữ để đề phòng rủi ro hoặc để phát triển khuyếch trương kinh doanh khi có thời cơ. Mặt khác, với việc tăng vốn thông qua vay nợ, chủ doanh nghiệp có thể tăng được thu nhập trên vốn chủ sở hữu mà vẵn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Song, nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Do đó, trong quản trị tài chính, các nhà quản lý phải xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu, đảm bảo một tỷ lệ hợp lý giữa vốn chủ sở hữu và nợ vay sao cho lợi ích thu được là cao nhất. Đó là cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất và nhờ đó tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Trên cơ sở cơ cấu tối ưu (cơ cấu mục tiêu) được thiết lập phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp, các nhà quản lý mới tiến hành huy động vốn theo cách giữ cơ cấu vốn thực tế theo cơ cấu vốn tối ưu sao cho lợi nhuận thu được là cao nhất. Có bốn nhân tố chủ yếu tác động đến những quyết định về cơ cấu vốn của doanh nghiệp: - Rủi ro trong kinh doanh được coi là một trong những nhân tố có tác động đến việc lựa chọn nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rủi ro đề cập đến ở đây là rủi ro cố hữu của tài sản của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không sử dụng nợ. Như vậy, đối với những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực có rủi ro kinh doanh lớn thì việc sử dụng nợ nhiều không phải là một giải pháp huy động tối ưu. - Nhân tố thứ hai là vấn đề thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong trường hợp thuế suất thuế thu nhập của doanh nghiệp cao thì việc sử dụng nợ nhiều hơn sẽ có lợi vì khi sử dụng nợ, phần lãi vay phải trả được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ trước khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp và nhờ đó hạ thấp được chi phí thực tế của nợ. {Chi phí nợ sau thuế = Chi phí nợ trước thuế*(1- thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp)}. - Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường thay đổi hay khả năng linh hoạt tài chính của doanh nghiệp cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng đảm bảo một nguồn vốn ổn định để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trong thời gian dài, sẽ dễ dàng hơn trong việc kêu gọi nguồn tài trợ từ các nhà đầu tư. Thật vậy, khi đánh giá đặc điểm này chúng ta có thể thấy rõ ràng là những nhà cung cấp vốn muốn tăng cường tài trợ cho những doanh nghiệp có thể tự chủ về tài chính hơn là những doanh nghiệp thụ động, và do đó ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp. - Nhân tố thứ tư liên quan đến quan điểm của các nhà quản lý về việc sử dụng vốn. Có những nhà quản lý sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm sử dụng nhiều nợ hơn để tăng lợi nhuận song có những người lại thích sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hơn vì mục tiêu an toàn cho doanh nghiệp. Bốn nhân tố trên quyết định rất lớn đến mục tiêu cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Trong những thời kỳ khác nhau, tuỳ thuộc vào những điều kiện cụ thể của nền kinh tế và của chính doanh nghiệp, các nhà quản lý sẽ đưa ra một cơ cấu vốn tối ưu để trên cơ sở đó doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ cho phù hợp. Thông thường, các doanh nghiệp luôn hướng tới cơ cấu vốn có chi phí trung bình của vốn là thấp nhất. Việc xác định chi phí vốn trung bình (WACC) của doanh nghiệp dựa trên chi phí nhân tố cấu thành của nguồn vốn đó bao gồm chi phí nợ vay sau thuế (Kd.(1-t), với t là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp), chi phí cổ phiếu ưu tiên (Kp) và chi phí lợi nhuận giữ lại (Ks) theo công thức: WACC = Wd.Kd.(1-t) + Ws.Ks + Wp.Kp Với Wd, Ws, Wp tương ứng là tỷ trọng của nợ vay, cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên. Do mỗi nguồn vốn huy động có chi phí khác nhau nên với cùng một lượng vốn được huy động nhưng tỷ lệ của các nguồn vốn khác nhau thì chi phí trung bình của vốn cũng khác nhau.Vì thế, khi quyết định lựa chọn một nguồn vốn nào đó cho kế hoạch tài trợ của mình, doanh nghiệp luôn luôn phải cân nhắc chi phí và tỷ trọng của chúng sao cho chi phí trung bình của vốn là thấp nhất. Như vậy, rõ ràng là chi phí vốn và cơ cấu vốn có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp tới việc huy động vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ huy động nguồn vốn nào, với quy mô là bao nhiêu không chỉ phụ thuộc vào chi phí phải trả cho nguồn vốn đó mà còn phụ thuộc vào cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp đã đặt ra. 1.3.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp chỉ có nhu cầu huy động thêm vốn khi tình hình hoạt động kinh doanh ổn định và phát triển. Ngược lại, một doanh nghiệp đang “ăn lên làm ra”, có tình hình hình tài chính lành mạnh thì khả năng huy động vốn cũng cao hơn. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu bởi vì khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng giao dịch với bất cứ đối tác nào (dù là ngân hàng hay một doanh nghiệp khác), doanh nghiệp đều phải nắm bắt được khả năng thanh toán, thu lời cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của đối tác đó. Cũng như vậy, đối tác cũng phải tìm hiểu về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, rõ ràng là với một tình hình tài chính lành mạnh doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc kêu gọi vốn từ các nhà đầu tư để tài trợ cho nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh của mình. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn của một doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Một doanh nghiệp có hiệu quả sử dụng vốn cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp làm ăn có lãi, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Trong nền kinh tế thị trường, đây là một nhân tố quyết định khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo chiều rộng lẫn chiều sâu. Hay nói cách khác, khi phân chia vốn vào các mục đích sử dụng một cách hợp lý và được bảo toàn, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được vốn và tránh được lãng phí, tạo được uy tín tốt với bạn hàng và đương nhiên là làm ăn có hiệu quả hơn, từ đó nâng cao khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như: các chế độ, chính sách của nhà nước có liên quan, việc nắm vững và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp, cách thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, năng lực con người đặc biệt là đội ngũ quản lý, việc chọn lựa và thực thi các chiến lược của doanh nghiệp… Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và bảo toàn vốn, các doanh nghiệp thường áp dụng một số nguyên tắc sau: - Nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp: như đã nói ở trên hiệu quả sử dụng vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trong đó trình độ quản trị doanh nghiệp đóng vai trò quyết định. Việc thực hiện tốt bốn chức năng cơ bản: hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra là điều kiện tiên quyết để đạt được hiệu quả sử dụng vốn. Vì vậy, việc trang bị hay trang bị lại những kiến thức quản trị kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển là việc làm cần thiết. - Lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả, tránh lãng phí: để làm được điều này doanh nghiệp phải dự đoán được thị trường hiện tại cũng như tương lai để xây dựng những phương án kinh doanh phù hợp. Sau đó, trên cơ sở phân tích chi phí lợi ích của dự án một cách cụ thể, doanh nghiệp mới tiến hành tìm kiếm các phương thức tài trợ cho dự án một cách hợp lý: trước hết cần khai thác triệt để nguồn vốn sẵn có trong doanh nghiệp, sau đó mới tìm đến các nguồn tài trợ từ bên ngoài sao cho chi phí sử dụng nguồn vốn đó là thấp nhất. Ngoài ra, khi phân tích dự án, doanh nghiệp phải tính đến các tình huống xấu có thể xảy ra, từ đó đưa ra các phương án xử lý một cách linh động để tránh những thua lỗ, gây thiệt hại về vốn cho doanh nghiệp. - Tính toán và dự báo về nhu cầu vốn cũng như nguồn tài trợ: trong quá trình sản xuất kinh doanh, không phải bao giờ vốn cũng đủ để doanh nghiệp có thể đầu tư vào bất kỳ lúc nào hoặc có những lúc vốn lại vô cùng nhàn rỗi mà không có nơi để đầu tư. Đó là trường hợp khi doanh nghiệp thừa vốn hay thiếu vốn. Nếu gặp lúc thừa vốn mà doanh nghiệp vẫn tiếp tục đi vay nợ phải trả lãi thì sẽ rất lãng phí, còn nếu thiếu vốn mà doanh nghiệp không tìm được nguồn tài trợ thì lại bỏ mất cơ hội kinh doanh hoặc tìm được nguồn tài trợ nhưng chi phí quá cao thì lợi nhuận thu được cũng sẽ giảm. Do đó, tính toán nguồn vốn đầu tư càng sát với thực tế bao nhiêu thì sử dụng vốn càng tiết kiệm, hiệu quả bấy nhiêu. - Quản lý tài sản cố định: để bảo toàn được vốn cố định, doanh nghiệp cần đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác; phải chọn được phương pháp khấu hao thích hợp để thu hồi vốn; phải áp dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định; đồng thời cần kịp thời xử lý những máy móc thiết bị lạc hậu, mất giá hoặc không cần dùng… - Quản lý tài sản lưu động: doanh nghiệp cần xác định được khối lượng vốn lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu nhằm tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn, ứ đọng vốn, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn và thường xuyên thực hiện phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động nhằm điều chỉnh các biện pháp một cách kịp thời. Nói chung, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp thường sử dụng các biện pháp cơ bản trên đây. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp và đặc biệt là trình độ và khả năng linh hoạt của nhà quản lý, mỗi doanh nghiệp có một cách áp dụng khác nhau và hiệu quả đạt được cũng khác nhau. Ngoài một số nhân tố chủ quan trên, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật và công nghệ… Một doanh nghiệp có đội ngũ lao động lành nghề, luôn học hỏi, có nỗ lực, có nhiệt tình cao trong công việc là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực nhạy cảm với sự biến đổi của công nghệ và thị trường. Trình độ khoa học công nghệ cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm thiểu chi phí, tạo được những sản phẩm mới có chất lượng được thị trường chấp nhận… Trên cơ sở những thành công đó, doanh nghiệp ngày càng khẳng định được vị trí của mình, tăng uy tín trên thị trường; từ đó các bạn hàng sẽ yên tâm khi giao dịch với doanh nghiệp, cũng như các ngân hàng sẽ dễ dàng ủng hộ doanh nghiệp mỗi khi doanh nghiệp cần vốn. Đây là những nhân tố chủ quan có ý nghĩa quan trọng đối với doanh nghiệp trong xu hướng ngày càng nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người lao động và trình độ khoa học kỹ thuật trong từng doanh nghiệp hiện nay. 1.3.2. Nhân tố khách quan. Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào những nhân tố bên trong- những nhân tố của chính bản thân doanh nghiệp. Đó là điều hoàn toàn dễ hiểu như đã được trình bày ở trên. Tuy nhiên, bên cạnh những nhân tố mang tính chất chủ quan đó, trong quá trình hoạt động, chính sách huy động vốn của doanh nghiệp còn chịu tác động của những nhân tố khách quan sau: 1.3.2.1. Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước là một nhân tố có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, và vì thế tất nhiên ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn. Trên cơ sở pháp luật kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà nước tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh và hướng các hoạt động đó theo kế hoạch kinh tế vĩ mô. Đây là nhân tố mà các doanh nghiệp bắt buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều kiện với tư cách là một pháp nhân đối với những quy định của pháp luật. Việc huy động vốn từ những nguồn nào, theo phương thức gì, với quy mô bao nhiêu… đều phải thực hiện theo cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước được thể chế hoá bằng các quy định, nghị định của Chính và các văn bản pháp luật khác. Ví dụ như theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì các doanh nghiệp Nhà nước hoặc công ty cổ phần có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, trong khi công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phép tăng vốn bằng cách gọi thêm vốn góp từ các thành viên hoặc kết nạp thêm thành viên mới, hoặc trích từ quỹ của công ty chứ không được phép phát hành cổ phiếu hay trái phiếu. Hoặc theo nghị định số 27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999 sửa đổi, bổ sung “ Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp Nhà nước ” ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước được quyền vay vốn của các tổ chức tín dụng (các ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính… ), các doanh nghiệp khác, các cá nhân ( kể cả cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp) để đầu tư phát triển nhưng lãi suất huy động vốn không được cao hơn lãi suất cho vay do ngân hàng Nhà nước công bố cùng thời điểm theo từng ngành nghề, thời hạn vay. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của những doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh nhưng đã huy động hết những nguồn có chi phí thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng. Ngoài ra, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Trong những giai đoạn Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì việc vay vốn ngân hàng để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh là khá khó khăn đối với doanh nghiệp do lãi suất cho vay cao đồng thời các thủ tục xin vay cũng chặt chẽ hơn. Thêm vào đó với các chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với một ngành nghề nào đó cũng sẽ tạo điều kiện hoặc hạn chế khă năng huy động vốn của các doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề đó. Đây là yếu tố vĩ mô, có ảnh hưởng khá lớn đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. 1.3.2.2. Các yếu tố của nền kinh tế. Là một chủ thể của nền kinh tế, mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt động huy động vốn gắn bó chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong nền kinh tế như lãi suất ngân hàng, thuế, thu nhập dân cư. - Lãi suất ngân hàng là nhân tố đầu tiên mà mọi doanh nghiệp phải cân nhắc khi lựa chọn nguồn vốn cho kế hoạch tài trợ của mình. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến chi phí đầu tư của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả đầu tư và yếu tố lãi suất tiền vay. Thông thường, khi lãi suất ngân hàng quá cao thì cơ hội đầu tư ít đi và vì thế nhu cầu huy động vốn của doanh nghiệp cũng giảm theo. - Thuế thu nhập doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong trường hợp thuế thu nhập doanh nghiệp khá cao thì doanh nghiệp có xu hướng thích sử dụng nợ hơn vì lãi nợ vay được tính vào chi phí hợp lý hợp lệ trước khi tính thuế. Do đó việc tăng tỷ trọng nợ trong cơ cấu vốn sẽ làm giảm chi phí vốn của doanh nghiệp. - Thu nhập dân cư cũng là một nhân tố tác động đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Thu nhập của dân cư ở mức cao đồng nghĩa với khả năng tích luỹ cao và kết quả là lượng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế dồi dào. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn thông qua các công cụ của thị trường vốn như cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ có thể chuyển đổi đặc biệt là ở những nước có thị trường tài chính phát triển hoàn thiện. Ngoài những yếu tố cơ bản trên, khả năng huy động vốn của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác như: yếu tố thị trường, yếu tố cạnh tranh cạnh tranh, tỷ giá… Thị trường chính là nơi hoạt động của doanh nghiệp. Trong môi trường này, các doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời còn phải cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, quá trình huy động vốn của doanh nghiệp không thể bỏ qua yếu tố thị trường và cạnh tranh. Riêng đối với doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực xuất nhập khẩu thì sự biến động của tỷ giá cũng là một yếu tố không thể bỏ qua. Do các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với việc sử dụng ngoại tệ nên việc tỷ giá lên cao hay xuống thấp đều gây ảnh hưởng đến lượng vốn mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Doanh nghiệp cần phải phân tích những yếu tố này, xem xét tình trạng hiện tại, dự đoán tình hình trong tương lai để lựa chọn phương án huy động vốn cho thích hợp nhằm tạo được lợi thế của mình trên thị trường. 1.3.2.3. Loại hình doanh nghiệp. Đây là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.Trong nền kinh tế thị trường, mỗi loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm về hình thức sở hữu, cơ cấu tổ chức và quản lý khác nhau, do đó khả năng huy động vốn cũng khác nhau. Điều này được thể hiện khá rõ nét trong kế hoạch huy động vốn của doanh nghiệp ngay từ khi mới thành lập. Chẳng hạn, để tài trợ cho vốn đầu tư ban đầu các doanh nghiệp Nhà nước được cấp vốn từ ngân sách Nhà nước trong khi doanh nghiệp tư nhân phải huy động từ vốn tự có của chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp còn công ty cổ phần thì bằng vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp dưới hình thức vốn cổ phần. Trong quá trình hoạt động, các loại hình doanh nghiệp này cũng có các phương án bổ sung vốn cho nhu cầu mở rộng kinh doanh khác nhau. Đối với doanh nghiệp Nhà nước và công ty cổ phần thì ngoài nguồn vốn vay có thể huy động từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng, để tăng thêm vốn các doanh nghiệp này có thể phát hành trái phiếu công ty hoặc phát hành thêm cổ phiếu mới trong khi các công ty trách nhiệm hữu hạn thì chỉ được phép tăng thêm vốn từ lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt động hoặc vốn góp liên doanh. Như vậy, rõ ràng là, việc doanh nghiệp lựa chọn nguồn vốn gì, hình thức huy động như thế nào phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp của doanh nghiệp đó. Sự phát triển của thị trường tài chính. Chúng ta đều biết rằng các nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phần lớn là nguồn ngắn hạn. Do đó việc tìm kiếm các nguồn tài trợ dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu là trên thị trường tài chính thông qua hai hình thức cơ bản là phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Như vậy, có thể thấy rằng, thị trường tài chính, với chức năng là chiếc cầu nối hữu hiệu giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, có ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm kiếm được các nguồn tài trợ trung và dài hạn cho nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh một cách dễ dàng và có hiệu quả hơn. Hơn nữa, khi thị trường tài chính chưa phát triển một cách hoàn thiện, các tổ chức trung gian tài chính không những chưa thể đảm nhận đầy đủ trách nhiệm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn mà hoạt động tài trợ ngắn hạn cũng không phát huy hết hiệu quả của nó. ở nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế. Thị trường chứng khoán đã được hình thành nhưng vẫn chưa phát huy được vai trò của nó là tạo ra đầy đủ nhất các hình thức đầu tư, thúc đẩy và mở rộng những chu chuyển vốn trung và dài hạn, tạo nhiều cơ hội để vốn nhàn rỗi trong dân chúng tham gia vào đầu tư phát triển sản xuất. Vì thế, khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp còn rất hạn chế, đặc biệt là khả năng huy động vốn để tài trợ cho các dự án có quy mô lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Đây là một yếu tố bất lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Chương II Thực trạng huy động vốn tại công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng 2.1. Khái quát về Công ty XNK Hai Bà Trưng 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng tiền thân là Công ty dịch vụ quận Hai Bà Trưng được thành lập từ năm1984 theo quyết định số 4071/QD-UB ngày 15/09/1984; là một Công ty kinh doanh thương nghiệp hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản và sử dụng con dấu riêng, chịu sự quản lý toàn diện của UBND Quận Hai Bà Trưng Hà Nội và sự hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của Sở Thương mại thành phố Hà Nội. Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của Công ty là tổ chức các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân như: cắt uốn tóc, may đo, giặt là quần áo… với tổ chức bộ máy gồm có : - Chủ nhiệm, từ 1-2 phó chủ nhiệm giúp việc. - Các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, các cửa hàng, xưởng sản xuất, chế biến. Cùng với sự đổi mới của đất nước, sau hơn 10 năm hoạt động với sự phấn đấu nỗ lực Công ty đã từng bước mở rộng quy mô kinh doanh, mở rộng cơ cấu ngành nghề. Điều đó được thể hiện qua các bước trưởng thành của Công ty : - Theo quyết định số 925/QD-UB ngày 9/3/1990 của UBND Thành phố Hà nội, Công ty dịch vụ quận Hai Bà Trưng đổi tên thành Công ty dịch vụ, kinh doanh xuất nhập khẩu quận Hai Bà Trưng với chức năng nhiệm vụ được bổ sung như sau: + Đại lý hàng hoá cho các đơn vị kinh tế trong nước. + Đại lý bán vé máy bay, vé tàu, vé xe. + Dịch vụ khách sạn, du lịch. + Sản xuất, chế biến, gia công hàng xuất khẩu và bao bì đóng gói. - Theo quyết định số 2687/QĐ-UB ngày 4/11/1992 của UBND thành phố Hà nội, Công ty dịch vụ, kinh doanh xuất nhập khẩu quận Hai Bà Trưng đổi tên thành Công ty sản xuất kinh doanh hàng xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng, với nhiệm vụ bổ sung như sau : + Tổ chức sản xuất, thu mua, gia công hàng xuất khẩu. + Được phép liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài. - Thực hiện nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập và tổ chức lại các doanh nghiệp Nhà nước, theo quyết định số 316/QĐ-UB ngày 19/1/1993 và quyết định số 540/QĐ-UB ngày 1/4/1994 của UBND thành phố Hà nội, Công ty mang tên Công ty xuất nhập khẩu hai bà trưng. Trụ sở tại : 53 Lạc Trung – Hà nội. Tên giao dịch quốc tế : Hai Ba Trưng Import export Company. Tên viết tắt : (HABAMEXCO). Tel : 6360229 / Fax : 6360227. Từ một công ty chỉ kinh doanh nội địa và làm các dịch vụ nhỏ (năm 1984) đến nay Công ty đã phát triển thành một công ty xuất nhập khẩu trực tiếp theo giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp số 2.05.1.069/GP do Bộ Thương mại cấp ngày 8/2/1994. Với phương châm “ Duy trì, ổn định và phát triển kinh doanh nội địa, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài, phát triển mối quan hệ với nhiều nước trên thế giới ”, Công ty đã vươn tầm hoạt động ra khắp nơi, địa bàn hoạt động không những trong nước mà còn phát triển ra trên 30 nước trên thế giới. Hoạt động kinh doanh của Công ty tập trung vào một số mặt hàng chủ yếu ở các lĩnh vực sau : Hoạt động xuất nhập khẩu: - Xuất khẩu : Hàng nông sản (lạc, gạo, chè…). - Nhập khẩu : Chủ yếu nhập hoá chất, điện lạnh, điện dân dụng, hàng trang trí nội thất, vật liệu xây dựng, xe máy… Hoạt động kinh doanh nội địa : Chủ yếu kinh doanh các mặt hàng : điện dân dụng, quần áo may sẵn, đồ dùng gia đình, hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân và làm đại lý bán vé máy bay. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý. Về tổ chức bộ máy làm việc của Công ty có thể nói là khá gọn nhẹ. Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo chế độ một thủ trưởng do giám đốc đứng đầu quản lý, điêù hành trực tiếp toàn diện từ các phòng ban đến các cửa hàng. Sơ đồ: Bộ máy tổ chức Công ty. Ban giám đốc Phòng Tổ chức hành chính Phòng tài vụ Phòng XNK I Phòng XNK II Phòng Kinh doanh CH. Bạch mai CH. Chơ Mơ CH. Chợ Hôm CH. Chợ Trương Định CH. Trần Cao Vân *Chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban như sau : Ban giám đốc : Gồm một giám đốc và hai phó giám đốc. Giám đốc: Là người đại diện toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty.xét duyệt, lập kế hoạch kinh doanh và phát triển của Công ty. Phó giám đốc: Là người giúp việc cho giám đốc, thay mặt giám đốc quản lý, điều hành, giải quyết công việc trong pham vi nhiệm vụ, quyền hạn được giám đốc phân công hoặc uỷ quyền. Phòng Tổ chức-Hành chính: Tham mưu giúp việc cho giám đốc về công tác: - Tổ chức nhân sự, quản lý sắp xếp đào tạo đội ngũ CBCNV. - Lao động tiền lương và các chế độ chính sách như BHXH, BHYT… - Một số công việc khác mang tính chất hành chính. Phòng Tài vụ: Thực hiện chức năng tham mưu cho Giám đốc về tài chính, thực hiện các chế độ chính sách về quản lý tài chính, đảm nhiệm trọng trách về hạch toán kế toán, đảm bảo về vốn cho hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. Xây dựng các kế hoạch tài chính, kiểm tra giám sát mọi hoạt động kinh doanh trong tương lai. Các phòng kinh doanh và cửa hàng. Là những đơn vị trực tiếp thực hiện công tác kinh doanh của Công ty. Xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án kinh doanh. Tìm kiếm nguồn hàng và thị ttrương tiêu thụ. Trực tiếp ký kết theo uỷ quyền của giám đốc và thực hiện các hợp đồng kinh kế và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh của mình. Các phòng kinh doanh gồm: Phòng XNK 1: Chủ yếu kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng : Vật liệu xây dựng và trang trí nội thất, đồ điện gia dụng, xe đạp, xe máy, lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, hương liệu dùng trong chế biến thực phẩm, máy móc thiết bị. Phòng XNK 2: Chủ yếu kinh doanh XNK các mặt hàng : Đồ điện gia dụng như điều hoà, tủ lạnh, máy giặt, bếp ga, lò vi sóng… Phòng KD Tổng hợp: Ki._.từ nợ chiếm 85.984% tổng nguồn, tương đương 27086.965 triệu đồng trong khi nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm 14.016% bằng 4415.436 triệu. Năm 1999 con số này là 84.693% nợ và 15.36% vốn chủ sở hữu. Năm 2000 là năm tỷ lệ nợ trong tổng nguồn chiếm tỷ trọng cao nhất, chiếm tới 86.566%. Như đã phân tích ở trên, rõ ràng là với một tỷ lệ nợ khá cao như hiện nay, hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng nhiều rủi ro hơn, Công ty dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán khi có những biến động bất lợi của thị trường hay vì một lý do nào đó mà các chủ nợ đồng thời muốn rút vốn kinh doanh. Thêm vào đó, với một tỷ lệ nợ quá cao, Công ty khó có thể huy động tiền vay để tiến hành sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. Đây là một vấn đề mà Công ty cần phải xem xét và tìm biện pháp điều chỉnh để đảm bảo giữ vững khả năng thanh toán và củng cố uy tín của mình. Nguyên nhân của tình hình trên bắt nguồn từ cả nhân tố chủ quan và khách quan. Về phía Công ty, trong một vài năm trở lại đây do nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh, Công ty đã thực hiện tìm hiểu, xâm nhập vào những thị trường mới, xây dựng những mối quan hệ làm ăn mới với các bạn hàng trong và ngoài nước. Đây là công việc tốn rất nhiều chi phí. Thêm vào đó, Công ty lại mới xây thêm trụ sở tại 142 Phố Huế để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng cho nên mặc dù hoạt động kinh doanh tiến hành khá thuận lợi, nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty không những không được bổ sung mà Công ty còn phải vay thêm vốn ngân hàng, đặc biệt là trong năm 1998. Nếu xét một cách khách quan, nguồn vốn ngân sách mà Công ty được nhà nước cấp quá nhỏ so với nhu cầu vốn lưu động, đặc biệt là khi hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển, nhà nước không thực hiện cấp vốn bổ sung mà doanh nghiệp phải tự tìm kiếm các nguồn tài trợ. Để duy trì hoạt động kinh doanh của mình, Công ty phải trông chờ vào các nguồn vốn vay, do đó dẫn đến một thực tế là vốn tín dụng không còn là vốn bổ sung mà chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn. Ngoài ra, Công ty còn chịu ảnh hưởng từ các chính sách của nhà nước, giới hạn về nguồn vốn được phép huy động, các mặt hàng được phép kinh doanh…, thủ tục vay vốn từ ngân hàng cũng như từ nội bộ nền kinh tế như các quy định để được phép phát hành trái phiếu, cổ phiếu…và nhiều những nhân tố khách quan khác nữa mà Công ty đã gặp khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Chương III Giải pháp tăng cường huy động vốn tại công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. 3.1. Nhu cầu vốn Của Công ty XNK HBT trong thời gian tới. 3.1.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ: phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996 –2010 của Việt Nam là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi chấp nhận hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây vừa là thời cơ vừa là thách thức đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải tìm kiếm các giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện, tăng cường hoạt động kinh doanh của mình. Nhận thức được điều đó, để hội nhập với xu hướng phát triển kinh tế của đất nước, nâng cao khả năng cạnh tranh và không ngừng phát triển, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đã xây dựng cho mình một số phương hướng hoạt động như sau: 3.1.1.1. Mục tiêu hoạt động của Công ty trong những năm sắp tới: - Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước xu hướng ngày càng gia tăng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. - Đa dạng hoá mặt hàng, mở rộng thị trường, nâng cao doanh số nhằm không ngừng tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước. 3.1.1.2. Phương hướng hoạt động của Công ty: - Về mặt hàng: tiếp tục đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh, tích cực tìm kiếm, khai thác các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường. - Về thị trường: tiếp tục duy trì thị trường cũ, mở thêm nhiều thị trường mới, đặc biệt tăng cường mở rộng thị trường sang Trung Quốc, cố gắng duy trì mối quan hệ làm ăn với khách hàng truyền thống song song với việc tìm kiếm thu hút các khách hàng mới. - Không ngừng củng cố và hoàn thiện cơ sử vật chất kỹ thuật đặc biệt là việc xây dựng và hiện đại hoá hệ thống phân phối sản phẩm bao gồm cả các cửa hàng đại lý và mạng lưới bán lẻ trên thị trường. - Đầu tư ngân quỹ dành cho việc đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ công nhân viên có đủ nghiệp vụ, đáp ứng được đòi hỏi công việc ngày càng cao, nhất là trong hoạt động tiêu thụ hàng hoá. 3.1.1.3. Nhiệm vụ cụ thể năm 2001. Về hoạt động kinh doanh Công ty phấn đấu đạt những chỉ tiêu sau: - Kim ngạch xuất nhập khẩu: 7335116 USD tăng 12% so với 2000. - Tổng doanh thu: 219898 triệu đồng tăng 14% so với năm 2000. - Tổng lợi nhuận: 129123 triệu đồng. - Nộp ngân sách: 2525 triệu đồng. Về công tác tài chính kế toán: - Tăng cường khai thác các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh ngày càng mở rộng; tích cực tìm kiếm, sử dụng những nguồn vốn đảm bảo cả yêu cầu về chất và lượng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. - Tăng cường công tác quản lý tài chính, tập trung đối chiếu công nợ tồn đọng, khó đòi, giảm số dư nợ từ 10 - 20% so với năm 2000. - Phân tích, đánh giá và xây dựng phương án giảm chi phí từ 5-7%. 3.1.2. Nhu cầu vốn của Công ty trong thời gian tới. Với định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty như trên, rõ ràng là trong thời gian tới, Công ty cần một lượng vốn lớn để đáp ứng cho nhu cầu mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Do đó việc tìm kiếm và huy động thêm các nguồn khác để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, trước khi tiến hành các giải pháp cho việc tìm kiếm nguồn tài trợ, Công ty phải xác định xem mức nhu cầu vốn trong từng năm là bao nhiêu. Trên cơ sở đó mới đưa ra những phương án cụ thể để huy động đủ vốn cho mình. Với những đặc điểm về tài chính đã trình bày ở trên, nhu cầu vốn dự tính cho năm 2001 của Công ty được xác định như sau: Bảng 12. Tỷ lệ phần trăm tính trên doanh thu của các khoản chủ yếu trên bảng cân đối kế toán năm 2000. Đơn vị: Triệu đồng. Doanh thu năm 2000:192893.39 Tài sản Nguồn vốn Chỉ tiêu Số tiền % trên DT Chỉ tiêu Số tiền % trên DT 1.Tài sản lưu động 30697.543 15.91 % 1. Nợ ngân sách 2214.834 1.15 % Nhà nước và Công nhân viên 2. Tài sản cố định 2244.98 1.16 % 2. Các khoản phải trả và phải nộp khác 18559.578 9.62 % Tổng 17.08 % Tổng 10.77 % Nguồn: Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. Theo bảng trên, ta thấy các khoản bên tài sản tính theo doanh thu là 17.08% và được trang trải bằng 10.77% các khoản nợ. Vì vậy, nhu cầu vốn của Công ty là 17.08% - 10.77% = 6.31%; Có nghĩa là cứ một đồng doanh thu tăng lên của năm 2001 so với năm 2000 thỉ cần 6.31 đồng vốn bổ sung. Theo kế hoạch của Công ty, doanh thu năm 2001 cần tăng 10% so với năm 2000. Do đó, nhu cầu vốn bổ sung là 192893.39 x 14% x 6.31% = 1704.02 triệu đồng. Với nhu cầu vốn bổ sung như trên, việc huy động từ những nguồn mà Công ty đã sử dụng trong những năm trước đây sẽ không đảm bảo đủ vốn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Do đó, cần thiết phải khai thác thêm các nguồn vốn khác. Phần tiếp theo xin nên ra một số giải pháp để tăng cường khả năng huy động vốn của Công ty. 3.2. Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. 3.2.1. Tăng vay vốn ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu. Trong một vài năm trở lại đây, thực hiện chủ trương của Đảng đẩy mạnh hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá, các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng mở rộng các các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu nhằm cung cấp vốn và kỹ thuật giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, giảm bớt rủi ro trong giao dịch mua bán với các đối tác nước ngoài. Đây là một trong những phương thức huy động vốn rất hữu hiệu, đảm bảo nhu cầu vốn của Công ty một cách nhanh chóng, đặc biệt là trong những thương vụ lớn. Do đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu thường là hai bên mua bán với số lượng nguyên tàu hàng nhằm tiết kiệm chi phí vận tải, thuận lợi trong công tác giao nhận nên kéo theo giá trị lô hàng cũng rất lớn. Trong trường hợp này vốn lưu động của doanh nghiệp thường không đủ để thanh toán tiền hàng và tín dụng xuất nhập khẩu là giải pháp giúp Công ty thực hiện được những hợp đồng dạng này một cách kịp thời nhất. Bên cạnh đó, việc sử dụng hình thức tín dụng này còn giúp Công ty tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, thương lượng ký kết hợp đồng ngoại thương bởi vì khi được ngân hàng chấp nhận phục vụ mình nghĩa là Công ty đã xác định được năng lực thực hiện hợp đồng. Điều này có ý nghĩa giúp cho doanh nghiệp tiến hành các thương vụ một cách trôi chảy, quan hệ được với khách hàng tầm cỡ thế giới, từ đó nâng cao uy tín của Công ty trên thị trường quốc tế. Theo như số liệu đã phân tích trong phần trước, hiện nay Công ty đang sử dụng hình thức tín dụng này theo phương thức chủ yếu là mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu nhưng số lượng ngày càng giảm dần. Để tăng cường vốn cho nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh của mình, Công ty có thể tăng nguồn vốn vay từ ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu khác như chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu hoặc vay thanh toán bộ chứng từ nhập… Hiện nay, Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, không phải giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ mà chỉ căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên càng tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, do phải trả chi phí khi sử dụng nguồn vốn này nên Công ty cần phải tính toán, lập các phương án kinh doanh một cách cụ thể sao cho có thể đảm bảo được chi phí kinh doanh cộng thêm lãi suất ngân hàng mà vẫn có lãi. 3.2.2. Phát hành trái phiếu công ty. Vay vốn ngân hàng có ưu điểm là giúp doanh nghiệp đảm bảo nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh một cách linh động nhưng chỉ trong thời gian ngắn. Để khắc phục nhược điểm này, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Phương thức này giúp Công ty chủ động khai thác trực tiếp nguồn vốn có sẵn và tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế để phục vụ cho nhu cầu vốn kinh doanh trong thời gian dài. Cho đến nay ở nước ta đã có những yếu tố cần thiết cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu và cũng đã có nhiều doanh nghiệp làm theo cách này như: Công ty may Chiến thắng, Công ty bia Hồng Gai, Quảng Ninh… Tuy nhiên, việc huy động vốn theo cách này còn khá mới mẻ nên vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm như: phương thức huy động thế nào? thời hạn huy động bao lâu? lãi suất, giới hạn huy động bao nhiêu?…, đều chưa được quy định chi tiết dẫn đến mỗi doanh nghiệp tiến hành theo một cách khác nhau. Hơn nữa, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và mức lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Để có thể huy động vốn bằng phương thức này, trước hết Công ty phải đảm bảo hội đủ các điều kiện quy định quy định của luật phát hành và lưu thông chứng khoán và được sự chấp nhận của cơ quan quản lý cao nhất về thị trường chứng khoán (thường là Uỷ ban chứng khoán quốc gia). Muốn vậy, Công ty phải công khai với Uỷ ban chứng khoán quốc gia các số liệu về khả năng tài chính (vốn, lợi nhuận), tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi của Công ty cũng như luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được cấp có thẩm quyền duyệt (có đề án khả thi về sử dụng và trả nợ vốn). Với tính hình tài chính khá lành mạnh và uy tín sẵn có trong những năm qua, Công ty có khả năng sử dụng hình thức này. Tuy nhiên, Công ty cần phải xem xét kỹ lưỡng các điều kiện hiện có, xác định những mặt lợi và cả những mặt hạn chế sẽ phải gánh chịu để lựa chọn loại trái phiếu, số lượng và thời điểm phát hành cho phù hợp. 3.2.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp. Như đã phân tích ở phần trước, để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất, mỗi doanh nghiệp đều phải hướng tới một cơ cấu vốn tối ưu có sự cân bằng giữa rủi ro và lãi suất hay nói một cách khác là có sự cân đối giữa nợ và nguồn vốn chủ sở hữu. Do đó, mặc dù Công ty có thể huy động vốn một cách tiện lợi và linh hoạt thông qua việc phát hành trái phiếu và vay vốn ngân hàng song cũng không nên quá lạm dụng vì đây là các hình thức vay nợ. Việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh phần lớn được hình thành từ nợ sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Công ty chứa đựng nhiều rủi ro, bấp bênh và do đó hiệu quả kinh doanh không cao. Trong trường hợp này, để đảm bảo nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng mà vẫn đạt được một cơ cấu vốn tối ưu, Công ty có thể sử dụng hình thức huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Hiện nay Nhà nước đã cho phép các doanh nghiệp nhà nước được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu và bỏ mức khống chế vốn huy động tại điều 11 của Nghị số 59/CP. Đây là một bước tiến không chỉ trong việc giải quyết nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với Công ty, việc cổ phần hoá sẽ khắc phục được tình trạng cơ cấu vốn bất hợp lý hiện nay. Thêm vào đó, khi chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty cổ phần, người lao động khi có cổ phần trở thành những người chủ đích thực, có quyền hạn, trách nhiệm, lợi ích cụ thể, từ đó họ gắn bó với Công ty hơn. Chính điều này sẽ tạo điều kiện cho Công ty khắc phục được khó khăn về vốn, về cải tiến kỹ thuật, việc làm, năng suất chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Có nhiều hình thức cổ phần hoá mà doanh nghiệp có thể áp dụng như cổ phần hoá 100% hoặc chuyển toàn bộ vốn tài sản bán cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị và ngoài doanh nghiệp, bán cho người nước ngoài như là hình thức đầu tư trực tiếp 100% vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam… Với đặc điểm kinh doanh và tình hình tài chính như hiện nay, Công ty có thể lựa chọn hình thức cổ phần hoá trong đó Nhà nước giữ lại một tỷ lệ % cổ phần nhất định, còn đại bộ phận cổ phần sẽ bán cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp bằng một phần nguồn quỹ phúc lợi được chia theo thời gian đóng góp của từng người cùng với nguồn tiền đóng góp thêm của họ. Số còn lại bán cho các đối tượng bên ngoài. Tuy nhiên, để tiến trình cổ phần hoá tiến hành được thuận lợi, Công ty cần phải nghiên cứu các quy định cụ thể có liên quan đến cổ phần hoá như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động, chế độ xử lý các khoản nợ dây dưa… hiện vẫn còn là những cản trở đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. 3.2.4. Sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu qủa. Bên cạnh mục tiêu huy động đủ vốn cho hoạt động kinh doanh, Công ty cũng cần phải sử dụng nguồn vốn hiện có tiết kiệm và có hiệu quả. Trong đó, quan trọng nhất là sử dụng vốn lưu động một cách triệt để và có hiệu quả. Trong những năm vừa qua, mặc dù Công ty đã đạt được tốc độ lưu chuyển vốn lưu động, song để tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, làm lượng vốn tăng lên, Công ty cần tiếp tục thực hiện các biện pháp như: tổ chưc tốt công tác vận chuyển và tiêu thụ để giảm số lượng hàng tồn kho, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu khách hàng, tránh để tình trạng nợ đọng dây dưa… Ngoài ra, Công ty cần quan tâm đến việc tiết kiệm đến mức có thể các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh như chi phí mua hàng, chi phí dự trữ, chi phí bán hàng… Chẳng hạn như khi mua hàng, Công ty nên tham khảo toàn diện giá cũng như điều kiện mua hàng từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để chọn được nhà cung cấp có nhiều ưu đãi nhất. Công ty cũng nên chịu khó tìm kiếm những nguồn hàng mới, rẻ, mua tận gốc bán tận ngon để kiết kiệm được chi phí trung gian, nhờ đó giảm được chi phí kinh doanh. Nói chung, vấn đề cốt lõi để quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động kinh doanh của Công ty phải thực sự hiệu quả, có lợi nhuận, có tích luỹ. Muốn vậy, Công ty phải tự đành giá mình về khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp, từ đó xây dựng kế hoạch kinh doanh cho phù hợp. Song song với việc thực hiện các kế hoạch đề ra một cách chính xác, hiệu quả, Công ty cũng nên nhanh chóng hình thành ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ để giúp doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong qua trình hoạt động; đồng thời quy định rõ trách nhiệm của từng cá nhân, tập thể trong việc đi vay, sử dụng vốn vay và trả nợ (quy định cả về vật chất lẫn hành chính). 3.3. Một số kiến nghị. 3.3.1. Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn thông qua tín dụng xuất nhập khẩu. Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu là rất lớn. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với khả năng tài chính có hạn, vì thế không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đủ vốn để thu mua chế biến hàng hàng xuất khẩu. Thêm vào đó, quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi nhất thiết phải có sự tham gia của ngân hàng. Sự trợ giúp của ngân hàng lúc này không chỉ đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết về kỹ thuật mà còn là chỗ dựa tài chính trong hoạt động kinh doanh. Thông thường Nhà nước có thể giúp đỡ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu dưới hai hình thức: - Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng của các doanh nghiệp nước mình. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách Nhà nước và kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi. - Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước. Đây là hình thức tài trợ vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện được những thương vụ lớn, tạo được lợi thế trong quá trình đàm phán, giao dịch với các bạn hàng nước ngoài và nhờ đó tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Nhà nước thường hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu bằng cách cấp tín dụng ngắn hạn trong giai đoạn trước hoặc sau khi giao nhận hàng hoặc thực hiện các hình thức bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh để các doanh nghiệp này vay vốn của các tổ chức, các ngân hàng nước ngoài. Đối với điều kiện của nước ta hiện nay, Nhà nước cấp tín dụng cho người xuất khẩu trong nước là hợp lý hơn, khắc phục được tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nói chung nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn được các doanh nghiệp rất quan tâm, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại có nhu cầu vốn trong thời gian ngắn và khá linh động như Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng. Do đó, Nhà nước phải tạo môi trường và hành lang pháp lý thuận lợi để các ngân hàng thực hiện nhiệm vụ là cầu nối – cung tiền tệ cho các doanh nghiệp. Để làm được điều này, cần phải tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của ngân hàng, vừa hạn chế thủ tục phiền hà, chồng chéo tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn được nhanh chóng, kịp thời kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn đồng vốn khi cho vay. Ngân hàng cũng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi suất cho vay cho phù hợp với từng mặt hàng, ngành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hoá đồng thời cũng nên nâng tỷ lệ khoản vay vốn trung và dài hạn, nhất là đối với một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược, có thời gian chu chuyển dài. 3.3.2. Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu. Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu như Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng thực hiện việc bán chịu, trả chậm hoặc dưới hình thức tín dụng hàng hoá với lãi suất ưu đãi cho người mua hàng nước ngoài. Việc bán hàng như vậy thường chứa đựng những rủi ro có thể do nguyên nhân kinh tế hoặc chính trị dẫn đến sự mất vốn. Trong trường hợp đó, để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu bằng cách bán chịu, quỹ bảo hiểm của Nhà nước sẽ đứng ra bảo hiểm, đền bù nếu bị mất vốn. Nhà nước có thể đền bù đến 100% vốn bị mất nhưng thông thường tỉ lệ đền bù khoảng 60-70% khoản tín dụng để các nhà xuất khẩu phải quan tâm đến việc kiểm tra khả năng thanh toán của các nhà nhập khẩu và việc thu tiền bán hàng sau khi hết thời hạn tín dụng. Nhà nước nên thực hiện công việc này vì nếu Nhà nước đứng ra đảm bảo tín dụng xuất khẩu, ngoài việc thúc đẩy xuất khẩu còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao được giá bán hàng đồng thời yên tâm hơn trong việc mở rộng quan hệ kinh doanh với nhiều bạn hàng mới, chiếm lĩnh nhiều thị trường mới. 3.3.3. Nhà nước thực hiện cấp vốn bổ sung cho doanh nghiệp. Chúng ta đều biết rằng doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước thành lập, Nhà nước bỏ vốn kinh doanh để thực hiện mục đích kinh tế chiến lược. Như vậy không vì một lý do gì mà Nhà nước không cấp đủ vốn lưu động cần thiết cho doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn chính không ai có thể thay thế được, là trách nhiệm của cơ quan tài chính Nhà nước, còn vốn tín dụng chỉ là vốn bổ sung. Nhưng trên thực tế, hiện nay vốn vay chiếm tỷ lệ 80 - 85% là điều không hợp lý. Rõ ràng, doanh nghiệp nhà nước thiếu vốn ngay từ lúc đầu ngân sách đã cấp không đủ vốn kinh doanh, làm cho doanh nghiệp không có điểm tựa. Do đó, trong quá trình hoạt động, Nhà nước cần thực hiện cấp bổ sung vốn cho doanh nghiệp; tạo tiền đề cho các doanh nghiệp cân bằng nguồn vốn của mình. 3.3.4. Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá. Đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh rõ ràng là vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Tuy nhiên, khi nền tài chính quốc gia còn hạn hẹp, ngân sách nhà nước còn bội chi thì việc bổ sung đủ tỷ lệ vốn lưu động cần thiết cho các doanh nghiệp nhà nước là điều không phải dễ dàng. Trong trường hợp này, để giảm bớt phần nào gánh nặng cho ngân sách mà vẫn đảm bảo đủ vốn, cân bằng vốn cho doanh nghiệp, Nhà nước nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá một cách thuận lợi. Chúng ta đã thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhiều năm nay, một số cơ chế chính sách về cổ phần hoá, vì thế không còn phù hợp với thực tiễn nhưng vẫn chưa được sửa đổi kịp thời như: mức khống chế mua cổ phần đối với lãnh đạo doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với người lao động, cơ chế xử lý các khoản nợ dây dưa và tài sản được loại trừ ở các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá, chế độ phân cấp trong việc lựa chọn phê duyệt đề án cổ phần hoá… nên đã hạn chế và cản trở phần nào đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Do đó, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi, Nhà nước nên sửa đổi và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách phục vụ cho hoạt động cổ phần hoá doanh nghiệp; nâng cao năng lực pháp lý của hệ thống chính sách có liên quan đến hoạt động chuyển đổi sở hữu DNNN, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này thông qua việc xây dựng và trình quốc hội cho phép ban hành luật chuyển đổi sở hữu DNNN. Đồng thời hoàn thiện và xây dựng các định chế thích hợp để thực hiện Luật phá sản. Song song với việc sửa đổi hoàn thiện hệ thống chính sách cũ, Nhà nước cần sớm ban hành văn bản liên quan đến cổ phần hoá DNNN như: - Xây dựng cơ chế ưu đãi hợp lý và cơ chế xử lý nợ để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu và niêm yết trên thị trường chứng khoán bao gồm cả các biện pháp khoanh nợ, xoá nợ và chuyển nợ thành cổ phần ở những doanh nghiệp cổ phần hoá. - Quy chế quản lý tài chính và hoạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Quy chế quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Hướng dẫn xử lý dứt điểm đối với những tài sản loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước nên xây dựng đề án và tổ chức thí điểm Công ty quản lý tài sản và mua bán nợ để hỗ trợ các doanh nghiệp xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính khi thực hiện các đề án chuyển đổi sở hữu; Công ty đầu tư tài chính để từng bước tách rời quyền sở hữu với quyền quản lý tài sản thông qua việc chuyển phương thức quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp từ hành chính sang phương thức đầu tư. 3.3.5. Cần nhanh chóng phát triển thị trường tài chính. Trong nền kinh tế thị trường quá trình điều hoà các nguồn vốn nhàn rỗi từ nơi thừa đến nơi thiếu được diễn ra chủ yếu tại các thị trường tài chính. Do đó, tạo lập và phát triển một thị trường tài chính hoàn thiện là quá trình mang tính khách quan nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh tìm kiếm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Sơ đồ 2: Sự vận động của vốn trên thị trường tài chính. Trung gian tài chính ( Ngân hàng, công ty bảo hiểm…..) Người đi vay - Dân cư -Các doanh nghiệp - Chính phủ - Người nước ngoài Người cho vay - Dân cư -Các doanh nghiệp - Chính phủ - Người nước ngoài Thị trường tài chính (Thị trường tiền tệ, thị trường vốn) Quan sát sự vận động của các dòng vốn trên thị trường tài chính theo sơ đồ trên, ta thấy rõ ràng là với một thị trường tài chính hoàn thiện những người cần vốn và những người có vốn sẽ thoả mãn được nhu cầu cho vay và đi vay của mình một cách tiện lợi nhất. ở nước ta hiện nay, vốn lưu chuyển chủ yếu thông qua hệ thống ngân hàng. Thị trường chứng khoán đã hình thành và đi vào hoạt động nhưng do những hạn chế về thông tin và sự nhạy bén của thị trường chứng khoán đối với dân chúng nên chưa đảm nhận được chức năng tạo ra đầy đủ nhất các hình thức đầu tư, thúc đẩy và mở rộng những chu chuyển vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế; do đó chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là điều Chính phủ cần quan tâm và tìm những giải pháp để thúc đẩy quá trình hoàn thiện thị trường tài chính trong thời gian gần nhất. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt nam mới có thể giải quyết được tình trạng thiếu vốn, mất cân đối nguồn vốn để phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Kết luận Đất nước ta đang trên con đường con đường phát triển và hội nhập vào quá trình phân công lao động thế giới. Quá trình này có thành công hay không và thành công ở mức độ nào sẽ phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Do đó, tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mà đầu tiên là tăng cường khả năng huy động vốn - một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay của các doanh nghiệp Việt nam - là việc làm cần thiết. Nhận thức được điều đó, cũng như các doanh nghiệp khác hoạt động trong nền kinh tế thị trường, Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, không những đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động Công ty trong những tình huống phức tạp của thị trường mà còn tận dụng được những nguồn có chi phí thấp, linh hoạt. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam còn chưa phát triển, tích luỹ chưa nhiều, việc đảm bảo nguồn vốn đáp ứng được cả yếu tố về chất và lượng còn là một vấn đề nan giải không chỉ đối với Công ty xuất nhập khẩu Hai Bà Trưng mà cả các chủ thể kinh tế khác. Với mong muốn góp phần giải quyết vấn đề đó, em đã viết luận văn này. Song, vì kiến thức về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên trong bài viết không khỏi có những thiếu sót. Em rất mong các thầy cô thông cảm và chỉ bảo thêm cho em. Mục lục Trang Lời nói đầu Chương I: Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1.1. Sự cần thiết phải huy động vốn đối với các doanh nghiệp 1.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. 1.2.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp. 1.2.2. Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp 1.3.1. Yếu tố chủ quan. 1.3.2. Yếu tố khách quan Chương II: Thực trạng huy động vốn tại công ty XNK Hai Bà Trưng 2.1. Khái quát về công ty XNK Hai Bà Trưng 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý 2.1.3. Đặc điểm và tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây 2.2. Thực trạng huy động vốn tại công ty XNK Hai Bà Trưng 2.2.1. Vốn chủ sở hữu 2.2.2. Vay vốn ngân hàng. 2.2.3. Sử dụng các hình thức tín dụng thương mại 2.3. Đánh giá tình hình huy động vốn tại công ty 2.3.1. Những kết quả đạt được 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân Chương III: GiảI pháp tăng cường huy động vốn tại công ty XNK Hai Bà Trưng 3.1. Nhu cầu vốn ở Công ty XNK HBT trong thời gian tới 3.1.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty. 3.1.2. Nhu cầu vốn của Công ty thời gian tới. 3.2. Một số giải pháp tăng cường huy động vốn ở Công ty XNK HBT 3.2.1. Tăng vay vốn ngân hàng thông qua việc sử dụng linh hoạt các hình thức tín dụng XNK 3.2.2. Phát hành trái phiếu công ty 3.2.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp 3.2.4. Sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thông các hình thức tín dụng XNK 3.3.2. Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất nhập khẩu 3.3.3. Nhà nước cấp vốn bổ sung cho doanh nghiệp 3.3.4. Nhà nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần hoá 3.3.5. Cần nhanh chóng phát triển TTTC Kết luận Mục lục Tài liệu tham khảo Tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính ( Frederic S. Mishkin - NXB Khoa học và Kỹ thuật 1995). 2. Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp (TS. Lưu Thị Hương – Trường đại học Kinh tế Quốc dân – NXB Giáo dục 1998) 3. Giáo trình Quản trị Tài chính doanh nghiệp (TS. Vũ Duy Hào, Đàm Viết Huệ – Trường đại học Kinh tế Quốc dân – NXB Thống kê 1998) 4. Giáo trình Lý thuyết Tài chính-Tiền tệ ( TS. Nguyễn Ngọc Hùng – Trường đại học Kinh tế-Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh - NXB Thống kê 1998) 5. Giáo trình kinh tế ngoại thương ( Bùi Xuân Lưu – NXB Giáo dục 1997) 6. Tạp chí và thời báo liên quan. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0011.doc
Tài liệu liên quan